Tag Archive | Tư tưởng Hồ Chí Minh

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân – Bài 2

Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị cha già của lực lượng vũ trang nhân dân luôn chăm lo đến sự trưởng thành, vững mạnh của Quân đội nhân dân. Với đường lối chính trị đúng đắn, sự mềm dẻo, linh hoạt trong chỉ đạo, Người đã thực hiện thành công việc tập hợp toàn dân vào các hình thức mặt trận, phát huy đến cao độ khả năng của dân trong cuộc kháng chiến toàn dân toàn diện, trường kỳ để rồi bằng chính sức mạnh của mình giành thắng lợi.Tư tưởng quốc phòng toàn dân của Hồ Chí Minh được biểu hiện trước tiên bằng việc phát động một cuộc chiến tranh nhân dân, dùng sức mạnh của toàn dân để đánh thắng kẻ thù.

Kế thừa truyền thống “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” của dân tộc, vận dụng quan điểm “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Dân là chủ, kháng chiến kiến quốc là sự nghiệp của dân; có dân là có tất cả; khởi nghĩa toàn dân để giành lại nền độc lập cho dân tộc, kháng chiến toàn dân để giữ vững nền độc lập ấy. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp, Hồ Chí Minh viết: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp để cứu nước”.

Trong quá trình kháng chiến, Người đã nhiều lần khẳng định: 20 triệu đồng bào Việt Nam quyết đánh tan mấy vạn quân thực dân phản động. Bước vào cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Người kêu gọi toàn dân với tinh thần: mỗi làng xóm là một pháo đài, mỗi người dân là một chiến sĩ, quyết tâm “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”.

Từ khi Đảng ta ra đời vào ngày 3-2-1930, dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh, Đảng đã chú ý xây dựng các hình thức mặt trận. Đây chính là tổ chức nhằm tập hợp đông đảo, rộng rãi các tầng lớp nhân dân, là cơ sở để xây dựng một đội quân chính trị rộng khắp.

Trong xây dựng lực lượng vũ trang, Hồ Chí Minh chú ý đến việc giáo dục tư tưởng chính trị và nhiệm vụ chính trị cho họ. Đội quân chủ lực đầu tiên của cách mạng là Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Ở Hồ Chí Minh, giữa chính trị và quân sự có mối quan hệ mật thiết. Dùng chính trị để phục vụ cho quân sự, dùng quân sự để xây dựng chính trị và kết hợp chính trị với quân sự để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc bằng tinh thần và sức mạnh của toàn dân.

Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: xây dựng lực lượng quân sự bao gồm ba thứ quân, kết hợp xây dựng lực lượng chính trị rộng khắp và chặt chẽ giữa đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, sử dụng linh hoạt các phương pháp tiến công.

Trong hai cuộc kháng chiến, Tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện rất rõ trong kết hợp giữa kháng chiến và kiến quốc, giữa mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Ở kháng chiến chống thực dân Pháp, Người chủ trương “vừa kháng chiến vừa kiến quốc”, khẩn trương xây dựng chính quyền và Mặt trận Liên Việt, kêu gọi toàn dân thi đua ái quốc “chống giặc đói, chống giặc dốt, chống giặc ngoại xâm”, “hậu phương thi đua với tiền phương”, “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, thi đua thực hành cần, kiệm, liêm, chính, thi hành đúng chính sách của Đảng và Chính phủ, thực hiện các chính sách bồi dưỡng sức dân để kháng chiến lâu dài.

Trong kháng chiến chống Mỹ, Người chủ trương xây dựng miền Bắc làm hậu phương vững chắc cho tiền tuyến miền Nam và là cơ sở vững chắc cho công cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Người đã động viên quân và dân miền Bắc ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện cả nước có chiến tranh, phát triển kinh tế, văn hóa, xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, đánh bại chiến tranh phá hoại của địch và chi viện cho miền Nam, với tinh thần “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”.

Tiếp nối Tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân, hiện nay, Đảng ta rất coi trọng việc giáo dục ý thức quốc phòng cho các tầng lớp nhân dân, kêu gọi nhân dân đề cao cảnh giác, chống các âm mưu và thủ đoạn của địch. Cùng với chiến lược phát triển kinh tế, Đảng ta đề ra chiến lược về quốc phòng và an ninh quốc gia; kết hợp kinh tế với quốc phòng; kết hợp giữa xây dựng lực lượng vũ trang chính quy với các lực lượng tự vệ ở các địa phương, tạo nên thế trận quốc phòng toàn dân nhằm xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Để động viên, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vào xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh trong thời kỳ mới, ngày 17-10-1989, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị tổ chức ngày Hội “Quốc phòng toàn dân” trong phạm vi cả nước, nhân dịp kỷ niệm 45 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam. Thực hiện chủ trương đó, hơn 20 năm qua, các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương đã thường xuyên chăm lo củng cố, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh; nâng cao nhận thức và phát huy trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn dân trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân trên từng địa bàn, nhất là xây dựng thế trận lòng dân vững chắc, góp phần quan trọng vào việc ổn định chính trị, tạo môi trường thuận lợi để phát triển đất nước.

Trong những năm tới, chúng ta đang đứng trước những thuận lợi to lớn để phát triển toàn diện đất nước. Song, chúng ta cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới có vị trí hết sức quan trọng, với những yêu cầu và nội dung rất toàn diện; đòi hỏi chúng ta phải phát huy tốt sức mạnh tổng hợp của toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý, điều hành của Nhà nước.

Văn kiện Đại hội XI của Đảng nhận định: Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh cả về tiềm lực và thế trận; xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh; xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trong thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc.

Có thể nói, “dựng nước phải đi đôi với giữ nước”, xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn chặt với bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thấm nhuần tư tưởng đó, chúng ta phải tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối quốc phòng toàn dân của Đảng; phát huy sức mạnh tổng hợp của các cấp, các ngành, các đoàn thể, của cả hệ thống chính trị và của toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng; đẩy mạnh thực hiện “Ngày hội Quốc phòng toàn dân” lên tầm cao mới, trong đó Quân đội là lực lượng nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, làm cho sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc thực sự là sự nghiệp của toàn dân, toàn quân ta.

Nguyễn Thanh Hoàng
xaydungdang.org.vn

————————-

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân – Bài 1

Advertisement

Tự phê bình và phê bình thật sâu sắc, cụ thể

Vừa qua, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tiến hành kiểm điểm tự phê bình, phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng Đảng. Tinh thần gương mẫu, nghiêm túc, kỹ lưỡng trong quá trình chuẩn bị và tổ chức kiểm điểm tập thể và cá nhân các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, được dư luận hoan nghênh. Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã xác định rõ những việc cần làm tiếp sau khi kiểm điểm, trong đó đáng chú ý là, tháng 9 năm 2012, Bộ Chính trị, Ban Bí thư sẽ họp lại để thông qua Báo cáo kiểm điểm tự phê bình và phê bình của tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư; Bản tiếp thu giải trình, đánh giá chính thức về kết quả kiểm điểm và xem xét kỷ luật (có hay không, đến mức nào đối với tập thể và cá nhân) để báo cáo với Trung ương.

tu phe binhHội nghị cán bộ toàn quốc hướng dẫn việc tiến hành kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về xây dựng Đảng.

Trong tháng 9, các Đảng bộ cấp tỉnh và tương đương sẽ tiến hành kiểm điểm tự phê bình và phê bình. Quá trình chuẩn bị ở các nơi nổi lên một vấn đề nổi bật là, ý kiến đóng góp của các tổ chức Đảng, của các đồng chí nguyên là cán bộ lãnh đạo đều đề nghị phải hết sức rõ ràng, thẳng thắn, liên hệ một cách cụ thể, sâu sắc vào từng nội dung, từng giải pháp, tránh tình trạng phê bình, góp ý chung chung.

Một điểm chung chung thường thấy là khi phê bình, góp ý, nhiều đồng chí thường nói công tác xây dựng Đảng còn có nhiều mặt hạn chế, thiếu sót; công tác chính trị tư tưởng chưa được quan tâm. Nhưng nội dung của những công tác đó là gì thì hiểu không đầy đủ và không dẫn chứng được những việc cụ thể, nguyên nhân do đâu. Nói xây dựng Đảng là nói tới xây dựng tổ chức và xây dựng con người. Vậy thì khi liên hệ tình hình đảng bộ phải có những ý kiến cụ thể, đối chiếu với Điều lệ Đảng, với Nghị quyết để kiểm điểm. Xây dựng tổ chức chưa được quan tâm đúng mức, cụ thể là gì? Chẳng hạn không chăm lo kiện toàn các chi bộ; năng lực cấp ủy còn hạn chế, còn vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ; nhiều năm không phát triển đảng viên, nhiều tháng không sinh hoạt chi bộ… Nguyên nhân khách quan, chủ quan, trách nhiệm thuộc về ai, biện pháp khắc phục như thế nào? Rồi nói về xây dựng con người: đảng viên trong chi bộ có thật sự gương mẫu, tiêu biểu cho phẩm chất, năng lực của tập thể đơn vị không; gia đình vợ con có liên quan đến tham nhũng, tiêu cực hay không. Liên hệ một cách cụ thể như vậy thì sẽ tránh được lối nhận xét chung chung, đúng mà không trúng, phê bình theo kiểu “ném cát bụi tre”, không chỉ ra được căn bệnh để bốc thuốc.

Tương tự như vậy, bây giờ đi đến đâu cũng thấy nhiều người nói về tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, suy thoái về đạo đức, lối sống. Nhưng hỏi một số đồng chí thì thấy chưa hiểu đúng về suy thoái tư tưởng chính trị. Có trường hợp nhầm lẫn với suy thoái về chính trị. Có trường hợp nhầm lẫn với suy thoái về tư tưởng văn hóa, tư tưởng pháp luật… Nói một cách nôm na rằng, tư tưởng chính trị thể hiện rõ nhất lợi ích dân tộc được đặt lên trên hết. Yêu nước, thương dân đặt lên trên hết. Vì vậy, trong tự phê bình mình và phê bình đồng chí, khi nói suy thoái tư tưởng chính trị chúng ta có thể nêu những biểu hiện cụ thể, không hề trừu tượng. Ai đó xa rời quyền lợi dân tộc, quyền lợi của cộng đồng, sa vào lợi ích nhóm. Ai đó bàng quan trước những sự kiện chính trị quan trọng trong đời sống xã hội, chỉ cốt lo cho riêng mình, gia đình mình, thờ ơ trước đời sống khó khăn, hoạn nạn của đồng bào, của bà con lối xóm, của những người chung quanh, chính là họ đã suy thoái về tư tưởng chính trị. Và điều này gần với suy thoái về đạo đức, lối sống.

Nói về kiểm điểm, liên hệ cụ thể, sâu sắc cũng cần chỉ rõ trách nhiệm của các đồng chí cấp ủy viên, lãnh đạo chính quyền, nhất là người đứng đầu, mà Nghị quyết Trung ương 4 đã nêu rõ về mối quan hệ này. Rằng đồng chí Bí thư, đồng chí Chủ tịch đã “vào vai” đúng chưa, hay còn bao biện, lấn sân, hoặc vừa đá bóng vừa thổi còi, ngược lại là khoán trắng cho cấp dưới? Rằng đồng chí Phó Bí thư, lãnh đạo các ban của cấp ủy đã nắm vững chức trách, nhiệm vụ chưa, hay lại sa vào công tác của chính quyền, của chuyên môn.

Trong quá trình kiểm điểm, một vấn đề đang có những ý kiến khác nhau, đó là những thiếu sót, khuyết điểm nào thì công bố trong nội bộ và công khai tới đâu. Có đồng chí cho rằng, phê bình là phải nghiêm túc, thẳng thắn, phân tích, mổ xẻ đến cùng, có cả những bí mật về đời tư của cán bộ, vì vậy cũng nên “đóng cửa bảo nhau”, không phải cái gì cũng “phơi” ra cả. “Phơi” ra thì dễ bị kẻ xấu, kẻ cơ hội chính trị lợi dụng. Chúng ta đều biết, dân chủ, công khai thể hiện trí tuệ và văn minh của Đảng. Nếu ở nơi nào thiếu dân chủ, dân chủ hình thức, sẽ dẫn đến cấp dưới xa cấp trên, quần chúng xa cán bộ, nội bộ Đảng thiếu đoàn kết thống nhất. Đương nhiên, công khai đòi hỏi phải theo đúng các quy định của Đảng, pháp luật hiện hành và phù hợp nhận thức của cán bộ, đảng viên, quần chúng, nhằm phát huy vai trò của tổ chức dân cử, Mặt trận, các đoàn thể và nhân dân tham gia giám sát cán bộ, đảng viên.

Có hai loại ý kiến khác nhau là, việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình lần này rất khó đạt yêu cầu như mong muốn, vì đây là công việc vô cùng khó khăn, phức tạp, liên quan sinh mạng chính trị của mỗi đảng viên và tổ chức Đảng; vì chúng ta đã từng có nhiều lần tiến hành chỉnh đốn Đảng, nhưng kết quả không vững chắc, những thiếu sót chậm được khắc phục, có khi ngày càng nghiêm trọng hơn. Ý kiến thứ hai là, sau khi kiểm điểm, tình hình sẽ chuyển biến mau lẹ và cuộc chỉnh đốn Đảng lần này sẽ kết thúc tốt đẹp vào tháng 12 năm 2012 (!). Tuy nhiên, ý kiến thứ hai này đòi hỏi phải xử lý thật nghiêm túc, phải có hình thức kỷ luật nghiêm khắc, phải kiên quyết đưa những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất ra khỏi bộ máy, bất kể người đó là ai, giữ cương vị gì, không có “vùng cấm”, “vùng tránh” trong Đảng. Cả hai loại ý kiến trên đều thể hiện sự quan tâm, mong muốn, ý thức trách nhiệm cao. Chỉ thị 15-CT/TƯ của Bộ Chính trị về thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng đã nêu rõ: “Xây dựng Đảng là công việc hệ trọng, khi thực hiện phải bình tĩnh, tỉnh táo, không nóng vội, cực đoan; giữ đúng nguyên tắc, không để các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội lợi dụng, kích động, xuyên tạc, đả kích gây rối nội bộ; đồng thời không được để rơi vào trì trệ, hình thức, không làm chuyển biến được tình hình”. Phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, hạn chế, chuyển biến từng bước, tiến bộ từng bước, nhưng phải bảo đảm vững chắc – đó là hướng đi và cách làm cả trước mắt và lâu dài.

Trong quá trình chuẩn bị kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, nhiều cấp ủy đã chú trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, coi đây là bước đột phá trong công tác chuẩn bị. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng nhằm tạo nên sự thống nhất cao về nhận thức, hành động của cán bộ, đảng viên và quần chúng trong thực hiện Nghị quyết. Trong lúc này càng cần phải đấu tranh mạnh mẽ trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, mọi sự xuyên tạc của các thế lực thù địch; chủ động phòng ngừa, phê phán những biểu hiện sai trái, cực đoan, lợi dụng phê bình để kích động, gây rối, làm mất đoàn kết nội bộ. Việc thực hiện Nghị quyết phải gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị của các địa phương, đơn vị; gắn với việc đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Không làm tốt công tác tư tưởng sẽ dẫn đến việc kiểm điểm một cách hình thức, chiếu lệ, không liên hệ sâu sắc tình hình tập thể và đối chiếu với bản thân. Nếu ở đâu đó còn có biểu hiện coi đây là vấn đề đã làm thường xuyên, thậm chí đã “yên tâm” rồi thì dễ chủ quan, dễ người dễ ta, bắt tay thỏa hiệp với nhau, nương nhẹ, bỏ qua cho nhau; ngược lại là phê bình theo kiểu “cháy nhà”, bới lông tìm vết, mạt sát, xúc phạm nhau, không có tình đồng chí thương yêu nhau, như Bác Hồ đã căn dặn./.

Theo nhandan.com.vn
Kim Yến (st)

bqllang.gov.vn

Bốn nguyên tắc tự phê bình và phê bình theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Việt Nam - Hồ Chí MinhChúng ta vẫn thường xuyên nói “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, “tự phê và phê bình theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, nhưng gần như ai cũng thấy đó là điều không dễ. Rất nhiều người khi thực hiện tự phê bình luôn luôn bị ám ảnh bởi một sự lo sợ không khéo sẽ là: “Lạy ông tôi ở bụi này”…

Thực ra theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì tự phê bình và phê bình  là vấn đề tất yếu của cuộc sống, là quy luật trưởng thành của Đảng. Con người sinh ra ai cũng có bản tính lương thiện. Quá trình lớn lên, trải qua các ứng xử với tự nhiên, xã hội hình thành nhân cách, cá tính khác nhau. Trong Đảng cũng vậy: “Đảng ta không phải ông thánh và cũng không phải từ trên trời rơi xuống, nó ở trong xã hội mà ra”. Vượt qua những giới hạn cụ thể, con người có thể trở thành anh hùng hoặc bộc lộ những yếu kém khuyết điểm. Khuyết điểm càng lâu càng bám vào cơ thể như bụi bẩn hàng ngày. Bởi thế theo Hồ Chí Minh tự phê bình để nhận rõ và gạt đi những bụi bẩn cũng “như công việc tắm gội, rửa mặt hàng ngày” không thể thiếu được. Hoạt động trong điều kiện càng nhiều khó khăn, đòi hỏi thử thách càng lớn, càng làm cho con người dễ sinh ra khuyết điểm. Cha đẻ của mọi thứ khuyết điểm là chủ nghĩa cá nhân. Theo Hồ Chí Minh: “Chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng rất độc, do đó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm”. Bệnh tham lam, lười biếng, ba hoa, bè phái, địa phương chủ nghĩa, ham danh vị, quân phiệt, quan liêu, xa rời quần chúng, hẹp hòi, chuộng hình thức, lối làm việc bàn giấy, vô kỷ luật, ích kỷ, hủ hóa …. đều từ đó mà ra. Để điều trị các chứng bệnh ấy không có thuốc đặc hiệu nào hơn là tự phê bình và phê bình. Theo Hồ Chí Minh có thường xuyên tự phê bình và phê bình  mới giúp chúng ta thấy được khuyết điểm để sữa chữa, nhờ đó mà làm cho Đảng mạnh lên.

