Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã khẳng định một chân lý trường tồn: dựng nước phải đi đôi với giữ nước. Chân lý đó đã trở thành truyền thống quý báu của dân tộc, đồng thời là một quy luật nội tại của quá trình xây dựng và phát triển bền vững đất nước.
Biên giới, chủ quyền lãnh thổ, độc lập – tự do… là những phạm trù rất thiêng liêng, gắn liền với khái niệm Tổ quốc trong mỗi con dân đất Việt. Trong tâm thức của mỗi người dân Việt Nam, “biên cương” là nơi địa đầu, là phên dậu của Tổ quốc, là tài sản vô giá của cả dân tộc, lớp lớp các thế hệ cha ông phải đổ bao xương máu mới có được, mọi người đều phải có trách nhiệm giữ gìn nghiêm ngặt, bảo vệ vẹn toàn.
Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, người Cha của các lực lượng vũ trang nhân dân đã sớm thấy được giá trị to lớn của vấn đề “tự do, độc lập” của dân tộc. Nghiên cứu tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đấu tranh cách mạng, về giải phóng dân tộc, về bảo vệ Tổ quốc…, thấy toát lên tư tưởng sâu sắc của Người về “bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia”. Tư tưởng ấy được thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:
1. Về vai trò, vị trí, ý nghĩa của biên giới quốc gia và việc quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia.
Biên giới quốc gia (BGQG) là thiêng liêng, bất khả xâm phạm, mỗi người Việt Nam phải biết giữ gìn, bảo vệ. Trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, biên giới quốc gia (kể cả biên giới đất liền và biên giới biển) có nguồn tài nguyên thiên nhiên to lớn, là nơi địa đầu – cửa ngõ của Tổ quốc, địa bàn chiến lược cả về chính trị, kinh tế – xã hội, an ninh – quốc phòng và đối ngoại. Biên giới quốc gia là thiêng liêng, gắn liền với giá trị của độc lập tự do của dân tộc, đất nước, “dù có phải đốt sạch dãy Trường Sơn, chúng ta cũng phải giành cho được”. Để có được độc lập – tự do, trước hết chúng ta phải giành được chủ quyền, lãnh thổ, với một đường biên giới rõ ràng. Đối với miền núi biên giới, Người chỉ rõ “Miền núi chiếm 2 phần ba tổng số diện tích nước ta… Miền núi có tài nguyên rất phong phú, có nhiều khả năng để mở mang nông nghiệp và công nghiệp. Những điểm đó nói rõ rằng miền núi có một địa vị cực kỳ quan trọng về kinh tế, chính trị và quốc phòng của nước ta”(1). Biển, đảo cũng được Hồ Chí Minh quan tâm đặc biệt bởi vị trí to lớn của nó. Bác đã từng nói: “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển của ta dài, tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấp nó”. Xuất phát từ vị trí ý nghĩa chiến lược của biên giới quốc gia, chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu: Giữ nhà mà không giữ cửa có được không? Kẻ gian tế vào chỗ nào trước? Nó vào ở cửa trước”(2). Do vậy Người khẳng định chúng ta cần phải “canh cửa cho Tổ quốc”(3).
2. Bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia là trách nhiệm của toàn đảng, toàn quân, toàn dân, của mọi cấp, mọi ngành, song cần phải có lực lượng nòng cốt, chuyên trách.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người luôn coi giữ nước là nhiệm vụ chiến lược của cách mạng; toàn đảng, toàn quân, toàn dân phải dốc hết sức lực cho việc giữ vững độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Bác đã từng dạy: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Quản lý, giữ gìn, bảo vệ chủ quyền, an ninh BGQG, canh giữ biên cương của Tổ quốc theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên, nhưng cũng rất khó khăn, gian khổ, phức tạp của công tác biên phòng. Đây là nhiệm vụ của toàn đảng, toàn quân, toàn dân, nhưng trong công tác này cần phải có Bộ đội Biên phòng làm nòng cốt.
Xuất phát từ yêu cầu tất yếu khách quan của sự nghiệp bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia, ngày 19 tháng 11 năm 1958 Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số: 58/NQ-TW và ngày 03 tháng 3 năm 1959 Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số: 100/TTG thống nhất các đơn vị bộ đội đang làm công tác bảo vệ nội địa, bảo vệ biên giới, giới tuyến và các đơn vị công an biên phòng, cảnh sát vũ trang tổ chức thành một lực lượng thống nhất chuyên trách đảm nhiệm công tác biên phòng và bảo vệ các mục tiêu trọng yếu ở nội địa, lấy tên là Công an nhân dân Vũ trang, nay là Bộ đội Biên phòng.
