Trong những ngày tháng 7, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh vinh dự được đón tiếp rất nhiều Đoàn Người có công với cách mạng. Nhân dịp này, chúng tôi may mắn được gặp, chia sẻ cùng một tù chính trị bị giam tại nhà tù Côn Đảo. Người chiến sỹ gan dạ một thời ấy đã không khỏi xúc động trong giây phút được “gặp” Bác Hồ kính yêu!
Thư viện
Kỷ niệm 66 năm Ngày Thương binh, Liệt sỹ (27/7/1947 – 27/7/2013) Sự ra đời và ý nghĩa của Ngày Thương binh, Liệt sỹ 27/7
Khu Di tích 27 tháng 7, xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ,
nơi công bố Ngày Thương binh, Liệt sỹ toàn quốc 27/7/1947
Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời chưa được bao lâu thì thực dân Pháp đã trở lại xâm lược nước ta. Với ý chí kiên cường, bất khuất “Thà hy sinh chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, quân và dân ta đã một lòng anh dũng chiến đấu chống lại quân xâm lược. Trong những tháng năm đầu của cuộc kháng chiến quyết liệt, nhiều đồng bào, chiến sĩ đã ngã xuống hoặc đổ máu trên các chiến trường.
Theo lời kêu gọi của Đảng, của Chính phủ và Bác Hồ, kế thừa truyền thống “nhân ái, thủy chung” của dân tộc, nhân dân ta đã dành tất cả tình thương yêu của mình cho các chiến sĩ và đồng bào đã vì sự nghiệp độc lập, tự do của Tổ quốc mà bị thương hoặc hy sinh.
Đầu năm 1946, “Hội giúp binh sĩ bị nạn” ra đời ở Thuận Hóa (Huế), rồi đến Hà Nội và một số địa phương khác … Sau đó ít lâu được đổi thành “Hội giúp binh sĩ bị thương”. Ở Trung ương có Tổng Hội và Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu là Chủ tịch danh dự của Tổng Hội.
Chiều ngày 28 tháng 5 năm 1946 tại Nhà hát Lớn Hà Nội, “Tổng Hội” tổ chức một cuộc nói chuyện quan trọng để kêu gọi đồng bào gia nhập Hội và hăng hái giúp đỡ các chiến sĩ bị thương.
Để giúp chiến sĩ trong mùa đông giá rét, cuộc vận động “Mùa đông binh sĩ” được tổ chức trong cả nước, mở đầu bằng buổi lễ xung phong “Mùa đông binh sĩ” do Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam tổ chức chiều ngày 17 tháng 11 năm 1946 tại Hà Nội. Hồ Chủ tịch đã đến dự buổi lễ và tặng chiếc áo mà Người đang mặc (chiếc áo sau này bán đấu giá được 3.500 đồng).
Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ngày 19 tháng 12 năm 1946, theo lời kêu gọi cứu nước của Bác Hồ, nhân dân cả nước nhất tề đứng dậy kháng chiến với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Số người bị thương và hy sinh trong chiến đấu tăng lên. Thương binh, liệt sĩ trở thành vấn đề lớn.
Trước yêu cầu bức xúc đó, cùng với việc tiếp tục kêu gọi giúp đỡ thương binh, gia đình tử sĩ, ngày 16 tháng 2 năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 20/SL “Quy định chế độ hưu bổng thương tật và tiền tuất tử sĩ”. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên khẳng định vị trí quan trọng của công tác thương binh, liệt sĩ đối với công cuộc kháng chiến cứu nước của dân tộc.
Để chủ đạo công tác này trong cả nước, ngày 26 tháng 2 năm 1947, Phòng Thương binh (thuộc Chính trị Cục, Quân đội Nhân dân Quốc gia Việt Nam) được thành lập và đầu tháng 7 năm 1947 Bác Hồ đã đồng ý cho thành lập Ban Vận động tổ chức “Ngày Thương binh toàn quốc”.
Cũng trong thời gian này, tại một địa điểm xóm Bàn Cờ, xã Hùng Sơn thuộc huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, các đại biểu Tổng bộ Việt Minh, Trung ương Hội Phụ nữ cứu quốc, Trung ương Đoàn Thanh niên cứu quốc, Nha Thông tin Tuyên truyền và một số địa phương đã dự một cuộc họp. Tại cuộc họp này, theo đề nghị của đại diện Chính trị Cục, Quân đội Nhân dân Quốc gia Việt Nam, các đại biểu đã nhất trí chọn ngày 27 tháng 7 hàng năm là “Ngày Thương binh toàn quốc”. Ông Lê Tất Đắc, đại diện Chính trị Cục, Quân đội Nhân dân Quốc gia Việt Nam tham gia cuộc họp đã tóm lược về ngày đáng ghi nhớ này bằng câu ca dao:
“ Dù ai đi Đông về Tây
27 tháng 7 nhớ ngày thương binh.
Dù ai lên thác xuống ghềnh
27 tháng 7 thương binh nhớ ngày ”.
Chiều ngày 27 tháng 7 năm 1947, “Ngày Thương binh toàn quốc” mở đầu bằng cuộc mittinh lớn được tổ chức tại xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Tại cuộc mit tinh này, các đại biểu đã nghe:
Đồng chí Lê Tất Đắc, đại diện Chính trị Cục, Quân đội Nhân dân Quốc gia Việt Nam đọc thư của Hồ Chủ tịch gửi Ban Thường trực của Ban tổ chức “Ngày Thương binh toàn quốc”. Trong thư Người viết:
“… Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào, vì lợi ích của Tổ quốc, lợi ích của đồng bào mà các đồng chí đó bị ốm yếu …”.
“… Vì vậy, Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”.
Đồng chí Lê Thành Ân, Phó Trưởng phòng Thương binh, thuộc Chính trị Cục nói về mục đích, ý nghĩa của “Ngày Thương binh toàn quốc” và trách nhiệm của toàn dân đối với thương binh, liệt sĩ.
Đồng chí Lê Tỵ, đại diện thương binh nói lên lòng biết ơn của thương binh đối với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và sự giúp đỡ của nhân dân.
Đồng chí Bá Huy, Bí thư Phụ nữ cứu quốc xã Lục Ba, người sau này được Bác Hồ gửi thư khen vì có nhiều thành tích giúp đỡ bộ đội, thương binh … phát biểu, hứa hẹn ủng hộ và giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ.
Trong lời kêu gọi nhân “Ngày Thương binh toàn quốc”, ngày 27 tháng 7 năm 1948, Hồ Chủ tịch viết:
“… Thương binh và tử sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc, đã hy sinh cho đồng bào.
Để báo đáp công ơn đó, Chính phủ phải tìm mọi cách để giúp đỡ anh em thương binh và gia đình tử sĩ.
Tôi cũng rất mong muốn đồng bào sẵn sàng giúp đỡ họ về mặt vật chất và tinh thần …”.
“Ngày Thương binh toàn quốc” đầu tiên cũng được tổ chức ở một số Tỉnh phía Nam, đặc biệt là Thành phố Sài Gòn. Tuy đang bị địch tạm chiếm và đàn áp, khủng bố rất gắt gao nhưng đồng bào đã tổ chức theo cách riêng của mình: Đến ngày đó các cửa hàng “đằng mình” đều đóng cửa nửa ngày và cũng trong thời gian đó không ai ra đường để biểu thị thái độ bất hợp tác với địch.
Từ đấy, hàng năm đến ngày 27 tháng 7, Bác Hồ đều gửi thư thăm hỏi, động viên, nhắc nhở mọi người phải biết ơn và hết lòng giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ.
Bác Hồ đến thăm Trại thương binh hỏng mắt
Từ tháng 7 năm 1955, “Ngày Thương binh toàn quốc” được đổi thành “Ngày Thương binh, Liệt sĩ” để ghi nhận những hy sinh lớn lao của đồng bào, chiến sĩ cả nước cho chiến thắng vẻ vang của toàn dân tộc.
Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, theo Chỉ thị 223/CT-TƯ ngày 8 tháng 7 năm 1975 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, từ năm 1975, ngày 27 tháng 7 hàng năm chính thức trở thành “Ngày Thương binh, Liệt sĩ” của cả nước.
Trải qua hơn nửa thế kỷ, với các tên gọi “Ngày Thương binh toàn quốc”, “Ngày Thương binh, Liệt sĩ” và được tổ chức trong những hoàn cảnh khác nhau (chiến tranh, hòa bình ở nửa đất nước, đất nước thống nhất, cả nước tiến hành công cuộc đổi mới), nhưng đúng như mục tiêu đề ra ban đầu, mỗi năm đến “Ngày Thương binh, Liệt sĩ” ngày 27 tháng 7, trên đất nước ta lại dấy lên nhiều việc làm thiết thực, đầy tình nghĩa chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình người có công với cách mạng, thể hiện truyền thống “hiếu nghĩa bác ái”, lòng quý trọng và biết ơn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đối với những người đã vì độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì tự do và cuộc sống yên bình của nhân dân mà hy sinh, cống hiến.
Nhân dịp kỷ niệm 50 năm “Ngày Thương binh, Liệt sĩ”, ngày 27 tháng 7 năm 1997, tại xóm Bàn Cờ, xã Hùng Sơn thuộc huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên nơi chứng kiến sự ra đời của “Ngày Thương binh toàn quốc”, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và Ủy ban Nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã khánh thành Khu Kỷ niệm 27/7 và dựng bia kỷ niệm với nội dung được khắc trên bia như sau:
“Nơi đây ngày 27 tháng 7 năm 1947, 300 cán bộ, bộ đội và đại diện các tầng lớp nhân dân địa phương họp mặt nghe công bố bức thư của Bác Hồ ghi nhận sự ra đời của Ngày Thương binh, Liệt sỹ”
Cũng nơi này đã được Nhà nước công nhận là Di tích lịch sử nhân dịp kỷ niệm 50 năm “Ngày Thương binh, Liệt sĩ”, ngày 27 tháng 7 năm 1997.
Thông qua việc đề ra và thực hiện đầy đủ chính sách xã hội đối với thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng tiếp tục đóng góp công sức vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực sự đã trở thành động lực vật chất, tinh thần giúp họ vươn lên, vượt qua khó khăn thử thách, làm chủ cuộc sống.
Đảng, Nhà nước ta luôn chú trọng giáo dục ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ công dân và lòng biết ơn sâu sắc của các tầng lớp nhân dân, của các thế hệ đối với liệt sĩ, gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh và người có công với cách mạng. Sự cống hiến, hy sinh của họ cho độc lập, tự do của dân tộc, cho hạnh phúc của nhân dân là vô giá, không chỉ cho ngày hôm qua, hôm nay mà cho muôn đời con, cháu mai sau. Việc chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công là nghĩa vụ, trách nhiệm và niềm vinh dự của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội và của mọi người, của thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau.