Tuy nhiên trong thực tế theo Hồ Chí Minh tự phê bình và phê bình là một việc làm không dễ. Tự phê bình và phê bình  là một vấn đề rất nhạy cảm, đụng chạm đến từng cá nhân, tổ chức. Tâm lý của con người là thích được khen hơn bị chê. Mọi người dễ cho rằng tự nói ra khuyết điểm, tự nhận khuyết điểm nghĩa là tự thừa nhận sự non kém của mình. Điều này dễ liên lụy đến uy tín, vị thế chức tước, địa vị và bậc thứ nghề nghiệp, vì “người ta hay có lòng tự ái. Thừa nhận cái sai, cái dốt, cái kém của mình, thì sợ mất thể diện, mất uy tín, mất địa vị”. Bởi vậy phê bình đã khó, tự phê bình càng khó khăn hơn. Trong thực tế cuộc sống đã không ít trường hợp người ta mượn cớ tự phê bình để nhân đó phê bình mạnh mẽ hơn đồng chí của mình. Đối với những tập thể yếu kém, hoặc có vấn đề đoàn kết nội bộ; những tập thể, cá nhân đang chạy theo thành tích thì việc tự phê bình và phê bình thường thực hiện một cách hình thức. Người cho rằng: “Khuyết điểm cũng như chứng bệnh, phê bình cũng như uống thuốc. Sợ phê bình cũng như có bệnh mà dấu bệnh không dám uống thuốc, để đến nổi bệnh ngày càng nặng… nể nang không phê bình để đồng chí mình cứ sa vào lầm lỗi đến nổi hỏng việc, thế thì khác nào thấy đồng chí mình ốm mà không chữa cho họ, nể nang không dám tự phê bình để cho khuyết điểm mình chứa chất lại, khác nào mình tự bỏ thuốc độc cho mình”. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong bao nhiêu năm hoạt động bí mặt, dù bị bọn thực dân khủng bố gắt gao và Đảng ta gặp nhiều khó khăn nguy hiểm, nhưng Đảng ta ngày càng phát triển, càng mạnh mẽ và đã lãnh đạo nhân dân ta làm cách mạng thành công, kháng chiến thắng lợi, đó là Đảng ta khéo dùng cái vũ khí sắc bén tự phê bình và phê bình”.

Để sử dụng vũ khí tự phê bình và phê bình trong Đảng một cách có hiệu quả theo Hồ Chí Minh trước hết phải nhận thức đúng vấn đề. Theo Người: “Nhân vô thập toàn” nghĩa là con người thì ai cũng khó tránh khỏi sai lầm khuyết điểm; càng đảm nhiệm nhiều công việc thì càng dễ có sai lầm khuyết điểm nhiều hơn. Điều quan trọng là ở chổ có có dám tìm ra khuyết điểm để sữa chữa hay không. Theo Bác: “Một Đảng mà dấu diếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sữa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”. Thế nhưng vì là một vấn đề khó nên tiến hành tự phê bình và phê bình cần nắm vững những nguyên tắc cơ bản, thể hiện tính Đảng, tính giáo dục, tính khách quan trung thực, thẳng thắn, dân chủ, đồng bộ sau đây:

1. Tự phê bình và phê bình  phải nhằm mục đích để giúp nhau tiến bộ nên động cơ phải trong sáng, dựa trên “tình đồng chí thương yêu nhau”; không vì phê bình mà công kích áp đặt khuyết điểm cho nhau. Khi phê bình người khác không được xoi mói “bới lông, tìm vết” để tìm cơ hội “hạ bệ’ lẫn nhau; “tránh công kích cá nhân, cãi bướng, trả thù, tiểu khí”. Thực hành tự phê bình và phê bình  phải dân chủ, không mệnh lệnh, áp đặt.

2. Tự phê bình và phê bình  phải có thái độ kiên quyết không khoan nhượng. Hồ Chí Minh cho rằng: “Tự phê bình và sữa chữa có khi dễ, nhưng có khi cũng khó khăn, đau đớn vì tự ái, vì thói quen, hoặc vì nguyên nhân khác. Đó là một cuộc đấu tranh”. Vì thế thực hiện tự phê bình và phê bình  phải “Ráo riết, triệt để”, đúng mức, thật thà không nể nang, không thêm bớt. Thực hành tự phê bình và phê bình mà làm hời hợt, quanh co, chiếu lệ sai đúng không rõ ràng sẽ tạo môi trường cho khuyết điểm tồn tại và phát triển nặng thêm. Bởi vậy phải có thái độ khen chê đúng mức thì mới giúp cho người có khuyết điểm sữa chữa; đồng thời có ý nghĩa giúp người khác thấy đó mà đề phòng, tránh gặp khuyết điểm tương tự. Khuyết điểm sớm được sữa chữa sẽ dễ hơn khi để trở thành căn bệnh trầm kha. Vì Người cho rằng: “Người mắc khuyết điểm hôm nay, ngày mai chưa chắc đã mắc khuyết điểm. Người hôm nay chưa mắc khuyết điểm chưa chắc ngày mai cũng không mắc khuyết điểm”.

3. Tự phê bình và phê bình  muốn có hiệu quả tốt cần có phương pháp tốt. Tự phê bình và phê bình  phải “biết cách phê bình sáng suốt, khôn khéo, như chiếu tấm gương cho mọi người soi thấu những khuyết điểm của mình, để tự mình sữa chữa”. Tự phê bình và phê bình  phải được tiến hành trong tổ chức, chứ không phải gặp đâu nói đó. Người đứng đầu phải rất công minh, tạo được chỗ dựa tin cậy, khơi dậy được không khí dân chủ, thẳng thắn để ai cũng có thể nói rõ chính kiến của mình, không phải “thậm thà, thậm thụt” “ngồi lê mách lẻo”, “việc bé xé ra to” là nguyên nhân của sự mất đoàn kết.

4. Tự phê bình và phê bình  phải có thái độ chân tình cầu thị, nói đúng ưu điểm và khuyết điểm, phê bình phải đúng lúc, có hoàn cảnh thích hợp; phải biết lắng nghe và chờ đợi đồng chí tiếp thu để tránh việc làm cho người bị phê bình “nản chí, oán ghét”. Vì làm như vậy theo Chủ tịch Hồ Chí Minh chẳng khác “bánh ngọt là một thứ ngon lành, nhưng đem bánh ngọt bắt người ta ăn, nhét vào miệng người ta thì ai cũng chán”.

Những tư tưởng quan trọng của Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình  trên đây, dù không có gì khó hiểu; nhưng với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật và làm theo sự thật” như tinh thần Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã đề ra, thì việc nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình  sẽ vô cùng có ý nghĩa trong việc triển khai Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”./.

Theo Trần Quang Trung/ baohtinh.vn
Tâm Trang
(st)
bqllang.gov.vn

Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh suy nghĩ về vấn đề dân chủ

Để có một nền dân chủ thật sự, trước hết phải thực hành dân chủ, một trong những khía cạnh quan trọng của thực hành dân chủ là để mọi người được tham gia thảo luận, tranh luận một cách bình đẳng. Cho nên, tổ chức các cuộc họp, các cuộc Hội nghị ở cơ quan, đơn vị thực chất là để thực hiện sự lãnh đạo tập thể và nguyên tắc sinh hoạt dân chủ trong cơ quan cũng như trong tổ chức Đảng. Thế nhưng trong thực tế ở nơi này, nơi khác đã tổ chức nhiều cuộc họp, Hội nghị để bàn bạc những nội dung, những nhiệm vụ quan trọng của cơ quan, của tổ chức cơ sở đảng nhưng thực tế vẫn thiếu dân chủ, vẫn là dân chủ hình thức.

Bởi vì, mặc dù vấn đề được đưa ra bàn trong các cuộc họp, các cuộc Hội nghị, nhưng có những đồng chí lãnh đạo lại nghĩ rằng, cán bộ cấp dưới  là người chịu sự lãnh đạo của mình. Do đó, bàn thì cứ bàn cho phải phép, cho có vẻ dân chủ, để trên khỏi chê, dưới khỏi trách, thậm chí có những việc hệ trọng nhưng không cần bàn bạc trong ban lãnh đạo, cứ theo ý mình mà kết luận và quyết định. Mặt khác, trong điều hành đôi khi có nhiều vấn đề bị hợp thức hóa bằng tập thể lãnh đạo. Đây là vấn đề cần phải được chấn chỉnh.

Thực tế đã chỉ rõ, thực hành dân chủ là chìa khóa giải quyết mọi khó khăn và tìm ra nhiều giải pháp hay để phát triển xã hội, “Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến”(1), đồng thời, chỉ có tin tưởng gắn bó với nhân dân, với đồng nghiệp thì mới thấy ở đó những sáng kiến vĩ đại, những con đường, biện pháp, lực lượng để đổi mới, đem lại hiệu quả cao trong thực hiện nhiệm vụ chính trị. Chỉ có thực hành dân chủ, coi việc nước là việc chung, mọi người cùng lo toan thì sẽ tìm thấy sáng kiến hay và lòng hăng hái của mọi ngưới sẽ được nhân lên gấp bội.

Theo Bác, “Phải thật sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình”(2) Vì thế, trong họp, Hội nghị có những ý kiến khác nhau là chuyện bình thường, bởi đoàn kết của chúng ta là đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh Chính trị và Điều lệ Đảng, do đó, không nên tìm lý do để gạt đi những ý kiến đối lập, càng không nên giữ thành kiến dai dẳng đối với những người đưa ra ý kiến đó, vì như vậy sẽ làm cho cái dân chủ trên thực tế bị hạn chế, từ đó trong những cuộc họp, Hội nghị ý kiến thảo luận, tranh luận sẽ trở thành tẻ nhạt, xuôi chiều, những suy nghĩ sáng tạo, có căn cứ khoa học và thực tiễn sẽ không được ủng hộ. Như thế, nội dung của các cuộc họp, Hội nghị mang tính một chiều, Nghị quyết chung chung thiếu tính cách mạng tiến công.

Thực tế cho thấy, đối với những cán bộ, đảng viên có bề dầy kinh nghiệm trong thực tiễn nếu biết khai thác, biết phát huy và được tập hợp lại chắc chắn sẽ là nguồn sức mạnh vô tận, tạo nên trí tuệ, sức sáng tạo chung của cơ quan, đơn vị. Là người lãnh đạo một cơ quan, đơn vị đòi hỏi phải có tâm, có tầm, phải nắm vững chủ trương chính sách của Đảng và những quy định có tính nguyên tắc có liên quan đến lĩnh vực mà mình phụ trách; Phải nghiên cứu thật kỹ, phải xem xét và giải quyết đúng yêu cầu nhiệm vụ thực tiễn với mỗi giai đoạn phát triển cụ thể của từng sự vật và hiện tượng, từng con người cụ thể với những biện pháp hết sức cụ thể; Phải chịu khó lắng nghe ý kiến của mọi người chung quanh, nhất là những người kế cận; phải bàn bạc, cân nhắc thận trọng để đưa ra quyết định đúng đắn. Chúng ta đều biết trong thảo luận, tranh luận sẽ có những ý kiến không hoàn toàn giống nhau, và đó là cơ sở giúp cho lãnh đạo nhìn nhận sự vật, hiện tượng khách quan hơn, trên cơ sở đó đề ra kết luận chính xác hơn. Là cán bộ, đảng viên thấy đúng phải bảo vệ, thấy sai phải đấu tranh, đấu tranh là để đi đến sự thống nhất cao hơn trong thực hiện nhiệm vụ chính trị, và đó là quy luật phát triển của Đảng.

Tuy nhiên, nội dung của thực hành dân chủ phải xuất phát từ động cơ trong sáng, công tâm, khách quan, có tình, có lý. Vì đây là lợi ích chung chứ không phải tìm cách soi mói. Cho nên, chúng ta cũng phê phán những ý kiến thiếu tinh thần xây dựng, những ý kiến lợi dụng phê bình để đả kích cá nhân, nói xấu lẫn nhau, những tranh luận không tôn trọng nguyên tắc, thiếu tình thương yêu đồng chí, đồng nghiệp, vì như vậy là trái với bản chất của vấn đề dân chủ, là vi phạm Điều lệ Đảng, là dân chủ quá trớn dân chủ cực đoan, dẫn đến tự do tùy tiện, xem thường tập thể. Vì thế, dân chủ trong Đảng là dân chủ có lãnh đạo, có tính nguyên tắc. Nói cách khác, dân chủ của ta là dân chủ có định hướng.

Do đó, trong mỗi tập thể dù nhỏ, muốn giữ gìn sự đoàn kết thống nhất thật sự, phải thực hành tốt dân chủ, nếu lãnh đạo cơ quan, đơn vị thiếu tôn trọng Nghị quyết của Cấp ủy, coi thường kết luận của tập thể, điều hành  như thế thì bao công sức, trí tuệ của cán bộ, đảng viên đã góp ý trong cuộc họp trở thành vô nghĩa và như vậy cũng có nghĩa Nghị quyết, kế hoạch chỉ dừng lại trên trang giấy, không thực hiện hoặc thực hiện nhưng nội dung bị méo mó không còn nguyên vẹn. Như thế, cho dù có tổ chức nhiều cuộc họp nhưng vẫn cứ thiếu dân chủ.

Thực tiễn chứng minh, nơi nào không thực hiện tốt vấn đề dân chủ đều dẫn đến bất lợi cho tổ chức, đều cản trở bước tiến của cách mạng, nếu không dám nhìn thẳng vào sự thật để tìm cách khắc phục, dần dần nó sẽ triệt tiêu sức sáng tạo và tinh thần đấu tranh xây dựng của tập thể, tạo nên một lối sống an phận, nắng bề nào che bề nấy, đây là mảnh đất tốt để cho chủ nghĩa cá nhân phát triển và thực tế nơi nào thực hiện tốt phát huy dân chủ thật sự thì nơi đó sẽ động viên được tất cả mọi người tham gia đưa cách mạng đi đến thắng lợi. Do đó, cán bộ đảng viên phải chăm lo nhiều đến lề lối làm việc dân chủ, tác phong quan sát, sâu sát thực tế. Cho nên khi đã tổ chức cuộc họp, Hội nghị thì phải bàn cho ra lẽ, bàn xong phải có kết luận dứt khoát, phân định rõ đúng, sai. Trên cơ sở kết luận thông qua được tập thể đồng tình thì hình thành Nghị quyết. Khi chỉ đạo thực hiện, phải nói và làm theo đúng tinh thần của Nghị quyết. Nếu làm trái với Nghị quyết thì các cuộc hội, họp dẫu có bàn sâu đến đâu, kéo dài bao lâu đi chăng nữa cũng chỉ là dân chủ hình thức, dân chủ giả hiệu.

Chú thích:

(1): Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, Tập 6, tr 174

(2): Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd… t10, tr118).

Theo Phan Thị Hữu Hạnh
Phó Hiệu trưởng Trường Chính trị
T
am trang (st)

bqllang.gov.vn

Vai trò và mục đích của giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh

Trước khi đi vào cõi vĩnh hằng, Chủ tịch Hồ Chi Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta một hệ thống những tư tưởng, quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cuộc cách mạng Việt Nam. Trong đó, tư tưởng về giáo dục luôn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp giáo dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặt nền móng và xây dựng một nền văn hoá, giáo dục Việt Nam. Sinh thời, Người luôn xem phát triển giáo dục, nâng cao dân trí xã hội là một triết lý, một tư tưởng, một ước vọng. Người nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành(1).

Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, cũng như quan niệm của Người về vai trò của giáo dục không bó hẹp trong việc giáo dục tri thức, học vấn cho con người, mà có tính bao quát, sâu xa, nhưng vô cùng sinh động, thiết thực, nhằm đào tạo ra những con người toàn diện, vừa “hồng” vừa “chuyên“, có tri thức, lý tưởng, đạo đức sức khoẻ, thẩm mỹ… Khi nhìn nhận vai trò của giáo dục đối với sự hình thành nhân cách của con người, Bác Hồ khẳng định:

Thiện, ác nguyên lai vô định tính
Đa do giáo dục đích nguyên nhân”
Nghĩa là: Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên
Dạ bán (Nửa đêm) – Nam Trân dịch

Hồ Chí minh luôn coi giáo dục có vai trò quan trọng không chỉ đối với việc giáo dục tri thức, học vấn mà còn góp phần hình thành nên nhân cách, phẩm chất đạo đức của mỗi con người. Người nói: Mỗi con người đều có thiện và ác trong lòng, ta phải biết làm cho phần tốt ở  trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vừa là thành quả của một quá trình tiếp thu, chắt lọc và phát triển tinh hoa văn hoá dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại. Do vậy, ở tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục luôn có sự thống nhất hữu cơ giũa lý luận giáo dục và thực tiễn giáo dục, vừa mang hơi thở của cuộc sống hiện tại, vừa chứa đựng khát vọng về một tương lai. Mục đích cao cả của Hồ Chí Minh – mục đích mà Người nguyện suốt đời phấn đấu – là mong cho dân tộc, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Bởi, đối với Người: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì(3). Suốt đời, Bác Hồ luôn mong muốn xây dựng một xã hội mới về chất, cao hơn hẳn xã hội cũ, đó là – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Và để xây dụng chủ nghĩa xã hội, theo Người, “trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Tuy nhiên, con người xã hội chủ nghĩa ở đây theo Người, cần phải: “…có học thức. Cần phải học lý luận Mác – Lênin kết hợp với đấu tranh và công tác hàng ngày, học phải đi đôi với hành”(2).

