Tag Archive | Tư tưởng Hồ Chí Minh

Chủ nghĩa Mác-Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Quân đội ta

QĐND – Thời gian gần đây, các thế lực thù địch lại đẩy mạnh việc chống phá, hòng làm cho Quân đội nhân dân Việt Nam suy yếu, biến chất về chính trị. Họ coi đây là một mũi nhọn trong chiến lược “diễn biến hòa bình” để chống phá cách mạng Việt Nam. Đây là một việc làm không phải mới mà đã được các thế lực thù địch thực hiện ròng rã từ nhiều năm nay. Các thế lực thù địch cả ở trong nước và ở nước ngoài kết hợp với nhau, tập trung chống phá Quân đội ta một cách toàn diện cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, từ những vấn đề cơ bản về bản chất giai cấp, mục tiêu lý tưởng chiến đấu, sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến những vấn đề về chức năng, nhiệm vụ, về cơ cấu tổ chức, công tác cán bộ, về con người; từ những vấn đề về lịch sử đến hiện tại, những vấn đề chính trị tinh thần đến vũ khí trang bị, trong đó họ coi chống phá nền tảng tư tưởng của Quân đội ta là một nội dung cơ bản trọng yếu. Tiếp tục đọc

Advertisement

Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia

Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã khẳng định một chân lý trường tồn: dựng nước phải đi đôi với giữ nước. Chân lý đó đã trở thành truyền thống quý báu của dân tộc, đồng thời là một quy luật nội tại của quá trình xây dựng và phát triển bền vững đất nước.

Tiếp tục đọc

Giá trị tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh trong “Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân”

Trong thời kỳ chuẩn bị tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, nhất là vào cuối năm 1944, tình hình diễn biến mau lẹ, thời cơ khởi nghĩa đang đến gần, lực lượng chính trị quần chúng đã phát triển mạnh mẽ, các lực lượng vũ trang cách mạng của quần chúng (du kích, tự vệ) lần lượt ra đời và phát triển nhanh chóng. Ngày 22-12-1944, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Bản Chỉ thị là sự kế thừa, phát triển những di sản tư tưởng quân sự phong phú của dân tộc, tiếp thu những giá trị tinh hoa tư tưởng của nhân loại. Tiếp tục đọc

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, từng bước hiện đại

Xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, hiện đại là nội dung cốt lõi của Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội. Tư tưởng chiến lược quan trọng này của Người không chỉ là phương hướng xuyên suốt quá trình xây dựng quân đội ta gần 70 năm qua, mà còn là cơ sở lý luận trọng yếu để Đảng ta đề ra định hướng chiến lược cho sự nghiệp xây dựng quân đội trong thời kỳ mới.

Tiếp tục đọc

Nhớ mùa thu cách mạng và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về pháp luật

Cách mạng Tháng TámHàng năm, khi mùa thu về, nhân dân ta không một ai là không nhớ đến sự kiện “Tổng khởi nghĩa Tháng Tám” giành chính quyền về tay nhân dân cùng với bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc ngày 02/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội đã trịnh trọng tuyên bố với toàn thế giới rằng: Nước Việt Nam hoàn toàn độc lập. Ngày 02 tháng 9 năm ấy đã trở thành ngày Quốc khánh và cùng với bản Tuyên ngôn Độc lập là nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời và có tên trên bản đồ thế giới. Tháng 9 còn được nhớ mãi không nguôi với ngày mà “đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa” để tiễn biệt Bác Hồ kính yêu của chúng ta về với “Các Mác, Lênin – Thế giới người hiền”.

Tiếp tục đọc

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân

Cách mạng Tháng TámMột trong những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại của dân tộc ta trong thế kỷ XX là thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Cách mạng Tháng Tám đã xóa bỏ chế độ thuộc địa nửa phong kiến ở nước ta, mở ra kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc : kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Tiếp tục đọc

Sáng ngời tư tưởng Hồ Chí Minh về đền ơn đáp nghĩa

(Chinhphu.vn) – Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho thương binh, bệnh binh và thân nhân các liệt sĩ tình cảm và sự quan tâm sâu sắc.

Tiếp tục đọc

Tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh – nguồn cảm xúc dồi dào, động lực sáng tạo mạnh mẽ

(ĐCSVN) – Kế thừa kết quả qua 3 năm hưởng ứng Cuộc vận động sáng tác, quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí viết về chủ đề Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14 tháng 5 năm 2011 của Bộ Chính trị (khóa XI) và Kế hoạch số 03-KH/TW ngày 01 tháng 7 năm 2011 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, hoạt động sáng tác, quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí tiếp tục được các cấp ủy chỉ đạo, văn nghệ sĩ, nhà báo cả nước tích cực tham gia.

Sau khi Ban Chỉ đạo Giải thưởng sáng tác, quảng bá các tác phẩm văn học nghệ thuật và báo chí viết về chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” ban hành Quy chế Giải thưởng, Ban Tuyên giáo các tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương; Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học, nghệ thuật Việt Nam; các Hội Văn học, Nghệ thuật chuyên ngành Trung ương; Hội Nhà báo Việt Nam; Hội Xuất bản Việt Nam; Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; Tổng cục Xây dựng lực lượng, Bộ Công an và Đảng ủy Ngoài nước đã tổ chức quán triệt, xây dựng kế hoạch triển khai các hoạt động sáng tác, quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí để tiếp tục cổ vũ việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác, tạo ra các tác phẩm mới, góp phần làm phong phú đời sống tinh thần của xã hội.

Nhân kỷ niệm sinh nhật Chủ tịch Hồ Chí Minh năm nay, Ban Bí thư sẽ tổ chức Hội nghị sơ kết hai năm thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị, Kế hoạch của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, trong đó có đánh giá kết quả hoạt động sáng tác, quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí viết về chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; trao giải thưởng đối với tác phẩm, công trình xuất sắc.

Một cảnh trong vở “Điều ước thiêng liêng”, kịch bản được
Thành ủy TP. Hồ Chí Minh chọn đầu tư dàn dựng sau khi đoạt giải A
trong Trại sáng tác do Hội Sân khấu TP. Hồ Chí Minh  tổ chức  (Ảnh: sggp.org.vn)

Quá trình triển khai hoạt động sáng tác, quảng bá, nhiều cơ quan, địa phương có cách làm sáng tạo, hiệu quả. Các Hội Văn học nghệ thuật chuyên ngành ở Trung ương đã chủ động tổ chức cho đội ngũ sáng tác đi thực tế, mở trại viết, dàn dựng tác phẩm.

Hội Nghệ sỹ Sân khấu dàn dựng và biểu diễn các tác phẩm: “Lời Người – lời của nước non”, “Lớn lên từ câu hò ví giặm”, “Bác Hồ – Người là niềm tin tất thắng”, “Lời Người sáng mãi lòng ta”; tổ chức Hội đồng sơ khảo, thẩm định, báo cáo và gửi kịch bản có chất lượng tới Ban Tổ chức cuộc thi.