Làm tốt công tác đối với thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng thể hiện tính ưu việt và bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta, củng cố niềm tin của nhân dân ta vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm cơ sở cho giữ vững ổn định chính trị – xã hội, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kim Yến
Nguồn: bqllang.gov.vn
Vkyno (st)
Tấm lòng của Bác Hồ đối với thương binh, liệt sỹ
Tổ quốc ta suốt chiều dài hơn bốn ngàn năm là lịch sử chống giặc ngoại xâm, trong đó ghi dấu công lao của những người con nước Việt đem xương máu bảo vệ độc lập. Lịch sử đó đã hun đúc nên đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ người trồng cây”…
Sáng ngời tư tưởng Hồ Chí Minh về đền ơn đáp nghĩa
(Chinhphu.vn) – Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho thương binh, bệnh binh và thân nhân các liệt sĩ tình cảm và sự quan tâm sâu sắc.
Bác Hồ với thương binh, liệt sĩ
(ĐCSVN) – Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt tới các đồng chí thương binh và gia đình liệt sĩ. Ngày 27-7-1947, Người gửi thư cho Ban Tổ chức “Ngày thương binh toàn quốc” và từ đó ngày 27-7 hằng năm trở thành Ngày thương binh, liệt sĩ.
Từ tấm lòng của Bác nghĩ về việc “đền ơn, đáp nghĩa” hôm nay
Kỷ niệm 65 năm Ngày Thương binh – Liệt sĩ (27-7-1947 / 27-7-2012)
QĐND – Mùa hè, Bác Hồ không dùng quạt máy nhiều mà vẫn quen dùng quạt tay (quạt giấy, quạt lá cọ). Đôi khi trời oi ả, thấy Bác làm việc vầng trán lấm tấm mồ hôi, anh em phục vụ bảo nhau quạt cho Bác nhưng Bác bảo Bác tự lo được. Mấy đồng chí bên Bộ Ngoại giao công tác ở nước ngoài gửi biếu Bác chiếc máy điều hòa nhiệt độ. Lúc này ở nước ta chưa cơ quan nào có máy điều hòa nhiệt độ, cán bộ ở Phủ Chủ tịch cũng mới được nghe, nay mới mắt thấy. Ai cũng mừng, từ nay Bác không còn phải phe phẩy cái quạt nữa. Bác đi công tác một tuần nữa mới về, các anh phục vụ quyết định lắp máy điều hòa vào phòng Bác, khi Bác về sẽ xin phép sau. Máy được lắp gọn gàng trong phòng làm việc của Bác, khi chạy thử, cầu dao điện vừa đóng, tiếng máy chạy ro ro. Ít phút sau nhiệt độ giảm dần, trong phòng Bác mát như đã cuối thu. Máy rất hiện đại, trong máy gắn thêm một bình bơm tự động có nước hoa, khi máy vận hành, van mở, nước hoa theo gió tỏa ra, trong phòng lúc nào cũng phảng phất mùi thơm, như hoa lan, hoa huệ vậy. Vắng Bác mấy ngày, anh em phục vụ hưởng cái mát trong phòng kín 24, 25 độ, trong khi bên ngoài 36, 37 độ, mọi người nghĩ rằng từ nay chắc chắn Bác làm việc khỏe hơn, ngủ ngon giấc hơn.
Hôm Bác về, anh em phấp phỏng, hồi hộp chờ đợi ý kiến Bác về máy điều hòa. Ban đầu, Bác thấy nhà mình có mùi lạ quá, mát dịu hẳn khác với ở bên ngoài. Anh em phục vụ xin lỗi Bác rồi trình bày lý do về máy điều hòa nhiệt độ. Không thấy Bác tỏ thái độ gì, anh em phục vụ nhìn nhau có vẻ yên tâm. Đến đầu giờ làm việc buổi chiều, Bác gọi anh Vũ Kỳ đến và ân cần bảo:
– Chiếc máy điều hòa nhiệt độ tốt đấy, các chú đem đến trại điều dưỡng thương binh. Hôm đến thăm thấy thương binh ở nóng lắm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm thương binh hỏng mắt. Ảnh tư liệu.
Bác đến trại điều dưỡng thương binh Hà Nội. Bác đến bất ngờ, không báo trước, đi thẳng vào thăm anh em thương binh nặng nằm bất động, nóng cũng phải chịu vì quạt máy không đủ gió tới mọi nơi trong nhà. Bác vừa hỏi chuyện vừa cầm chiếc quạt giấy của Bác quạt cho anh em. Bác căn dặn các đồng chí lãnh đạo phải khắc phục mọi khó khăn, cố gắng điều trị, chăm lo bồi dưỡng để thương binh sớm phục hồi sức khỏe. Bác cũng dặn anh em thương binh yên tâm điều trị, kiên trì rèn luyện “Tuy là những người tàn mà không phế”. Giờ đây trong căn phòng mát dịu dù ngoài trời nắng chang chang, ai cũng thấy thoải mái, Bác lại chạnh lòng nghĩ đến thương binh. Anh em phục vụ không ngờ Bác lại dành máy cho thương binh, còn Bác lại trở về với cái quạt giấy, quạt lá cọ.
Xin nêu mẩu chuyện trên đây về Bác Hồ đối với thương binh vào dịp kỷ niệm Ngày Thương binh-Liệt sĩ 27-7 để thấy Bác lúc nào cũng dành sự chăm sóc cụ thể, thiết thực cho thương binh, gia đình liệt sĩ. Người nước ngoài đến thăm Việt Nam đã có nhận xét: Chỉ ở Việt Nam mới thấy nghĩa trang liệt sĩ tới cấp xã. Trong chiến tranh thế giới lần thứ hai chống phát xít Đức ở châu Âu, gia đình nhiều liệt sĩ nhất là một gia đình ở Liên Xô có 5 liệt sĩ. Còn ở Việt Nam, gia đình mẹ Thứ ở Điện Bàn, Quảng Nam có 9 con và 2 cháu là liệt sĩ, mẹ Rảnh ở Củ Chi, TP Hồ Chí Minh có 8 liệt sĩ. Đó là 2 bà mẹ nông dân nghèo. Ngay trong gia đình ông Nguyễn Xuân Oánh, quyền Thủ tướng chế độ cũ thời Mỹ-Thiệu (1965-1966), cha ông là bác sĩ nha khoa Nguyễn Xuân Bái, lại là cơ sở chí cốt của Thành ủy Sài Gòn-Chợ Lớn những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ông nhận nhiệm vụ của Thành ủy tập hợp một số trí thức, nhân sĩ công khai đấu tranh đòi Mỹ phải đàm phán với Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Ông bị địch bắt và chúng giam ông tại khám Chí Hòa khi con ông vẫn là quyền thủ tướng. Mỗi lần cần hoạt động công khai, Thành ủy thường giao trọng trách cho ông và đã xuất hiện công khai là lại bị bắt. Tù đày nhiều, tuổi càng cao, sức yếu nhưng ông vẫn hoạt động vì có uy tín trong trí thức, nhân sĩ Sài Gòn-Chợ Lớn.
Giáo chủ Cao đài Nguyễn Ngọc Tương có hai con trai đều quốc tịch Pháp, là cán bộ cao cấp của Nhà nước ta: Kỹ sư Nguyễn Ngọc Bích là Phó tư lệnh khu 9 (Nam Bộ) và kỹ sư Nguyễn Ngọc Nhựt theo lời kêu gọi của Bác Hồ từ Pháp về nước và được cử phụ trách công binh xưởng, sửa chữa và chế tạo vũ khí, rồi là Ủy viên ủy ban hành chính kháng chiến Nam Bộ. Hai ông bị địch bắt, riêng kỹ sư Nguyễn Ngọc Nhựt bị địch tra tấn dã man và chúng sẵn sàng tha chết nếu giáo chủ có đơn xin cho con. Giáo chủ trả lời người quyết định là con ông. Pháp đưa vợ kỹ sư Nhựt là một phụ nữ Pháp từ Pa-ri đến phòng giam kỹ sư để vận động ông đầu hàng. Kỹ sư Nhựt vẫn đấu tranh cho đến hơi thở cuối cùng. Bác Hồ và Chính phủ đã truy tặng liệt sĩ Nguyễn Ngọc Nhựt Huân chương Kháng chiến hạng nhất.
Tôi kể lại vài sự việc rất tóm tắt để chứng minh thương binh, liệt sĩ, gia đình chính sách gồm đủ mọi thành phần, giai cấp từ những người cùng khổ, những lao động đủ mọi ngành nghề cho đến những gia đình giàu có, kể cả một số quan chức chóp bu của chính quyền đối phương. Đảng của toàn dân, đúng như Bác Hồ đã nói: “Đảng của dân tộc”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự trường tồn của Nhà nước của dân, do dân, vì dân dựa trên những hy sinh không bờ bến, trên xương máu của mọi người Việt Nam, đông nhất là nông dân.
Ngay sau Đại thắng mùa Xuân 1975, Chính phủ tổ chức một hội nghị rất đặc biệt, chưa từng có: Hội nghị của những gia đình có bốn liệt sĩ trở lên. Hội nghị họp có một nét độc đáo: Đại biểu khá đông là các mẹ nông dân không quen ngồi ghế hàng tiếng đồng hồ, vì vậy rải chiếu để các mẹ ngồi còn ăn trầu. Hầu hết đại biểu có đủ tiêu chuẩn bốn liệt sĩ đến dự hội nghị là nông dân nghèo. Chỉ có ba gia đình chưa đủ tiêu chuẩn vẫn ưu tiên được mời đến dự là: Gia đình Lý Tự Trọng, gia đình Nguyễn Văn Trỗi và gia đình Phan Đăng Lưu, một Ủy viên Trung ương Đảng bị địch xử bắn tại Hóc Môn (Sài Gòn) năm 1940.
Hơn 25 năm đổi mới, thành tích nổi bật của Việt Nam là xóa đói giảm nghèo, hàng triệu hộ nông dân đã thoát nghèo, một số tổ chức quốc tế gợi ý các nước kém phát triển muốn thoát nghèo cần tham khảo kinh nghiệm Việt Nam. Chống đói nghèo ở bất cứ đâu, các gia đình thương binh, liệt sĩ nghèo cũng đứng đầu danh sách được sự giúp đỡ mọi mặt để có điều kiện phát triển sản xuất. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xây dựng nhà mới cho người nghèo cũng trước hết quan tâm đến nhà tình nghĩa cho các gia đình thương binh, liệt sĩ.
Kỷ niệm Ngày Thương binh-Liệt sĩ năm nay, trong hoàn cảnh nền kinh tế đang phải vật lộn với giá cả đắt đỏ, rất cần bám sát cơ sở để phát hiện những gia đình chính sách thiếu ăn để có biện pháp giúp đỡ.