Để xây dựng, củng cố BĐBP vững mạnh, ngoài sự cố gắng, nỗ lực của bản thân lực lượng biên phòng, Bác luôn cho rằng Đảng, Nhà nước cần quan tâm giúp đỡ về nhiều mặt, bởi lẽ, đại bộ phận cán bộ, chiến sĩ BĐBP đều công tác ở những nơi khó khăn, gian khổ, xa trung tâm văn hóa, chính trị… Đó là những lý do để “Trung ương Đảng, Chính phủ và Bác rất quan tâm đến các chú… bản thân Bác thường chú ý đến các chú”(4).
Sự quan tâm thường xuyên của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với BĐBP là rất sâu sắc và toàn diện. Sự quan tâm ấy trước hết là hệ thống quan điểm cách mạng và khoa học của Người về công tác biên phòng và xây dựng lực lượng nòng cốt, chuyên trách bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia. Mặt khác, Bác còn cùng Trung ương Đảng, Chính phủ đề ra chủ trương, chính sách đúng đắn phù hợp với điều kiện sống và công tác của BĐBP. Những chỉ thị, nghị quyết… về công tác biên phòng và BĐBP được ban hành lúc sinh thời của Hồ Chí Minh luôn được cán bộ, chiến sĩ BĐBP đón nhận, nhanh chóng đi vào cuộc sống. Những lời động viên khen ngợi, những phần thưởng mà Hồ Chí Minh dành cho cán bộ, chiến sĩ BĐBP lập được thành tích xuất sắc trong chiến đấu, công tác và xây dựng đơn vị là biểu hiện sự quan tâm vô bờ của người.
Mỗi lần đến thăm và làm việc với BĐBP, Bác đều ân cần chỉ bảo những vấn đề có tính chiến lược trong xây dựng và bảo vệ biên giới. Đặc biệt, dù bận trăm công ngàn việc, nhưng mỗi lần đến thăm lực lượng, sau lời huấn thị Bác đều có thơ tặng cán bộ, chiến sỹ. Lần thứ nhất trong buổi lễ thành lập lực lượng CANDVT, chiều ngày 28 tháng 03 năm 1959, tại Hà Nội, Bác ân cần căn dặn cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân vũ trang:
“Đoàn kết, cảnh giác;
Liêm chính, kiệm cần;
Hoàn thành nhiệm vụ;
Khắc phục khó khăn;
Dũng cảm trước địch;
Vì nước quên thân;
Trung thành với Đảng;
Tận tuỵ với dân”
Lần thứ hai, tại Đại hội chiến sĩ thi đua toàn lực lượng CANDVT lần thứ nhất, ngày 02 tháng 3 năm 1962 ở Hà Nội, Bác vui vẻ động viên, khích lệ cán bộ chiến sĩ:
“Non xanh nước biếc trùng trùng;
Giữ gìn Tổ quốc ta không ngại ngùng gian lao;
Núi cao sự nghiệp càng cao;
Biển sâu, chí khí ta soi vào càng sâu;
Thi đua ta quyết giật cờ đầu”.
Những lời dạy của Bác là rất sâu sắc và rất toàn diện, đòi hỏi các thế hệ cán bộ, chiến sĩ BĐBP phải thấm nhuần và thường xuyên học tập, làm theo. Những lời dạy ấy có thể khái quát trong 6 nội dung là: Tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc; Dựa vào dân, tận tuỵ với dân; Khắc phục khó khăn gian khổ, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ; Cảnh giác, mưu trí, dũng cảm; Đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân, đoàn kết quốc tế; Liêm, chính, kiệm, cần.
Quan tâm đến sự nghiệp bảo vệ chủ quyền, BGQG, Bác còn thường xuyên căn dặn cán bộ chiến sĩ phải kiên quyết tấn công tội phạm, nhưng cũng cần phải đảm bảo yếu tố chính trị, nhất là các vụ án vi phạm chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia phải hết sức thận trọng, không nên xử “công khai thành một đợt lớn”, mà “lâu lâu ta lại xử một vụ”, không nên làm ầm lên, “không cần đăng ồn ào trên báo chí”. Khi tiến hành “phải xét duyệt các vấn đề đưa ra”, tránh sơ hở vì như vậy “vừa lộ bí mật, vừa có hại về chính trị”(5). Muốn bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh BGQG, phải xây dựng BĐBP vững mạnh mọi mặt; Đảng, Nhà nước phải thường xuyên quan tâm, chăm lo xây dựng BĐBP làm cho BĐBP không chỉ khỏe mạnh, giỏi võ thuật, bơi lội giỏi, chèo thuyền giỏi, mà còn “phải biết bắn súng giỏi, phải có kỹ thuật”; phải thường xuyên tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với BĐBP.
