Tag Archive | Những bài viết về Bác

“Đã đánh là nhất định thắng”

Tròn 40 năm đã trôi qua kể từ ngày quân và dân ta lập nên Chiến thắng “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không” lẫy lừng, đánh dấu một mốc son chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Chiến thắng này một lần nữa cho thấy tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, một trong những yếu tố đóng vai trò then chốt làm nên thắng lợi rực rỡ của cách mạng nước nhà.

Ngày 16-4-1952, trước trận “Điện Biên Phủ trên không” hai mươi năm, nước Mỹ cho bay thử thành công chiếc máy bay B.52 đầu tiên do hãng Boeing sản xuất và tuyên truyền rùm beng cho loại “siêu pháo đài bay bất khả xâm phạm”. Sau 20 năm, năm 1972, B.52 đã được qua 8 lần cải tiến từ B.52A đến B.52G, B.52H. Mỗi chiếc B.52G hoặc H (loại bị bắn rơi tại Hà Nội tháng 12-1972) có thể mang trên dưới 100 quả bom với trọng lượng từ 17 đến 30 tấn cùng nổ chỉ trong phạm vi 3 đến 10 giây đồng hồ. Đi kèm B.52 là một lực lượng máy bay F4 hộ tống tạo thành mộthàng rào không thể chọc phá”. Nhưng điều chủ yếu nhất, nguy hiểm nhất và gây nhiều khó khăn nhất cho đối phương là hệ thống gây nhiễu điện tử cực mạnh tạo thành chiếc áo giáp điện tửche giấu toàn bộ lực lượng tiến công, biến mỗi chiếc B.52 thành một máy bay tàng hình”. Hoa Kỳ cho rằng “Đối phương không thể có cách chống đỡ và không còn một sinh vật nào tồn tại nổi dưới những trận mưa bom kinh khủng của loại B.52 bất khả xâm phạm”.

da danh nhat dinh thang 1Máy bay B.52 thực sự là kho bom đạn bay trên không.
(Ảnh Tư liệu – Internet)

Ngày 18-6-1965, đế quốc Mỹ cho 30 chiếc B.52 từ đảo Gu-am giữa Thái Bình Dương bay vào “rải thảm” khu căn cứ Long Nguyên của ta ở huyện Bến Cát. Đây là lần đầu tiên B.52 được sử dụng ở Việt Nam. Giặc Mỹ muốn dùng “con ngáo ộp” B.52 để hăm dọa chúng ta.

Nhưng chỉ một tháng sau, ngày 19-7-1965, trong chuyến thăm Trung đoàn 324, bộ đội Phòng không – Không quân đóng tại Tam Đảo, Chủ tịch Hồ Chí Minh, thay mặt nhân dân Việt Nam đã lên tiếng trả lời bọn xâm lược: “Dù đế quốc Mỹ có lắm súng nhiều tiền, dù chúng có B57, B.52 hay “Bê” gì đi chăng nữa ta cũng đánh. Từng ấy máy bay, từng ấy quân Mỹ chứ nhiều hơn nữa ta cũng đánh, mà đã đánh là nhất định thắng”.

Lời khẳng định ấy của Bác, cùng chỉ thị của Bộ Chính trị và mệnh lệnh Bộ Quốc phòng sau này, đã trở thành niềm tin và động lực để quân và dân ta tạo nên chiến thắng lịch sử của trận Điện Biên Phủ trên không ở Hà Nội cuối năm 1972.

“Dù đế quốc Mỹ có lắm súng nhiều tiền, dù chúng có B57, B.52 hay “Bê” gì đi chăng nữa ta cũng đánh. Từng ấy máy bay, từng ấy quân Mỹ chứ nhiều hơn nữa ta cũng đánh, mà đã đánh là nhất định thắng” – Thể hiện quyết tâm của Bác, cũng là quyết tâm của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trong cuộc chiến chống trả đế quốc Mỹ xâm lược, bảo vệ miền Bắc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Đồng thời, câu nói này cũng thể hiện tầm nhìn xa trông rộng của một nhà chiến lược tài tình.

Riêng đối với Quân chủng Phòng không – Không quân, lời dạy của Bác đã củng cố lòng tin và tiếp thêm sức mạnh cho cán bộ chiến sĩ trong toàn quân chủng nỗ lực vươn lên hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, đánh thắng những bước leo thang chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc nước ta. Hơn thế nữa, lời dạy của Bác thực sự đã đặt nền móng cho tư tưởng chỉ đạo tác chiến phòng không, nghệ thuật tác chiến phòng không của chúng ta. Ngay sau khi Bác đến thăm, theo chỉ thị của Đảng ủy Quân chủng, Cục Chính trị Quân chủng đã hướng dẫn các đơn vị phát động toàn thể cán bộ, chiến sĩ học tập và làm theo lời dạy của bác, thi đua lập công, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Bản chỉ thị nêu rõ những yêu cầu của đợt phát động: 1) Nêu cao quyết tâm chiến đấu, kiên định vững vàng, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, dũng cảm chiến đấu, đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược. 2) Quán triệt tư tưởng chỉ đạo tác chiến “Đánh thắng trận đầu, đánh tiêu diệt, đánh chắc thắng”, phát huy quân sự dân chủ, tăng cường rèn luyện năng lực chỉ huy, trình độ kĩ thuật để bắn trúng ngay từ loạt đạn đầu, bắn rơi tại chỗ nhiều máy bay địch, tiết kiệm đạn, trước mắt nhanh chóng đưa số máy bay Mỹ bị bắn rơi trên miền Bắc lên 400 chiếc.