Người thương binh đầu tiên của nước ta là Hoàng Cầm (sau này là Thượng tướng, Tổng thanh tra Quân đội). Ông tên thật là Đỗ Văn Cầm, sinh năm 1922, quê quán: Cao Sơn, Ứng Hòa, Hà Tây (nay là Hà Nội). Ông bị thương năm 1947, trong một trận đánh ở Đà Bắc. Khi ấy ông đã là cán bộ tiểu đoàn thuộc bộ đội Tây Tiến. Số thẻ thương binh của ông mang số 001, và sổ phụ cấp thương tật cũng mang số 001, cấp ngày 18-8-1958, do Bộ trưởng Bộ Thương binh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Vũ Đình Tụng ký. S.T. |
Thái Duy
qdnd.vn
“Luôn luôn tưởng nhớ đến thương binh, liệt sỹ”
Cho đến nay, hàng năm, ngày 27 tháng 7 được coi là “Ngày Thương binh – Liệt sỹ”. Đạo lý tôn thờ những người chết vì nước đã được tôn vinh ngay từ những ngày đầu nước nhà độc lập.
Đầu tháng 11 năm 1945, nhân một số chiến sỹ và đồng bào bị giặc Pháp giết chết, những cuộc Lễ truy điệu đã được tổ chức trọng thể với sự tham dự của nhiều tôn giáo. Lễ tổ chức được kỷ niệm trang trọng tại Nhà Hát Lớn Hà Nội (ảnh 1), có sự tham dự của giới Phật tử (ảnh 2), Chủ tịch Hồ Chí Minh đích thân đến dự Lễ cầu siêu tại Nhà Hát Lớn Hà Nội cùng cố vấn Vĩnh Thụy (cựu hoàng Bảo Đại) (ảnh 3).
Ngày 30/4/1946, tại cuộc họp Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh thông báo việc được “Hội giúp binh sỹ bị nạn” tại Huế mời ra làm Chủ tịch Danh dự và các Bộ trưởng làm Hội viên Danh dự và đề nghị Chính phủ nên đáp lại bằng việc ra thông tư cho các địa phương nên có hình thức tỏ lòng biết ơn đối với các chiến sỹ …
Ngày 27/7/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Ban thường trực của Ban Tổ chức “Ngày Thương binh toàn quốc” nêu rõ: “Đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp, cha mẹ, anh em, vợ con, thân thích, họ hàng ta bị đe dọa. Của cải, ruộng nương, nhà cửa, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập. Ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù, để giữ gìn đất nước cho chúng ta. Đó là những chiến sỹ mà ngày nay một số đã thành thương binh. Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc…Vì vậy, Tổ quốc, đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy…”.
Thư nhấn mạnh: “Ngày 27 tháng 7 là một dịp để cho đồng bào ta tỏ lòng hiếu nghĩa, bác ái, là tỏ ý yêu mến thương binh” và đưa ra một số sáng kiến thiết thực trong “Ngày Thương binh”, đồng thời “tôi xin xung phong gửi chiếc áo lót bằng lụa chị em phụ nữ gửi tặng, 1 tháng lương, 1 bữa ăn của tôi cùng 1 bữa ăn của các nhân viên Phủ Chủ tịch cộng lại là 1.127đồng”.
Từ năm 1948 Ngày Thương binh – Liệt sỹ được tổ chức vào ngày 27 tháng 7 và trở thành một cuộc vận động chính trị sâu rộng. Tháng 7 năm ấy, Bác viết thư gửi “Anh em thương và bệnh binh”.
Với anh em thương và bệnh binh, Bác chia sẻ: “Các đồng chí đã hy sinh một phần xương máu vì Tổ quốc… Các đồng chí không khỏi phân vân. Nhưng không, các đồng chí nên một mặt nuôi lại sức khoẻ, một mặt cố gắng học tập. Khi đã khôi phục sức khoẻ, các đồng chí sẽ hăng hái tham gia công tác tăng gia sản xuất, để giúp ích cho Tổ quốc, cũng như các đồng chí đã anh dũng giữ gìn non sông, các đồng chí sẽ trở nên người công dân kiểu mẫu ở hậu phương cũng như các đồng chí đã làm người chiến sỹ kiểu mẫu ngoài mặt trận. Tôi cùng đồng bào luôn luôn nhớ đến các đồng chí”.
Ngày 27/7/1950, tại chiến khu Việt Bắc, Bác lại viết thư gửi Ban Tổ chức Trung ương Ngày Thương binh – Liệt sỹ trong đó có đoạn: “Càng tưởng nhớ đến những người con dũng cảm của Tổ quốc, thì mọi người càng thêm hăng hái thi đua làm trọn nhiệm vụ tổng động viên, để chuẩn bị đầy đủ, để chuyển mạnh sang tổng phản công, để tranh lại độc lập và thống nhất cho Tổ quốc. Mà cũng để trả thù cho thương binh và liệt sỹ ta”.
Ngày 27/7/1952, đúng vào Ngày Thương binh – Liệt sỹ, Bác gửi điện tới Bộ trưởng Bộ Thương binh và Cựu binh nhờ chuyển một tháng lương ủng hộ, nhắc nhở đồng bào nên coi việc giúp đỡ thương binh “là một nghĩa vụ của nhân dân đối với những chiến sỹ bị thương bị bệnh, không nên coi đó là một việc “làm phúc”. Đồng thời cũng khuyên anh em thương binh “phải tránh tâm lý “công thần”, coi thường lao động, coi thường kỷ luật”…
Ngày 28/7/1954, Bác viết thư gửi Bộ trưởng Bộ Thương binh biểu dương những sáng kiến và một số tấm gương trong phong trào chăm sóc các đối tượng có công cũng như những thương binh gương mẫu.
Đồng thời, thư cũng khuyên “các thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sỹ thì cần phải biết ơn sự săn sóc của đồng bào; cần phải cố gắng tăng gia sản xuất, tự lực cánh sinh, tuỳ theo khả năng mà tham gia các công tác trong xã, chớ nên yêu cầu quá đáng, ra vẻ “công thần” và như thường lệ gửi một tháng lương của mình để làm quà cho thương bệnh binh.
Ngày 27/7/1956, cũng nhân “Ngày Thương binh – Liệt sỹ”, Bác gửi thư không chỉ động viên toàn xã hội quan tâm mà còn “nhắc nhở anh em thương binh, bệnh binh: Đã là quân nhân cách mạng thì bao giờ cũng phải là chiến sỹ anh dũng. Khi ở Trại thì anh em nên thi đua học tập và công tác. Lúc ra Trại, thì nên hăng hái tham gia công tác sản xuất ở địa phương, ở cơ quan”.
Theo http://bee.net.vn
Thu Hiền (st)
Tình cảm của Bác với thương binh, liệt sỹ và gia đình có công với đất nước
Để đồng bào cả nước “tỏ lòng hiếu nghĩa bác ái và tỏ lòng yêu mến thương binh”, Bác đồng ý chọn ngày 27-7-1947 làm ngày Thương binh. Vào những dịp này, Bác Hồ đều gửi thư kèm theo một tháng lương của mình, ngoài ra, khi thì một bữa ăn của Người, khi thì một món quà (do đồng bào, đồng chí gửi biếu) đến anh chị em thương binh, các gia đình liệt sĩ; đồng thời nhắc nhở trách nhiệm, động viên và biểu dương những địa phương, cơ quan, đơn vị và các cá nhân đã hết lòng giúp đỡ thương binh và gia đình liệt sĩ. Mục đích của Bác là: “…thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và Chính phủ cảm ơn những chiến sĩ đã hy sinh tính mệnh cho nền tự do, độc lập và thống nhất của nước nhà, hoặc trong thời kỳ cách mệnh, hoặc trong thời kỳ kháng chiến”.
Trong sự nghiệp chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, lớp lớp thế hệ thanh niên đã lên đường, chung sức, đồng lòng “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Sự hy sinh của những thế hệ đi trước không gì có thể bù đắp được. Tổ quốc không chỉ ghi công họ mà còn phải có chính sách cụ thể chăm lo cuộc sống của họ. Là người đứng đầu đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấu hiểu những mất mát lớn lao này và Bác luôn dành tình cảm đặc biệt với thương binh, liệt sĩ và gia đình có công với Tổ quốc. Sự quan tâm này được thể hiện sinh động bằng những hoạt động hết sức thiết thực, phù hợp với đạo lý truyền thống nhân văn “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây” của dân tộc Việt Nam và phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước trong từng giai đoạn cách mạng.
Ngày 10-3-1946, Báo Cứu quốc đăng thư của Người gửi đồng bào Nam Bộ, trong đó có viết: “Tôi xin kính cẩn cúi chào vong linh các anh chị em đã bỏ thân vì nước và các đồng bào đã hy sinh trong cuộc đấu tranh cho nước nhà. Sự hy sinh đó không phải là uổng”. Chiều ngày 11-7-1946, tại Nhà hát lớn Hà Nội, trong một buổi quyên góp quần áo, giày mũ cho chiến sĩ ngoài mặt trận, mở đầu cuộc vận động “mùa đông chiến sĩ”, Bác đã cởi chiếc áo rét đang mặc để tặng binh sĩ.
Tháng 12-1946, cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược với muôn vàn khó khăn, thách thức. Đời sống của bộ đội gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn. Số chiến sĩ bị thương, hy sinh trong chiến đấu ngày càng tăng. Trước tình hình đó, Đảng, Chính phủ đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách quan trọng về công tác Thương binh – Liệt sĩ, nhằm góp phần bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần của các chiến sĩ và gia đình chính sách, tiếp tục động viên sức người, sức của cho cuộc kháng chiến. Ngày 16-2-1947, Bác Hồ đã thay mặt Đảng, Chính phủ ký Sắc lệnh số 20/SL ban hành chế độ hưu, bổng, thương tật và tiền tuất tử sĩ.
Nhân cuộc mít tinh quan trọng ngày 27-7-1947 tại Đại Từ, Thái Nguyên, Bác Hồ đã gửi thư và gửi tặng một chiếc áo lụa, một tháng lương và một bữa ăn của mình trong Phủ Chủ tịch đến ban tổ chức để gửi tặng chiến sĩ và thương, bệnh binh. Để đồng bào cả nước “tỏ lòng hiếu nghĩa bác ái và tỏ lòng yêu mến thương binh”, Bác đồng ý chọn ngày 27-7-1947 làm ngày Thương binh Vào những dịp này, Bác Hồ đều gửi thư kèm theo một tháng lương của mình, ngoài ra, khi thì một bữa ăn của Người, khi thì một món quà (do đồng bào, đồng chí gửi biếu) đến anh chị em thương binh, các gia đình liệt sĩ; đồng thời nhắc nhở trách nhiệm, động viên và biểu dương những địa phương, cơ quan, đơn vị và các cá nhân đã hết lòng giúp đỡ thương binh và gia đình liệt sĩ. Mục đích của Bác là: “…thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và Chính phủ cảm ơn những chiến sĩ đã hy sinh tính mệnh cho nền tự do, độc lập và thống nhất của nước nhà, hoặc trong thời kỳ cách mệnh, hoặc trong thời kỳ kháng chiến”(1). Bên cạnh đó, Bác thường xuyên chỉ đạo các địa phương, cơ quan, đơn vị, các đoàn thể tổ chức tốt các hoạt động chăm sóc thương binh, giúp đỡ các gia đình liệt sĩ với phương châm: “đồng bào sẵn sàng giúp đỡ, Chính phủ ra sức nâng đỡ, anh em có quyết tâm thì anh em nhất định dần dần tự túc được”.