Hội Nhà báo Việt Nam xây dựng kế hoạch, triển khai thực hiện nhiệm vụ sáng tác và quảng bá các tác phẩm báo chí về chủ đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trên phạm vi cả nước. Các cơ quan báo chí Trung ương và địa phương đều mở và duy trì các chuyên mục “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; thông tin về các tấm gương tập thể, cá nhân tiêu biểu; phản ánh những cách làm hay, có hiệu quả qua việc thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị.

Hội Nghệ sỹ múa Việt Nam hỗ trợ kinh phí cho một số biên đạo sáng tác, dàn dựng các tác phẩm có nội dung phản ánh về đề tài chiến tranh cách mạng, học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; tổ chức dàn dựng những tác phẩm có chất lượng: “Đạp bằng sóng gió” (nội dung về bảo vệ chủ quyền biển, đảo); “Lính đảo” (ngợi ca người lính trên đảo Trường Sa); “Mẹ Làng Sen” (ngợi ca những người Mẹ Việt Nam anh hùng)…

Hội Kiến trúc sư Việt Nam tổ chức nghiên cứu lý luận các công trình kiến trúc có tác dụng định hướng sáng tác kiến trúc và sự phát triển của nền kiến trúc Việt Nam hiện đại, mang đậm bản sắc dân tộc; khuyến khích các công trình phục vụ dân sinh như: Nhà nông thôn mới; nhà ở công nhân các khu công nghiệp; nhà cho người thu nhập thấp, vùng sâu, vùng xa, vùng lũ; công trình văn hóa giáo dục phục vụ trẻ em…

Hội Nghệ sỹ Nhiếp ảnh Việt Nam phát động sáng tác những tác phẩm có chất lượng cao về nội dung và nghệ thuật, góp phần nâng cao nhận thức về tư tưởng, đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh; quảng bá, nâng cao vị thế hình ảnh Việt Nam với thế giới…

Đối với tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương, hầu hết các ban sơ khảo đã phổ biến Quy chế của Ban Chỉ đạo, thể lệ giải thưởng, tổ chức đi thực tế, giao lưu với các điển hình tiêu biểu, tuyên truyền các tác phẩm tốt; thẩm định, xét chọn các tác phẩm có chất lượng gửi về Hội đồng Sơ khảo Trung ương. Một số cơ quan, địa phương có sự chủ động, sáng tạo trong triển khai như:

Đảng ủy Ngoài nước đã sưu tầm được 160 tư liệu, hiện vật gồm thơ, văn xuôi, ca khúc, ký sự, phóng sự, bài viết, sách, báo, hội họa, phù điêu…, sách của tác giả người Nga, Arập, Trung Quốc, Hàn Quốc và Xrilanca viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Báo Nhân dân, Quân đội nhân dân xác định tuyên truyền việc thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị vừa là trách nhiệm, vừa là cơ hội để mỗi cán bộ, đảng viên, phóng viên tu dưỡng phẩm chất, nhân cách, đạo đức cách mạng, đạo đức người làm báo; rèn luyện tay nghề thông qua việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức trong sáng của Bác Hồ; thường xuyên tổ chức chuyên trang, mục đăng bài viết về các điển hình tiêu biểu của tập thể, cá nhân trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác. Chuyên mục “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” của Báo Nhân dân, “Những tấm gương bình dị mà cao quý” của Báo Quân đội nhân dân đã thu hút sự quan tâm của các tầng lớp nhân dân, sự chú ý của dư luận xã hội.

Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Lào Cai triển khai chỉ đạo các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh sáng tác, quảng bá tác phẩm văn học nghệ thuật và báo chí về chủ đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trên hệ thống phát thanh – truyền hình, cổng thông tin điện tử; thường xuyên duy trì chuyên mục “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, “gương người tốt, việc tốt”, đăng tải nội dung và các văn bản của cấp trên tới các đảng bộ, chi bộ trực thuộc; tuyên truyền rộng rãi đến cán bộ, đảng viên và nhân dân trên địa bàn.

Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Ngãi xây dựng kế hoạch tổ chức phát động trong đội ngũ văn nghệ sỹ, nhà báo, các đoàn nghệ thuật, quần chúng nhân dân trong tỉnh sáng tác và quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí về chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; tiếp nhận hàng trăm tác phẩm (truyện ngắn, thơ, phim tài liệu, âm nhạc, phóng sự, mẩu truyện, tranh cổ động), tin bài, chương trình truyền hình, giao lưu với các điển hình tiên tiến về học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác.

Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Yên Bái tham mưu cho Thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo và tạo điều kiện để văn nghệ sỹ đi thực tế, gặp gỡ các điển hình tiêu biểu, các nhân tố mới, các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; tổ chức các đoàn kiểm tra về thực hiện Chỉ thị 03 tại thành ủy, đảng ủy trực thuộc, các huyện, thị gắn với kiểm tra chuyên đề của Tỉnh ủy, kiểm tra công tác Tuyên giáo; thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI)  gắn với việc giới thiệu, nhân rộng các mô hình hay, điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác.

Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Thái Nguyên tham mưu cho Ban Chỉ đạo Đề án số 09 – ĐA/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về việc nâng cao chất lượng thực hiện Chỉ thị 03; thường xuyên đôn đốc việc thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị ở địa phương, đơn vị; chỉ đạo giới thiệu, tuyên truyền một số chương trình, tác phẩm có chất lượng như: Chương trình nghệ thuật tại lễ Kỷ niệm 65 năm Ngày Bác Hồ, Trung ương Đảng, Chính phủ về ATK Thái Nguyên; biểu diễn, công chiếu vở kịch “Bác không phải là vua”, bộ phim “Bác Hồ với ATK Thái Nguyên” phục vụ nhân dân trong tỉnh…

Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Nam Định quan tâm công tác tuyên truyền và nhân rộng các điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo Bác. Hội Văn học – Nghệ thuật tỉnh tổ chức cho các bộ môn chuyên ngành sáng tác các tác phẩm văn học nghệ thuật về đề tài “Tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; tổ chức 3 trại sáng tác với 50 hội viên tham gia. Một số kịch bản văn học được Hội đồng nghệ thuật đánh giá cao: Vở “Một lần được ở bên Người”; “Lời Bác dặn”; “Quê nghèo đón Bác”; “Một bữa ăn tối của Bác”; “Điều thiêng liêng nhất”.

Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Tuyên Quang tham mưu cho Ban Thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo các cơ quan báo chí của tỉnh duy trì các chuyên trang, chuyên mục tuyên truyền về chủ đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, trong đó tập trung tuyên truyền về những tấm gương tiêu biểu trong việc thực hiện học tập và làm theo Bác. Hội Văn học – Nghệ thuật tỉnh phát động cuộc thi sáng tác, quảng bá các tác phẩm văn học nghệ thuật; tổ chức 02 đoàn gồm 30 thành viên đi nghiên cứu sáng tác tại các tỉnh: Điện Biên, Sơn La, Cao Bằng về đề tài “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.

Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Cà Mau chủ động chỉ đạo các cơ quan báo chí mở chuyên trang, chuyên mục đăng phát toàn bộ quy chế, thể loại cuộc thi để mọi người tìm hiểu, tham gia sáng tác.