3. Phát huy vai trò quần chúng nhân dân, bảo vệ chủ quyền, an ninh BGQG bằng “thế trận lòng dân”.
Kế thừa truyền thống của cha ông “nước lấy dân làm gốc”, “chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”; thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê-nin về vai trò của quần chúng nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định vai trò to lớn của quần chúng nhân dân đối với cách mạng Việt Nam. Người nói: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào”(6); “Nước lấy dân làm gốc”, “gốc có vững thì cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”(7).
Để tổ chức, lãnh đạo được quần chúng, phát huy vai trò to lớn của quần chúng trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền, an ninh BGQG, đòi hỏi Đảng phải không ngừng tăng cường mối liên hệ với quần chúng, tích cực tuyên truyền vận động, giác ngộ quần chúng. Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”(8). Do đó, “lực lượng của dân rất to, việc dân vận rất quan trọng, dân vận kém thì việc gì cũng kém, dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”(9). Người còn nói: “làm việc gì cũng phải có quần chúng, không có quần chúng thì không thể làm được… Việc gì có quần chúng tham gia bàn bạc khó mấy cũng trở nên dễ dàng và làm được tốt”(10).
Trong ngày thành lập lực lượng Công an nhân dân vũ trang – nay là Bộ đội Biên phòng (28/03/1959), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã huấn thị “Công an và Bộ đội phải cảnh giác, phải biết trấn áp kẻ địch bên trong và bên ngoài… là nhiệm vụ mà quân đội và công an phải dựa vào nhân dân mới hoàn thành tốt được… Khi tổ chức được nhân dân thì việc gì cũng làm được”(11). Do đặc điểm sống, hoạt động, công tác thường xuyên gắn bó mật thiết với đồng bào các dân tộc thiểu số, Hồ Chí Minh nhiều lần chỉ rõ để hoàn thành nhiệm vụ, BĐBP phải dựa vào dân; công tác dân vận của BĐBP phải chú ý tới lực lượng quần chúng nhân dân các dân tộc thiểu số với những đặc thù riêng. Theo Hồ Chí Minh, nhân dân vừa là mục đích, vừa là lực lượng của cách mạng. Do đó: “Bất kỳ việc to, việc nhỏ đều phải dựa vào lực lượng của nhân dân… việc giữ gìn trật tự an ninh càng phải dựa vào sáng kiến và lực lượng của nhân dân”(12). Đối với Bộ đội Biên phòng, ngay trong ngày thành lập lực lượng Bác đã đến dự và huấn thị: “Một vạn công an thì chỉ có hai vạn tai, hai vạn mắt, hai vạn tay chân, nhưng nhân dân có hàng triệu tai, hàng triệu mắt, hàng triệu tay chân. Cho nên chúng ta phải dựa vào dân để hoạt động”(13), dựa vào nhân dân, xây dựng thế trận lòng dân tạo thành “thiên la địa võng” làm thất bai mọi âm mưu phá hoại của bọn tội phạm và các thế lực thù địch, phản động. Muốn vậy Bộ đội Biên phòng cần phải chú ý giúp cho mọi cán bộ và nhân dân địa phương “cải cách dân chủ ở miền núi”; phải cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng dân tộc; phải thực sự coi đồn là nhà, biên giới là quê hương, đồng bào các dân tộc là anh em ruột thịt.
Thấm nhuần những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò quần chúng và công tác VĐQC, Đảng và Nhà nước ta luôn kế thừa, phát triển và cụ thể hóa những quan điểm, tư tưởng đó trong bảo vệ Tổ quốc cũng như quản lý, bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia. Điều đó thể hiện rõ nét và nhất quán cả về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta trong suốt quá trình lãnh đạo nhân dân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Đồng thời, từ tổng kết sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc qua các thời kỳ, Đảng ta đã xây dựng và ngày càng hoàn thiện đường lối quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Ngày nay, đường lối quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân có bước phát triển mới và yêu cầu mới, nhưng vai trò của quần chúng nhân dân vẫn là nền tảng, là cội nguồn thắng lợi của sự nghiệp cách.
4. Xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị với các nước láng giềng, là giải pháp hữu hiệu góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh BGQG.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn cho rằng, mọi thắng lợi của cách mạng nước ta gắn bó chặt chẽ với sự đoàn kết, ủng hộ quốc tế. Vì vậy, thắng lợi của công tác bảo vệ, giữ gìn chủ quyền, an ninh BGQG không thể tách rời việc xây dựng một đường biên giới hòa bình, hữu nghị với các nước láng giềng.