Trong lời kêu gọi nhân ngày Thương binh – Liệt sĩ 27-7-1948, Bác khẳng định: “Khi nạn ngoại xâm ào ạt đến, nó như một trận lụt to. Nó đe dọa tràn ngập cả non sông Tổ quốc. Nó đe dọa cuốn trôi cả tính mệnh, tài sản, chìm đắm cả bố mẹ, vợ con của nhân dân ta. Trước cơn nguy hiểm ấy, số đông thanh niên yêu quý của nước ta đã dũng cảm xông ra mặt trận. Họ quyết tâm đem xương máu của họ đắp thành một bức tường đồng, một con đê vững để ngăn cản nạn ngoại xâm tràn ngập Tổ quốc, làm hại đồng bào. Họ quyết hy sinh tính mệnh để giữ tính mệnh đồng bào. Họ quyết hy sinh gia đình và tài sản họ để bảo vệ gia đình và tài sản đồng bào. Họ quyết liều chết chống địch để cho Tổ quốc và đồng bào sống. Họ là những chiến sĩ anh dũng của chúng ta. Trong đó có người đã bỏ lại một phần thân thể ở mặt trận, có người đã bỏ mình ở chiến trường. Đó là thương binh, đó là tử sĩ…” (2). Song những hy sinh, mất mát đó không uổng phí: “Máu đào của các liệt sĩ đã nhuộm lá cờ cách mạng càng thêm đỏ chói. Sự hy sinh của các liệt sĩ đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do” (3). Cho nên, đối với “những người con trung hiếu ấy, Chính phủ và đồng bào phải báo đáp thế nào cho xứng đáng”. Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy, mọi người phải luôn luôn học tập tinh thần dũng cảm của các liệt sĩ để vượt qua tất cả khó khăn, gian khổ, hoàn thành sự nghiệp cách mạng mà các liệt sĩ đã để lại.
Tháng 7-1951, Bác phát động phong trào “đón thương binh về làng” với những nội dung cụ thể, rõ ràng, thiết thực: “Chính quyền, đồng bào và các đoàn thể nhân dân trong mỗi xã phải tuỳ theo sự cố gắng và khả năng chung của mỗi xã mà đón một số anh em thương binh. Giúp lâu dài chứ không phải chỉ giúp một thời gian. Không phải giúp bằng cách góp gạo nuôi thương binh, nhưng giúp bằng cách này:
1. Mỗi xã trích một phần ruộng công, nếu không có ruộng công thì mượn ruộng của những đồng bào có hằng tâm, hằng sản, nếu không mượn được ruộng thì chính quyền, đoàn thể và đồng bào trong xã chung sức phát vỡ một số đất mới để giúp thương binh.
2. Chính quyền, đoàn thể và đồng bào trong xã tổ chức việc cày cấy, chăm nom, gặt hái những ruộng đất ấy. Hoa lợi để nuôi thương binh.
3. Tuỳ theo số ruộng đất trích được, mượn hoặc khai khẩn được, mà đón nhiều người hoặc ít người thương binh về xã… Kế hoạch tỉ mỉ sẽ do Chính phủ cùng Mặt trận Liên Việt định sau. Với lòng hăng hái và cố gắng của đồng bào, với sự nỗ lực của cán bộ chính quyền và đoàn thể các địa phương, tôi tin chắc rằng công việc đón anh em thương binh về làng sẽ có kết quả tối đẹp”(4).
Sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của dân tộc ta giành thắng lợi, từ “Thủ đô gió ngàn” trở về Hà Nội, việc làm đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh là dẫn đầu đoàn đại biểu của Đảng, Chính phủ đến đặt vòng hoa tại Đài liệt sĩ Thủ đô để tượng niệm các anh hùng liệt sĩ đã quyết tâm bảo vệ Hà Nội mùa đông năm 1946 và trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Đứng trước anh linh những anh hùng liệt sĩ, Bác nghẹn ngào trong bài phát biểu: “Hỡi các liệt sĩ. Ngày mai là năm mới, là ngày đồng bào và bộ đội mừng Chính phủ về Thủ đô. Trong lúc cả nước vui mừng thì mọi người đều thương tiếc các liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, vì dân tộc. Tôi thay mặt nhân dân, Chính phủ và bộ đội kính cẩn nghiêng mình trước linh hồn bất diệt của các liệt sĩ… Một nén hương thanh. Vài lời an ủi” (5).
Bác Hồ không chỉ quan tâm hết lòng đối với những người có công với Tổ quốc mà còn luôn khuyên anh em thương binh quyết tâm vượt qua bệnh tật, phấn đấu vươn lên thành những người “tàn nhưng không phế”; “Khi đã khôi phục sức khoẻ, các đồng chí sẽ hăng hái tham gia công tác sản xuất để giúp ích cho Tổ quốc, cũng như các đồng chí đã anh dũng giữ gìn non sông, các đồng chí sẽ trở nên người công dân kiểu mẫu ở hậu phương cũng như các đồng chí đã làm người chiến sĩ kiểu mẫu ở ngoài mặt trận. Tôi cùng đồng bào luôn luôn nhớ đến các đồng chí” (6). Đồng thời, Bác chỉ ra những công việc thật cụ thể, phù hợp để “anh em thương binh sẽ tuỳ sức mà làm những công việc nhẹ, như học may, đan lát, hớt tóc hoặc giúp việc phòng giấy, việc bình dân học vụ trong làng…”.
Ghi nhớ lời dạy của Bác Hồ kính yêu: “Thương binh, bệnh binh, gia đình quân nhân, gia đình liệt sĩ là những người có công với Tổ quốc, với nhân dân. Cho nên bổn phận của mỗi chúng ta là phải quan tâm, thương yêu và giúp đỡ họ”, 65 năm qua, Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách với thương binh, liệt sĩ cùng thân nhân của họ. Chính sách Thương binh – Liệt sĩ đã phát triển thành hai Pháp lệnh: Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và Pháp lệnh Ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng. Ngày 28-4-2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 12/CT-TTg về việc tăng cường chăm sóc người có công với cách mạng và hoạt động đền ơn đáp nghĩa. Đây là cơ sở để toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta tiếp tục thực hiện tốt công tác chính sách, đẩy mạnh phong trào “Đền ơn, đáp nghĩa” với những việc làm hiệu quả, thiết thực như: xây “Nhà tình nghĩa”, “Nhà đồng đội”, “Vườn cây tình nghĩa”, “Ao cá tình nghĩa”, quỹ “Đền ơn, đáp nghĩa”, quỹ “Chất độc da cam”… Các phong trào này phát triển ngày càng sâu rộng, mang tính xã hội hoá cao, góp phần xoa dịu nỗi đau mất mát, giải quyết khó khăn, ổn định cuộc sống cho các thương, bệnh binh và các gia đình liệt sĩ “yên ổn về vật chất, vui vẻ về tinh thần và có dịp tham gia hoạt động ích lợi cho xã hội”.
Quán triệt Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị và mỗi cá nhân tích cực tham gia các phong trào toàn dân chăm sóc thương binh và gia đình liệt sĩ, nhằm đạt mục tiêu: “Huy động mọi nguồn lực xã hội cùng với Nhà nước chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất, tinh thần của những người và gia đình có công. Giải quyết dứt điểm các tồn đọng về chính sách người có công, đặc biệt là người tham gia hoạt động bí mật, lực lượng vũ trang, thanh niên xung phong trong các thời kỳ cách mạng và kháng chiến. Tạo điều kiện, khuyến khích người và gia đình có công tích cực gia phát triển kinh tế để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, có mức sống cao hơn mức sống trung bình của dân cư tại địa bàn” (7).
Cùng với sự sẻ chia của toàn xã hội, các anh chị em thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ, khắc sâu lời dạy của Bác Hồ “tàn nhưng không phế” đã tiếp tục phát huy truyền thống, khả năng của mình, ra sức lao động góp phần làm giảm gánh nặng cho xã hội, phấn đấu vươn lên, xứng đáng là những “công dân kiểu mẫu”, những “gia đình cách mạng gương mẫu” như mong muốn của Bác Hồ. Nhiều thương, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ đã trở thành những cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nhiều lĩnh vực xã hội, trở thành những nhà khoa học xuất sắc, những doanh nhân giỏi… Một số đồng chí đã được Nhà nước tuyên dương Anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới. Nhiều thương, bệnh binh luôn nêu cao ý thức trách nhiệm, tiếp tục cùng toàn dân tộc phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, sánh với với các cường quốc lớn trên thế giới như sinh thời Bác hằng mong.
Các phong trào toàn dân chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ không chỉ góp phần ổn định và nâng cao mức sống của thương, bệnh binh, gia đình liệt sĩ mà còn góp phần ổn định tình hình chính trị xã hội trên địa bàn, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, có tác dụng giáo dục toàn dân, đặc biệt là thế hệ trẻ về lòng yêu nước, truyền thống ân nghĩa, đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ người trồng cây”, lòng tự hào, tự tôn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
T.S Nguyễn Dân Quốc
Phạm Thị Nhung
Trường Sĩ quan Lục quân 2
xaydungdang.org.vn
—————-
1. Hồ Chí Minh Toàn tập, NXBCTQG, H. 2002, tập 4, tr.435.
2. Sách đã dẫn tập 5, tr.466.
3. Sđd, tập 10, tr.3.
4. Sđd, tập 6, tr.261.
5. Sđd, tập 7, tr.427.
6. Sđd, tập 5, tr.471.
7. Văn kiện Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam, NXBCT-HC, H.2011, tr.122.
Nơi phát tích Ngày Thương binh toàn quốc
Khu Di tích “ Nơi công bố Ngày Thương binh – Liệt sỹ toàn quốc” tại xóm Bàn Cờ, xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ có một Cây đa cổ thụ, tốt tươi, được mọi người gọi là “Cây đa 27 tháng 7”.
Khu Di tích 27 tháng 7, xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ,
nơi công bố Ngày Thương binh – Liệt sỹ toàn quốc 27/7/1947
Sau khi sáng lập “Hội giúp binh sỹ bị nạn” do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch danh dự, Người phát động toàn dân tham gia hưởng ứng phong trào “Mùa đông binh sỹ”. Giữa bộn bề công việc lãnh đạo phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp lên Việt Bắc, tổ chức kháng chiến toàn dân, toàn diện suốt từ Bắc chí Nam… Bác Hồ cùng Trung ương vẫn có chủ trương, chính sách chăm lo đến thương binh, gia đình liệt sỹ. Chính phủ ban hành chế độ hưu bổng, thương tật và tiền tuất cho thân nhân tử sỹ, “ưu đãi các chiến sỹ bị thương và gia đình liệt sỹ”. Ngày 10/7/1947, cơ quan Thương binh và cựu binh, sau đổi là Bộ Thương binh được thành lập. Tháng 6 năm 1947, từ Phủ Chủ tịch đầu tiên ở “Thủ đô gió ngàn” tại đồi Khau Tý, ATK Định Hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị với Chính phủ chọn một ngày trong năm là “Ngày Thương binh”.
