
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Ðảng quyết định mở chiến dịch Ðiện Biên Phủ. ( Ảnh: Ảnh tư liệu )
Trong suốt 79 mùa xuân của cuộc đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trải qua bảy lần đón những mùa xuân năm Tỵ với những dấu ấn đặc biệt.
Khi là cậu bé ba tuổi với tên gọi Nguyễn Sinh Cung, Người đã đón Xuân Quý Tỵ (1893) đầu tiên trong vòng tay yêu thương của người mẹ, trong sự ấm áp của quê hương xứ Nghệ. Cũng năm này, chỉ vài tháng sau Tết, Người chịu nỗi đau đầu tiên: Ông ngoại Hoàng Xuân Ðường qua đời (22-5-1893).
12 năm sau, Người đón Xuân Ất Tỵ (1905) trên quê hương Nam Ðàn, Nghệ An. Thời gian này, Người được theo cha đến các vùng trong tỉnh và một số tỉnh khác. Những chuyến đi này giúp Nguyễn Sinh Cung – Nguyễn Tất Thành mở rộng thêm tầm nhìn và tầm nghĩ trước cảnh thống khổ của nhân dân. Ðặc biệt (tháng 9-1905, khi cha cho theo học Trường tiểu học Pháp – bản xứ Vinh) chính trong năm này, lần đầu tiên Người tiếp xúc với khẩu hiệu: Tự do – Bình đẳng – Bác ái của cách mạng Pháp, khẩu hiệu đó đã thôi thúc Người đi tìm hiểu thực chất điều gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy, để về cứu giúp đồng bào.
Kể từ khi rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước, ngày 5-6-1911, năm Tỵ đầu tiên mà Người đón Xuân trong nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương da diết là Tết Ðinh Tỵ -1917. Xuân năm đó, Nguyễn Tất Thành – Hồ Chí Minh đang sống và hoạt động trên xứ sở đảo quốc sương mù, như Người nói “để học tiếng Anh và xem nước tự nhận là “Mặt trời không bao giờ lặn trên đất nước của mình hiện tình ra sao“. Ðể có tiền sống, khảo sát và tìm hiểu, Nguyễn Tất Thành đã phải làm rất nhiều nghề, có nghề rất nặng nhọc: quét tuyết cho một trường học, làm thợ đốt lò ở trung tâm sưởi ấm của Luân Ðôn, rửa bát đĩa, rồi làm bánh tại khách sạn Carlton ở Thủ đô Luân Ðôn… Những năm tháng sống ở nước Anh, Nguyễn Tất Thành đã tích lũy được thêm những hiểu biết về chế độ chính trị của xã hội tư sản, về đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, giữa chính quốc và thuộc địa của một nước tư bản chủ nghĩa sớm phát triển, nhất là trang bị cho mình một trình độ kiến thức khá vững vàng về tiếng Anh – công cụ giao tiếp rất quan trọng trong sinh hoạt và đấu tranh chính trị.
Xuân Kỷ Tỵ (1929), Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đang hoạt động ở vùng Ðông Bắc Thái-lan, nơi mà một đêm nghe một bà mẹ hát ru con bằng tiếng Việt, sáng ra Người đã thốt lên “Xa nhà chốc mấy mươi niên/Ðêm qua nghe tiếng mẹ hiền ru con“. Những vần thơ đưa về ký ức tuổi thơ với những tình cảm sâu nặng nơi quê nhà. Ở thời điểm này, với tên gọi Thầu Chín, Nguyễn Ái Quốc tích cực xây dựng cơ sở, lực lượng cách mạng trong Việt kiều yêu nước, để từ đó tuyên truyền yêu nước và phong trào đấu tranh cách mạng về trong nước. Xuân Kỷ Tỵ này cũng khởi đầu cho những khó khăn, nỗi đau riêng: Ngày 11-11-1929, theo lệnh thực dân Pháp, tòa án Nam Triều ở Vinh đã kết án tử hình bảy người Việt Nam yêu nước, trong đó Nguyễn Ái Quốc bị kết án tử hình vắng mặt. Nửa tháng sau đó, ngày 27-11-1929, người cha thân yêu – Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đã qua đời (thọ 66 tuổi) tại Cao Lãnh, Ðồng Tháp. Nhưng đây cũng là năm Nguyễn Ái Quốc và những đồng chí tiên phong truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê-nin về trong nước, soi đường cho phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta phát triển, đòi hỏi sự lãnh đạo của một chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân: cuối năm 1929, ba tổ chức cộng sản Việt Nam được thành lập. Nhận thức được tầm quan trọng nguy cơ chia rẽ phân liệt của phong trào đấu tranh cách mạng, cuối năm 1929, Nguyễn Ái Quốc đã gấp rút từ Thái-lan về Hồng Công (Trung Quốc) gặp gỡ bàn việc hợp nhất các tổ chức cộng sản. Mùa Xuân năm 1930, Ðảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử đấu tranh cách mạng Việt Nam ở thế kỷ 20.
Tròn 30 năm ra đi tìm đường cứu nước, ngày Bác trở về Tổ quốc giữa thời khắc cả nước đón Tết Tân Tỵ (ngày 28-1-1941 là ngày mùng 2 Tết), Người đã đưa về cho cả dân tộc ta mùa xuân mới tràn ngập những niềm vui hạnh phúc.