Đào tạo con người xã hội chủ nghĩa không có con đường nào khác ngoài giáo dục tri thức khoa học và lý tưởng, đạo đức xã hội chủ nghĩa. Đó là nền giáo dục nhằm phát triển con người toàn diện, vừa “hồng” vừa “chuyên” trong thời đại mới. Và như vậy, “con người xã hội chủ nghĩa’, con người toàn diện, “nhất định phải có học thức. Cần phải học văn hoá, chính trị, kỹ thuật. Cần phải học lý luận Mác – Lênin kết hợp với đấu tranh và công tác hàng ngày. Trong thư gửi cán bộ giáo dục, học sinh, sinh viên các trường và các lớp bổ túc văn hoá, ngày 31 – 8 – 1960, Chủ tich Hồ Chí Minh đã viết: Văn hoá giáo dục là một mặt trận quan trọng trong công cuôc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà….Giáo dục phải phục vụ đường lối chính trị của Đảng và của Chính phủ, gắn liền với sản xuất và đời sống của nhân dân. Học phải đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tế.

Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc luyện “tài”, rèn “đức” cho tất cả đối tượng. Đối với trẻ em, Bác căn dặn các giáo viên phải: Giáo dục cho các cháu biết thế nào là đoàn kết, ham học, ham làm, nhưng phải làm sao cho các cháu giữ được tính chất của trẻ con. Phải làm sao cho trẻ em có kỷ luật nhưng vẫn vui vẻ, hoạt bát chứ không phải là khúm núm, đặt đâu ngồi đấy. Thông điệp của Bác để lại cho thế hệ trẻ là vẻ vang, vinh dự nhưng cũng là một trong trách lớn: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”(4).

Tại Đại hội Thanh niên Thủ đô ngày 30 tháng 9 năm 1967, Bác cũng căn dặn: “Thanh nên phải ra sức học tập chính trị, văn hoá và khoa học kỷ thuật. Học có tốt, hành mới tốt. Học và hành tốt mới làm tròn nhiệm vụ người thanh niên cách mạng…”. Hồ Chí Minh xem học tập chính là để làm người tốt, việc tốt có ích cho nhân dân và dân tộc, vì vậy, “Nhiệm vụ của các cháu là thi đua học tốt để sau này góp phần vào việc mở mang quê hương của mình và việc xây dựng nước Việt Nam yêu quý của chúng ta”.

Để tào tạo một con người có ích cho xã hội, theo Hồ Chí minh cần phải giáo dục toàn diện, đặc biệt là giáo dục về tài và đức. Bởi, theo Người, có tài mà không có đức, ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông bụt không làm hại gì nhưng cũng không lợi gì cho loài người. Để giáo dục tốt cả đức lẫn tài Bác nhắc nhở giáo viên: “Giáo viên phải chú ý cả tài, cả đức. Tài là văn hoá, chuyên môn; đức là chính trị. Muốn cho học sinh có đức thì giáo viên phải có đức… cho nên thầy giáo cô giáo phải gương mẫu, nhất là đối với trẻ con”(5).

Đối với cán bộ, Hồ Chí Minh xem việc học tập là: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ”. Mục đích trọng tâm và xuyên suốt trong tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là vì con người, cho con người, là xây dựng con người mới. Nhưng do yêu cầu của mỗi thời kỳ cách mạng khác nhau, Hồ Chí Minh đã đề ra nhiệm vụ giáo dục khác nhau cho phù hợp. Ở thời kỳ chuẩn bị thành lập Đảng, Người tập trung vào việc triển khai các lớp huấn luyện tại Quảng Châu, Trung Quốc nhằm nâng cao trình độ nhận thức cho cán bộ về con đường cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Đến giai đoạn toàn quốc kháng chiến và xây dựng nền dân chủ, Người kêu gọi sửa đổi giáo dục cho phù hợp với việc đào tạo nhân tài kháng chiến kiến quốc. Tất cả giáo dục tập trung phục vụ kháng chiến kiến quốc. Bước sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, mục đích giáo dục lại gắn liền với tình hình mới. Đó là thời kỳ rất cần những con người làm chủ xã hội, làm chủ sản xuất, biết quản lý cơ quan, xí nghiệp, trường học…

Về phương pháp giáo dục, Hồ Chí Minh không để lại cho chúng ta một tác phẩm chuyên khảo, một hệ thống lý luận hoàn chỉnh nào về phương pháp giáo dục, nhưng qua những việc làm thiết thực như: Những bài viết ngắn gọn, súc tích, những lời nói, quan điểm giáo dục của Người đã hàm chứa các phương pháp giáo dục mẫu mực. Trong quá trình lãnh đạo cuộc cách mạng Việt Nam nói chung cũng như các vấn đề liên quan đến giáo dục nói riêng, Người luôn xác định nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn làm nguyên tắc cơ bản cho việc xây dựng các phương pháp về giáo dục. Nguyên tắc này được Người sử dụng xuyên suốt trong việc giáo dục cán bộ, đảng viên, thanh thiếu niên, công nhân, nông dân, bộ đội, trí thức, học sinh, sinh viên… trong suốt tiến trình của cuộc cách mạng.

Từ nhận thức sâu sắc về vai trò và mục đích của giáo dục, Hồ Chí Minh đã gắn bó cả cuộc đời mình để việc chăm lo, mở mang, xây dựng và phát triển một nền giáo dục mới, nền giáo dục xã hội chủ nghĩa – một nền giáo dục mà mọi người đều được học, được tham gia, phát huy hết khả năng của mình, không phân biệt nam nữ, tuổi tác, giai cấp, dân tộc…

Tiếp tục kế thừa và quyết tâm thực hiện thắng lợi sự nghiệp to lớn và cao cả đó của Người, trong những năm qua Đảng ta luôn quan tâm và chăm lo đến sự nghiệp giáo dục. Tại Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, khoá VIII đã xác định nhiệm vụ và mục đích cơ bản của giáo dục Việt Nam là: “Nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật, có sức khoẻ, là những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” như lời căn dặn của Bác Hồ”. Đại hội Đảng lần thứ IX, một lần nữa Đảng ta khẳng định: “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”, tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục, thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá. Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề, đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng những hình thức giáo dục chính quy và không chính quy, thực hiện “giáo dục cho mọi người”, “cả nước trở thành một xã hội học tập”, thực hiện phương châm “học đi đôi với hành”.

1. Năm 1946, khi trả lời câu hỏi của các nhà báo về điều mong muốn của mình.
2. Hồ Chí Minh toàn tập. NXB CTQG 1995, 1996 tập 4, tr.56; tập 12, tr.505
3. HCM: Toàn tập, t.10, Nxb CTQG, H., 1995, tr 306.
4. Trong Thư gửi các em học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, tháng 9/1945.
5. Bài nói tại lớp học chính trị của giáo viên, năm 1959; dẫn theo “Hồ Chí Minh- Toàn tập”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2000, tập 9, tr. 492.

Theo Lê Văn Tuyên/GV. Khoa Xây dựng Đảng
Truong CHính trị Hậu Giang
Tâm trang
(st)
bqllang.gov.vn

Tự phê bình và phê bình theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện. Trải qua hơn 80 năm phấn đấu, xây dựng và trưởng thành, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, với bản lĩnh của một đảng cách mạng chân chính, dạn dày kinh nghiệm, luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, Đảng đã lãnh đạo, tổ chức và phát huy sức mạnh to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, giành được nhiều thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp cách mạng.

Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư các khóa đã ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trong đó, gần đây nhất là Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI : Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay đang được Ban chấp hành Trung ương Đảng quán triệt và triển khai thực hiện. Nghị quyết đã đánh giá tình hình công tác xây dựng Đảng trong những năm qua và chỉ ra một số nguyên nhân cơ bản đẫn đến những hạn chế, yếu kém. Trong đó nhấn mạnh nguyên nhân: nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi vừa bị buông lỏng trong thực hiện, vừa chưa được quy định cụ thể để làm cơ sở cho công tác kiểm tra, giám sát.

Vấn đề này dã được Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm, nhắc nhở cán bộ, đảng viên. Chính vì vậy, trong di chúc để lại cho Đảng, cho nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: ” Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Phải giữ gìn đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(1). Vậy làm thế nào để Đảng ta có được điều đó? Bác đã chỉ ra : ” Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình”(1). ở Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình đã trở thành một nguyên tắc không thể thiếu trong phong cách lãnh đạo của Người. Dù ở cương vị lãnh đạo cao nhất, Người vẫn thực hành tự phê bình và phê bình một cách nghiêm túc, nêu tấm gương sáng về đức tính trung thực, thẳng thắn, về thái độ và phương pháp phê bình cho cán bộ, đảng viên noi theo.

Từ một quan niệm hết sức giản dị nhưng bao hàm tính triết lý và biện chứng sâu sắc: người đời không phải là thần thánh, không ai tránh khỏi khuyết điểm, Bác chỉ ra rằng:” Tổ chức đảng cũng vậy, Đảng không phải trên trời rơi xuống, ” Đảng là người, nên có sai lầm”, tức là cũng có lúc khoẻ mạnh, lúc ốm đau, bệnh tật. Đó là lẽ thường tình, không vì thấy ốm đau mà phát sinh tư tưởng lo sợ, bi quan, tuyệt vọng, giấu giếm bệnh tật trong mình”(2). Do đó, theo Bác có bệnh thì phải mạnh dạn, chủ động, khẩn trương, kiên trì chạy chữa. Hồ Chí Minh chỉ ra liều ” thần dược” để chữa trị các chứng bệnh trong cơ thể của tổ chức Đảng và mỗi cá nhân đảng viên là tự phê bình và phê bình : ” Tự phê bình là phương thuốc trị bệnh cứu mình, phê bình là phương thuốc trị bệnh cứu người”. Người nói: Phê bình cũng như uống thuốc. Sợ phê bình cũng như có bệnh mà giấu bệnh, không dám uống thuốc, để đến nỗi bệnh càng nặng, không chết cũng “la lết quả dưa”(2).

Bác yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên ” mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt”. Đảng cách mạng cần tự phê bình và phê bình như con người cần không khí, không có không khí con người sẽ chết, không có tự phê bình và phê bình Đảng khó lòng mà tồn tại. Chủ tich Hồ Chí Minh khẳng định: ” Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”. Đảng cần phải biết những ưu điểm và khuyết điểm của mình “để dạy dỗ đảng viên, dạy dỗ quần chúng”(2).

Tự phê bình và phê bình là thứ vũ khí sắc bén nhất giúp Đảng ta ngày càng thêm mạnh, ngày càng phát triển, càng nâng cao hơn nữa năng lực và sức chiến đấu của Đảng. Tự phê bình và phê bình giúp ta sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm, tiến bộ không ngừng. Bởi vậy, theo Bác, trong Đảng muốn đoàn kết chặt chẽ, ” ắt phải thống nhất tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và phê bình”. Có thực hành dân chủ rộng rãi thì tự phê bình và phê bình mới trở thành nền nếp thường xuyên trong sinh hoạt Đảng. Trong tác phẩm ” Sửa đổi lối làm việc” (năm 1947), Bác viết: “Nếu cách lãnh đạo của ta không được dân chủ thì đối với cơ quan lãnh đạo, đối với những người lãnh đạo, các đảng viên và cán bộ dù có ý kiến cũng không dám nói, dù muốn phê bình cũng sợ không dám phê bình”.

Tự phê bình và phê bình là nhu cầu nội tại của tổ chức Đảng và đảng viên. Song sử dụng nó phải đúng mục đích thì mới có tác dụng, hiệu quả cao. Nếu sử dụng không đúng mục đích thì dù đó là vũ khí sắc bén cũng không tiêu diệt được kẻ thù, là “thần dược” cũng không trị được bệnh. Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích: ” Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ. Vì vậy phê bình mình cũng như phê bình người phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm. Phê bình việc làm chứ không phải phê bình người”. Do đó, tự phê bình và phê bình tức là gột rửa những thói hư tật xấu, những cái nhơ bẩn lây bám, xâm nhập vào con người chứ không phải cắt bỏ thân thể con người. Tư tưởng nhân văn, đề cao yếu tố con người của Hồ Chí Minh ở đây thật bao la, sâu sắc và chan chứa tình người. Bác Hồ đã từng phê phán: ” Ai hợp với mình thì người xấu cũng cho là tốt, việc dở cũng cho là hay, rồi che đậy cho nhau, ủng hộ lẫn nhau. Ai không hợp với mình thì người tốt cũng cho là xấu, việc hay cũng cho là dở, rồi tìm cách dèm pha, nói xấu, tìm cách dìm người đó xuống. Bệnh này rất tai hại cho Đảng, nó làm hại đến sự thống nhất”.

Từ quan điểm xuất phát thể hiện tính dân chủ và nhân đạo cao cả, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra phương pháp, hình thức và những yêu cầu để tiến hành tự phê bình và phê bình đạt hiệu quả cao nhất:

Trước hết, phê bình phải đi đôi với tự phê bình và phê bình phải gắn liền với sửa chữa, với biểu dương khen thưởng. Nếu chỉ phê bình người khác mà không tự phê bình thì chẳng khác nào ” thầy thuốc chỉ đi chữa bệnh người khác mà bệnh nặng trong mình thì quên chữa”. Tại buổi Lễ bế mạc lớp Bổ túc trung cấp (10/1947), Hồ Chí Minh đã nói: “Tự phê bình rồi lại phải phê bình người khác nữa…Nếu tôi có vết nhọ trên trán, các đồng chí trông thấy, lại lấy cớ “nể Cụ” không nói, là tôi mang nhọ mãi. Nhọ ở trên trán thì không quan trọng, nhưng nếu có vết nhọ ở trong óc, ở tinh thần, mà không nói cho người ta sửa tức là hại người…Thấy cái xấu của người mà không phê bình là một khuyết điểm rất to. Không phê bình, tức là để cho cái xấu của người ta phát triển”.

Tự phê bình và phê bình phải gắn với sửa chữa, tức là phải chỉ rõ ưu, khuyết điểm và phương hướng để phát huy hoặc khắc phục. Đồng thời phải gắn với động viên, khen thưởng, xử phạt rõ ràng.

Thứ hai, tự phê bình và phê bình phải đạt tới cái đích là làm rõ đúng, bảo đảm tính khách quan, trung thực, thẳng thắn và chân tình. Tự phê bình cũng như phê bình phải trung thực, không nể nang, không thêm bớt. Bác nhắc nhở: ” Phê bình phải nghiêm chỉnh, chắc chắn, phụ trách, nói có sách, mách có chứng. Phải phê bình với tinh thần thành khẩn, xây dựng, ” trị bệnh cứu người”, chớ phê bình lung tung không chịu trách nhiệm. Khi phê bình, chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc. Trong lúc phê bình, khuyết điểm phải vạch rõ ràng, mà ưu điểm cũng phải nhắc đến. Một mặt là để sửa chữa cho nhau. Một mặt là để khuyến khích nhau, bắt chước nhau”.

Thứ ba, Khi tiến hành tự phê bình và phê bình phải bảo đảm tính dân chủ, công khai. Công khai phân tích, nhận xét, đánh giá ưu, khuyết điểm của mình, đồng chí mình và tổ chức đảng trước hội nghị, phê phán nghiêm khắc tình trạng ” ngồi lê đôi mách”, ” việc gì cũng không phê bình trước mặt mà để nói sau lưng”. Bác cho rằng: ” Kiểu phê bình như vậy là biểu hiện của bệnh “cá nhân””.

Tự phê bình và phê bình muốn đạt kết quả cao thì phải được tiến hành trong bầu không khí thật dân chủ, bình đẳng. Chỉ có dân chủ rộng rãi thì mọi cán bộ, đảng viên, nhân dân mới tích cực, chủ động, nói thẳng, nói thật. Song mở rộng dân chủ trong tự phê bình và phê bình không có nghĩa là muốn nói gì thì nói, muốn phê thì phê. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì một cuộc tự phê bình và phê bình nghiêm túc là: ” Trong lúc thảo luận, mọi người được tự do hoàn toàn phát biểu ý kiến , dù đúng hoặc không đúng cũng vậy. Song không được nói gàn, nói vòng quanh”. ở đây, vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt rất quan trọng, như Bác đã dạy: cán bộ cao cấp phải gương mẫu tự phê bình và phê bình trước.

Thứ tư, tự phê bình và phê bình phải được tiến hành thường xuyên, phê bình từ trên xuống và từ dưới lên, nhất là từ dưới lên, có như vậy mới đạt hiệu quả cao. Bởi vì, nếu chỉ phê bình một chiều thì như Bác so sánh cũng giống như người ” đi một chân, không thể đi được”.

Khi tiến hành tự phê bình và phê bình phải đảm bảo đúng nguyên tắc, song cách thức tiến hành phải mềm dẻo, khéo léo. Nếu chỉ dùng phương pháp cứng rắn, mệnh lệnh, ép buộc thì rất khó tiếp thu. Phê bình không đúng lúc, đúng chỗ, không khôn khéo sẽ có tác dụng ngược lại thậm chí còn gây ra hậu quả khó lường bởi lẽ lời chê như một mồi lửa, lòng tự ái, kiêu căng của con người giống như một kho thuốc súng. Ngày xưa,Trang Tử cũng đã từng nói: Người chê ta phải là thầy ta, người khen ta phải là bạn ta, người nịnh hót ta là kẻ thù của ta.

Thứ năm, người và tổ chức được phê bình phải có thái độ thành khẩn, vui lòng để sửa đổi, không nên vì bị phê bình mà nản chí hoặc oán ghét. Hết sức tránh thái độ ” giấu bệnh sợ thuốc”, bị phê bình thì im lặng, không tìm cách sửa đổi. Hồ Chí Minh gọi đó là “thái độ không thật thà, không đúng đắn” và thái độ đó sẽ dẫn đến hậu quả hết sức nghiêm trọng, bệnh ngày càng nặng thêm, thậm chí nguy hiểm đến tính mạng.