Ban Tuyên giáo tỉnh ủy Tiền Giang tham mưu cho Ban Thường vụ Tỉnh ủy phát động cuộc thi sáng tác tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí về chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Báo, đài phát thanh – truyền hình tỉnh, đài truyền thanh các huyện, thị xã, website các sở, ngành đã tập trung tuyên truyền, đưa tin phát động cuộc thi sáng tác, quảng bá tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí về chủ đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, rộng rãi trong toàn tỉnh.

Ban Tuyên giáo Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh tham mưu cho Thành ủy chỉ đạo toàn diện, đồng bộ các hoạt động: Hội Mỹ thuật mở trại sáng tác, thu được 40 tác phẩm mỹ thuật về chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” qua 8 đợt trại. Hội Sân khấu tổ chức trại sáng tác chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, đã nghiệm thu 14 kịch bản, trong đó 2 kịch bản sân khấu “Cây bàng vuông”, “Nơi tình yêu bắt đầu” đã đưa vào kế hoạch hỗ trợ đầu tư dàn dựng. Riêng vở kịch “Điều ước thiêng liêng” (đề tài Bác Hồ với thiếu nhi miền Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ) đến cuối năm 2011 đã biểu diễn lưu động thêm 20 suất từ kinh phí hỗ trợ của ngân sách thành phố. Hội Âm nhạc tổ chức cho hội viên đi thực tế sáng tác, giáo dục truyền thống kết hợp biểu diễn chương trình nghệ thuật tại Quân đoàn 4 với chủ đề “Bộ đội Cụ Hồ”;  tại Bến Tre với chủ đề “Nông thôn mới và Bến Tre ngày mới”; tại Côn Đảo với chủ đề “Xanh xanh Côn Đảo”; tại Cần Giờ với chủ đề “Màu xanh Cần Giờ”; tại Củ Chi với chủ đề “Tình đất Củ Chi”. Qua đó, các hội viên có nhiều sáng tác mới về lao động, sản xuất và những nỗ lực vươn lên xây dựng cuộc sống mới của con người và quê hương, đất nước. Lĩnh vực sáng tác văn học có tác phẩm: “Hồ Chí Minh – Xin nhớ mãi ơn Người” do Nhà Xuất bản Hội Nhà văn phát hành năm 2012. Hãng phim Hội Điện ảnh thành phố đã thực hiện xong phim tài liệu “Những đêm chiến khu chờ nghe thơ Bác”. Hội Nhiếp ảnh thành phố tổ chức thi và triển lãm tập thể 10 cuộc với trên 830 tác phẩm nhiếp ảnh, trong đó có nhiều tác phẩm thể hiện tinh thần lao động, học tập, sáng tạo theo chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.

Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng tham mưu cho Thành ủy chỉ đạo Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật thành phố tổ chức sưu tầm, nghiên cứu các tư liệu về Chủ tịch Hồ Chí Minh, tạo điều kiện cho các cá nhân và nhóm tác giả nghiên cứu các tài liệu về Bác Hồ; tổ chức nhiều chuyến đi thực tế về thăm quê Bác tại Nghệ An; thăm di tích lịch sử tại An Toàn Khu tỉnh Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn… Đặc biệt, trong 2 năm (2011 – 2012), Liên Hiệp hội đã tổ chức hai chuyến đi thực tế trên địa bàn tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) cho hơn 30 văn nghệ sĩ với chủ đề “Hành trình theo chân Bác”…

Nét mới của các sáng tác đợt này là có nhiều tác phẩm viết về điển hình tiêu biểu trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh như: “Sáng mãi phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ: (tác phẩm văn học, báo chí của Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị, Quân đội Nhân dân Việt Nam); “Vũ Văn Tinh – tấm gương người thương binh học tập và làm theo Bác” (Báo nói của Trung tâm phát thanh, Truyền hình quân đội); “Làng Chăm làm theo lời Bác” (tác phẩm Mỹ thuật của Chế Thị Kim Chung, Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam); “La Thanh Sơn, Bí thư Chi bộ trẻ nói đi đôi với làm” (ghi chép của Quang Lâm, tỉnh Phú Yên); “Người Thày mẫu mực về sáng tạo” (bút ký văn học nghệ thuật của Hoàng Giá, Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Bắc Ninh)…

Một số tác phẩm chất lượng tốt và tâm huyết của tác giả là người nước ngoài như: Tranh “Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh” của Ghihan Thennakoo công dân Xrilanca; “Chủ tịch Hồ Chí Minh – lãnh tụ vĩ đại của Cách mạng Việt Nam” (văn xuôi của Ivo Vasilje, Cộng hòa Séc, Tiến sỹ ngôn ngữ học); “Gặp gỡ Chủ tịch Hồ Chí Minh, kỷ niệm không bao giờ quên” (văn xuôi của Almási Alfréd, nguyên Tham tán công sứ Hungary tại Việt Nam) …

Một số tác giả có nhiều đóng góp đối với đất nước trên lĩnh vực nghiên cứu lịch sử, văn hóa, văn học nghệ thuật, tuổi đã cao nhưng vẫn sáng tác, gửi tác phẩm tham gia Giải thưởng: Sách “Hồ Chí Minh, ngôi sao sáng trên bầu trời Việt Nam” của Giáo sư Vũ Khiêu; sách “Hồ Chí Minh chân dung một tâm hồn và trí tuệ vĩ đại” của cố Giáo sư Trần Văn Giầu do Nhà Xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh xuất bản.

Tính đến hết tháng 2 năm 2013, Bộ phận Chuyên trách Chỉ thị 03 của Ban Tuyên giáo Trung ương đã nhận được 296 tác phẩm (219 tác phẩm của địa phương; 77 tác phẩm của cơ quan Trung ương) gồm đủ các thể loại từ các Ban Sơ khảo gửi về. Tiểu ban chuyên ngành đã chấm và đề nghị Hội đồng Sơ khảo, Hội đồng Chung khảo thẩm định, đề nghị Ban Chỉ đạo Giải thưởng, Hội đồng Giải thưởng xem xét quyết định.

Nhân kỷ niệm 123 năm Ngày sinh nhật Bác (19/5/1890 – 19/5/2013), Ban Chỉ đạo Giải thưởng sẽ tổ chức trao giải thưởng đối với các tác phẩm, công trình, xuất bản phẩm xuất sắc, các tập thể, cá nhân có thành tích trong hoạt động quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí về chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”./.

Nhạc sĩ Vũ Việt Hùng
dangcongsan.vn

Tư tưởng chính trị về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau trong ” Di chúc ” của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Tư tưởng Hồ Chí Minh đi tới mùa Xuân”Bác Hồ – Người là tình yêu tha thiết trong lòng dân và trong trái tim nhân loại. Cả cuộc đời Bác hy sinh cho dân tộc Việt Nam.” Bác Hồ – vị cha già dân tộc  muôn vàn kính yêu đã rời xa chúng ta đến nay đã hơn 40 năm.Trước lúc đi xa, Người để lại bản ”Di chúc’‘ với muôn vàn tình thương yêu cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và căn dặn những công việc phải làm.