Ông Lê Thành Ân, Trưởng ban tổ chức Ngày Thương binh – Liệt sỹ 27-7-1947
Bác Lê Thành Ân, nguyên Phó Phòng Thương binh của Cục Chính trị nhớ lại: Sau khi Ban Vận động tổ chức Ngày Thương binh toàn quốc được thành lập vào khoảng 7 giờ tối một ngày đầu tháng 7 năm 1947, khoảng hai chục người trong Ban họp tại Phú Minh, xã Phú Thịnh (Đại Từ) do anh Lê Tất Đắc, Cục phó Cục Chính trị chủ trì, dự họp có anh Trần Huy Liệu (Tổng bộ Việt Minh), Hoàng Tuấn (Nha Thông tin), chị Nguyệt Tú (vợ anh Lê Quang Đạo) đại diện Trung ương Hội Phụ nữ cứu quốc, Trung ương Đoàn có anh Đào Duy Kỳ… Sau khi họp bàn, thống nhất chọn ngày 27/7/1947 báo cáo lên Trung ương và Bác Hồ, anh Lê Tất Đắc cao hứng sáng tác:
“Dù ai đi ngược về xuôi
Hai bảy, tháng bảy nhớ ngày Thương binh”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Ban Tổ chức “Ngày Thương binh toàn quốc”…“Đang khi Tổ Quốc lâm nguy, giang san, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp; cha mẹ, anh em, vợ con thân thích, họ hàng ta bị đe dọa; của cải ruộng nương, nhà cửa, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập; ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù, để giữ gìn đất nước cho chúng ta? Đó là những chiến sỹ mà nay một số thành ra thương binh.
Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ Quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ Quốc, của đồng bào, mà các đồng chí chịu ốm yếu…
Vì vậy, Tổ Quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy.
Trong lúc chống nạn đói kém, đồng bào ta đã từng mỗi tuần nhịn ăn một bữa, để giúp các đồng bào bị đói. Bây giờ chống giặc ngoại xâm, tôi chắc đồng bào ta sẽ vui lòng vài ba tháng nhịn ăn một bữa để giúp các chiến sỹ bị thương.
Ngày 27 tháng 7 là một dịp cho đồng bào ta tỏ lòng hiếu nghĩa bác ái, và tỏ lòng yêu mến thương binh.
…Luôn luôn tin vào lòng nhường cơm, sẻ áo của đồng bào ta, tôi chắc rằng “Ngày thương binh” sẽ có kết quả mỹ mãn.
Tôi xin xung phong gửi một chiếc áo lót lụa mà các em phụ nữ đã biếu tôi, một tháng lương của tôi, một bữa ăn của tôi và của các nhân viên tại Phủ Chủ tịch, cộng là một nghìn một trăm hai mươi bảy đồng (1.127đ)
Ngày 27 tháng 7 năm 1947
Hồ Chí Minh
Bác không chỉ khởi xướng, mà còn là vị Chủ tịch – công dân đầu tiên cùng các thành viên chính phủ “tỏ lòng hiếu nghĩa, bác ái, yêu mến” thương binh.
Cứ mỗi độ xuân về dân các làng xã Hùng Sơn lại tụ hội chơi cờ trên sân đất rộng cỡ 1500 m2 ở xóm Bàn Cờ, bên Cây đa cổ thụ. Khoảng sân đó nay vẫn còn rộng rãi, có ba đường từ ba hướng đến sân, bên cạnh là ao và đồng lúa, cách 80 – 150m các quả đồi thoai thoải xanh tốt rất tiện cho việc tập trung bảo vệ, giữ bí mật, lại dễ thoát ra các hướng khi có máy bay giặc Pháp bắn phá. Bên cạnh có nghè Ông, thời Tiến sỹ Đồng Doãn Giai (1736) và nghè Bà, thờ công chúa Mai Hoa. Do địa thế đẹp, xung quanh các quả đồi có đơn vị bộ đội và cơ quan Trung ương đóng nên được chọn là nơi mít tinh công bố Ngày Thương binh – Liệt sỹ toàn quốc.
Lễ mít tinh công bố Ngày Thương binh – Liệt sỹ
Hồi năm 1997, ông Lê Tất Đắc cựu Thứ trưởng Bộ Lao động Thương binh – Xã hội, người chủ trì buổi lễ kể lại: Vào 6 giờ tối bắt đầu mít tinh, có khoảng 300 người dự, tôi thay mặt Ban Tổ chức đọc thư Bác Hồ gửi nhân “Ngày Thương binh – Liệt sỹ toàn quốc”, có đại biểu thương binh, đồng chí Lê Tỵ phát biểu, rồi bà Bá Huy (tức Nguyễn Thị Đích) Bí thư Hội Phụ nữ cứu quốc xã Lục Ba, nơi có Trại An dưỡng đường số 1 thành lập tháng 6 năm 1947 dành cho thương binh, người hăng say vận động phụ nữ giúp đỡ bộ đội, thương binh nói lên tình cảm, trách nhiệm của phụ nữ và nhân dân đối với thương binh. Sau này bà Bá Huy được Bác Hồ gửi thư khen… Buổi mít tinh kết thúc trong tiếng hô “Hồ Chủ tịch muôn năm”, “Trường kỳ kháng chiến, nhất định thắng lợi”. Ngày Thương binh – Liệt sỹ 27/7/1947 trở thành ngày mà tất cả mọi người dân, cơ quan, đoàn thể trong cả nước bày tỏ tình cảm “Uống nước nhớ nguồn”, “ Đền ơn đáp nghĩa” với thương binh, gia đình liệt sỹ.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng từng “vào sống ra chết” qua các nhà tù đế quốc ở Hồng Kông, của chế độ Tưởng Giới Thạch ở Quảng Tây, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đều vượt qua với một phong thái lạc quan, ung dung tự tại. Nhưng Người bao lần không cầm được nước mắt khi mất Phùng Chí Kiên – Trưởng ban Quân sự của Trung ương, Chỉ huy Trưởng căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai, hy sinh ở Ngân Sơn (Bắc Kạn); đồng chí Hoàng Văn Thụ – Ủy viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng bị thực dân Pháp xử bắn năm 1944 ở Trường bắn Tương Mai; rồi Hoàng Văn Lộc, người bảo vệ, giúp việc Bác từ Xiêm (Thái Lan), đầu năm 1941 theo Bác về Pác Bó (Cao Bằng) mất tại Khuôn Tát (Định Hóa) 1948… Người đã biến nỗi đau thương, mất mát khơi dậy thành phong trào “đền ơn đáp nghĩa”, đẩy mạnh kháng chiến, kiến quốc mau tới thắng lợi.
Bác còn gửi thư cho các cháu thiếu nhi, nhi đồng tổ chức các “Đội Trần Quốc Toản” –“Từ 5 đến 10 cháu tổ chức thành một đội, giúp nhau học hành, khi học rảnh rang, cả đội đem nhau đi giúp đồng bào. Trước thì giúp các nhà chiến sỹ, các thương binh, lần lượt giúp các nhà ít người. Thí dụ: quét nhà, gánh nước, lấy củi, xay lúa, giữ em, dạy chữ quốc ngữ…”
Tháng 7 năm 1948, Bác gửi anh em thương binh và bệnh binh lời nhắn nhủ chí tình:“Các đồng chí sẽ trở nên người công dân kiểu mẫu ở hậu phương cũng như các đồng chí đã làm người chiến sỹ kiểu mẫu ngoài mặt trận”…
Vào tháng 7 năm 1953, Bác gửi thư cho Bộ trưởng Bộ Thương binh, cựu binh:
“…Nhân dịp “Ngày thương binh” tôi xin gửi một tháng lương của tôi và 50 cái khăn tay do đồng bào phụ nữ Thái biếu tôi, nhờ cụ chuyển cho anh em thương binh lời chào thân ái của tôi”.
Người tích cực tham gia, khen thưởng, tổ chức nhân rộng phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” lên tầm cao mới.
Ngày nay du khách đến thăm Khu Di tích “Cây đa 27 tháng 7” có hai, ba nhánh cây cổ thụ tỏa bóng mát rượi một cây đa nhỏ cỡ gần 2 người ôm cách đó 30m vẫn được dân chăm bón, gìn giữ. “Địa điểm công bố Ngày Thương binh – Liệt sỹ toàn quốc 27/7/1947” được xếp hạng Di tích lịch sử, văn hóa cấp quốc gia đúng dịp kỷ niệm 50 năm.
Nhà Lưu niệm mới xây dựng, hòa quyện, nghè Ông, nghè Bà. Tảng đá vân mây trắng hình trụ, bia di tích cao 3m, rộng 3m, nặng gần 7 tấn ghi: “Nơi đây, ngày 27/7/1947, ba trăm cán bộ, bộ đội và đại diện các tầng lớp nhân dân địa phương họp mặt nghe công bố bức thư Bác Hồ, ghi nhận sự ra đời Ngày Thương binh – Liệt sỹ ở nước ta”. Ngày Bác Hồ về thăm Hùng Sơn (02/3/1958), Người nhắc đến niềm tự hào của mảnh đất quê hương Ngày Thương binh – Liệt sỹ, phải chăm lo đời sống nhân dân, nhất là gia đình thương binh, liệt sỹ, gia đình có công với nước…
(Trích bài Nơi phát tích Ngày thương binh toàn quốc in trong cuốn Bút ký – Tư liệu ATK in dấu lịch sử của tác giả Đồng Khắc Thọ)
Theo http://www.thainguyen.gov.vn
Thu Hiền (st)
Tấm lòng Bác Hồ đối với thương binh, gia đình liệt sỹ
Luôn dành tình cảm, sự quan tâm sâu sắc đến những người con của các gia đình liệt sỹ, ngay từ tháng 11 năm 1946, giữa bộn bề công việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và Chính phủ cảm ơn những chiến sỹ đã hy sinh, “gửi lời chào thân ái cho gia đình các liệt sỹ”, “nhận con các liệt sỹ làm con nuôi”(1), đồng thời đề nghị Ban Hành chính các địa phương toàn quốc phải báo cáo về các trường hợp con liệt sỹ, và sau khi xác định đúng sự thật thì đóng dấu chứng nhận rồi gửi ngay về Văn phòng Chủ tịch ở Hà Nội.