Trong bất kỳ một tổ chức đảng nào, cho dù là tổ chức đảng cấp trên hay tổ chức đảng cấp dưới, bất kỳ một cá nhân đảng viên ở cương vị nào nếu không thấm nhuần tư tưởng tự phê bình và phê bình của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì cũng sẽ phạm phải những sai lầm lớn. Thực tế hiện nay, một số tổ chức đảng và đảng viên đã làm tốt công tác tự phê bình và phê bình, trong các cuộc họp đã dám nói thẳng, nói thật ưu, khuyết điểm giúp tổ chức đảng và đồng chí mình phát huy, sửa chữa. Song bên cạnh đó, vẫn còn một số tổ chức đảng chưa phát huy tốt tinh thần phê và tự phê. Trong các cuộc hội nghị, cán bộ, đảng viên không dám góp ý kiến, đặc biệt là góp ý cho cấp trên, cho lãnh đạo vì sợ bị trù dập, không được thăng chức, nâng lương…Một số tổ chức đảng và đảng viên không góp ý cho tổ chức, cho đồng chí mình ngay trong cuộc họp mà lại đi nói sau lưng có tính chất ” kích động”, làm mất uy tín người khác. Bên cạnh đó vẫn còn một số cán bộ, đảng viên lợi dụng tinh thần phê và tự phê để chỉ trích, phê phán người khác với thái độ không thiện cảm, vì mục đích cá nhân” vạch lá tìm sâu”, ” chuyện bé xé ra to”, làm cho người bị phê bình không nhận ra được sai lầm để sửa hoặc có nhận ra họ cũng khó lòng mà sửa được. Bởi vậy, chúng ta học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh phải bằng hành động thực tế, không nên hô hào, chỉ nói mà không làm hoặc nói nhiều làm ít.

Tự phê bình và phê bình là biện pháp quan trọng nâng cao trí tuệ, phát hiện và giải quyết những mâu thuẫn trong Đảng, là quy luật sinh tồn và phát triển của Đảng. Tự phê bình và phê bình đòi hỏi phải có tính Đảng và tính nguyên tắc cao, phải đảm bảo tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường được mối quan hệ chặt chẽ giữa đảng và quần chúng. Chủ tich Hồ Chí Minh đã tiếp thu, nghiên cứu, vận dụng và bổ sung sáng tạo quan điểm của Mác, Ăngghen, Lênin về vấn đề tự phê bình và phê bình một cách hết sức cụ thể và độc đáo. Chính vì vậy, Đảng ta đã lãnh đạo cách mạng nước ta đi đến thành công, xứng đáng và làm tròn vai trò lãnh tụ chính trị của giai cấp và của dân tộc. Ngày nay, khi toàn Đảng đang quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về một số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng, chúng ta càng thấm nhuần hơn tư tưởng tự phê bình và phê bình của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Điều này sẽ giúp chúng ta thực hiện thành công Nghị quyết của Đảng, góp phần đưa sự nghiệp cách mạng của đất nước, của dân tộc tới thắng lợi vẻ vang.

* Tài liệu dẫn và tham khảo:
1/ Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh- NXB Chính trị quốc gia- Hà Nội- 1999.
2/ Hồ Chí Minh: Về tự phê bình và phê bình- NXB Sự thật- Hà Nội- 1986.
3/ Hồ Chí Minh toàn tập- NXB Chính trị quốc gia- Hà Nội- 1996.
4/ Xây dựng Đảng, rèn luyện đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh- NXB Quân đội nhân dân- Hà Nội- 2003.
5/ Nghị quyết số 12-NQ/TW – Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI): Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay.

Đặng Thanh Vững
Phòng Đào tạo
truongleduan.quangtri.gov.vn


Xem Bài 1

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của thanh niên

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho thế hệ trẻ sự quan tâm đặc biệt. Sau khi tìm được con đường cứu nước đúng đắn, bức thư đầu tiên gửi về trong nước là bức thư gửi thanh niên Việt Nam (năm 1925). Từ đó cho đến khi về với Thế giới Người hiền, Bác đã để lại một di sản tinh thần hết sức lớn lao với hàng trăm bài nói, bài viết về thanh niên và công tác thanh niên.

Thanh niên luôn đóng vai trò quan trọng trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Thánh Gióng, Hai Bà Trưng, Triệu Thị Trinh, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Trần Quốc Toản, Trần Nhật Duật, Lê Lợi, Nguyễn Huệ,… đều là những người chí lớn, tài cao, lập công khi đang ở tuổi thanh niên. Hồ Chí Minh đã khái quát truyền thống đó trong cuốn “Lịch sử nước ta”:

“Thiếu niên ta rất vẻ vang,
Trẻ con Phù Đổng tiếng vang muôn đời”.

Những năm tháng tuổi trẻ, được hòa mình vào cuộc sống lao động, đấu tranh của nhân dân nhiều nước trên thế giới, Hồ Chí Minh có điều kiện tìm hiểu thêm về vai trò của thanh niên trong sự phát triển của lịch sử nhân loại. Nhờ có phương pháp luận mác xít và những hiểu biết thực tiễn phong phú, Người càng phát hiện tiềm năng to lớn của lực lượng này trong cuộc đấu tranh cách mạng và sự phát triển xã hội. Người nhận thấy thanh niên có những ưu điểm nổi trội: trẻ, khỏe, chiếm số đông trong xã hội, hăng hái, nhiệt tình, nhanh nhạy tiếp thu cái mới, giàu ước mơ … Đó là lứa tuổi ham hiểu biết, giàu niềm tin, tự thể nghiệm mình, có khả năng tiềm ẩn trong việc thực hiện lý tưởng, mục tiêu cao quý… Do vậy, nếu biết định hướng, động viên đúng thì thanh niên sẽ say sưa với lý tưởng sống cao đẹp, phát huy tài năng, tính sáng tạo, sẵn sàng hy sinh vì đại nghĩa.

Nhìn thấy rõ vai trò rất to lớn của thanh niên trong cách mạng văn hóa, Hồ Chí Minh  cho rằng muốn vận động nhân dân đứng lên làm cách mạng, trước hết phải làm cho tầng lớp thanh niên của dân tộc giác ngộ. Nếu họ không được giác ngộ, không đủ nghị lực, không còn sức sống, chỉ chạy theo “rượu cồn và thuốc phiện” thì dân tộc có nguy cơ diệt vong. Thanh niên phải khẳng định vai trò của mình trước vận mệnh của dân tộc. Và chính Hồ Chí Minh đã thức tỉnh được lực lượng quan trọng này. Khi thanh niên Việt Nam có lý tưởng cách mạng soi đường, họ đã hăng hái tham gia các phong trào đấu tranh, sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ hy sinh, cùng với Đảng, với dân tộc làm nên thắng lợi cách mạng tháng Tám năm 1945. Chỉ trong vòng 15 năm ấy đã có hàng nghìn thanh niên trở thành cán bộ trung kiên của Đảng như Lý Tự Trọng, Trần Phú, Châu Văn Liêm, Nguyễn Văn Cừ, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai…

Cách mạng Tháng Tám thành công, đất nước độc lập, tiền đồ rạng rỡ của dân tộc được mở ra trước mắt thế hệ trẻ. Trong điều kiện mới, Hồ Chí Minh khẳng định: Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà… nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên. Khi miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người đã nhìn thấy thanh niên là lực lượng nòng cốt để xây dựng xã hội mới, bởi:

– Thanh niên là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ cách mạng đi trước đồng thời là người phụ trách, dìu dắt thiếu niên nhi đồng – thế hệ thanh niên tương lai.

– Thanh niên là người xung phong vươn lên phía trước trong công cuộc phát triển kinh tế, văn hóa trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội;

– Thanh niên là lực lượng cơ bản trong bộ đội, công an và quân dân tự vệ, đang hăng hái giữ gìn trật tự, trị an, bảo vệ Tổ quốc;

– Trong mọi công việc, thanh niên thi đua thực hiện khẩu hiệu: Đâu cần thanh niên có, việc gì khó thanh niên làm.

Hồ Chí Minh khẳng định: thanh niên có sứ mạng lịch sử vẻ vang đối với cách mạng nước mình và cách mạng thế giới, đó là thanh niên trong giai cấp công nhân, giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiến bộ nhất trong lịch sử, là người xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản trên thế giới. Người cho rằng: Thanh niên các nước đoàn kết với nhau, tin tưởng vào khả năng đấu tranh của mình để giữ gìn hòa bình thế giới, thực hiện hợp tác cùng nhau để xây dựng đời sống hạnh phúc tươi vui.

Bên cạnh việc khẳng định những ưu điểm của thanh niên, Hồ Chí Minh cũng luôn chỉ ra những mặt yếu, những nhược điểm của họ, đó là sự thiếu từng trải trong cuộc sống, một số chưa chịu khó học tập, mắc bệnh hình thức, bệnh cá nhân, tự cao, tự đại… Hồ Chí Minh chỉ rõ: phát huy mặt mạnh, khắc phục mặt yếu là con đường để tự hoàn thiện nhân cách của thanh niên. Thanh niên muốn làm chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải không ngừng rèn luyện tinh thần và lực lượng cho mình, phải làm những việc chuẩn bị cái tương lai đó.

Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, quán triệt quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của thanh niên, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã ban hành Nghị quyết về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên. Nghị quyết khẳng định: “Đảng ta tiếp tục đề cao vai trò, vị trí quan trọng của thanh niên; xác định thanh niên là lực lượng xung kích trong giai đoạn cách mạng mới”; “Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thanh niên được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con người”. Đồng thời nêu rõ “thanh niên nước ta đang đứng trước những cơ hội, thuận lợi lớn, nhưng cũng phải đương đầu với những khó khăn, thách thức không nhỏ…”.

Chăm lo, bồi dưỡng, giáo dục thanh niên thành lớp người “vừa hồng, vừa chuyên” theo tư tưởng Hồ Chí Minh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng đề ra đường lối, chủ trương định hướng cho thanh niên hành động, xác định các chuẩn mực cho thanh niên phấn đấu; xây dựng các tấm gương điển hình tiêu biểu cho thanh niên học tập và noi theo. Bên cạnh đó, sự nỗ lực học tập, rèn luyện và phấn đấu không ngừng của thanh niên theo tấm gương Hồ Chí Minh là yếu tố quan trọng để xây dựng thế hệ thanh niên thời kỳ mới.

Lê Văn Điện
Trường Chính trị thành phố Cần Thơ

xaydungdang.org.vn

Thương binh, liệt sỹ trong tư tưởng và tình cảm của Bác Hồ

Trong thư gửi Ban Thường trực của Ban Tổ chức Ngày Thương binh toàn quốc (ngày 27 tháng 7 năm 1947), Người viết: “Đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp, cha mẹ, anh em, vợ con, thân thích, họ hàng ta bị đe doạ, của cải, ruộng nương, nhà cửa, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập, ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù, để giữ gìn đất nước cho chúng ta?  Đó là những chiến sỹ mà nay một số thành ra thương binh”.

Tam long bac voi thuong binhNgười đầu đoàn đại biểu của Đảng, Chính phủ tới đặt vòng hoa ở Đài liệt sỹ

Tư tưởng, tình cảm đó của Người lại được thể hiện trong lời kêu gọi, nhân ngày 27 tháng 7 năm 1948: “Khi nạn ngoại xâm ào ạt đến, nó như một trận lụt to. Nó đe doạ tràn ngập cả non sông Tổ quốc. Nó đe doạ cuốn trôi cả tính mệnh, tài sản, chìm đắm cả bố mẹ, vợ con của nhân dân ta.

Trước cơn nguy hiểm ấy, số đông thanh niên yêu quý của nước ta đã dũng cảm xông ra mặt trận. Họ quyết tâm đem xương máu của họ đắp thành một bức tường đồng, một con đê vững để ngăn cản nạn ngoại xâm tràn ngập Tổ quốc, làm hại đồng bào. Họ quyết hy sinh tính mệnh để giữ tính mệnh đồng bào.

Họ quyết hy sinh gia đình và tài sản họ để bảo vệ gia đình và tài sản đồng bào.

Họ quyết liều chết chống địch để cho Tổ quốc và đồng bào sống.

Họ là những chiến sĩ anh dũng của chúng ta.

Trong đó có người đã bỏ lại một phần thân thể ở mặt trận, có người đã bỏ mình ở chiến trường. Đó là thương binh, đó là tử sĩ…”

Trải qua hàng chục năm ròng chiến đấu cho lý tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” mà Đảng và Bác Hồ đã chỉ ra, hàng triệu đồng bào, đồng chí đã hy sinh cả cuộc đời mình, hàng chục vạn người đã cống hiến một phần thân thể của mình, những mất mát ấy không thể bù đắp được. Thấu hiểu những hy sinh to lớn đó, Người viết: Máu đào của các liệt sĩ đã nhuộm lá cờ cách mạng càng thêm đỏ chói. Sự hy sinh của các liệt sỹ đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do”. Cho nên đối với “những người con trung hiếu ấy, Chính phủ và đồng bào phải báo đáp thế nào cho xứng đáng”, và Người giải thích: “Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy, mọi người phải luôn luôn học tập tinh thần dũng cảm của các liệt sĩ để vượt qua tất cả khó khăn, gian khổ hoàn thành sự nghiệp cách mạng mà các liệt sĩ đã để lại”.

Với quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Bác Hồ đã đề ra phương châm thực hiện công tác thương binh, liệt sĩ thật rõ ràng, phù hợp với đạo lý truyền thống của dân tộc và hoàn cảnh của đất nước: “đồng bào sẵn sàng giúp đỡ, Chính phủ ra sức nâng đỡ, anh em có quyết tâm thì anh em nhất định dần dần tự túc được.”

Thể hiện trách nhiệm của Nhà nước, ngày 16 tháng 2 năm 1947, Hồ Chủ tịch đã ký Sắc lệnh số 20/SL ban hành chế độ hưu bổng thương tật và tiền tuất tử sĩ. Người cũng đồng ý chọn ngày 27 tháng 7 làm Ngày Thương binh toàn quốc, là dịp để đồng bào “tỏ lòng hiếu nghĩa bác ái và tỏ lòng yêu mến thương binh”. Người còn thường xuyên viết thư thăm hỏi thương binh, gia đình liệt sĩ, nhắc nhở trách nhiệm và động viên, biểu dương các địa phương, các đơn vị và cá nhân đã hết lòng giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ.

Tháng 11 năm 1946, trong thư gửi các địa phương, Người viết:

“Vì muốn thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và Chính phủ cảm ơn những chiến sĩ đã hy sinh tính mệnh cho nền tự do, độc lập và thống nhất của nước nhà, hoặc trong thời kỳ cách mệnh, hoặc trong thời kỳ kháng chiến.

Tôi gửi lời chào thân ái cho các gia đình liệt sĩ đó và tôi nhận các con liệt sĩ làm con nuôi của tôi…”

Tháng 2 năm 1948, Người gửi thư dặn dò các cháu nhi đồng phát động công tác Trần Quốc Toản, với những tình cảm thiết tha:

“… 2. Bác không phải mong các cháu tổ chức những “Đội Trần Quốc Toản” để đánh giặc và lập nhiều chiến công, nhưng mà cốt để tham gia kháng chiến, bằng cách giúp đỡ đồng bào.

3. Từ 5 đến 10 cháu tổ chức thành một đội, giúp nhau học hành. Khi học rảnh, mỗi tuần mấy lần cả đội đem nhau đi giúp đồng bào.

Trước thì giúp các nhà chiến sĩ, các thương binh, lần lượt giúp những nhà ít người. Sức các cháu làm được việc gì thì giúp việc ấy. Thí dụ: quét nhà, gánh nước, lấy củi, xay lúa, giữ em, dạy chữ quốc ngữ…

Đội này thi đua với đội khác. Mỗi tháng một lần, các đội báo cáo cho Bác biết. Đội nào giỏi hơn, Bác sẽ gửi giấy khen”.

Tháng 7 năm 1951, Người phát động phong trào “Đón thương binh về làng” với nội dung cụ thể“Chính quyền, đồng bào và các đoàn thể nhân dân trong mỗi xã phải tuỳ theo sự cố gắng và khả năng chung của mỗi xã mà đón một số anh em thương binh. Giúp lâu dài chứ không phải chỉ giúp một thời gian. Không phải giúp bằng cách góp gạo nuôi thương binh, nhưng giúp bằng cách này:

1. Mỗi xã trích một phần ruộng công, nếu không có ruộng công thì mượn ruộng của những đồng bào có hằng tâm, hằng sản, nếu không mượn được ruộng thì chính quyền, đoàn thể và đồng bào trong xã chung sức phát vỡ một số đất mới để giúp thương binh.

2. Chính quyền, đoàn thể và đồng bào trong xã tổ chức việc cày cấy, chăm nom, gặt hái những ruộng đất ấy. Hoa lợi để nuôi thương binh.

3. Tuỳ theo số ruộng đất trích được, mượn hoặc khai khẩn được, mà đón nhiều người hoặc ít người thương binh về xã. Anh em thương binh sẽ tuỳ sức mà làm những công việc nhẹ, như học may, đan lát, hớt tóc hoặc giúp việc phòng giấy, việc bình dân học vụ trong làng….

Kế hoạch tỉ mỉ sẽ do Chính phủ cùng Mặt trận Liên Việt định sau.

Với lòng hăng hái và cố gắng của đồng bào, với sự nỗ lực của cán bộ chính quyền và đoàn thể các địa phương, tôi tin chắc rằng công việc đón anh em thương binh về làng sẽ có kết quả tối đẹp”.

Và trong dịp Đảng, Chính phủ về Thủ đô sau 9 năm kháng chiến, Người đã dẫn đầu đoàn đại biểu của Đảng, Chính phủ tới đặt vòng hoa ở Đài liệt sỹ. Trong diễn từ tại buổi lễ, Người viết:

“Hỡi các liệt sỹ.

Ngày mai là năm mới, là ngày đồng bào và bộ đội mừng Chính phủ về Thủ đô. Trong lúc cả nước vui mừng thì mọi người đều thương tiếc các liệt sỹ đã hy sinh vì Tổ quốc, vì dân tộc.

Tôi thay mặt nhân dân, Chính phủ và bộ đội kính cẩn nghiêng mình trước linh hồn bất diệt của các liệt sỹ.