Bác Hồ viết Di chúc nhân kỷ niệm 75 tuổi, trong điều kiện tinh thần minh mẫn và sáng suốt. Trong vòng 4 năm, Bác Hồ đã 5 lần sửa chữa bản thảo và lần cuối vào ngày 10 tháng 5 năm 1969, khi ấy Bác ở tuổi 79. Di chúc được công bố sau khi Bác mất (9/1969), sau này được công bố toàn văn.

Người viết Di chúc có 3 phần. Phần mở đầu như một tuyên ngôn về lý do Người viết Di chúc: đó là lời khẳng định sự tất thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ của cả nước và nhiệm vụ của Người sau khi đất nước thống nhất. Phần nội dung là toàn bộ những lời căn dặn lại đối với Đảng, Nhà nước và đồng bào chiến sĩ về những việc cần phải làm để đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược. Phần kết luận: Đó là lời vĩnh biệt và mong muốn cuối cùng của Người trước lúc đi gặp các cụ CácMác – Lênin.

Toàn bộ tác phẩm ”Di chúc” mà Người để lại có rất nhiều nội dung quan trọng, trong đó có nội dung về vấn đề chăm lo thế hệ cách mạng cho đời sau. Ngay từ những ngày cách mạng còn trong trứng nước, cùng với việc tổ chức ”Hội Việt Nam Thanh niên cách mạng”, gửi người học vào trường Quân sự Hoàng Phố, cử đi đào tạo tại Matxcơva, Bác đã trực tiếp nuôi dạy nhóm thanh niên Việt Nam từ Thái Lan sang, tất cả đều mang họ Lý của Lý Thụy (tên hoạt động của Bác Hồ), trong đó Lý Tự Trọng đã trở thành người đoàn viên thanh niên cộng sản đầu tiên, được Đảng cử về nước để chuẩn bị tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản sau này. Cho đến những năm tháng cuối đời trong ”Di chúc”, phần viết về ”Đoàn viên và thanh niên ta”, Bác Hồ tha thiết căn dặn ”Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa ”hồng” vừa ”chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết’‘. Tư tưởng này của Người là sự kế thừa quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin. Mác viết: ”Bộ phận giác ngộ nhất trong giai cấp công nhân nhận thức rõ ràng tương lai của giai cấp họ và do đó, tương lai của cả loài người, hoàn toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công nhân đang lớn lên”. Lênin viết:”Theo một nghĩa nào đó, có thể nói rằng nhiệm vụ thật sự xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa chính là của thanh niên”…” Chỉ có cải tổ triệt để việc tổ chức và giáo dục thanh niên thì chúng ta mới có thể, bằng những cố gắng của thế hệ trẻ, đạt được kết quả là xây dựng nên một xã hội không giống xã hội cũ, tức là xã hội cộng sản”Chúng ta phải đào tạo ra  những công dân tốt, cán bộ tốt cho nước nhà. Đó là trách nhiệm nặng nề nhưng rất vẻ vang. Nói một cách khác, trong tư tưởng Hồ Chí Minh,  sự nghiệp ”trồng người” là một chiến lược cơ bản, lâu dài của cách mạng, một quốc sách hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. ”Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây. Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.  Người không nói những điều to tát, nhưng thật thấm thía ”Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. ”Non sông Việt Nam có thể trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có được vẻ vang sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”.

Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh, một phần lớn là do thanh niên. Thanh niên là người tiếp sức cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai, là người xung phong trong công cuộc phát triển kinh tế và văn hóa trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, là lực lượng cơ bản trong quân đội, công an, dân quân tự vệ, đang hăng hái giữ gìn trật tự an ninh, tổ quốc. Thanh niên là cầu nối giữa các thế hệ: Kế tục sự nghiệp của lớp người đi trước đồng thời bồi dưỡng, dìu dắt thế hệ đàn em…Do đó, một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc lúc này là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Bởi không một quốc gia nào có thể tiến hành xây dựng một chế độ xã hội mới và bảo vệ Tổ quốc thành công trong điều kiện văn hóa, dân trí, đạo đức, tinh thần xã hội lại thấp kém.

Sự nghiệp cách mạng, sứ mệnh của Đảng thì lâu dài mà cuộc đời của mỗi thế hệ thì ngắn ngủi. Bác nói ”Theo quy luật tự nhiên, già thì phải yếu, yếu thì phải chết. Nếu không có cán bộ mới thì ai gánh vác công việc của Đảng?”. Bởi vậy, chăm lo ”bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau” là một việc làm kiên trì suốt đời của Bác Hồ.

”Muốn có chủ nghĩa xã hội thì trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Thực hiện theo lời căn dặn của Hồ Chủ tịch trước lúc đi xa, ngày nay chúng ta phải làm tốt hơn nữa việc chăm lo ”bồi dưỡng cách mạng cho đời sau”, nhất là ở thời điểm chủ nghĩa xã hội đang thoái trào, hệ chủ nghĩa xã hội đang bị hạ thấp, xuyên tạc, mặt trái của nền kinh tế thị trường, sự suy thoái về đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chức, có quyền…đang làm suy giảm niềm tin của thế hệ trẻ vào tương lai của chủ nghĩa xã  hội. Vì vậy, để đào tạo các thế hệ chiến sĩ cách mạng cho đời sau cũng không chỉ nhấn mạnh một mặt riêng lẻ nào, nghĩa là phải đủ cả ”hồng” và ”chuyên” mà phẩm chất hàng đầu cần có ở họ là sự trung thành với lý tưởng, ý chí kiên định đấu tranh cho thắng lợi của lý tưởng và phải có đạo đức cách mạng là cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư bằng những công việc cụ thể và thiết thực hết sức có ý nghĩa như: phong trào thanh niên tình nguyện, tham gia xóa đói giảm nghèo, cứu trợ đồng bào bị thiên tai, lũ lụt, đền ơn đáp nghĩa, đưa ánh sáng văn hóa đến các vùng sâu, vùng xa… để làm gương, lôi cuốn quần chúng. Bồi dưỡng cách mạng cho đời sau là làm cho họ kế thừa được chí lớn của các thế hệ cha anh, biến lý tưởng cách mạng thành ý chí cách mạng, thành động lực tinh thần mạnh mẽ, đánh bại âm mưu phá hoại của kẻ thù, chiến thắng nghèo nàn lạc hậu, đưa sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến thành công, nhanh chóng đưa Việt Nam lên hàng các quốc gia phát triển của khu vực và trên thế giới. Phải luôn luôn nâng cao chí khí cách mạng trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng, hướng tới mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh. Ngày hôm nay thanh niên chúng ta cần noi theo tấm gương và những lời căn dặn của Người, không ngừng vươn lên chiếm lĩnh những giá trị mới nhất của thời đại văn minh trí tuệ – thời đại công nghệ thông tin phát triển và những điều kiện thuận lợi khác đem lại, phấn đấu trở thành những nhân tài thuộc nhiều lĩnh vực, đưa nước ta sánh vai với các cường quốc năm châu trên thế giới như sinh thời Bác Hồ đã từng mong mỏi.