Đối với những thương binh, bệnh binh, Người khẳng định: Lòng yêu nước, chí kiên quyết của các chiến sỹ thật là đáng quý! Họ “thật xứng đáng với Tổ quốc, và Tổ quốc sẽ không bao giờ quên những người con yêu quý như thế”… Tuy nhiên, Người cũng căn dặn, chớ nên công thần, ỷ lại và cũng tránh mặc cảm, tự ti để luôn cố gắng vươn lên “tàn mà không phế”. Trên tinh thần đó, Người biểu dương: Đồng chí Trần Chút (ở Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh), dù mất một tay, đã bốn lần liền được bầu làm Chiến sỹ nông nghiệp trong tỉnh, được cử đi dự Đại hội Anh hùng, Chiến sỹ thi đua toàn quốc. Đồng chí Nguyễn Văn Hơn (miền Nam), mất một tay, về sản xuất ở xã Liên Thành đã được bầu làm Chiến sỹ nông nghiệp tỉnh Nghệ An. Đồng chí Phạm Hữu Hoạt, mất một chân, là Chiến sỹ xuất sắc về ngành Chăn nuôi. Đồng chí Phạm Văn Tiêm, ở Nông trường quốc doanh Đông Hiếu, 12 lần được khen thưởng, được bầu làm Chiến sỹ thi đua toàn ngành, v.v. cùng nhiều chiến sỹ gương mẫu khác nữa. Quyết định chọn ngày 27 tháng 7 hàng năm là Ngày Thương binh – Liệt sỹ, “lòng Bác và Chính phủ cùng toàn thể quân đội và nhân dân” đã luôn ở bên cạnh, tiếp sức, chia sẻ với những đau thương mất mát của các thương binh, gia đình liệt sỹ. Người xung phong gửi một chiếc áo lót lụa,… một tháng lương… một bữa ăn của mình và các nhân viên tại Phủ Chủ tịch với tổng cộng là 1.127 đồng để giúp các chiến sỹ bị thương. Người động viên và hoan nghênh đồng bào tùy hoàn cảnh mà gửi thư, tặng quà hoặc quyên giúp quà tặng cho những thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sỹ. Không chỉ “nghiêng mình trước linh hồn các chiến sỹ và các đồng bào đã hy sinh vì Tổ quốc”, mong họ “chí quyết thắng ngày càng vững chắc”, Người còn nhiều lần tặng những món quà, như khăn mặt, áo quần mà đồng bào các nơi đã gửi biếu, hoặc gửi lương của Người, tặng Huy hiệu v.v… đến cho các thương binh, bệnh binh, đồng thời nhờ Bộ trưởng Bộ Thương binh, cựu binh chuyển lời thân ái của Người “an ủi những chiến sỹ và đồng bào hoặc bị thương”, chia sẻ, động viên gia đình thân nhân các liệt sỹ. Nhân ngày Ngày Thương binh – Liệt sỹ năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh trao cho Ban Tổ chức chiếc áo lụa mà chị em phụ nữ đã biếu Người để bán đấu giá gây quỹ giúp thương binh. Thể hiện lòng biết ơn đối với thương binh, nhiều tập thể và cá nhân muốn mua chiếc áo ấy. Cuối cùng, Liên hiệp Công đoàn Bắc Kạn đã mua được với giá cao nhất: 46.700 đồng Đông Dương. Trong khi đó, ở Nam Bộ, ông Cao Triều Phát cũng vận động bà con tín đồ đạo Cao Đài mua chiếc áo ấy với giá 100.000 đồng Đông Dương, nhưng do giao thông khó khăn cho nên bức điện của ông đến Ban Tổ chức quá muộn. Nhận được điện do Ban Tổ chức chuyển đến, Liên hiệp Công đoàn tỉnh Bắc Kạn quyết định gửi tặng chiếc áo này cho ông Cao Triều Phát và tín đồ đạo Cao Đài ở Nam Bộ. Sau khi nghe Ban Tổ chức Ngày Thương binh toàn quốc báo cáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư cho ông Cao Triều Phát. Cùng với bức thư, Người cũng gửi tặng ông tấm ảnh của mình làm kỷ niệm. Tấm ảnh này được in trên giấy ảnh cũ, trên đầu bức ảnh có dòng chữ viết tay mực tím “Tặng ông Cao Triều Phát. Đoàn kết – Kháng chiến – Thống nhất – Độc lập”. Phía dưới bức ảnh ở bên trái có ghi dòng chữ viết tay mực tím “10-47”, bên phải có chữ ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng mực tím ở trên dấu triện vuông của Người. Áo, thư và ảnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh được giao cho ông Bùi Thái Dương mang vào Nam Bộ trao trực tiếp cho ông Cao Triều Phát. Nhưng lúc đó ông Cao Triều Phát đang bận công tác, nên ông Thái Dương đành viết thư xin cáo lỗi và nhờ Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ chuyển tới ông và quý đạo hữu tín đồ thư và quà tặng của Người. Ông Cao Triều Phát đã giữ gìn chiếc áo, bức thư và tấm ảnh của Người rất trân trọng. Đó là những kỷ vật ông luôn mang theo bên mình như những báu vật trong suốt những năm kháng chiến. Khi tập kết ra Bắc, ông đem theo các kỷ vật đó và sau khi ông qua đời, gia đình đã trao những báu vật ấy cho Bảo tàng Cách mạng Việt Nam lưu giữ. Một lần khác, nhận được bốn chiếc chiếu của thương binh, bệnh binh Trại Dệt chiếu của tỉnh Tuyên Quang, Người rất vui lòng. Xúc động trước tình cảm của các thương binh, Người hỏi thăm cặn kẽ: Học dệt được chiếu cần bao nhiêu ngày tháng? Trung bình, dệt được một chiếc chiếu thường cần mấy giờ, và bao nhiêu vốn? Bán một chiếc được bao nhiêu lời? Với nghề dệt chiếu, có thể đủ ăn đủ mặc không? Sau đó, Người gửi biếu một chiếc áo do chị em phụ nữ tặng để làm “Giải thưởng thi đua trong Trại”. Suốt cuộc đời, Bác Hồ luôn luôn hết lòng yêu thương con người, đặc biệt là đối với những người đã dâng hiến một phần cuộc đời mình cho Tổ quốc và nhân dân. Bác đã gửi Bộ trưởng Bộ Thương binh, cựu binh “30.600 đồng do một kiều bào ở Trung Quốc gửi tặng và một tháng lương là 45.000 đồng để cụ làm quà cho anh em”, v.v. Đêm giao thừa năm 1956, Người đến thăm Trường Thương binh hỏng mắt Hà Nội, hỏi thăm tình hình sức khỏe, cuộc sống, công việc của các thương binh và căn dặn: “Các chú tàn mà không phế”. Sự khuyến khích, lời động viên của Người đã trở thành khẩu hiệu sống, lao động và học tập của bao thế hệ thương binh, bệnh binh. Trước lúc đi xa, trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta (bản thảo viết năm 1968), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành những dòng tâm huyết để căn dặn chúng ta những vấn đề liên quan đến việc quan tâm, chăm sóc những thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, và chính sách đối với những người có công với cách mạng: “Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sỹ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong…), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”. Đối với các liệt sỹ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sỹ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta. Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sỹ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng Hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”.
Cùng với thời gian, những chủ trương, chính sách cụ thể, những phong trào như: Đền ơn đáp nghĩa, Đi tìm đồng đội, Phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, chính sách đối với những người có công, v.v. của Đảng và Nhà nước, của toàn dân ta ngày càng sôi nổi và phong phú. Trong những năm từ 1997 đến 2003, từ 2005 đến 2008 trong phạm vi cả nước, chúng ta đã trao tặng 231.373 nhà tình nghĩa và 628.927 sổ tiết kiệm tình nghĩa cho các gia đình chính sách, giúp đỡ các gia đình chính sách phát triển sản xuất, giải quyết nhà ở, học hành, dạy nghề, tạo việc làm, chữa bệnh, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa tinh thần. Đồng thời với việc đẩy nhanh tiến độ, hiệu quả giải quyết những chính sách, chế độ sau chiến tranh, Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền đã tăng cường chỉ đạo, phối hợp chặt chẽ từ Trung ương xuống địa phương với lực lượng vũ trang và nhân dân để tổ chức tìm kiếm, quy tập mộ liệt sỹ, tu sửa, nâng cấp, quản lý tốt các Nghĩa trang, Đài tưởng niệm, Bia ghi tên liệt sỹ, v.v… Làm tốt những điều đó, chúng ta không chỉ tri ân những người đã khuất, cổ vũ động viên người còn sống, thấm sâu đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, mà còn góp phần xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ, tạo động lực thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Cùng nhau ôn lại tình cảm, sự quan tâm đặc biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh với các thương binh, bệnh binh, các gia đình liệt sỹ, cũng là một cách thiết thực để chúng ta thắp nén tâm nhang trước anh linh các liệt sỹ, đồng thời góp phần làm cho tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh tỏa sáng trong thực tiễn.
TS Văn Thị Thanh Mai
Theo baomoi.com
Kim Yến (st)
bqllang.gov.vn
Hồ Chí Minh về thực hiện chính sách thương binh, liệt sĩ
Sau Cách mạng tháng 8-1945, Nhà nước Việt Nam non trẻ gặp rất nhiều khó khăn, thử thách, cùng lúc phải đối mặt với giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Trong bối cảnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đề ra và lãnh đạo thực hiện đúng đắn chính sách đối với những người đã hy sinh xương máu vì Tổ quốc. Ngày 7-1-1947, trong thư gửi Bác sĩ Vũ Đình Tụng, khi đó là Giám đốc Y tế Bắc bộ, Người viết: “Tôi biết rằng con trai Bác sĩ đã anh dũng hy sinh vì Tổ quốc. Bác sĩ biết đấy, tôi không có gia đình và không có con, nhưng gia đình của tôi là Việt Nam, con cái tôi là thanh niên Việt Nam, mỗi khi một thanh niên hy sinh thì tôi thấy mình như mất đi một phần cơ thể”(1). Trong thư gửi các chiến sĩ bị thương trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, Bác nhấn mạnh: “Các chiến sĩ đã hy sinh máu mủ để gìn giữ đất nước… Các chiến sĩ thật xứng đáng với Tổ quốc và Tổ quốc không bao giờ quên những người con như thế”(2). Người coi việc chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ không là nhiệm vụ của riêng ai, mà là trách nhiệm và nghĩa vụ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.
Để toàn dân ta quan tâm thường xuyên hơn nữa đối với thương binh, thân nhân liệt sĩ, tháng 6 năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị chọn một ngày trong năm làm ngày thương binh, liệt sĩ. Thực hiện chỉ thị đó, Hội nghị về vấn đề này gồm đại biểu các cơ quan, các ngành ở Trung ương, khối và tỉnh họp ở Phú Minh (Đại Từ, Thái Nguyên) bàn và nhất trí đề nghị lấy ngày 27-7-1947 làm ngày thương binh, liệt sĩ. Từ đó, ngày 27-7 hằng năm là ngày toàn dân ta tưởng nhớ đến các liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng.