Một nén hương thanh.

Vài lời an ủi”.

Cảm động biết bao khi một vị Chủ tịch nước, hàng năm cứ đến Ngày Thương binh liệt sĩ lại gửi thư cùng một tháng lương của mình, kèm đó, khi thì một bữa ăn, khi thì một món quà (do đồng bào gửi biếu) để tặng anh em thương binh.

Với quan điểm khoa học và đầy tinh thần lạc quan “tàn nhưng không phế”, Bác khuyên anh em thương binh: “Khi đã khôi phục sức khoẻ phải hăng hái tham gia công tác sản xuất để trở nên người công dân kiểu mẫu. Bác chúc các gia đinh liệt sỹ trở thành những “gia đình cách mạng gương mẫu”.

Đã 55 trôi qua kể từ Ngày Thương binh – Liệt sỹ đầu tiên ấy. Mỗi năm, cứ đến ngày 27 tháng 7, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta lại nhớ đến Bác – Người cha già của dân tộc và thêm tự hào về bước phát triển của công tác thương binh, liệt sĩ theo tư tưởng và sự chỉ đạo của Người.

Với sự mở đầu của Sắc lệnh số 20/SL ngày 16 tháng 2 năm 1947 ban hành chế độ hưu bổng thương tật và tiền tuất tử sỹ, qua từng thời kỳ cách mạng được bổ sung, sửa đổi cả về đối tượng, tiêu chuẩn và các nội dung ưu đãi; đến nay chính sách thương binh, liệt sĩ đã phát triển thành hai Pháp lệnh: Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và Pháp lệnh Ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sỹ và gia đình liệt sỹ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng.

Từ An dưỡng đường số 1 được thành lập tháng 6 năm 1947 tại xã Lục Ba, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên (cơ sở nuôi dưỡng thương binh) và một bộ phận làm chân tay giả ra đời ở vùng tự do trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, hệ thống cơ sở sự nghiệp của ngành được mở rộng ở nhiều tỉnh phía Bắc. Trong thời kỳ cả nước bước vào cuộc trường chinh chống Mỹ, cả nước đã có hàng trăm cơ sở sự nghiệp từ Trung ương đến địa phương, với những trang thiết bị được đổi mới, phục vụ kịp thời cho việc phục hồi chức năng, nuôi dưỡng, đào tạo, dạy nghề và tổ chức sản xuất cho thương binh, thân nhân liệt sỹ.

Kế thừa đạo lý truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, Cuộc vận động “Mùa đông binh sĩ” “Giúp binh sĩ bị thương”, từ những việc làm “Hiếu nghĩa bác ái” theo lời kêu gọi của Bác Hồ trong những ngày đầu cuộc kháng chiến “9 năm” đến những “hũ gạo tình nghĩa, con gà tình nghĩa, thửa ruộng tình nghĩa” trong thời kỳ cả nước “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, đến nay phong trào toàn dân chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ đã phát triển thành 5 chương trình của thời kỳ đổi mới. Phong trào “vườn cây tình nghĩa”, “ao cá tình nghĩa”…. được nảy nở từ ngay các thôn bản, làng xã, chương trình xây dựng, quản lý, sử dụng thống nhất Quỹ “Đền ơn đáp nghĩa” (Theo pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng) được thể chế hoá theo Nghị định 91/1998/NĐ-CP của Chính phủ đã làm cho công tác thương binh liệt sỹ mang tính xã hội hoá cao.

Theo lời Bác dạy: “tàn nhưng không phế”, tiếp nhận những ưu đãi từ chính sách của Nhà nước và sự tiếp sức của cộng đồng anh chị em thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sỹ đã phát huy truyền thống, năng lực, sở trường của mình trong hoàn cảnh mới để xứng đáng là những “Công dân kiểu mẫu”, những “Gia đình cách mạng gương mẫu”. Nhiều người trong số đó đã trở thành những nhà khoa học xuất sắc, thành những người làm ăn giỏi hoặc đang đảm đương những trọng trách là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý ở nhiều lĩnh vực từ Trung ương đến cơ sở, một số đã được Nhà nước tuyên dương Anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới.

Những thành tựu nói trên không chỉ góp phần ổn định và nâng cao mức sống của thương binh, gia đình liệt sỹ mà còn góp phần ổn định tình hình chính trị xã hội trên địa bàn, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, có tác dụng giáo dục toàn dân, đặc biệt là thế hệ trẻ về lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Điều có ý nghĩa hết sức quan trọng là tự những kết quả của những năm thực hiện chính sách ưu đãi và chăm sóc thương binh, liệt sĩ, chúng ta có thể rút ra nhiều bài học để đẩy mạnh toàn diện công tác này, nhằm đạt mục tiêu mà Đại hội lần thứ IX của Đảng đã nêu ra: “Chăm lo tốt hơn đối với các gia đình chính sách và những người có công với cách mạng, bảo đảm tất cả các gia đình chính sách có cuộc sống bằng hoặc khá hơn mức sống trung bình so với người dân địa phương trên cơ sở kết hợp 3 nguồn lực: Nhà nước, cộng đồng và cá nhân đối tượng chính sách tự vươn lên”. Đó cũng là điều mong ước của Bác trong thư Người gửi Bộ trưởng Bộ Thương binh – Cựu binh (tháng 7 năm 1951) là làm cho thương binh, gia đình liệt sỹ được “yên ổn về vật chất, vui vẻ về tinh thần và có dịp tham gia hoạt động ích lợi cho xã hội”./

Theo uongnuocnhonguon.vn
Phương Thúy (st).
bqllang.gov.vn

Tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên và công tác thanh niên (Phần C)

>> Phần B

TP – Tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức thanh niên và xây dựng Đoàn Thanh niên Cộng sản

Chăm lo cho thế hệ trẻ là một trong những tư tưởng xuyên suốt của Bác HồChăm lo cho thế hệ trẻ là một trong những tư tưởng xuyên suốt của Bác Hồ.

Từ năm 1925, trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Hồ Chí Minh đặt vấn đề phải xây dựng một tổ chức thanh niên cộng sản ở Việt Nam. Sau một thời gian do Người trực tiếp chuẩn bị và đề nghị với Trung ương Đảng, ngày 26-3-1931, Thanh niên Cộng sản Đoàn ra đời. Đó là thời điểm mang nhiều ý nghĩa đặc biệt trong phong trào thanh niên yêu nước theo xu hướng tiến bộ ở nước ta.

Đối với Hồ Chí Minh, tổ chức, đoàn kết, tập hợp thanh niên là vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam. Muốn phát huy sức mạnh của thanh niên thì phải thông qua tổ chức, không có tổ chức thì Đảng không nắm được thanh niên.

Trong thư gửi thanh niên Việt Nam năm 1925, Hồ Chí Minh vạch rõ ở Đông Dương có đủ cơ sở vật chất (hầm mỏ, hải cảng, đồng ruộng…) chỉ “thiếu tổ chức và người tổ chức” (19). Đây là một nhận định hết sức sáng suốt. Vì lẽ đó, Hồ Chí Minh coi công tác vận động thanh niên là nhiệm vụ trọng tâm của mình, và sau khi dự Đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ V và Đại hội Quốc tế thanh niên cộng sản lần thứ IV (1924), Người dốc sức tiến hành công tác tổ chức, lập ra Việt Nam Thanh niên cách mệnh Đồng chí hội.

Chính Hồ Chí Minh là người trực tiếp tuyển chọn, bồi dưỡng đồng chí hội. Chính Hồ Chí Minh là người trực tiếp tuyển chọn, bồi dưỡng những hạt giống đầu tiên của Đoàn Thanh niên Cộng sản ở nước ta.

Năm 1944, Đảng và Bác Hồ thành lập tổ chức Đội Thiếu niên tiền phong.

Sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, Hồ Chí Minh chỉ thị trực tiếp cho các xứ ủy, tỉnh ủy, thành ủy tổ chức các Đại hội Đoàn Thanh niên Cứu quốc và thống nhất hệ thống Đoàn từ cơ sở lên đến Trung ương. Tháng 6-1946, Người chủ trương lập Mặt trận thanh niên rộng rãi (do Đoàn Thanh niên Cứu quốc làm nòng cốt), lấy tên là Liên đoàn Thanh niên Việt Nam và trực tiếp dự Đại hội lần thứ nhất của Liên đoàn tại chiến khu Việt Bắc.

Hồ Chí Minh là người sáng lập các tổ chức thanh niên Việt Nam trực tiếp cho ý kiến cụ thể về dự thảo Điều lệ Đoàn (trình Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ III năm 1961). Người khẳng định vai trò, vị trí của Đoàn trong hệ thống chính trị của đất nước; khẳng định những chức năng cơ bản của Đoàn Thanh niên Cộng sản.

Việc lập Mặt trận thanh niên, “đoàn kết và tổ chức thanh niên một cách rộng rãi và vững chắc” do Đảng lãnh đạo và Đoàn Thanh niên Cộng sản làm nòng cốt, tạo ra những loại hình tập hợp thích hợp với yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, với từng trình độ, đặc điểm và tâm lý thanh niên là một sáng tạo lớn, một tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh về thanh niên và công tác thanh niên.

Xin nêu mấy điểm chính trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đoàn Thanh niên Cộng sản, trong đó có những điểm xin trích nguyên văn lời của Người.

Về chức năng, nhiệm vụ của Đoàn, Hồ Chí Minh chỉ rõ Đoàn Thanh niên là tổ chức thanh niên cộng sản, là đội dự bị tin cậy của Đảng, là người đại diện của thanh niên, là hạt nhân đoàn kết, giáo dục và phát huy vai trò xung kích của thanh niên trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; là người phụ trách, dìu dắt thiếu niên, nhi đồng. Tất cả những điều đó được thể hiện ở huy hiệu Đoàn.

Hồ Chí Minh kết luận: “Huy hiệu của thanh niên ta là: “Tay cầm cờ đỏ sao vàng tiến lên”. Ý nghĩa của nó là thanh niên phải xung phong làm gương mẫu trong công tác, trong học hỏi, trong tiến bộ, trong đạo đức cách mạng. Thanh niên phải thành một lực lượng to lớn và vững chắc trong công cuộc kháng chiến và kiến quốc, đồng thời phải vui vẻ và hoạt bát. (20)

Trong mối quan hệ giữa Đoàn với Đảng và Nhà nước, Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng về đường lối chính trị thì thanh niên theo Đảng chỉ huy, nhưng việc làm thì thanh niên độc lập; trong mọi công việc, đảng viên và đoàn viên thanh niên phải gương mẫu để lôi cuốn nhân dân cùng tiến bộ; mọi công việc đều vì lợi ích của nhân dân mà làm. Khắp nơi có đoàn thể nhân dân, đó là những tổ chức của dân, “phấn đấu cho dân, bênh vực quyền của dân, liên lạc mật thiết nhân dân với Chính phủ”. (21)

Về mối quan hệ giữa Đoàn với thanh niên, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đoàn phải liên hệ rộng rãi và chặt chẽ với các tầng lớp thanh niên. Phải quan tâm đến đời sống, công tác và học tập của thanh niên, phải tránh thành kiến, hẹp hòi, cô độc. Phải thật thà, đoàn kết với anh chị em thanh niên trong Hội liên hiệp Thanh niên Việt Nam. (22).

Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng củng cố, phát triển Đoàn và tổ chức phong trào thanh niên. Người chỉ rõ:

“Phải củng cố tổ chức của Đoàn. Phải đoàn kết nội bộ chặt chẽ, và phải đoàn kết rộng rãi với các tầng lớp thanh niên”.

“Cần phát triển Đoàn hơn nữa, nhưng phải chọn lọc cẩn thận, trọng chất lượng hơn số lượng”.

“Muốn củng cố và phát triển Đoàn thì tất cả đoàn viên phải làm gương mẫu: Phải giữ vững đạo đức cách mạng; phải khiêm tốn, cần cù, hăng hái, dũng cảm.

Phải tránh tư tưởng kiêu ngạo, công thuần, tự tư tự lợi. Phải xung phong trong mọi công tác; xung phong là đi trước, làm trước để lôi cuốn quần chúng chứ không phải là xa rời quần chúng. Phải cố gắng học tập chính trị, văn hóa, nghề nghiệp để tiến bộ mãi, để sẵn sàng trở thành cán bộ tốt, đảng viên tốt. Phải rèn luyện thân thể cho khỏe mạnh”.

Về phương pháp công tác, phương pháp vận động thanh niên của Đoàn, Hồ Chí Minh nhấn mạnh:

“Thi đua là một cách rất tốt, rất thiết thực để làm cho mọi người tiến bộ. Thi đua giúp cho đoàn kết chặt chẽ thêm. Và đoàn kết chặt chẽ để thi đua mãi”. “Thi đua phải lâu dài và rộng khắp”.

“Phong trào cần phải liên tục và có nội dung thiết thực. Không nên chỉ có hình thức, càng không nên “đầu voi đuôi chuột”.

“Việc gì cũng cần phải thiết thực: nói được, làm được. Việc gì cũng phải từ chỗ nhỏ dần dần đến to, từ thấp dần dần đến cao. Một chương trình nhỏ mà thực hiện được hẳn hoi là một trăm chương trình to tát mà làm không được”.

Đối với cán bộ Đoàn, Hồ Chí Minh đòi hỏi: “Cán bộ lãnh đạo cần phải chống bệnh quan liêu, chống cách lãnh đạo chung chung. Cần phải đi sâu đi sát điều tra nghiên cứu. Cần phải khuyến khích, thu góp, bổ sung và phổ biến rộng rãi những sáng kiến hay, những kinh nghiệm tốt của quần chúng”. “Cần phải đi sâu vào đời sống, hiểu rõ tâm lý của các lớp thanh niên và giúp đỡ họ giải quyết các vấn đề một cách thiết thực”.

Đoàn thanh niên với nhiệm vụ giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cho thế hệ trẻ

Căn cứ vào nhiều kết luận của các đại hội Đảng và một số thành tựu nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh, bước đầu có thể nêu lên một số nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là:

Tư tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người;

Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, “không có gì quý hơn độc lập tự do”.

Tư tưởng về phương pháp cách mạng, nghệ thuật chỉ đạo chiến lược và sách lược;

Tư tưởng về xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước kiểu mới, xây dựng quân đội nhân dân; về đại đoàn kết và về dân vận (trong đó có vận động thanh niên).

Tư tưởng về đạo đức cách mạng… Một mặt, cần nghiên cứu để hiểu sâu hơn, có hệ thống hơn những di sản quý báu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại. Mặt khác, rất quan trọng là làm sao đưa được tư tưởng Hồ Chí Minh, phong cách Hồ Chí Minh, đạo đức Hồ Chí Minh đến từng cán bộ đảng viên, đoàn viên và nhân dân để tạo ra động lực tinh thần và soi sáng cho tư duy, hành động của mỗi người trong thời kỳ mới.

Xin vắn tắt nêu một số suy nghĩ về Đoàn Thanh niên với việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cho thanh niên trong thời gian tới.

Một là , thông qua sinh hoạt Đoàn, Hội thanh niên và các phương tiện thông tin đại chúng, Đoàn cần phổ biến, truyền đạt tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là những lời chỉ bảo của Bác Hồ đối với thanh niên một cách thường xuyên, liên tục.

Hai là, các cấp bộ Đoàn, Hội cần tổ chức cho cán bộ học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên và công tác thanh niên; quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn của công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong thời kỳ đổi mới.

Có thể nói, mọi đối tượng thanh niên (công nhân, nông dân, bộ đội, cán bộ KHKT, học sinh, sinh viên…) đều tìm thấy trong những lời chỉ dẫn ân cần của Bác Hồ các giá trị định hướng cho suy nghĩ và hành động của mình trong tình hình hiện nay.

Ba là, hiện nay đang phát triển mạnh phong trào Thanh niên lập nghiệp, Tuổi trẻ giữ nước, thanh niên tình nguyện, 4 đồng hành và 5 xung kích, các chương trình hành động của Đòan… Những điển hình tiên tiến cá nhân và tập thể xuất hiện ngày càng nhiều.

Đây chính là những tấm gương Người tốt việc tốt mà sinh thời Hồ Chí Minh luôn cổ vũ và khen ngợi. Các tỉnh, thành Đoàn cần mở rộng các hình thức cổ vũ phong trào người tốt, việc tốt, tuyên truyền, giáo dục thanh niên rèn luyện và cống hiến qua việc giới thiệu thường xuyên những điển hình tiên tiến.

Bốn là, cần hình thành bộ môn Tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh về thanh niên và công tác thanh niên trong hệ thống trường Đoàn từ Trung ương đến địa phương. Muốn làm việc này phải chuẩn bị đồng thời cả hai mặt: đào tạo đội ngũ cán bộ và chuẩn bị giáo trình.

Cuối cùng, chúng tôi cho rằng tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên và công tác thanh niên đã được Đảng ta quán triệt trong nhiều nghị quyết của Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên, trong nhiều văn bản của Nhà nước ta đã ban hành. Vì vậy, quá trình nghiên cứu, học tập và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh cần kết hợp chặt chẽ với việc thực hiện có kết quả các chủ trương của Đảng về đổi mới công tác thanh niên.

Các ngành, các cấp xây dựng được chương trình, kế hoạch hành động để thực hiện nghị quyết của Đảng cũng là quán triệt và thực hiện những tư tưởng, chỉ dẫn của Bác đối với sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ.

Đoàn Thanh niên phải tích cực, chủ động hơn trong việc phối hợp với các ngành, đoàn thể nhằm giáo dục tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho thế trẻ, đề xuất với Đảng và Nhà nước ban hành các thể chế, chính sách cụ thể theo tư tưởng Hồ Chí Minh (như đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo, chính sách giải quyết việc làm và các vấn đề xã hội của thanh niên, bồi dưỡng tài năng trẻ … nhằm tạo ra những điều kiện và môi trường thuận lợi cho quá trình giáo dục và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh trong thanh thiếu niên.