Mặc dù Người đã đi xa hơn 40 năm, nhưng Người đã để lại cho chúng ta muôn vàn tình thương yêu và lòng kính phục. Có thể khẳng định rằng ”Di chúc” của Người trở thành một văn kiện lịch sử vô giá, kết tinh những tinh hoa đạo đức và tâm hồn cao đẹp của Người. Hơn 40 năm – sức sống của bản ”Di chúc” mãi mãi vẫn là tấm gương cho con đường cách mạng của Việt Nam hôm nay và mai sau./.

Bùi Thị Mỹ Lệ
Trường Chính trị tỉnh Hậu Giang
Tâm Trang
(st)

bqllang.gov.vn

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nghề thầy thuốc

Vào ngày 27 tháng 2 năm 1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có thư gửi Hội nghị cán bộ Y tế. Đảng và Nhà nước ta đã lấy ngày 27 tháng 2 là Ngày Thầy thuốc Việt Nam.

9. tu tuong
Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Bệnh xá ở Tp.Nam Định

1. Công tác y tế và sức khỏe cho con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều hướng tình thương yêu và sự quan tâm đặc biệt đến sức khỏe của người dân. Người mong muốn và căn dặn: “Chính sách của Đảng và Chính phủ phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi” (Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H,1996, t7, tr.572). Trong thư gửi Hội nghị cán bộ Y tế năm 1955, Người định hướng xây dựng một nền y học nước nhà thích hợp với nhu cầu của nhân dân và dựa trên nguyên tắc khoa học, dân tộc và đại chúng. Công tác y tế dự phòng cũng được Hồ Chí Minh quan tâm, Người nói: “Phòng bệnh cũng cần thiết như chữa bệnh”, “phòng bệnh hơn trị bệnh”, “mọi người từ già trẻ, trai gái đã là người dân yêu nước đều phải quan tâm đến vấn đề vệ sinh, giữ gìn sức khoẻ”. Trong tác phẩm “Đời sống mới”, Người viết: “Sạch sẽ là một phần của đời sống mới, sạch sẽ thì dân ít ốm, khoẻ mạnh thì làm được việc, làm được việc thì có ăn” (Một số vấn đề xây dựng ngành Y tế phát triển ở Việt Nam. Nxb Y học, H.1998, tr.167). Chủ tịch Hồ Chí Minh coi việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân là nhân tố rất quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Người chỉ rõ: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khoẻ mới thành công”, “sức khoẻ của cán bộ và nhân dân được bảo đảm thì tinh thần càng hǎng hái; tinh thần và sức khoẻ đầy đủ thì kháng chiến càng nhiều thắng lợi, kiến quốc càng mau thành công”. Đối với mỗi người dân, chưa đầy một năm sau ngày khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bác đã khuyên nhủ mọi người rằng: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới làm thành công. Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt. Mỗi một người dân mạnh khỏe tức là cả nước mạnh khỏe. Vậy nên, luyện tập thể dục, bồi bổ sức khỏe là bổn phận của mỗi một người yêu nước. Việc đó không tốn kém, khó khăn gì. Gái trai, già trẻ ai cũng nên làm và ai cũng làm được… Dân cường thì nước thịnh. Tôi mong đồng bào ta ai cũng gắng tập thể dục. Tự tôi, ngày nào tôi cũng tập” (Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.1996, t4, tr.212). Cho nên, đối với mọi tầng lớp, lứa tuổi, ngành nghề đều phải giữ gìn và nâng cao sức khỏe. Người khuyên các cháu thiếu nhi “Phải siêng tập thể thao cho mình mẩy được nở nang”, không những phải “Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào/ Học tập tốt, lao động tốt/ Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt” mà còn phải “Giữ gìn vệ sinh thật tốt”.

Trong nhà máy, xí nghiệp, vấn đề sức khỏe cho công nhân cũng quan trọng: “Nếu công nhân đủ ăn, đủ mặc thì họ mới đủ sức; đủ sức thì làm được việc. Một con ngựa ăn no mới chạy nhanh. Một cái máy đủ dầu mỡ mới quay đều. Người ta cũng thế”. Với Người, vấn đề vệ sinh, sức khỏe, bất luận là giàu hay nghèo đều phải thực hiện thật tốt. Nếu “người giàu không giúp cho dân nghèo ăn ở đúng vệ sinh, đến khi có bệnh dịch thì người giàu cũng khó sống”. Đối với vấn đề vệ sinh, để bảo vệ sức khỏe chung cho cộng đồng, cũng có những trường hợp phải cưỡng bách người vi phạm phải tuân theo lợi ích sức khỏe chung như “trong làng nhiều ao, nhiều muỗi, thường có đau ốm, người làng biết vậy, ai cũng bằng lòng lấp ao của mình. Chỉ một hai người không chịu theo, để người làng vì muỗi mà đau ốm liên miên. Vì vệ sinh chung làng có quyền buộc một hai người kia phải lấp ao”. Vì thế, những gì liên quan có lợi cho sức khỏe con người, Bác đều biểu dương khen ngợi: “Chúng ta tự hào có nhiều cụ ông, cụ bà ngoài 70, 80 tuổi vẫn hăng hái học tập và lao động, lập ra những đội “bạch đầu quân” trồng cây, gây rừng, đôn đốc phong trào bình dân học vụ và vận động vệ sinh phòng bệnh”. (Sđd, t11, tr.224).

Hồ Chí Minh cũng đã đánh giá rất cao những thành quả đạt được của ngành y nước nhà “Công tác y tế đã có nhiều thành tích, đã ngăn chặn được nhiều dịch bệnh và bệnh xã hội cũ, sức khỏe của nhân dân được nâng cao. Trẻ em ngày càng được săn sóc chu đáo hơn”. (Sđd, t11, tr.224). Ngày 2-1-1947, Người đã có thư khen ngợi sự tận tâm của các y, bác sĩ, khán hộ cứu thương, trong đó có đoạn: “Tôi được báo cáo rằng: Các thầy thuốc và khán hộ đều hết lòng săn sóc thương binh một cách chu đáo. Thế là các bạn cũng trực tiếp tham gia kháng chiến cứu quốc”.

2. “Lương y phải như từ mẫu” – yếu tố cốt lõi của đạo đức ngành y.  

Dân tộc ta có truyền thống tôn sư trọng đạo, rất quý trọng người thầy: Thầy giáo và thầy thuốc. Nhân dân ta đặt địa vị người thầy dạy chữ ngang hàng với cha, người thầy thuốc như mẹ, bởi nghề thầy thuốc là nghề chữa bệnh cứu người, là người mẹ thứ hai của những người bệnh. Để chǎm sóc sức khoẻ con người, cần có đội ngũ những người thầy thuốc giỏi về chuyên môn, có lương tâm nghề nghiệp. Sau ngày thành lập nước Việt nam Dân chủ Cộng hòa (2-9-1945), Đảng và Chính phủ đã đào tạo, bồi dưỡng được đội ngũ y tá, y sĩ, bác sĩ, lương y chữa bệnh bằng thuốc tây, thuốc nam, thuốc bắc và các phương tiện y học tiên tiến, có y đức và y thuật cao. Giáo sư Hồ Đắc Di, Giáo sư, bác sĩ Tôn Thất Tùng, bác sĩ Đặng Văn Ngữ, bác sĩ Vũ Đình Tụng, Giáo sư Đặng Văn Chung… là những giáo sư, bác sĩ đầu ngành của nền y học Việt Nam thời hiện đại, có công rất lớn trong sự nghiệp cách mạng nước nhà.