Không chỉ dành sự quan tâm đặc biệt tới thương, bệnh binh, Người còn luôn biểu dương, nêu gương những người có công cứu chữa thương, bệnh binh. Trong thư gửi bà Bá Huy, Bác viết: “Tôi nhận được báo cáo bà đã hăng hái giúp đất ruộng, trâu bò, thóc lúa và tiền bạc để lập một trại an dưỡng cho thương binh… Như thế là bà đã làm kiểu mẫu cho đồng bào thực hành cái khẩu hiệu: Có tiền giúp tiền, có sức giúp sức, đồng tâm hiệp lực, kháng chiến thành công”(3). Với lời lẽ mộc mạc, giản dị, Hồ Chí Minh đã động viên kịp thời những người có công giúp đỡ thương, bệnh binh, Người đã khéo nêu gương bà Bá Huy cho toàn dân học tập. Người mong muốn có nhiều bà Bá Huy hơn nữa để bù đắp cho những người đã vì Tổ quốc mà mất đi một phần xương máu của mình.
Hồ Chí Minh chỉ rõ trách nhiệm của chúng ta đối với thương, bệnh binh: “Đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp, cha mẹ, anh em, vợ con, thân thích, họ hàng ta bị đe dọa. Của cải, ruộng nương, nhà cửa, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập. Ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù, để giữ gìn đất nước cho chúng ta. Đó là những chiến sĩ mà nay một số thành ra thương binh. Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào mà các đồng chí ốm yếu què quặt. Vì vậy, Tổ quốc, đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”(4).
Vào năm 1950, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân ta liên tiếp giành thắng lợi lớn trên các mặt trận. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư thăm hỏi, động viên các chiến sĩ bị thương trong các trận đánh. Trong thư gửi những chiến sĩ thương binh khi tham gia giải phóng Đông Khê(5), Người viết: “Các chú đã chiến đấu anh dũng và đã giết được nhiều giặc, đã có công trong việc giải phóng Đông Khê. Chính phủ đồng bào đều nhớ ơn các chú. Tôi gửi lời khen ngợi các chú và chúc các chú mau lành bệnh để trở lại hàng ngũ tiếp tục chiến đấu giết giặc”(6).
Trên mỗi chặng đường cách mạng, kháng chiến, Bác luôn quan tâm đến những thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng, từ đó đề ra chủ trương, chính sách ưu đãi để bù đắp những mất mát đối với họ và Người luôn làm gương thực hiện cho mọi người noi theo.
Ngày 27-7-1953, trong thư gửi Bộ Thương binh Cựu binh, Người viết: “Tôi xin gửi một tháng lương và 50 cái khăn tay do đồng bào phụ nữ Thái biếu tôi, nhờ Cụ(7) chuyển cho anh em thương binh với lời chào thân ái của tôi”. Bức thư này của Bác đã đăng liên tục trên báo Nhân Dân từ ngày 26 đến 30-7-1953. Việc gửi vật chất để biếu thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ là việc làm thường xuyên của Bác, chứa đựng trong đó những tình cảm và ý nghĩa sâu xa.
Ngày 7-5-1954, quân và dân ta đại thắng ở Điện Biên Phủ, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ công nhận độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Việt Nam – Lào – Căm-pu-chia. Nhân thắng lợi to lớn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư nhắn nhủ đồng bào: “Thương binh, bệnh binh, gia đình quân nhân và gia đình liệt sĩ là những người có công với Tổ quốc, với nhân dân. Cho nên bổn phận của chúng ta là phải biết ơn, phải thương yêu giúp đỡ họ”(8). Đối với thiếu niên, nhi đồng – những chủ nhân tương lai của đất nước, để giáo dục các cháu luôn chăm lo cho các thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng, Người căn dặn: “Các cháu phải: thi đua học tập, thi đua sản xuất, thi đua giúp đỡ các gia đình thương binh, tử sĩ”(9).
Năm 1969, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước diễn ra rất quyết liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩnh biệt chúng ta. Trước lúc đi xa, để thực hiện chính sách đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ tốt hơn nữa, Bác căn dặn: “Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong…), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách cho họ có nơi ăn, chốn ở, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ dần dần “tự lực cánh sinh”. Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta. Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ đói rét”(10). Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là lời căn dặn, là ý nguyện của Người, mà còn là nguyện ước của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.
Thấm nhuần và quán triệt sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta, bất luận hoàn cảnh nào, cũng luôn xác định chính sách đối với thương binh, liệt sĩ và người có công với Tổ quốc là một trong những chính sách lớn, có vị trí quan trọng trong chiến lược con người. Đặt con người ở vị trí trung tâm, coi con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển, chính sách của Đảng ta đối với con người, đặc biệt là những người đã chịu nhiều hy sinh mất mát, có nhiều cống hiến cho cách mạng, không những có ý nghĩa to lớn đối với bản thân các đối tượng chính sách, mà còn tác động sâu sắc đến tình cảm, tư tưởng, ý thức chính trị của mọi tầng lớp nhân dân. Đảng, Nhà nước ta đã tập trung khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh, từng bước đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách thương binh, liệt sĩ cho phù hợp với tiến trình đổi mới của đất nước và chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, đặc biệt là từng bước luật pháp hóa các chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng trong đó tiêu biểu là Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng; Pháp lệnh tuyên dương Bà mẹ Việt Nam Anh hùng; chủ trương về xây cất mộ – nghĩa trang liệt sĩ v.v… Các chủ trương chính sách đó đã và đang đi vào cuộc sống, được toàn xã hội đón nhận và đồng tình ủng hộ; vừa góp phần nâng cao đời sống vật chất tinh thần các đối tượng chính sách, vừa góp phần ổn định và phát triển đất nước, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, với chế độ XHCN.
Hiện nay, công cuộc đổi mới toàn diện dưới sự lãnh đạo của Đảng đang đạt được những thành tựu to lớn. Để tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, phấn đấu đạt và vượt chỉ tiêu đề ra trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2020 mà Đại hội X của Đảng đã xác định, chúng ta phải phát huy mọi tiềm năng, nguồn lực để đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH đất nước, thực hiện tốt hơn nữa chính sách thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng; tiếp tục quán triệt và vận dụng một cách sáng tạo Tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng hệ thống chính sách đối với thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng. Để làm được điều đó chúng ta phải:
Đẩy mạnh xã hội hóa công tác thương binh, liệt sĩ và chăm sóc người có công. Tiếp tục giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tình cảm và tính tự giác hành động của quần chúng, đưa phong trào toàn dân chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng đi vào chiều sâu; chủ động, sáng tạo, tổng kết thực tiễn để xây dựng các mô hình phù hợp với điều kiện thực tế và cơ chế kinh tế mới. Thông qua việc làm tình nghĩa mà giáo dục, bồi dưỡng lòng yêu nước, yêu chế độ, tình cảm cách mạng trong sáng cho mọi người, nhất là thế hệ trẻ.
Gắn công tác thương binh, liệt sĩ và chăm sóc người có công với cách mạng với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, chiến lược quốc phòng – an ninh của đất nước. Đi đôi với việc nâng cao vai trò điều tiết vĩ mô của Nhà nước, thúc đẩy và nâng cao hiệu quả việc chăm lo thực hiện các chính sách, chế độ đã ban hành, cần giáo dục, động viên các đối tượng hưởng chính sách nêu cao tinh thần gương mẫu, nỗ lực vươn lên, tiếp tục khẳng định bản chất cách mạng tốt đẹp của mình và góp sức xây dựng đất nước. Đồng thời phải tạo mọi điều kiện thuận lợi cho họ tham gia các chương trình phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương (vay vốn giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo; xây dựng nền văn hóa mới, con người mới…) hình thành hệ thống biện pháp tổng hợp, đồng bộ để tạo nên hiệu quả toàn diện cả về kinh tế và chính trị-xã hội, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với chăm sóc và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công, tạo thành nền tảng chính trị-xã hội vững chắc của sự nghiệp đổi mới và bảo vệ Tổ quốc. Thường xuyên nắm chắc tình hình tổ chức thực hiện ở các địa phương, có kế hoạch chỉ đạo để bảo đảm mọi đối tượng có công sớm được hưởng các chế độ theo quy định. Chủ động và kiên quyết xử lý những trường hợp làm sai chính sách, chế độ và những yếu kém, khuyết điểm trong tổ chức thực hiện.
Đẩy mạnh tiến độ, hiệu quả giải quyết các tồn đọng chính sách sau chiến tranh. Tăng cường phối hợp, liên kết các đoàn thể, ban ngành trung ương và địa phương, các lực lượng vũ trang và nhân dân để tổ chức tìm kiếm, khảo sát, quy tập mộ liệt sĩ. Đây là một vấn đề có ý nghĩa chính trị-xã hội và nhân văn to lớn. Ngoài ra, việc tiếp tục tu sửa, nâng cấp, quản lý tốt các nghĩa trang, đài tưởng niệm, bia ghi tên liệt sĩ, coi đó thực sự là những công trình văn hóa, lịch sử, nghệ thuật, là bổn phận của thế hệ hôm nay và mai sau.
——-
(1) Hồ Chí Minh – chân dung một con người, lưu Bảo tàng Hồ Chí Minh. (2) Lời Chủ tịch Hồ Chí Minh, lưu Trung tâm lưu trữ quốc gia I. (3) Sách Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin thư viện Việt Nam, H.1949, tập II, tr.13. (4) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, NXBCTQG, H.2000, tr.175. (5) Trận Đông Khê là trận đánh mở đầu trong chiến dịch Biên giới năm 1950. (6) Báo Cứu quốc, số 1675, ngày 25-10-1950. (7) Tức Bộ trưởng Bộ Thương binh, Cựu binh lúc bấy giờ. (8) Báo Nhân Dân, số 875, ngày 27-7-1956. (9) Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, H.2000, tập 6, tr.221. (10) Sđd, tập 12, tr.503.
LÊ VĂN PHONG
Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam
Những bài nói, bài viết của Bác Hồ dành cho thương binh, liệt sỹ

Bác Hồ thăm các thương binh nặng ở trại điều dưỡng Bắc Ninh. Ảnh Internet
Trong cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho đất nước của nhân dân ta có biết bao nhiêu chiến sỹ cộng sản, quần chúng cách mạng, yêu nước đã ngã xuống hy sinh nơi chiến trường khốc liệt để xây nên giang sơn gấm vóc hôm nay, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Máu đào của các liệt sĩ ấy đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói. Sự hy sinh anh dũng của liệt sỹ đã làm cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do”. Chiến tranh kết thúc, trong số những người con trở về từ trận tuyến cũng có không ít người đã để lại một phần máu thịt của mình, các anh trở về với những thương tật trên cơ thể vì lý tưởng cách mạng cao đẹp.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến thương binh, liệt sỹ là những người đã cống hiến xương máu, hy sinh tính mạng để bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân. Dù bận trăm công nghìn việc nhưng Bác vẫn luôn dành thời gian để quan tâm, thăm hỏi, động viên các đồng chí thương binh, liệt sỹ cùng gia đình họ. Những tình cảm thiêng liêng Bác dành cho thương binh, liệt sỹ được thể hiện trong các bài nói, bài viết của Bác dưới đây:
1. Trong thư gửi Ban Thường trực của Ban Tổ chức “Ngày Thương binh toàn quốc” ngày 27-7-1947, Bác viết:
“Đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang san, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp; cha mẹ, anh em, vợ con, thân thích, họ hàng ta bị đe đọa; của cải, ruộng nương, nhà cửa, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập; ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù, để giữ gìn đất nước cho chúng ta? Đó là những chiến sỹ mà nay một số thành ra thương binh.
Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào, vì lợi ích của Tổ quốc, lợi ích của đồng bào mà các đồng chí đó bị ốm yếu.
Vì vậy, Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người anh hùng ấy.
Trong lúc chống nạn đói kém, đồng bào ta đã từng mỗi tuần nhịn ăn một bữa, để giúp các đồng bào bị đói. Bây giờ chống nạn ngoại xâm, tôi chắc đồng bào ta sẽ vui lòng vài ba tháng nhịn ăn một bữa để giúp các chiến sỹ bị thương.
Ngày 27-7 là một dịp cho đồng bào ta tỏ lòng hiếu nghĩa bác ái và tỏ lòng yêu mến thương binh.
… Luôn luôn tin vào lòng nhường cơm sẻ áo của đồng bào, tôi chắc rằng “Ngày thương binh” sẽ có kết quả mỹ mãn.
Tôi xin xung phong gửi một chiếc áo lót lụa mà chị em phụ nữ đã biếu tôi, một tháng lương của tôi, một bữa ăn của tôi và của các nhân viên tại Phủ Chủ tịch, cộng là một nghìn một trăm hai mươi bảy đồng (1.127,00)”.
2. Trong thư gửi anh em thương binh và bệnh binh tháng 7-1948, Bác viết:
“Các đồng chí đã hy sinh một phần xương máu vì Tổ quốc, chẳng may bị thương, bị bệnh trước khi quân thù hoàn toàn bị tiêu diệt, kháng chiến được hoàn toàn thành công.
Chắc các đồng chí không khỏi phân vân. Nhưng các đồng chí nên một mặt nuôi lại sức khỏe, một mặt cố gắng học tập. Khi đã khôi phục sức khỏe, các đồng chí sẽ hăng hái tham gia công tác tăng gia sản xuất, để giúp ích cho Tổ quốc, cũng như các đồng chí đã anh dũng giữ gìn non sông, các đồng chí sẽ trở nên những người chiến sĩ kiểu mẫu ở hậu phương cũng như các đồng chí đã làm người chiến sĩ kiểu mẫu ở ngoài mặt trận. Tôi cùng đồng bào luôn nhớ đến các đồng chí”.
3. Trong thư gửi cho đồng bào chiến sỹ Nam Bộ, Nam Trung Bộ ngày 23- 9- 1949, Người viết:
“Hôm nay, cuộc kháng chiến oanh liệt ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ vừa đúng hai năm. Tôi trân trọng thay mặt Chính phủ, và nhân dân toàn quốc nghiêng mình trước linh hồn các chiến sỹ và đồng bào đã hy sinh vì Tổ quốc. Tôi gửi lời an ủi tới những chiến sỹ và đồng bào bị thương, bị địch giam cầm hoặc đang bị khổ sở nơi địch chiếm đóng…”
4. Trong thư gửi cụ Vũ Đình Tụng – Bộ trưởng Bộ Thương binh về phát động phong trào đón thương binh về làng tháng 7-1951, Người cũng nhắc lại:
“Anh em thương binh đã hy sinh một phần xương máu để giữ gìn Tổ quốc, bảo vệ đồng bào, đã tận trung với nước, tận hiếu với dân. Anh em đã làm tròn nhiệm vụ, anh em không đòi hỏi gì cả.
… Song đối với những người con trung hiếu ấy. Chính phủ và đồng bào phải báo đáp thế nào cho xứng đáng?
… Mỗi xã phải tùy theo sự cố gắng và khả năng chung mà đón một số anh em thương binh. Giúp lâu dài chứ không phải chỉ giúp một thời gian…
… Như thế thì đồng bào mỗi xã được thỏa mãn lòng ao ước báo đáp anh em thương binh, mà anh em thương binh thì được yên ổn về vật chất và vui vẻ về tinh thần và có dịp tham gia hoạt động có ích cho xã hội”.
5. Trong thư gửi phụ nữ nhân ngày 8-3-1952, Bác viết:
“… Tôi kính cẩn nghiêng mình trước linh hồn các nữ liệt sỹ đã hy sinh cho Tổ quốc …
… Tôi kính chào các bà mẹ có con trong bộ đội và các bà mẹ, cùng vợ con của liệt sỹ.
… Các bà mẹ chiến sỹ và các chị em đã giúp thương binh, đã hòa lẫn lòng yêu thương không bờ bến, mà giúp chiến sỹ và chăm sóc thương binh như con em ruột thịt của mình”.
6. Trong thư gửi cụ Vũ Đình Tụng – Bộ trưởng Bộ Thương binh – Cựu binh ngày 27-7-1952, Người nhắc nhở:
“Phải coi việc giúp đỡ thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ là nghĩa vụ chứ không phải là việc làm phúc…
… Về phần anh em thương binh, bệnh binh:
– Phải hòa mình với nhân dân, tôn trọng nhân dân, tránh phiền nhiễu nhân dân.
– Phải tránh tâm lý “công thần”, coi thường lao động, coi thường kỷ luật.
– Chớ bi quan, chán nản, phải luôn luôn cố gắng. Ngày nay anh em sẽ tùy điều kiện mà xung phong tăng gia sản xuất …
– Đồng bào sẵn sàng giúp đỡ, anh em có quyết tâm thì anh em nhất định dần dần tự túc được”.
7. Diễn từ trong buổi lễ đặt vòng hoa ở Đài Liệt sĩ ở Ba Đình – Hà Nội ngày 31-12-1954:
“… Các liệt sỹ hy sinh, nhưng công trạng to lớn của các liệt sỹ đã ghi sâu vào lòng toàn dân và non sông đất nước.
Các liệt sỹ đã hy sinh, nhưng chí khí dũng cảm của các liệt sỹ thấm nhuần vào tâm hồn của toàn quân và dân ta trong cuộc đấu tranh đặng giành hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ trong nước.
Máu nóng của các liệt sỹ đã nhuộm lá Quốc kỳ vẻ vang càng thêm thắm đỏ.
Tiếng thơm của các liệt sỹ muôn đời lưu truyền sử xanh.
Một nén hương thanh.
Vài lời an ủi.
Anh linh của các liệt sỹ bất diệt!
Tổ quốc Việt Nam vĩ đại muôn năm”.
8. Trong buổi đón giao thừa ở Trường Thương binh hỏng mắt Hà Nội năm 1956, Bác nói:
“Các chú tàn nhưng không phế”.
9. Trong thư gửi cụ Vũ Đình Tụng – Bộ trưởng Bộ Thương binh ngày 27-7-1956, Bác Hồ viết:
“… Thương binh, bệnh binh, gia đình quân nhân và gia đình liệt sỹ là những người có công với Tổ quốc, với nhân dân. Cho nên bổn phận chúng ta là phải biết ơn, phải thương yêu và giúp đỡ họ”.

Bác Hồ viếng Đài tưởng niệm các Anh hùng liệt sỹ tại Quảng trường Ba Đình – Hà Nội. Ảnh Internet
10. Trong thư gửi anh em thương binh, bệnh binh Trại an dưỡng Hà Nam tháng 6-1957, Bác viết:
“… Các chú là những chiến sỹ đã được quân đội nhân dân rèn luyện về đạo đức và kỷ luật cách mạng, là những người con đã hy sinh một phần xương máu để bảo vệ nước nhà. Vậy các chú cần phải giữ vững truyền thống tốt đẹp và vẻ vang của quân đội cách mạng là: Giữ gìn kỷ luật, đoàn kết chặt chẽ, thật sự đoàn kết, thương yêu giữa anh em thương bệnh binh với nhau, giữa thương, bệnh binh với cán bộ và nhân dân giúp việc ở Trại, giữa thương, bệnh binh trong Trại với đồng bào chung quanh”.
11. Trong thư gửi anh em thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sỹ ngày 27-7-1959, Bác Hồ cũng đã căn dặn:
“… Trong năm qua, các gia đình liệt sỹ và anh em thương binh, bệnh binh đã đóng góp khá nhiều vào công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Nhiều gia đình liệt sỹ đã hăng hái tham gia Tổ đổi công và Hợp tác xã nông nghiệp và đã đạt được thành tích khá trong việc sản xuất và tiết kiệm. Tôi chúc các gia đình ấy trở thành những gia đình cách mạng gương mẫu …”.
12. Trong diễn văn đọc tại lễ kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng (ngày 5-1-1960), đoạn nói về thương binh liệt sỹ, Bác Hồ đã nói như sau:
“… Ăn quả phải nhớ người trồng cây. Trong cuộc tưng bừng vui vẻ hôm nay, chúng ta phải nhớ đến những anh hùng, liệt sỹ của Đảng ta, của dân ta …
… Máu đào của các liệt sỹ đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói. Sự hy sinh anh dũng của các liệt sỹ đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do. Nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn các liệt sỹ và chúng ta phải luôn luôn học tập tinh thần dũng cảm của các liệt sỹ để vượt tất cả khó khăn, gian khổ, hoàn thành sự nghiệp cách mạng mà các liệt sỹ chuyển lại cho chúng ta…”.
13. Trong Di chúc thiêng liêng của Người, Bác Hồ của chúng ta đã căn dặn biết bao điều hệ trọng về công tác Lao động – Thương binh và Xã hội:
“Đầu tiên là công việc đối với con người. Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sỹ, dân quân, du kích, than niên xung phong …), Đảng, Chính phủ và đồng bào ta phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”.
Đối với các liệt sỹ, thì mỗi địa phương (thành phố, làng, xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta.
Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh, liệt sỹ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền cùng Hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công ăn việc làm thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”.
(Bản viết tháng 5-1968, Bộ Chính trị khóa VI công bố ngày 19-8-1989).
Đã 64 năm trôi qua kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị chọn “Ngày thương binh”, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vẫn đang nỗ lực thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh, gắng sức đền ơn, đáp nghĩa những người có công với nước. Các chủ trương, chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước về chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ, người có công đã phát huy cao độ truyền thống “uống nước nhớ nguồn” – truyền thống tốt đẹp đã có từ hàng ngàn năm nay của dân tộc Việt Nam, tiếp thêm ngọn lửa của tình đoàn kết và lòng yêu nước trong các thế hệ con Lạc cháu Hồng. Những câu nói, bài viết của Bác đã và sẽ mãi mãi là phương châm hành động, lẽ sống của thương binh, gia đình liệt sỹ, định hướng cho các hoạt động “đền ơn đáp nghĩa” của nhân dân ta./.
Thu Hiền (tổng hợp)
Bạn phải đăng nhập để bình luận.