Hồ Đức Việt
Nguyên Bí thư thứ nhất BCH T.Ư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh

(19) Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên, Sđd, tr.30
(20) Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên , Sđd, tr.100, 166
(21) (22) Hồ Chí Minh tuyển tập, t.5, NXB Sự thật, Hà Nội 1985, tr. 393

tienphong.vn

Tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên và công tác thanh niên (Phần B)

>>  Phần A

TP – Giáo dục, đào tạo thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Trên cơ sở nhìn nhận, đánh giá một cách toàn diện vai trò, vị trí và khả năng cách mạng của thanh niên, Hồ Chí Minh đã nêu lên tư tưởng chiến lược về “trồng người”, về đào tạo, bồi dưỡng thanh niên thành lớp người có đức, có tài, kế tục sự nghiệp cách mạng một cách trung thành và xuất sắc. Tư tưởng ấy được cô đọng lại, đúc kết và nâng cao từ thực tiễn sinh động của hơn nửa thế kỷ lãnh đạo cách mạng của Người.

Đó là: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Có thể nói, đây là tư tưởng bao trùm nhất của Hồ Chí Minh về công tác thanh niên; bồi dưỡng và phát huy lực lượng thanh niên là bản chất của công tác vận động thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Năm 1958, nói chuyện tại lớp học chính trị của các giáo viên cấp II và III toàn miền Bắc, Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề “trồng người”: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” (8).

Thật ra không phải đến lúc đó Hồ Chí Minh mới nghĩ đến chiến lược “trồng người”, mà ngay từ khi bắt đầu cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã ý thức một cách rõ ràng về chiến lược “trồng người”, luôn xem đó là một trong những nguyên tắc cơ bản của cách mạng.

Nhắc lại việc thực hiện tư tưởng cách mạng có ý nghĩa chiến lược đó, năm 1961, tại Đại hội lần thứ 3 của Đoàn Thanh niên lao động Việt Nam, Hồ Chí Minh kể lại rằng:

“Từ năm 1925, ngay từ khi mới thành lập, Hội thanh niên cách mạng đồng chí đã lo đặt viên đá đầu tiên để chuẩn bị cho tổ chức Thanh niên sau này. Lúc đó, Hội bắt đầu nuôi dạy 10 thiếu niên Việt Nam… và cuối cùng chỉ còn lại một Lý Tử Trọng là người thanh niên cộng sản Việt Nam đã anh dũng hy sinh cho cách mạng.

Từ chỗ chỉ có một Lý Tử Trọng, đến ngày nay chúng ta có 78 vạn đoàn viên Đoàn Thanh niên lao động hăng hái ra sức giúp Đảng xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất Tổ quốc. Tiến bộ đó làm cho Bác rất vui sướng và trẻ lại. Nó làm cho lòng Bác phơi phới như hoa nở trong mùa xuân (9).

Sau này, trong nhiều bài nói và bài viết, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở toàn Đảng, toàn dân ta phải xem trọng và có trách nhiệm trong việc giáo dục, đào tạo các thế hệ tương lai. Người căn dặn “phải uốn cây từ lúc cây non”, phải trồng người từ lúc con người còn ấu thơ. Cho đến lúc sắp từ giã cõi đời, tư tưởng “trồng người”“bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau” vẫn được Hồ Chí Minh khẳng định trong Di chúc.

Trong thực tế, Hồ Chí Minh không chỉ nghĩ mà chính Người đã dành nhiều công sức cho việc tạo nên những hạt giống cho sự nghiệp cách mạng; giáo dục, rèn luyện và đào tạo nhiều thế hệ thanh thiếu niên nước ta trở thành những cán bộ, đảng viên và chiến sĩ cách mạng ưu tú, thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa“chuyên”.

Hơn bao giờ hết, ngày nay tư tưởng Hồ Chí Minh trong chiến lược “trồng người” cũng như việc “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau” càng đặt ra thành một yêu cầu cấp bách và giữ vai trò quyết định đối với sự nghiệp cách mạng nước ta.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung giáo dục thanh niên, vấn đề giáo dục toàn diện luôn được coi trọng, trong đó nhiệm vụ bồi dưỡng lý tưởng, đạo đức cách mạng và năng lực hoạt động thực tiễn có một vị trí đặc biệt quan trọng và then chốt.

Năm điều Hồ Chí Minh căn dặn thanh niên nhân ngày Quốc khánh 2 tháng 9 năm 1945 thể hiện rất rõ mong muốn của Người là: “Trong việc giáo dục và học tập phải chú trọng đủ các mặt: Đạo đức cách mạng, giác ngộ XHCN, văn hóa, kỹ thuật, lao động và sản xuất”.Đây là một luận điểm rất quan trọng của Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên.

Hồ Chí Minh nhiều lần căn dặn các cán bộ làm công tác thanh niên rằng cần giúp thanh niên xây dựng cho mình “lẽ sống cao đẹp”. Người dạy thanh niên phải sống có lý tưởng và chỉ rõ rằng “Lý tưởng của thanh niên ta ngày nay là độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội”.

Phải “Trung với nước, hiếu với dân” và “làm cho dân giàu nước mạnh” để “ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. “Nhiệm vụ của thanh niên không phải là đòi hỏi nước nhà đã cho mình những gì, mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà. Mình phải làm thế nào cho ích nước lợi nhà nhiều hơn” (10).

Hồ Chí Minh dạy thanh niên phải kiên trì thực hiện mục đích, lý tưởng, phải làm đầu tàu, gương mẫu, có lòng dũng cảm và ý chí cách mạng, vươn lên không chịu lùi bước trước bất cứ khó khăn, thử thách nào trên mọi lĩnh vực học tập, rèn luyện, lao động, chiến đấu, lập thân, lập nghiệp, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: “Không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền, đào núi và lấp biển, quyết chí ắt làm nên (11)”.

Hồ Chí Minh dạy thanh niên phải sống có đạo đức, phải “luôn luôn trau dồi đạo đức cách mạng”, vì đạo đức là “điều chủ chốt nhất”, “là cái gốc”, “là nền tảng để hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang”. “Không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.Đạo đức, phẩm chất mà Hồ Chí Minh mong mỏi ở thanh niên là Trung, Dũng, Cần, Kiệm, Khiêm tốn; là những điều cụ thể hằng ngày mà mỗi người có thể tự phấn đấu làm được.

Đạo đức cách mạng là “Các sự hy sinh khó nhọc thì mình làm trước người ta, còn sự sung sướng thanh nhàn thì mình nhường người ta hưởng trước”; “không ham địa vị, công danh phú quý; đem lòng chí công vô tư mà đối với mọi người, đối với việc; chớ kiêu ngạo, tự mãn, tự túc, nên nói ít làm nhiều, thân ái, đoàn kết”; “bất kỳ ở cương vị nào, bất kỳ làm công việc gì đều không sợ khó, không sợ khổ, đều một lòng một dạ phục vụ lợi ích chung của giai cấp, của nhân dân”. Đạo đức cách mạng là phải “đánh thắng và tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân (12)”.

Hồ Chí Minh yêu cầu thanh niên phải cố gắng học tập và chỉ rõ những điều cần học, học để làm gì, học thế nào và học ở đâu. Người viết: “Ở nơi nào cũng có thể học, làm việc cũng phải học (13), “Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học ở nhân dân”; “Học để làm người”, để yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu đạo đức; “Học để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu nước mạnh, tức là làm tròn nhiệm vụ người chủ nước nhà” (nói chuyện với học sinh các trường trung học Nguyễn Trãi, Chu Văn An, Trưng Vương Hà Nội ngày 18/12/1954).

Thanh niên phải “ra sức học tập nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học, kỹ thuật và quân sự để cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc, cho nhân dân (14) Thanh niên với nhiệm vụ học tập và việc hướng dẫn, giúp đỡ, tạo điều kiện cho thanh niên học tập là một nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên và công tác thanh niên.

Trong nhiệm vụ giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng thanh niên, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải đào tạo, bồi dưỡng họ thành những người “Có khả năng hoạt động thực tiễn, không nên đào tạo ra những con người chỉ thuộc sách làu làu”.

Chăm lo đào tạo, giáo dục, bồi dưỡng thanh niên, phát huy vai trò của thanh niên trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. Đây cũng là một nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh niên.

Trong cảnh nước mất, nhà tan; trong khi nhân dân chưa có cơ hội và đủ sức mạnh để vùng lên giành chính quyền, Hồ Chí Minh vạch rõ: Phải thức tỉnh thanh niên để thức tỉnh cả dân tộc. Và chính người đã lập ra tổ chức thanh niên để từ đó tổ chức ra Đảng của giai cấp công nhân.

Nhưng sau khi nhân dân ta giành được chính quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong hoàn cảnh Đảng chưa hoạt động công khai, Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Chính phủ phải lo các công việc giúp đỡ thanh niên để anh chị em thanh niên góp phần kháng chiến và kiến quốc”. Đó là vào những ngày cách mạng mới thành công.

Sau này, vào thời gian tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, có một số cấp ủy Đảng và chính quyền chưa quan tâm đúng mức đến công tác vận động thanh niên, chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng, Nhà nước tự phê bình về điều này và yêu cầu các cấp, các ngành sớm khắc phục. Người thường xuyên đòi hỏi: “Từ nay, Trung ương và các cấp Đảng bộ địa phương sẽ săn sóc hơn nữa đến công tác của Đoàn”.

Trong di chúc thiêng liêng để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta, Người vạch rõ rằng Đảng và Nhà nước phải có chính sách bồi dưỡng, đào tạo thanh niên thành những người vừa“hồng”, vừa “chuyên”…

Giáo dục thông qua hoạt động thực tiễn, thông qua tổ chức; xây đi đôi với chống; học đi đôi với hành, xử lý tốt mối quan hệ giữa giáo dục và tự giáo dục; nêu gương người tốt, việc tốt… là những luận điểm quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục thanh niên.

Là nhà giáo dục lớn, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến khoa học sư phạm và phương châm, phương pháp giáo dục phù hợp với đối tượng thanh niên.

Trong nhiều bài viết, bài nói, Người đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của phương pháp giáo dục thanh niên, thường nhắc nhở chúng ta những vấn đề rất cơ bản. Người nói:“Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển, củng cố” (15).

Người nhấn mạnh rằng: “Công cuộc xây dựng đất nước là trường học rất tốt cho chúng ta rèn luyện đạo đức cách mạng (16); và “Giáo dục thanh niên không thể tách rời mà phải liên hệ chặt chẽ với những cuộc đấu tranh xã hội” (17).

Theo Hồ Chí Minh, giáo dục trong hành động, giáo dục trong thực tiễn, đào tạo bồi dưỡng bằng thử thách qua giao việc, trao nhiệm vụ với lòng tin yêu, tạo điều kiện giúp đỡ thanh niên hoàn thành nhiệm vụ là “cách tốt nhất”, là phương pháp phù hợp với đặc điểm thanh niên.

Hồ Chí Minh dạy thanh niên phải tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân để rèn luyện, trưởng thành. Đồng thời, Người cũng chỉ ra rằng thanh niên muốn tập hợp để thành sức mạnh, để giúp nhau tiến bộ phải đứng trong tổ chức.

Năm 1925, khi chuẩn bị thành lập Đoàn, Người đã viết trong cuốn “Đường cách mệnh”: “Thanh niên cộng sản đoàn là cái trường huấn luyện thanh niên”. Hồ Chí Minh cho rằng, thanh niên sẽ được hướng dẫn, giúp đỡ khi đứng trong tổ chức. Sau cách mạng tháng Tám thành công, Hồ Chí Minh chỉ thị thành lập Tổng đoàn thanh niên Việt Nam (tiền thân của Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam) do Đoàn Thanh niên cứu quốc làm nòng cốt để đoàn kết, tập hợp mọi thanh niên yêu nước, giúp họ giác ngộ cách mạng.

Trong kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh lại chỉ thị thành lập các đơn vị thanh niên xung phong: Đây là một hình mẫu đầy sáng tạo nhằm giúp thanh niên có cơ hội rèn luyện và cống hiến trong một tổ chức phù hợp với đặc điểm của thanh niên, lại được lãnh đạo chặt chẽ, đảm bảo thực hiện mọi nhiệm vụ trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ. Ngày nay, hình mẫu thanh niên xung phong vẫn đang tiếp tục phát huy tác dụng trong việc góp phần xây dựng, bồi dưỡng nhân cách cho lớp người mới.

Như vậy, luận điểm của Bác về đào tạo, giáo dục thanh niên thông qua các tổ chức Đoàn, Hội và các hình thức tập hợp khác do Đoàn, Hội chi phối đã thực sự phát huy tác dụng và phát triển từ thấp lên cao trong suốt tiến trình cách mạng từ khi có Đảng đến nay.

Trong thời gian tới, vấn đề xây dựng, củng cố tổ chức Đoàn, Hội thanh niên vững mạnh là một trong những biện pháp cơ bản, một phương thức hết sức quan trọng nhằm góp phần giáo dục, hoàn thiện nhân cách cho tuổi trẻ.

Trong một dịp nói chuyện với Đoàn viên thanh niên, Bác dạy: “Thanh niên phải biết xây dựng cái gì và chống lại cái gì”. Người rất quan tâm đến vấn đề xây dựng ý chí cách mạng, lòng dũng cảm, tính vị tha, tính nhân đạo… Người khuyên thanh niên cần chống lại ba loại kẻ thù: Chủ nghĩa đế quốc, thói quen và truyền thống lạc hậu, chủ nghĩa cá nhân. Các nội dung xây và chống vừa nêu trên còn nguyên giá trị thời sự và luôn nhắc nhở chúng ta thường ngày.

Xuất phát từ niềm tin yêu đối với tuổi trẻ, nhất là đối với khả năng cách mạng của họ; xuất phát từ sự đánh giá khách quan những đặc điểm của thanh niên, Hồ Chí Minh dạy rằng“cần kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục và tự giáo dục”. Người nói: “Thanh niên ta bây giờ là một thế hệ vẻ vang, vì vậy cho nên phải tự giác tự nguyện mà tự động cải tạo tư tưởng của mình để xứng đáng với nhiệm vụ của mình” (18).

Hồ Chí Minh là người chỉ đạo trực tiếp cuộc cải cách trong phương thức đào tạo ngay sau khi nhân dân ta vừa giành được chính quyền. Người nhấn mạnh phương châm: “Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội”.

Từ thực tiễn cuộc sống, Hồ Chí Minh hiểu rõ nguyện vọng tha thiết của số đông thanh niên là mong muốn phấn đấu vươn lên thành người tốt, tôn vinh những anh hùng, noi gương những hành vi cao cả… Chính vì lẽ đó, Người có sáng kiến lớn phát động trong nhân dân ta, trước hết là trong thanh niên phong trào “Người tốt, việc tốt”.

Bác dạy: “Trong mỗi con người có cả mặt tốt, mặt xấu. Lấy gương người tốt, việc tốt để giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”. Hồ Chí Minh trực tiếp theo dõi trên báo chí, đọc báo cáo của các ngành, đoàn thể… và đánh dấu những gương người tốt, việc tốt, cho kiểm tra rồi tặng thưởng huy hiệu của Người.

(Phần C)

Hồ Đức Việt
Nguyên Bí thư thứ nhất BCH T.Ư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh

(8), (9) Hồ Chí Minh, Tuyển tập, t.2, NXB Sự thật, 1980, tr.91, 219
(10) Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên, Sđd, tr.132-133
(11) (12) (13) (14) Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên, tr. 93, 288, 415, 376
(15) (16) (17) Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên, tr. 212, 199, 133
(18) Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên, Sđd, tr. 183

tienphong.vn

Tư tưởng độc lập tự do với chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh

Việt Nam là một quốc gia dân tộc có một nền văn hóa đặc sắc đ­ược hình thành và phát triển trên một nghìn năm lịch sử. Dân Việt Nam có tinh thần cố kết, đùm bọc lẫn nhau, đoàn kết chặt chẽ thành một khối thống nhất ngày càng bền vững, có ý chí độc lập và khát vọng tự do, có ý thức về chủ quyền, thống nhất đất nư­ớc.

Độc lập tự do là quyền vô cùng thiêng liêng của dân tộc Việt Nam. Chủ nghĩa dân tộc, ý chí độc lập, tự do là dòng chủ l­ưu xuyên suốt của lịch sử, là nền tảng tinh thần của sự trư­ờng tồn và phát triển, là động lực vô địch của Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là sức mạnh để chiến đấu đánh bại quân xâm l­ược ngoại bang.  Nghiên cứu tiến trình lịch sử Việt Nam, Hồ Chí Minh đã viết: nhờ ý chí độc lập và lòng khát khao tự do hơn là nhờ quân đông sức mạnh, n­ước Nam đã thắng” quân phong kiến Trung Quốc đến xâm l­ược nước ta. Từ lịch sử Việt Nam và thế giới, Ng­ười đã nêu một luận điểm về quyền thiêng liêng nhất của các n­ước trên thế giới rằng: “Tự do độc lập là quyền trời cho của mỗi dân tộc…Hễ một dân tộc đã đứng lên kiên quyết tranh đấu cho Tổ quốc họ thì không ai, không lực l­ượng gì chiến thắng đư­ợc họ”.

Từ giữa thế kỷ XIX, nư­ớc ta bị thực dân Pháp xâm lược và thống trị. Việt Nam từ một n­ước độc lập đã biến thành một n­ước thuộc địa. Mâu thuẫn giai cấp của xã hội Việt Nam có sự chuyển biến lớn. Sự xung đột về quyền lợi giai cấp trong nội bộ dân tộc vốn không diễn ra giống như­ các n­ước phương Tây. Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp trở thành mâu thuẫn chủ yếu và diễn ra ngày càng gay gắt. Dựa trên động lực của chủ nghĩa dân tộc truyền thống, nhân dân Việt Nam đã liên tiếp nổi dậy đấu tranh, song vì thiếu một định hư­ớng chiến l­ược cách mạng khoa học phù hợp với yêu cầu phát triển mới của dân tộc nên ch­a thể thành công. Trong bối cảnh lịch sử đó, ng­ười thanh niên yêu nư­ớc và cấp tiến Nguyễn Tất Thành – Hồ Chí Minh đã dấn thân trên các nẻo đường của thế giới để khảo sát, học hỏi, suy ngẫm về con đư­ờng cứu n­ước, giải phóng dân tộc phù hợp với điều kiện đất nư­ớc lịch sử và con ng­ời Việt Nam.