Hồ Chí Minh là người rất quan tâm đến vấn đề y đức, một người thầy thuốc giỏi đồng thời phải là một người mẹ hiền hết lòng vì bệnh nhân. Trong thư gửi Hội nghị cán bộ Y tế toàn quốc năm 1953, Người viết: “Cán bộ y tế (bác sĩ, y tá, những người giúp việc) cần phải: Thương yêu người bệnh như anh em ruột thịt. Cần phải tận tâm tận lực phụng sự nhân dân. Lương y phải kiêm từ mẫu” (Sđd, t7, tr.88). Trong Tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức là gốc rễ của con người, của tài năng. Với các thầy thuốc, Bác càng đặc biệt chú ý hơn về đạo đức. Bác dặn: “Người bệnh phó thác tính mệnh của họ nơi các cô, các chú. Chính phủ phó thác cho các cô, các chú việc chữa bệnh tật và giữ sức khỏe cho đồng bào. Đó là một nhiệm vụ rất vẻ vang. Vì vậy, cán bộ cần phải thương yêu, săn sóc người bệnh như anh em ruột thịt của mình, coi họ đau đớn cũng như mình đau đớn. Lương y phải như từ mẫu, câu nói ấy rất đúng” (Sđd, t7, tr.476). Điều này thể hiện tinh thần nhân văn cao cả, tấm lòng nhân hậu hết mực vì nhân dân, vì con người của Hồ Chí Minh.

Người thầy thuốc không những cứu chữa cho người bệnh về thể xác mà còn phải động viên, khích lệ và cảm thông về mặt tinh thần. Trong thư gửi Hội nghị Quân y (3-1948), Người viết: “Người thầy thuốc chẳng những có nhiệm vụ cứu chữa bệnh tật mà còn phải nâng đỡ tinh thần những người ốm yếu”. Thầy thuốc như mẹ hiền còn phải được thể hiện ở sự hết lòng với người bệnh, vì mục đích cứu người nên không phân biệt sang hèn, giàu nghèo, thân sơ, không được cầu lợi, kể công mà cǎn cứ vào bệnh nặng, nhẹ, nguy, lành mà sắp xếp việc cứu chữa.

Hồ Chí Minh không chỉ coi lương y phải như từ mẫu mà còn vạch rõ phương hướng đào tạo đội ngũ thầy thuốc Việt Nam thành những “lương y kiêm từ mẫu”. Đó là “về chuyên môn: Cần luôn học tập, nghiên cứu để luôn luôn tiến bộ, nhưng phải chú trọng cái gì thiết thực và thích hợp với hoàn cảnh kháng chiến của ta”. “Về chính trị: Cần trau dồi tư tưởng và đạo đức của người cán bộ trong chế độ dân chủ: Yêu nước, yêu dân, yêu nghề, đoàn kết nội bộ, thi đua học tập, thi đua công tác …” (Sđd, t7, tr.88). Để thực hiện được những nhiệm vụ mà Đảng và Chính phủ giao phó, Bác ân cần căn dặn cán bộ ngành y tế: “Trước hết là phải thật thà đoàn kết… Đoàn kết giữa cán bộ cũ và cán bộ mới. Đoàn kết giữa tất cả những người trong ngành Y tế, từ các bộ trưởng, thứ trưởng, bác sĩ, dược sĩ cho đến các anh chị giúp việc. Bởi vì công việc và địa vị tuy có khác nhau, nhưng người nào cũng là một bộ phận cần thiết trong ngành Y tế, trong việc phục vụ nhân dân” (Sđd, t7, tr.476).

Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác y tế và sức khoẻ là kim chỉ nam giúp Đảng ta xây dựng những quan điểm cơ bản có ý nghĩa định hướng cho sự phát triển một nền y học Việt Nam hiện đại và một ngành Y tế xã hội chủ nghĩa có tính ưu việt trong thực hiện nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân dân.

Theo Tạp chí Xây dựng Đảng
Huyền Trang
(st)

bqllang.gov.vn

“Đoàn kết là cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh”

Ông Alain Ruscio và phóng viên TTXVN trong cuộc phỏng vấn. (Ảnh : Tiến Nhất)

Nhân kỷ niệm 40 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phóng viên TTXVN tại Pháp đã phỏng vấn nhà nghiên cứu sử học người Pháp Alain Ruscio, Chủ tịch Trung tâm thông tin tư liệu Việt Nam tại Pháp, chuyên gia nghiên cứu các vấn đề thuộc địa Pháp và Đông Dương.

Ông Alain Ruscio cũng là tác giả của nhiều cuốn sách về Chủ tịch Hồ Chí Minh và lịch sử cận đại Việt Nam.

Với tư cách là nhà sử học, ông đánh giá như thế nào về di sản mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho dân tộc Việt Nam?

Alain Ruscio: Khi qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một bản Di chúc không chỉ mang tính nhân văn mà còn có ý nghĩa chính trị to lớn. Có thể nói bản Di chúc này thâu tóm tất cả trong một mong muốn to lớn mà Người luôn ấp ủ: đó là sự đoàn kết.

Người kêu gọi sự đoàn kết của nhân dân Việt Nam trong thời kỳ cao trào của cuộc chiến tranh. Nhớ lại thời điểm trước khi Người mất một năm, giai đoạn sau cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, quân Mỹ đã rút ở một số nơi nhưng vẫn tiếp tục ném bom ở nhiều nơi khác. Bác Hồ đã kêu gọi nhân dân Việt Nam luôn luôn đoàn kết: đó là chìa khóa dẫn đến chiến thắng sau này mà Người luôn tin tưởng.

Sự đoàn kết trong Đảng cũng là điều Người mong muốn. Ở vào thời điểm chủ nghĩa tư bản tấn công, đó không phải là lúc để tranh cãi nội bộ mà trước hết cần phải nghĩ đến lợi ích Cách mạng. Thông điệp này của Người mang một ý nghĩa rất to lớn.

Cuối cùng là mong muốn của Người về sự đoàn kết trong phong trào cộng sản quốc tế.

Có ý kiến cho rằng tinh thần đoàn kết mà Bác Hồ đề cao trong Di chúc vẫn giữ nguyên giá trị của nó cho đến tận ngày nay, khi mà cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc đã kết thúc và đất nước đã bước vào giai đoạn xây dựng và phát triển. Ông nghĩ như thế nào về quan điểm này? 

Alain Ruscio: Tôi cho rằng đúng, sự đoàn kết, điều mong muốn của Hồ Chủ tịch, vẫn luôn có giá trị đối với nhân dân của ông ngay cả bây giờ. Trên thực tế, hiện nay ở Việt Nam có những người làm ra tiền, nhưng cũng còn nhiều người sống trong cảnh nghèo nàn. Tôi cho rằng không nên để hố sâu ngăn cách xã hội này rộng thêm.

Cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là nhân dân, các nhà lãnh đạo và các chiến sĩ Cách mạng Việt Nam cần phải tạo thành một khối thống nhất. Khái niệm “Đại Đoàn kết dân tộc” đóng vai trò hàng đầu trong tư tưởng Hồ Chí Minh và tôi nghĩ rằng đó cũng là mục tiêu đồng thời là mong muốn mà Đảng và Nhà nước Việt Nam đang hướng tới.

Trong các câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh, câu nào ông tâm đắc nhất?

Alain Ruscio: Đó chính là câu trả lời mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói với Tổng thống Mỹ Nixon vào năm 1966: “Không có gì quý hơn độc lập và tự do!”. Đây cũng chính là hai cụm từ dẫn đường cho xã hội Việt Nam. Độc lập dân tộc, các bạn đã giành được, còn tự do hiện đang luôn tiến triển.

Là chuyên gia nghiên cứu về Việt Nam, ông đánh giá như thế nào về sự phát triển của đất nước hiện nay?

Alain Ruscio: Rất ấn tượng! Tôi biết Việt Nam từ hơn 30 năm nay. Tôi đến Việt Nam hai năm một lần, thậm chí hàng năm, tùy thuộc vào từng giai đoạn và tôi thấy được những biến đổi về mọi mặt của đất nước này. Đó là một dân tộc cần cù, rất năng động, một dân tộc dù phải chịu nhiều đau thương và nghèo đói, nhưng luôn có ý chí vươn lên.

Tuy nhiên, việc xuất hiện sự chênh lệch xã hội và một số khó khăn, cái nghèo dai dẳng và nhất là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đang khiến cho Việt Nam bối rối. Tăng trưởng của Việt Nam không cao như những năm trước và xuất khẩu thì bị sụt giảm. Tuy những điều này có gây ảnh hưởng, nhưng tôi vẫn nhìn thấy ở đất nước này một dân tộc luôn phát triển./.

Nhà sử học Alain Ruscio là chuyên gia nghiên cứu các vấn đề thuộc địa và Đông Dương. Từng là phóng viên thường trú báo Nhân đạo (L’Humanité) của Pháp tại Việt Nam giai đoạn 1978-1980, ông Ruscio rất ngưỡng mộ Chủ tịch Hồ Chí Minh và đã viết nhiều cuốn sách về Người.

Từ nhiều năm nay, ông luôn gắn bó với đất nước, con người Việt Nam thông qua nghiên cứu lịch sử Việt Nam, cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông đã có nhiều công trình nghiên cứu, tác phẩm viết về lịch sử Việt Nam và Hồ Chủ tịch, trong đó có các tác phẩm đã được xuất bản như “Hồ Chí Minh,” “Sống ở Việt Nam,” “Việt Nam, lịch sử, đất nước, con người”…

Hiện nay, ông Alain Ruscio là Chủ tịch Trung tâm thông tin tư liệu Việt Nam tại thành phố Montreuil (Pháp). Được thành lập từ năm 1985, Trung tâm này là nơi tập trung nhiều nhất ở châu Âu những tài liệu về Việt Nam. Trung tâm đã và đang góp phần không nhỏ trong việc giới thiệu và quảng bá hình ảnh của Việt Nam ra với thế giới.

Nguyễn Thu Hà/Paris (Vietnam+)
vietnamplus.vn

Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá, pháp luật, kỷ luật trong Quân đội

6TTHCM ve van hoa ky luat trong quan doi

Tư tưởng về giáo dục văn hoá pháp luật, kỷ luật trong Quân đội là một nội dung trong hệ thống quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh. “Quân đội mạnh là nhờ giáo dục khéo, nhờ chính sách đúng và nhờ kỷ luật nghiêm”(1). Do đó, việc quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục văn hoá pháp luật, kỷ luật của Quân đội có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao trình độ văn hoá pháp luật của quân nhân.

Văn hoá pháp luật trong Quân đội là một bộ phận, một biểu hiện của văn hoá nói chung, là tổng hoà những tri thức, tình cảm, hành vi ứng xử của quân nhân đối với pháp luật, với nền pháp chế và hệ thống quan hệ pháp luật. Văn hoá pháp luật của quân nhân biểu hiện tập trung ở sự hiểu biết sâu sắc, sự nhất trí và lòng tin vào pháp luật Nhà nước, điều lệnh kỷ luật quân đội, tự giác hành động theo pháp luật của Nhà nước, điều lệnh kỷ luật quân đội. Bởi vậy, muốn có văn hoá pháp luật, kỷ luật tự giác nghiêm minh, con đường ngắn nhất, hiệu quả nhất là phải học tập chính cương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, điều lệnh kỷ luật của Quân đội. Phải thực hiện phương châm: “Mỗi mệnh lệnh đưa xuống, cấp trên đã thảo luận cân nhắc kỹ càng nên cấp dưới phải phục tùng và kiên quyết chấp hành…”(2).

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến các biện pháp bồi dưỡng, nâng cao trình độ văn hoá pháp luật, kỷ luật cho quân nhân. Nghiên cứu tư tưởng của Người, có thể thấy:

Thứ nhất, chú trọng giáo dục tri thức pháp luật, kỷ luật, xây dựng ý thức tự giác và bản lĩnh chấp hành nghiêm pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của Quân đội.

Văn hoá pháp luật, kỷ luật của quân nhân được hình thành phát triển trên cơ sở có nhận thức, hiểu biết sâu sắc, sự nhất trí, lòng tin tưởng tuyệt đối vào pháp luật của Nhà nước, điều lệnh kỷ luật của Quân đội và hành vi tự giác chấp hành nghiêm pháp luật, kỷ luật. Trong giáo dục văn hoá pháp luật, kỷ luật cho cán bộ, chiến sỹ, Bác dạy phải chăm lo giáo dục những tri thức về pháp luật, điều lệnh, điều lệnh của Quân đội, chỉ rõ những điều nên làm và không nên làm: “Đối với mỗi công tác quan trọng, cần phải làm cho mọi người hiểu cái gì nên làm, cái gì nên tránh, thế nào là đúng, thế nào là sai kỷ luật của Đảng. Như vậy kỷ luật của Đảng sẽ được bảo đảm, công tác của Đảng sẽ được thuận lợi, nhiệm vụ của Đảng sẽ chắc chắn hoàn thành”(3). Cùng với việc giáo dục tri thức pháp luật, cần khơi dậy ý thức tự giác chấp hành nghiêm mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên, pháp luật của Nhà nước, điều lệnh của Quân đội. Phải làm cho bộ đội có nhận thức đúng đắn, sâu sắc nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ của đơn vị, quyền lợi và nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân; thấy rõ ý nghĩa, tầm quan trọng, yêu cầu khách quan của việc chấp hành pháp luật, kỷ luật, trên cơ sở đó có thái độ, động cơ, ý chí, trách nhiệm, tinh thần đoàn kết và ý thức tự giác chấp hành nghiêm pháp luật, kỷ luật.