Sau này, Người kể lại: “Bao nhiêu năm thương nhớ, đợi chờ. Hôm nay mới bước chân về nơi non sông gấm vóc của mình. Khi bước qua cái bia giới tuyến, lòng Bác vô cùng cảm động…” (*). Ngày 8-2-1941, với tên gọi Già Thu, Bác Hồ về sống và làm việc tại hang Cốc Bó (theo tiếng Nùng có nghĩa là đầu nguồn), một hang núi kín đáo ở thôn Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Nơi núi rừng hùng vĩ, chan chứa xúc cảm gợi nguồn thi hứng, Người đã làm bài thơ tả cảnh Pác Bó hùng vĩ:
Non xa xa, nước xa xa,/Nào phải thênh thang mới gọi là./Ðây suối Lê nin, kia núi Mác,/Hai tay xây dựng một sơn hà.
Tháng 5-1945, tại đây Bác Hồ đã chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 8 để quyết định chuyển hướng chiến lược cách mạng Việt Nam, chuẩn bị lực lượng và phương pháp lãnh đạo toàn dân đấu tranh đi tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám – 1945, giành độc lập dân tộc.
Bác Hồ cùng cả dân tộc đón Xuân Quý Tỵ 1953, khi cuộc kháng chiến của chúng ta bước sang năm thứ bảy, với những thắng lợi lớn trên các mặt trận quân sự, ngoại giao, trong phát triển lực lượng. Thơ chúc Tết xuân này, Người viết:
Mừng năm Thìn vừa qua,/Mừng xuân Tỵ đã tới./Mừng phát động nông dân,/Mừng hậu phương phấn khởi./Mừng tiền tuyến toàn quân/ Thi đua chiến thắng mới./Mừng toàn dân kết đoàn,/Mừng kháng chiến thắng lợi./Mừng năm mới, nhiệm vụ mới,/Lực lượng mới, thành công mới/Mừng toàn thể chiến sĩ và đồng bào,/Mừng phe dân chủ hòa bình thế giới.
Những vần thơ Tết của Bác Hồ đã thấm sâu trong tình cảm của người dân nước Việt Nam ta.
Năm 1954, niềm tin vào Bác Hồ và Ðảng đã đưa dân tộc ta đoàn kết đi tới thắng lợi Ðiện Biên Phủ lẫy lừng năm châu, kết thúc chín năm kháng chiến gian khổ để bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước lâu dài, khó khăn, gian khổ nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, khi đế quốc Mỹ ồ ạt đổ quân vào miền nam Việt Nam, đồng thời mở rộng chiến tranh đánh phá miền bắc nước ta bằng không quân và hải quân. Ðã có lúc, không ít bạn bè quốc tế bi quan về thắng lợi của nhân dân ta trong công cuộc chống Mỹ, cứu nước, bởi sự khốc liệt của nó, do sự tàn bạo của đế quốc Mỹ gây ra…
Nhưng toàn dân ta thêm vững lòng tin khi được nghe giọng nói trầm ấm, thiết tha của Bác Hồ đọc thơ chúc Tết mỗi độ Xuân về. Lời thơ chúc Tết của Bác những năm tháng này như tiếng kèn xung trận vang dậy khắp non sông… với những vần thơ hào hùng, tràn ngập niềm tin tất thắng.
Tết Ất Tỵ 1965 là Tết năm Tỵ cuối cùng “Trước khi từ biệt thế giới này”, Bác Hồ làm thơ Xuân tặng đồng bào và chiến sĩ cả nước:
Chào mừng Ất Tỵ xuân năm mới,
Nhà nước ta vừa tuổi hai mươi,
Miền Bắc xây dựng đời sống mới vui tươi,
Miền Nam kháng chiến ngày càng tiến tới,
Ðồng bào hai miền thi đua sôi nổi,
Ðấu tranh anh dũng, cả nước một lòng,
Chủ nghĩa xã hội nhất định thắng lợi!
Hòa bình thống nhất ắt hẳn thành công!
Những vần thơ xuân của Bác luôn thấm đẫm tư tưởng cách mạng, ngôn từ không cao siêu mà giản dị dễ hiểu, bao la tình nhân ái, ấm áp như mùa xuân, lay động lòng người và có sức thuyết phục lớn.
Trong ngày đầu năm 1-1-1965, Báo Nhân Dân số 3928 đã đăng bài báo Bác viết về Tết trồng cây với hai câu thơ mở đầu“Mùa Xuân là Tết trồng cây/Làm cho đất nước càng ngày càng xuân“. Những vần thơ như nỗi lòng Bác lo cho tương lai của đất nước, của dân tộc, khi Người đã bước sang tuổi 75 và đã bắt đầu nghĩ tới việc viết Di chúc để lại cho đời sau. Nhiều xuân Tỵ đã đi qua, nhân dân Việt Nam đã và đang phấn đấu thực hiện trọn vẹn di huấn của Người. Hôm nay, dù còn gặp nhiều khó khăn trở ngại, song ánh sáng tư tưởng, đạo đức của Người đang dẫn dắt chúng ta đi tới đích trong sự nghiệp xây dựng “đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, như Người hằng mong ước.
Ðã bốn mùa Xuân của những năm Tỵ không được nghe thơ mới của Bác, nhưng những vần thơ Xuân của Người vẫn sống mãi với dân tộc, sống mãi với thời gian.
(*) T.Lan: Vừa đi đường vừa kể chuyện, Nxb CTQG, Hà Nội, 2009, tr.82.
TS CHU ĐỨC TÍNH, Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh.
nhandan.com.vn
Thích bài này:
Thích Đang tải...
Bạn phải đăng nhập để bình luận.