Bằng thiên tài trí tuệ, với phẩm chất, nhân cách và bằng hoạt động thực tiễn của mình, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu, kế thừa và nâng lên tầm cao mới của thời đại nguồn giá trị văn hóa tư­ tư­ởng truyền thống, trong đó chủ nghĩa dân tộc chân chính, sự cố kết dân tộc, ý chí độc lập tự do là dòng chủ lư­u xuyên suốt lịch sử Việt Nam để kết hợp, tiếp biến và tổng hòa, phát triển biện chứng tinh hoa văn hóa ph­ơng Đông và tư­ tư­ởng các cuộc cách mạng ở châu âu, ở Mỹ thế kỷ XVII, XVIII, đặc biệt là học thuyết cách mạng của C.Mác, V.I.Lênin, để đề ra một hệ tư­ tư­ởng cách mạng toàn diện sáng tạo mang tầm vóc một học thuyết cách mạng khoa học về giải phóng và phát triển dân tộc vì độc lập, tự do.

Cùng với việc xây dựng lý luận cách mạng, Hồ Chí Minh đã tổ chức đào tạo những chiến sĩ tiên phong cách mạng, truyền bá lý luận giải phóng dân tộc vào Việt Nam và tổ chức nhân dân.

Học thuyết cách mạng giải phóng và phát triển dân tộc của Hồ Chí Minh đ­ược truyền vào Việt Nam đã đáp ứng khát vọng thiêng liêng và nóng bỏng của nhân dân Việt Nam, trư­ớc hết là tầng lớp học sinh, sinh viên, trí thức yêu nư­ớc và cấp tiến. Họ đã dấn thân đi vào quần chúng để tuyên truyền, vận động, tổ chức họ đấu tranh, làm dấy lên trong cả n­ước một phong trào dân tộc dân chủ ngày càng mạnh mẽ. Điều đó phản ánh khá rõ sự tr­ưởng thành về chính trị, ý thức giác ngộ của phong trào quần chúng. Nhu cầu lập “Đảng cách mệnh” đã chín muồi, đ­a đến sự ra đời của các Đảng Cộng sản ở Việt Nam vào mùa Thu năm 1929.

Thực hiện trọng trách lịch sử của mình đối với dân tộc và là phái viên của Quốc tế Cộng sản có đầy đủ quyền trực tiếp quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông D­ương, Hồ Chí Minh đã triệu tập đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng và Đông D­ương Cộng sản Đảng họp từ ngày 6-1-1930 tại Cửu Long, Hồng Kông để hợp nhất thành một đảng thống nhất.

Không chỉ bằng uy tín của một ng­ười mở đ­ường xây dựng học thuyết cách mạng và với tư­ cách phái viên của Quốc tế Cộng sản, mà còn bằng thái độ chân thành và sức thuyết phục lớn, Hồ Chí Minh đã chỉ cho đại diện của hai đảng rõ về những sai lầm của họ và những việc họ phải thực hiện đã đ­a đến sự đồng thuận, thống nhất cả hai đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã nhất trí thông qua Chính cư­ơng vắn tắt, Sách lư­ợc vắn tắt – đó là C­ương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng và các văn kiện quan trọng khác. Hồ Chí Minh cũng đã quyết định phải tổ chức một Ban Chấp hành Trung ­ương lâm thời.

Do chư­a có thông tin về sự ra đời của Đông D­ương Cộng sản Liên đoàn nên Hồ Chí Minh không mời đại diện của Đảng này đến dự hội nghị hợp nhất. Vì vậy, theo yêu cầu của Đông D­ương Cộng sản Liên đoàn, ngày 24-2-1930 Đảng này đã đư­ợc hợp nhất vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự hợp nhất cả ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam đã hoàn tất.

Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp học thuyết cách mạng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác-lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu n­ước Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX. Đây là một đặc trư­ng của sự hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời thông qua thử thách sàng lọc, chọn lựa lịch sử, là sự hiện thực hóa trong cuộc đấu tranh của dân tộc theo “con đư­ờng cách mệnh” của Hồ Chí Minh.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã tạo ra một b­ước ngoặt trên con đường phát triển của cách mạng Việt Nam. Cư­ơng lĩnh cách mạng của Đảng do Hồ Chí Minh soạn thảo đư­ợc Hội nghị hợp nhất Đảng nhất trí thông qua đã đề ra chủ trương chiến lư­ợc t­ư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản; phải huy động sức mạnh của các giai cấp, tầng lớp xã hội gồm công nhân, nông dân, liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, trung tiểu địa chủ và t­ư sản bản xứ nhằm thực hiện nhiệm vụ đánh đuổi chủ nghĩa đế quốc Pháp và phong kiến làm cho nư­ớc Việt Nam đ­ược độc lập, tự do.

Cư­ơng lĩnh đầu tiên của Đảng đã kết hợp biện chứng yếu tố dân tộc và giai cấp trong đó nổi bật lên như­ một điểm son sáng chói là yếu tố dân tộc, tư­ tưởng độc lập, tự do. Đó là yếu tố chủ yếu quyết định tính độc đáo về t­ư tư­ởng và chủ trư­ơng chiến lư­ợc của Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam chứ không phải là điều “sai lầm chánh trị rất lớn và rất nguy hiểm cho cách mạng”!(3) . Giương cao ngọn cờ độc lập tự do là cơ sở t­ư tư­ởng chính trị, động lực lớn để thực hiện chiến lư­ợc đại đoàn kết dân tộc, thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất một trong những nhân tố cơ bản quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Ngay tại Hội nghị thống nhất Đảng, Hồ Chí Minh đã quyết định, sau khi thành lập Ban Chấp hành Trung ư­ơng lâm thời, ngoài công tác hàng ngày, phải tổ chức ngay Hội phản đế– tức là mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc.

Ban Chấp hành Trung ương ch­ưa kịp thành lập Hội phản đế để tập hợp và tổ chức quần chúng đấu tranh, song với ngọn cờ độc lập tự do của Hồ Chí Minh, ngay từ năm 1930 phong trào cách mạng có tính quần chúng rộng rãi đã nổ ra ở nhiều địa phư­ơng, tiêu biểu là các địa ph­ương có phong trào lên đến đỉnh cao nh­ư ở Nghệ An, Hà Tĩnh. Ở hai tỉnh này đã phát huy được sức mạnh đoàn kết dân tộc, không chỉ có công nông, mà còn có các tầng lớp trí thức, một số sĩ phu, phú nông, trung tiểu địa chủ và một số quan lại nhỏ ở nông thôn cũng tham gia hoặc ủng hộ phong trào. Ngay cả khi phong trào cách mạng bị thực dân Pháp và tay sai khủng bố, đàn áp dã man, các tầng lớp từ trí thức, trung tiểu địa chủ có xu hướng cách mạng cũng vẫn kính phục Đảng Cộng sản, phong trào công nông và âm thầm ủng hộ cách mạng (4).

Tư­ tư­ởng độc lập tự do của Hồ Chí Minh ngày càng thấm đ­ợm trong đường lối, chủ tr­ương, chính sách và tổ chức của Đảng – nhất là từ sau khi Ngư­ời về nước trực tiếp lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.

Từ thực tiễn phong trào cách mạng những năm 1930- 1935 và sau sự chuyển hư­ớng chính trị của Đại hội lần thứ bảy của Quốc tế Cộng sản, Ban Chấp hành Trung ­ương Đảng đã có nhận thức ngày càng đúng hơn quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và giai cấp, giữa vấn đề chống đế quốc và chống phong kiến, trong đó vấn đề dân tộc là vấn đề chủ yếu xuyên suốt lịch sử của Việt Nam. Văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới của Đảng công bố tháng 10-1936 đã nêu rõ: “Đông D­ương là xứ thuộc địa…, nhiệm vụ của Đảng Cộng sản ở đó không những phải thâu phục đa số thợ thuyền, mà còn cần phải thâu phục quảng lại quần chúng nông dân và tiểu tư­ sản ở thành thi. Đồng thời trong lúc lập mặt trận rộng rãi chúng ta lại phải thâu phục hết các lớp trong nhân dân” (5). Đảng Cộng sản Đông D­ương, những chiến sĩ cộng sản của Đảng chính là con cháu của các dân tộc ở Đông Dương phải bênh vực anh em đồng bào bị áp bức, chiến đấu với khẩu hiệu tất cả vì Tổ quốc, Đảng phải là “Đảng của dân chúng bị áp bức, đội tiên phong cho cuộc dân tộc giải phóng” (6).

Từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Pháp – Nhật cấu kết với nhau, nhân dân các dân tộc Đông D­ương sống trong nỗi nhục một cổ hai tròng áp bức, càng làm cho mâu thuẫn giữa các dân tộc ở Đông Dư­ơng với Pháp – Nhật trở nên sâu sắc và gay gắt hơn bao giờ hết. Lúc này, Nhân dân Việt Nam “… ai cũng chán ghét cuộc đời nô lệ, ai cũng muốn độc lập, tự do, và đang trong t­ư thế một ng­ười lên tiếng vạn ng­ời ủng hộ” (7).

Giữa lúc đó, tháng 5- 1941 , Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp do Hồ Chí Minh chủ trì đã quyết định thay đổi chiến lư­ợc cách mạng giải phóng dân tộc, thực hiện nhiệm vụ cần kíp là đánh đuổi Pháp và Nhật, giành lại quyền độc lập, tự do. Để làm tròn nhiệm vụ thiên liêng đó đối với đất nước phải thực hiện đại đoàn kết dân tộc trong một mặt trận có tính chất dân tộc rộng rãi hơn với tên gọi là Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh. Sau khi đánh đuổi đư­ợc Pháp – Nhật sẽ thành lập một nhá nư­ớc dân chủ mới theo thể chế dân chủ cộng hòa, là một nhà nư­ớc chung của toàn dân tộc chứ không phải của riêng một đảng phái, của một giai cấp nào cả. Chính phủ nư­ớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lấy lá cờ đỏ ngôi sao vàng năm cánh làm cờ của toàn quốc. Chính phủ ấy do Quốc dân đại hội cử ra.

Ngày 2 5- 1 0- 194 1 , Việt Nam độc lập đồng minh – Việt Minh tuyên bố ra đời. “Việt Minh chủ trư­ơng liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, trai gái, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau m­ưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn” (8).

Bản Ch­ương trình cứu n­ước của Việt Minh gồm 44 chính sách lớn về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và những chính sách cụ thể đối với các tầng lớp nhân dân cốt để thực hiện hai điều mà toàn thể đồng bào trong cả nư­ớc mong ước là:

1 – Làm cho n­ước Việt Nam đ­ược hoàn toàn độc lập;

2 – Làm cho dân Việt Nam được sung sư­ớng, tự do.

Sự thay đổi chiến lư­ợc cách mạng t­ư sản dân quyền thành chiến lư­ợc cách mạng giải phóng dân tộc, vì độc lập tự do là một chủ trư­ơng đúng đắn, sáng tạo của Hồ Chí Minh. Đó là cơ sở chính trì để thành lập Việt Minh, một mặt trận đại đoàn kết dân tộc tiêu biểu, hoàn chỉnh về chính trị và tổ chức, trên đ­ờng hình thành và phát triển Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam. Hồ Chí Minh là Người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Mặt trận, là hiện thân của khối đại đoàn kết dân tộc.

Sự ra đời và hoạt động của Việt Minh đã động viên và tập hợp đ­ược sức mạnh của dân tộc trong toàn quốc đứng lên đánh Pháp, đuổi Nhật, xóa bỏ bộ máy của Nhật bằng cuộc khởi nghĩa dân tộc tháng 8- 1945, thành lập Chính phủ lâm thời nư­ớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Đây là một điển hình thành công về chiến lư­ợc, ph­ương thức và nghệ thuật khởi nghĩa dân tộc, đ­ưa t­ư t­ưởng độc lập tự do của Hồ Chí Minh thành hiện thực của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Ở Việt Nam.

Vào giữa tháng 8-1945, thời cơ khởi nghĩa đã chín muồi. Cơ hội ngàn năm có một của dân tộc đã đến. Theo quyết định của Đảng và Tổng bộ Việt Minh, và Quốc dân đại hội mang tính chất và tầm vóc lịch sử một tổ chức tiền thân của Quốc hội nư­ớc Việt Nam dân chủ mới – Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nhất trí quyết tâm đem sức mạnh của toàn dân tộc để chuyển xoay vận n­ước bằng cuộc khởi nghĩa dân tộc, xóa bỏ bộ máy thống trị của Nhật, thành lập chính quyền cách mạng của toàn dân Việt Nam.

Cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 là sự vùng dậy mãnh liệt với một tinh thần dũng cảm của khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam trong cả nư­ớc. Lực l­ượng quần chúng đư­ợc tổ chức từ trư­ớc hoặc mới đ­ược tham gia vào tổ chức Cứu quốc ngay trong đêm tr­ớc cuộc khởi nghĩa và cả đông đảo quần chúng chư­a tham gia vào tổ chức Việt Minh, theo mệnh lệnh của trái tim yêu nước, lòng khát khao độc lập tự do đã xuống đư­ờng đồng hành với khối quần chúng đấu tranh giành chính quyền. Ngay cả Bảo Đại cũng đã ra tuyên cáo thoái vị, để Chính phủ Dân chủ Cộng hòa thực hiện quyền điều khiển quốc dân Việt Nam và từ nay đ­ược làm dân tự do của một n­ước độc lập. Việc Bảo Đại thoái vị và 8 ngày sau lễ tuyên bố độc lập, Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 23/SL (10-9- 1945 ) cử làm Cố vấn Chính phủ lâm thời là một sự kiện có ý nghĩa về cả tinh thần và tính “hợp pháp hóa” truyền thống đã đư­ợc thừa nhận trên thế giới.

Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời nư­ớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – đại biểu cho toàn dân Việt Nam, long trọng công bố Bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào và thế giới rằng: “N­ước Việt Nam có quyền h­ưởng tự do và độc lập, và thực sự đã thành một n­ước tự do độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy” (9)

Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam phát triển đến đỉnh cao thắng lợi bằng cuộc khởi nghĩa dân tộc tháng 8-1945. Chính phủ n­ước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Chính phủ đại diện cho toàn dân Việt Nam chứ không phải của riêng thuộc về một đảng phái hoặc một giai cấp nào khác. Nghị quyết của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hanh Trung ­ương Đảng do Hồ Chí Minh đã chỉ rõ như­ vậy để chỉ đạo cho toàn dân đấu tranh giải phóng dân tộc.

Khởi nghĩa dân tộc hay chiến tranh giải phóng dân tộc là phư­ơng thức đấu tranh cơ bản của nhân dân các n­ước thuộc địa để giành lại quyền độc lập của dân tộc. V.I.Lênin đã từng đề cập đến những lò lửa khởi nghĩa dân tộc xuất hiện gắn liền với cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa đế quốc, đã bùng cháy ở các thuộc địa, ở cả châu Âu và “đã có những mư­u đồ khởi nghĩa ở An-nam thuộc Pháp” (10). Cũng theo V.I.Lênin, khởi nghĩa dân tộc là: “một cuộc khởi nghĩa nhằm thiết lập quyền độc lập chinh trị của dân tộc bị áp bức, nghĩa là nhằm tạo ra một quốc gia dân tộc riêng biệt” (11). Và cần thấy rằng: “cuộc khởi nghĩa dân tộc cũnglà “bảo vệ Tổ quốc!”. Như­ng ai chịu khó suy nghĩ một chút thì cũng đều nhận thấy đúng nh­ư thế, vì bất cứ “một dân tộc nào nổi dậy” cũng tự “bảo vệ” chống lại dân tộc đi áp bức, bảo vệ ngôn ngữ của mình, đất đai của mình, Tổ quốc của mình. Bất cứ một sự áp bức dân tộc nào cũng gây ra sự phản kháng trong quảng đại quần chúng, và xu h­ướng của bất cứ một sự phản kháng nào của dân c­ư bị áp bức về mặt dân tộc cũng là khởi nghĩa dân tộc” (12) .

Cuộc khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 là một điển hình thành công về nghệ thuật khởi nghĩa dân tộc, phản ánh rõ tiềm năng sáng tạo của Đảng, của dân tộc mà trư­ớc hết là của Hồ Chí Minh, Ng­ười đã vạch ra một hệ t­ư tưởng cách mạng Việt Nam mang tầm vóc một học thuyết giải phóng và phát triển dân tộc vì độc lập tự do. Trên cơ sở học thuyết đó, Ngư­ời đã lãnh đạo Đảng vạch ra đ­ường lối chính trị, tổ chức lực l­ượng của dân tộc theo chiến l­ược đại đoàn kết dân tộc, thực hiện ph­ương thức khởi nghĩa sáng tạo, đã dẫn đến thắng lợi của cuộc cách mạng giải phóng, đánh đuổi đ­ược Pháp – Nhật, giành lại quyền làm chủ đất n­ước, và nguồn giá trị văn hóa hơn ngàn năm lịch sử.

Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một điển hình thành công về sự thức tỉnh ý thức dân tộc vì độc lập, tự do, về sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Ngày 6-10- 1945 , khi nói chuyện với đại biểu các báo chí về nội trị, ngoại giao nhà n­ước, Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Có một điều chúng ta đáng mừng là cách mạng Việt Nam đã có một ưu điểm so với cách mạng các n­ước Nga, Tàu, Pháp. Cách mạng ở đâu thành công cũng phải đổ máu nhiều. Có nư­ớc phải chặt đầu vua. Có nước đồng bào chia đảng phái, chém giết nhau liên tiếp trong bao nhiêu năm. Nư­ớc ta, vua tự thoái vị, các đảng phái không có mấy. Trong một thời gian ngắn, các giai cấp đoàn kết thành một khối, muôn dân đoàn kết để m­ưu hạnh phúc chung là n­ước được hoàn toàn độc lập và chống được giặc xâm lăng, đuổi bọn thực dân tham ác ra ngoài bờ cõi” (13). Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập nên n­ước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đư­a Đảng ta từ một đảng hoạt động bí mật bất hợp pháp trở thành một đảng cầm quyền trong cả nư­ớc là một minh chứng về giá trị sáng tạo của học thuyết giải phóng và phát triển vì độc lập tự do và chiến l­ược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh.

Gi­ương cao ngọn cờ độc lập tự do, phát huy mạnh mẽ động lực dân tộc, thực hiện chiến l­ược: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”, lấy khối liên minh công nông và trí thức làm cơ sở, đoàn kết chân thành với mọi lực l­ượng yêu nư­ớc và tiến bộ của dân tộc trong cuộc Cách mạng Tháng Tám đư­ợc Hồ Chí Minh và Đảng tiếp tục phát triển trong điều kiện mới đã đ­ưa đến thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (l945 – 1954) và kháng chiến chồng Mỹ ( 1954- 1975), hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất đất n­ước.

PGS Lê Mậu Hãn (*)

(*) Bài tham luận tại Hội thảo “Đảng Cộng sản Việt Nam- 80 năm xây dựng và phát triển” do Học viện Chính trị- Hành chính quốc ra tổ chức ngày 26/1/2010, nhân dịp kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930- 3/2/2010).

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H 2002, t1, tr 80
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H 2002, t5, tr 7
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia. H. 1998, t2, tr 236
(4) Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia. H. 1998, t2, tr229
(5), (6) Đảng Cộng sản Việt Nam: văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia. H. 2005, t5, tr155, 150
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H 2002, t3, tr 174
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam: văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia. H. 2000, t7, tr 461
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H 2002, t4, tr 4
(10), (11), (12) V.I.Lênin: toàn tập, Nxb,. Tiến bộ, M. 1981, t30, tr67, 150, 147
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H 2002, t4, tr 43-44

tuyengiao.vn

Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”

Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết năm 1947, hai năm sau khi Nhà nước giành được độc lập, có giá trị đặc biệt cả về lý luận và thực tiễn. Lúc bấy giờ đất nước ta vẫn tồn tại hai loại chính quyền: chính quyền do thực dân Pháp dựng lên và chính quyền cách mạng. Nhưng Bác biết rằng chính quyền cách mạng sẽ nắm được quyền lãnh đạo, và để nắm được quyền quản lý đất nước thì chính quyền cách mạng phải có các phẩm chất tốt. “Sửa đổi lối làm việc” – nói cho cùng, đó là sửa đổi tinh thần cơ bản của những người nhận trách nhiệm hướng dẫn và lãnh đạo một dân tộc nhằm mục tiêu giải phóng Tổ quốc, giải phóng nhân dân. Tác phẩm của Bác đã quán triệt tinh thần đó, với lối viết cô đọng, sáng rõ và cụ thể, “Sửa đổi lối làm việc” trước hết thể hiện tư tưởng và tình cảm là tất cả vì nhân dân.

Cả cuộc đời của Hồ Chí Minh – kể từ khi bước chân ra đi tìm đường cứu nước tới khi viết những dòng Di chúc cuối cùng – tất cả đều toát lên một tư tưởng vĩ đại: vì Nhân Dân! Nhân dân trong tâm hồn Bác như một nỗi thương cảm, nỗi day dứt, như mục tiêu sống của mình. Nhân dân Việt Nam có lịch sử lâu dài nghìn năm, trong đó có thời gian dài với thân phận đau khổ và “lép vế”. Bác đã thấu hiểu sâu sắc nỗi khổ đau, sự bất hạnh và thân phận “lép vế” của một dân tộc bị “giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm” hoành hành. Cuộc cách mạng mà Bác và Đảng lãnh đạo chính là vì độc lập tự do cho Tổ quốc, vì dân chủ và hạnh phúc cho nhân dân.

Toàn bộ quá trình hoạt động cách mạng của Bác là để giải phóng nhân dân, như Bác đã nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”…1 Toàn bộ tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” thể hiện nỗi khắc khoải chính trị, những ưu tư, băn khoăn của Người và mong muốn cán bộ cách mạng thay đổi phong cách làm việc để tất cả vì nhân dân phục vụ. Nếu nhìn từ góc độ này thì chúng ta thấy cả cuộc đời của Bác là nỗi niềm đau đáu vì hạnh phúc của nhân dân. Qua tác phẩm này, chúng ta hiểu được một điều sâu sắc rằng: Bác quan tâm đến nhân dân với tất cả tấm lòng và tình cảm của Người.

Cũng xuất phát từ tình cảm đó mà trong “Sửa đổi lối làm việc” Bác đặt vấn đề cho những người phục vụ nhân dân, “người lãnh đạo là người đầy tớ của nhân dân” phải có phẩm chất và đạo đức cách mạng. Bác yêu cầu những cán bộ cách mạng phải trung thành tuyệt đối với lý tưởng và mục tiêu của Đảng là suốt đời rèn luyện đạo đức cách mạng để phục vụ nhân dân. Chính vì nỗi lo lắng ấy, nên Bác đã đặt ra vấn đề rèn luyện đạo đức đối với các đồng chí của mình. Bằng tác phẩm này, Bác trang bị cho các đồng chí của mình các công cụ và tiêu chuẩn đạo đức nhằm hai mục đích rất rõ ràng: Thứ nhất là, thu hút sự ủng hộ của nhân dân để tiến hành một cách thuận lợi cuộc kháng chiến; và thứ hai là, để cán bộ cách mạng sửa chữa những thói hư, tật xấu thường có trong mỗi người để rèn luyện và nêu cao đạo đức cách mạng, nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền.

Bác quan niệm: cán bộ cách mạng là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ, giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời báo cáo tình hình của dân cho Chính phủ rõ, để đặt chính sách cho đúng. Từ định hướng đó, Người khẳng định rằng, cán bộ là cái “gốc” của mọi công việc. Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay xấu có ảnh hưởng quyết định tạo nên.

Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Người phê bình những khuyết điểm, yếu kém trong công tác cán bộ, đồng thời đề ra những quan điểm và giải pháp về vấn đề cán bộ, trong đó việc đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trở thành những người có văn hóa, có tri thức và nghiệp vụ. Điều đó được thể hiện:

1. Về việc đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ. Vì cán bộ là cái “gốc” của mọi công việc, do đó, huấn luyện cán bộ là công việc “gốc” của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ huấn luyện nghề nghiệp cho cán bộ là khâu đầu tiên. Vì rằng, cán bộ làm nghề nào, ngành nào cũng phải học cho thành thạo công việc ở ngành, nghề ấy. Đồng thời, phải nghiên cứu những chính sách, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Chính phủ; học tập những kinh nghiệm thành công và thất bại; học tập lịch sử truyền thống cách mạng và sự phát triển trong từng thời kỳ… Theo đó, việc huấn luyện phải sắp xếp cách dạy và học, kiểm tra kết quả, sao cho cán bộ dần dần đi đến thành thạo công việc; huấn luyện chính trị, môn nào cũng phải có; cần coi trọng nâng cao kiến thức văn hóa.

2. Về bồi dưỡng và sử dụng cán bộ. Đảng luôn coi cán bộ như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu; trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi người có ích cho công việc chung.

Theo tư tưởng của Người, Đảng phải hiểu biết rõ cán bộ, xem xét lại nhân tài và tìm nhân tài mới. Phải cất nhắc cán bộ cho đúng; cán bộ phải được tập thể tin cậy, bố trí đúng ngành nghề đào tạo, huấn luyện. Một trong những vấn đề Bác đặc biệt quan tâm, đó là đặt đúng người vào đúng công việc thích hợp: phải khéo dùng cán bộ; phải biết tùy tài mà dùng người; phải phân phối cán bộ cho đúng; phải dùng người đúng chỗ, đúng việc. “Dụng nhân như dụng mộc” – không chỉ có ý nghĩa lý luận, mà còn có giá trị thực tiễn cách mạng. Ngay từ khi mới giành được chính quyền năm 1945, Bác đã thành lập một Chính phủ Liên hiệp, đoàn kết, mở rộng, tập hợp xung quanh Bác những nhân sỹ trí thức (cả quan lại của chế độ cũ). Giành chính quyền, đạp đổ chế độ phong kiến và ngai vàng của vua chúa, nhưng Bảo Đại được Bác mời làm Cố vấn Chính phủ mới. Ông vua không bị treo cổ như khi cách mạng Pháp và cách mạng Nga thành công. 12 vị quan chức của Chính phủ thân Nhật – Trần Trọng Kim, thì 10 vị được tham gia Chính phủ Cụ Hồ, như các ông Hoàng Xuân Hãn, Trần Đình Nam, Phan Anh… Có đến 50 ghế Nghị sỹ thuộc lực lượng chống đối được quyền đặc cách, không qua bầu cử Quốc hội. Những người không phải đảng viên như bác sỹ Trần Duy Hưng, bà Thục Viên, Vũ Đình Hòe, Phan Kế Toại, Phạm Khắc Hòe, Đỗ Đức Dục… đều được trọng dụng và có những đóng góp lớn cho cách mạng ở vị trí công tác của mình. Thậm chí, những nhân vật chính trị như Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh cũng được mời tham gia Chính phủ. Nghĩa là Bác đã sử dụng từng đối tượng trong từng hoàn cảnh cụ thể để phục vụ cho lợi ích cách mạng. Đó là sự thể hiện tinh túy và cốt lõi của“Sửa đổi lối làm việc” để bồi dưỡng và giáo dục cán bộ cách mạng.

Khi đã đặt cán bộ thích hợp với công việc, cần tiếp tục giúp họ có điều kiện hoàn thành công việc một cách có hiệu quả: luôn luôn dùng lòng thân ái mà giúp đỡ, giúp họ sửa chữa những chỗ sai lầm; khen ngợi họ lúc làm được việc tốt, và phải luôn kiểm soát cán bộ, giữ gìn cán bộ.

Người nhấn mạnh, đối với công tác cán bộ của Đảng ta, việc xây dựng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, cất nhắc và kiểm tra cán bộ là một quy trình liên hoàn và liên tục, yêu cầu thực hiện nghiêm túc, triệt để. Cán bộ được đề bạt phải dựa vào cả quá trình tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu. Sau khi nhận chức trách, lại tiếp tục được tổ chức quan tâm theo dõi, giúp đỡ, kiểm tra. Có như vậy, công tác cán bộ của Đảng mới đem lại hiệu quả thiết thực cho sự nghiệp cách mạng.

3. Xây dựng cơ chế làm việc cho cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra có năm cách: Thứ nhất là chỉ đạo – tạo điều kiện cho họ làm, thử cho họ phụ trách, dù sai lầm chút ít cũng không sợ. Nhưng phải luôn luôn tùy hoàn cảnh mà hướng dẫn cho họ phương hướng, cách thức công tác để phát triển năng lực và sáng kiến. Thứ hai là luôn bồi dưỡng cán bộ, nâng cao tư tưởng, trình độ lý luận và cách làm việc cho họ. Việc đào tạo và sử dụng hợp lý đối với cán bộ có khéo, có đúng thì mới thực hiện được nguyên tắc vấn đề cán bộ quyết định mọi công việc. Thứ ba là thường xuyên kiểm tra để giúp họ rút kinh nghiệm, sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm. Thứ tư là khi họ sai lầm thì dùng cách thuyết phục giúp họ sửa chữa, cải tạo. Thứ năm là giúp đỡ họ điều kiện sinh sống đầy đủ để làm việc. Tùy hoàn cảnh mà giúp họ khi ốm đau, khi gia đình họ gặp khó khăn. Những điều đó quan hệ rất lớn tới tinh thần của cán bộ, và sự thân ái đoàn kết trong Đảng. Nghĩa là phải quan tâm đầy đủ cả vật chất lẫn tinh thần của người cán bộ để họ có đủ điều kiện hoạt động và phục vụ cách mạng.

4. Về chính sách cán bộ. Bác chỉ ra cần phải hiểu biết cán bộ. Vấn đề nhận xét và đánh giá cán bộ là vấn đề không đơn giản. Biết người cố nhiên là khó, tự biết mình cũng không dễ. Nếu không biết sự phải trái ở mình, thì chắc không thể nhận rõ người cán bộ tốt hay xấu. Người còn chỉ rõ các chứng bệnh của cán bộ ta như: tự cao tự đại; ưa người ta nịnh mình; do lòng yêu, ghét của mình mà đối với người khác thiếu khách quan. Không thể đem một cái khuôn khổ nhất định, chật hẹp mà lắp vào tất cả mọi người khác nhau. Phạm một trong bốn bệnh đó “cũng như mắt đã mang kính có màu, không bao giờ thấu rõ cái mặt thật của những cái mình trông”. Vì vậy, nhận xét cán bộ không nên chỉ xét ngoài mặt, chỉ xét một lúc, một việc, mà phải xét kỹ cả toàn công việc của cán bộ. Do đó, nhận xét đánh giá cán bộ phải xuất phát từ hiện thực khách quan, với quan điểm toàn diện, lịch sử – cụ thể. Qua đó mới biết chỗ tốt và chỗ xấu của cán bộ. Từ đó mà nâng cao chỗ tốt, sửa chữa chỗ xấu, trong đó Bác coi trọng nghệ thuật sử dụng cán bộ. Bác đề ra các yêu cầu như sau:

4.1. Khéo dùng cán bộ. Mục đích của việc này là cốt để thực hành đầy đủ chính sách của Đảng và Chính phủ. Đồng thời chống những chứng bệnh như: ham dùng người bà con, anh em quen biết, bầu bạn, cho họ là chắc chắn hơn người ngoài, ham dùng những kẻ nịnh hót mình, mà chán ghét những người chính trực… Vì những việc đó, kết quả là dù họ có làm bậy, mình cũng cứ bao dung, che chở, bảo hộ khiến cho chúng ngày càng hư hỏng. Đối với những người chính trực thì “bới lông tìm vết” để trả thù. Như thế, cố nhiên hỏng cả việc của Đảng, hỏng cả danh giá của người lãnh đạo.

4.2. Phải có gan cất nhắc cán bộ. Phải vì công tác, tài năng, vì cổ động cho đồng chí khác thêm hăng hái. Như thế, công việc nhất định chạy. Nếu vì lòng yêu ghét, vì thân thích, vì nể nang, nhất định không ai phục, mà gây nên mối lôi thôi trong Đảng. Như thế là có tội với Đảng, có tội với đồng bào. Trước khi cất nhắc cán bộ, phải nhận xét rõ ràng, phải căn cứ vào kết quả công việc họ làm, cách nói, cách viết và cách sinh hoạt của họ, v.v…

4.3. Thương yêu cán bộ. Điều này được thể hiện là luôn luôn chú ý đến công tác của họ, kiểm thảo họ. Hễ thấy khuyết điểm thì giúp họ sửa ngay, để vun trồng cái thói có gan phụ trách, cả gan làm việc của họ. Đồng thời phải nêu rõ những ưu điểm, những thành công của họ. Làm thế không phải là làm cho họ kiêu căng, mà cốt làm cho họ thêm hăng hái, thêm gắng sức. Phải vun đắp chí khí của họ.

4.4. Phê bình cán bộ. Đối với cán bộ sai lầm, chúng ta không sợ có sai lầm và khuyết điểm, chỉ sợ không chịu cố gắng sửa chữa sai lầm và khuyết điểm.Và càng sợ, những người lãnh đạo sẽ không biết tìm đúng cách để giúp cán bộ sửa chữa sai lầm và khuyết điểm. Sự sửa chữa khuyết điểm, một phần cố nhiên là trách nhiệm của cán bộ đó, nhưng cũng một phần trách nhiệm của người lãnh đạo. Sửa chữa sai lầm cố nhiên cần dùng cách thuyết phục, giải thích, cảm hóa, dạy bảo. Song, không phải tuyệt nhiên không dùng xử phạt. Nếu không xử phạt, thì sẽ mất cả kỷ luật, thì sẽ mở đường cho bọn cố ý phá hoại. Vì vậy, phê bình cho đúng, chẳng những không làm giảm uy tín của cán bộ, của Đảng, mà còn làm cho sự lãnh đạo mạnh mẽ hơn, thiết thực hơn, do đó mà uy tín và thể diện càng tăng thêm.

Cuốn sách “Sửa đổi lối làm việc” của Bác Hồ tuy nhỏ, nhưng có giá trị vô cùng lớn lao. Cuốn sách ra đời đến nay đã hơn nửa thế kỷ, nhưng qua thực tiễn của cách mạng Việt Nam, qua kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp và 30 năm kháng chiến chống Mỹ, cũng như qua công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã khẳng định những đóng góp to lớn của đội ngũ những người lãnh đạo các cấp của Đảng và Nhà nước được Bác Hồ rèn luyện và giáo dục theo tinh thần được thể hiện trong “Sửa đổi lối làm việc”. Đặc biệt, trong giai đoạn đổi mới của đất nước hiện nay cũng như trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, việc nghiên cứu, tuyên truyền, học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” càng có ý nghĩa to lớn và quan trọng không chỉ đối với mỗi cán bộ, đảng viên, mà còn cho tất cả chúng ta./.

HẠNH LIÊN
Tạp chí Ngân hàng


Chú thích:

1 Hồ Chí Minh (1984), Toàn tập, tập 4, Lời giới thiệu, tr.XII, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

Tài liệu tham khảo:

1. Hồ Chí Minh (2002), Tuyển tập, “Sửa đổi lối làm việc” tập II, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, (2006), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Võ Nguyên Giáp (2006), Hồi ký – Tổng tập, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội.

vssr.org.vn