Hai là, phát huy vai trò trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo, chỉ huy đơn vị trong bồi dưỡng văn hoá pháp luật.

Cán bộ lãnh đạo, chỉ huy là người chịu trách nhiệm về mọi mặt của đơn vị. Nhận thức sâu sắc vị trí trách nhiệm của mình, cán bộ quản lý, chỉ huy các cấp thường xuyên nêu cao trách nhiệm và năng động, sáng tạo đổi mới hình thức, biện pháp, phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi lực lượng, nâng cao chất lượng giáo dục văn hoá pháp luật, kỷ luật, đồng thời tổ chức, quản lý đơn vị chấp hành nghiêm pháp luật, kỷ luật. Mặt khác, bản thân mỗi cán bộ quản lý, chỉ huy cần tự tu dưỡng, tự rèn luyện, “phải làm gương mẫu, phải chăm nom đến đời sống tinh thần, vật chất của chiến sỹ, phải gương mẫu học tập và giữ kỷ luật”(4). Hồ Chí Minh cho rằng, muốn có kỷ luật, điều quan trọng là cán bộ phải quyết tâm cao, tự giác: “Kỷ luật này là do lòng tự giác của đảng viên về nhiệm vụ của họ đối với Đảng”(5). Thực tế cho thấy, ở đâu, lúc nào cán bộ quản lý, chỉ huy thực sự là tấm gương sáng về chấp hành pháp luật, kỷ luật, thì ở đó chiến sỹ sẽ có ý thức chấp hành pháp luật, kỷ luật tốt và ngược lại, ở đâu cán bộ quản lý, chỉ huy thiếu gương mẫu, tự do tuỳ tiện, thì ở đó sẽ có nhiều hiện tượng vi phạm pháp luật, kỷ luật.

Ba là, duy trì nghiêm pháp luật, kỷ luật, rèn luyện tác phong chính quy, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn những hiện tượng, hành vi vi phạm pháp luật, kỷ luật.

Theo Hồ Chí Minh, việc bồi dưỡng văn hoá pháp luật, kỷ luật phải gắn với việc duy trì nghiêm pháp luật, kỷ luật và quản lý chặt chẽ mọi chế độ, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn những hiện tượng, hành vi vi phạm pháp luật, kỷ luật, “khi cần thiết thì phải thi hành kỷ luật nghiêm minh, đúng mức”(6). Bác nhắc nhở cán bộ, chiến sỹ phải hình thành thói quen có kỷ luật hằng ngày. Việc rèn luyện tác phong giữ nghiêm kỷ luật phải được thông qua việc hướng dẫn cụ thể, tỷ mỉ của người cán bộ; càng tỷ mỷ, cụ thể bao nhiêu thì càng bớt sai lầm, vi phạm pháp luật, kỷ luật bấy nhiêu. Người quan niệm: “Trừ những người cố ý phá hoại, ngoài ra không ai cố ý sai lầm, sai lầm là vì không hiểu, không biết”(7). Vì vậy, nâng cao trình độ văn hoá pháp luật, kỷ luật của quân nhân không chỉ dựa trên công tác giáo dục cơ bản, mà còn phải dựa vào sự hướng dẫn, nhắc nhở thường xuyên, sâu sát của cán bộ các cấp, làm cho việc chấp hành nghiêm pháp luật, kỷ luật trở thành thói quen. Người chỉ rõ: “Các cán bộ từ chỉ huy trở xuống phải cố gắng hơn nữa trong công tác, trong học tập, từ bước đi, từ cái chào đều phải chính quy hoá, cán bộ phải tiến trước và làm gương mẫu cho các chiến sỹ”(8).

Trong việc giữ vững tính nghiêm minh của pháp luật, Bác chỉ rõ: “Có cán bộ, đảng viên lợi dụng quyền thế của Đảng và Nhà nước làm những việc trái với chính sách và pháp luật, xâm phạm đến lợi ích vật chất và quyền tự do dân chủ của nhân dân, nhưng chưa bị xử lý kịp thời… Như vậy là kỷ luật chưa nghiêm”(9). Người yêu cầu kiên quyết trừng trị những kẻ vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền lợi của người khác. Bác lưu tâm nhiều đến khen thưởng và xử phạt để động viên cán bộ, chiến sỹ chấp hành nghiêm pháp luật, kỷ luật. Bác nói: “Khen thưởng người tốt, trừng phạt người xấu…”(10) và “Phải nâng cao kỷ luật, giữ vững kỷ luật. Những cán bộ có ưu điểm thì phải khen thưởng; người làm trái kỷ luật thì phải phạt. Nếu không thưởng thì không có khuyến khích; nếu không có phạt thì không giữ vững kỷ luật”(11).

Bốn là, thống nhất bồi dưỡng văn hoá pháp luật, kỷ luật với việc nâng cao giáo dục đạo đức.

Pháp luật và đạo đức điều chỉnh hành vi con người, hướng con người tới chân – thiện – mỹ. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, đạo đức là cơ sở thực hiện pháp luật. Đạo đức có tác dụng thúc đẩy, định hướng hành vi của quân nhân phù hợp yêu cầu của pháp luật, kỷ luật. Đạo đức cao nhất, theo Hồ Chí Minh là “Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi công việc”(12). Khi quân nhân biết tôn trọng và tuân thủ các chuẩn mực đạo đức của xã hội thì đó sẽ là điều kiện tốt để họ chấp hành pháp luật, tỏ rõ tinh thần bảo vệ lẽ phải, bảo vệ chân lý, giữ nghiêm kỷ luật. Đối với cán bộ Quân đội ta, Người yêu cầu phải luôn luôn là tấm gương sáng trong bồi dưỡng cũng như thực hành đạo đức cách mạng: “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”, “mình vì mọi người, mọi người vì mình”, “khổ trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”(13).

Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục văn hoá pháp luật, kỷ luật đối với cán bộ, chiến sỹ mãi mãi là kim chỉ nam cho hành động, là ngọn đèn pha soi đường để quân nhân phấn đấu bồi dưỡng, rèn luyện, nâng cao trình độ văn hoá pháp luật, góp phần xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

(1) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, NXBCTQG, H.2002, tr.560. (2) Sđd, tr.318. (3) Sđd, tập 7, tr.336. (4) Sđd, tập 8, tr.308. (5) Sđd, tập 5, tr.250. (6) Sđd, tập 12, tr.146. (7) Hồ Chí Minh, về xây dựng Đảng, NXBCTQG, H.1996, tr.426. (8) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, NXBCTQG, H.2002, tr.426. (9) Hồ Chủ tịch và pháp chế, Nxb TP. Hồ Chí Minh,1998, tr.148. (10) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, NXBCTQG, H.2002, tr.392. (11) Sđd, tập 7, tr.466. (12) Sđd, tập 9, tr.285. (13) Hồ Chí Minh với lực lượng vũ trang nhân dân,

Theo NXBQĐND, H.1975, tr.157-158.
Thượng tá. Vũ Văn Thường
Huyền Trang (st)

bqllang.gov.vn