Ngay từ năm 1919, Hồ Chí Minh đã đề cập vấn đề các nước láng giềng của Việt Nam. Người chỉ rõ, sẽ là phi lý nếu Việt Nam lại có thể tồn tại biệt lập với các nước láng giềng. Có thể nói, Hồ Chí Minh là người hiểu rõ hơn ai hết vai trò quan trọng của việc xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị với các nước láng giềng. Vì vậy, khi nói về quan hệ với các nước láng giềng nói chung, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị nói riêng, Hồ Chí Minh thường sử dụng các từ “đặc biệt”, “lâu đời”, “khăng khít”, “như anh, em ruột thịt”, “như răng với môi”,… Hồ Chí Minh khẳng định chính sách đối ngoại của Việt Nam là làm bạn với mọi nước dân chủ, “nhất là các nước láng giềng”. Với quan điểm “giúp bạn là tự giúp mình”, việc xây dựng cho được biên giới hòa bình, hữu nghị với các nước láng giềng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng không những làm triệt tiêu cơ sở, điều kiện nảy sinh các vi phạm về chủ quyền biên giới của nhau, mà còn tạo cơ sở, điều kiện xây dựng “phên dậu” vững chắc, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới “từ xa”.
Những năm tới, hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo trong quan hệ quốc tế; kinh tế thế giới và khu vực sẽ được phục hồi và phát triển… Tuy nhiên, vẫn tiềm ẩn những nhân tố bất ổn khó lường. Toàn cầu hoá kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều thách thức, nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn lớn cho các quốc gia, dân tộc, nhất là các nước đang phát triển. Các nước khu vực Đông Nam Á đều chủ trương tiếp tục giữ vững quan hệ hoà bình, hợp tác và ổn định, nhưng vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề chưa được giải quyết liên quan đến lãnh thổ, tài nguyên trên biển, trên bộ. Các nước có chung biên giới với Việt Nam đang trên đà phát triển ổn định, có nhiều điểm đồng thuận, nhưng cũng còn tồn tại nhiều vấn đề cần được giải quyết với tinh thần hòa bình, hữu nghị, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau.
Đối với nước ta, do thành tựu của hơn 20 năm đổi mới đem lại, chính trị tiếp tục ổn định, kinh tế tăng trưởng hàng năm ở mức cao, quốc phòng, an ninh được củng cố, vị thế của nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Song, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, nước ta vẫn phải đối mặt với những khó khăn thử thách không nhỏ. Chủ nghĩa đế quốc tiếp tục đẩy mạnh âm mưu chiến lược “DBHB”, đặc biệt trên lĩnh vực tư tưởng văn hoá; chúng dùng nhiều thủ đoạn để xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thúc đẩy “tư nhân hoá về kinh tế”, kích động “tự do hoá về chính trị”, “phi chính trị hoá quân đội”… nhằm vô hiệu hoá sức mạnh và mục tiêu chiến đấu của quân đội, khuyến khích tự do vô chính phủ, tự do kinh tế; tiếp tay cho bọn phản động lưu vong thành lập nhà nước “Đê Ga tự trị” ở Tây Nguyên, hay nhà nước “Khơme Crôm” ở Tây Nam Bộ, và “Vương quốc H’Mông” ở Tây Bắc… tiến tới gây mất ổn định chính trị, trật tự xã hội, tạo ra một số “điểm nóng”, lấy cớ can thiệp vào nội bộ ta như kịch bản mà chúng đã thực hiện ở một số nước Đông Âu…
Tình hình trên sẽ tác động trực tiếp đến các địa bàn biên giới, đặt ra cho công tác bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới, biển đảo thời gian tới những yêu cầu, nhiệm vụ mới nặng nề hơn. Để tổ chức quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia trong tình hình mới, góp phần cùng toàn đảng, toàn quân, toàn dân thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, chúng ta cần quán triệt và thực hiện tốt những tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh “về bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia”.
Trung tướng Võ Trọng Việt – Chính ủy BĐBP
(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, t.10, tr.608
(2) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, t8, tr.151.
(3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, t8, tr.151.
(4) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H.2000, t.10, tr. 520.
(5) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H.2000, t.11, tr. 95.
(6) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1985, t.8, tr. 197.
(7) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1985, t.7, tr. 77, 79.
(8) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1985, t.7, tr. 276.
(9) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1985, t.5, tr. 269.
(10) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1980, t.1, tr. 208.
(11) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1985, t. 8, tr.381.
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 7, Nxb CTQG, HN, 2000, tr. 363.
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 9, Nxb CTQG, HN, 2000, tr. 404.
Nguồn: bienphongvietnam.vn
Vkyno (st)