Dù kẻ địch có huy động lực lượng đông đảo quân lính với những vũ khí tối tân để tấn công, “Từng ấy máy bay, từng ấy quân Mỹ chứ nhiều hơn nữa”, có đông hơn nữa thì “ta cũng đánh”. “Ta cũng đánh” là lời khẳng định chắc như đinh đóng cột của Bác kính yêu. Sở dĩ Người có thể khẳng định mạnh mẽ như vậy là xuất phát từ sự thấu hiểu sâu sắc truyền thống yêu nước quý báu đã có từ hàng nghìn năm nay của dân tộc ta; thấu hiểu ý chí quật cường, tinh thần anh dũng, quả cảm, không bao giờ chịu khuất phục trước kẻ thù xâm lược của những người con mang dòng máu Lạc Hồng. Đó là quyết tâm của Bác, quyết tâm của Đảng cũng như của nhân dân ta, dù thế nào “ta cũng đánh” và “đã đánh là nhất định thắng”.

“Phải đánh thắng B.52” là mối quan tâm đặc biệt của Bác và cũng là quyết tâm của quân dân ta. Năm 1962, mười năm sau khi chiếc B.52 đầu tiên ra đời, trong lần gặp đồng chí Phùng Thế Tài nhân dịp đồng chí được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân chủng Phòng không, Bác hỏi:

Bây giờ chú là Tư lệnh Phòng không, vậy chú biết gì về B.52 chưa?

Thấy đồng chí Tài lúng túng, Bác cười độ lượng:

Nói thế thôi, chú có biết cũng chưa làm gì được nó. Nó bay trên cao mười cây số mà trong tay chú hiện nay mới chỉ có cao xạ thôi. Nhưng ngay từ nay, là Tư lệnh Phòng không, chú phải theo dõi chặt chẽ và thường xuyên quan tâm đến thằng B.52 này”.

Để có vũ khí trừng trị được B.52, Bác đặt vấn đề với Liên Xô chi viện cho Việt Nam vũ khí tên lửa phòng không. Dưới sự giúp đỡ của nước bạn, Trung đoàn tên lửa phòng không SAM-2 đầu tiên mang phiên hiệu H36 ra đời.

Tháng 4-1965, Mỹ quyết định dùng Sư đoàn Không quân chiến lược số 3 đóng ở đảo Guam tiến hành chiến dịch ném bom mang tên “Cung sáng” vào miền Nam Việt Nam để yểm trợ cho bộ binh Mỹ trong các cuộc hành quân trên bộ. Ngày 18-6-1965, 30 máy bay B.52 cất cánh từ Guam ở trung tâm Thái Bình Dương vượt gần 9.000 km với 16 giờ bay liên tục, thực hiện cuộc ném bom “rải thảm” lần đầu tiên trên thế giới vào căn cứ Long Nguyên của ta ở huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương (phía Tây Bắc Sài Gòn). Cùng với bom là những tờ truyền đơn in hình chiếc B.52 với đủ kích thước, tính năng của nó và đã gây tác dụng tâm lý nhất định. Một số cán bộ ở miền Nam ra công tác miền Bắc khi kể về những trận rải thảm của B.52 đã tỏ ra phân vân, lo lắng. Vì, chỉ cần 10 chiếc B.52 lọt vào Hà Nội cũng đủ gây tổn thất nặng nề không lường hết được. Chính vì vậy mà Bác Hồ đã đặc biệt quan tâm đến loại máy bay này. Việc xây dựng quyết tâm dám đánh và quyết thắng B.52 được đặt ra ngay từ khi đế quốc Mỹ bắt đầu sử dụng máy bay B.52 đánh phá ở chiến trường miền Nam.

Ngày 24-7-1965, Trung đoàn tên lửa H36 ra quân đánh thắng trận đầu, bắn rơi tại chỗ chiếc F4C trên bầu trời Hà Tây. Một ngày sau, ngày 25-7-1965, hạ tại chỗ thêm một máy bay trinh sát không người lái BQM34A ở độ cao 19 km. Hai chiến công đầu của bộ đội tên lửa Việt Nam có ý nghĩa đặc biệt: Nó khẳng định khả năng tên lửa Việt Nam trị được B.52 đã ở trong tầm tay. Bác Hồ đã gửi thư khen quân và dân Hà Tây và ký lệnh thưởng 2 Huân chương Quân công hạng Ba cho 2 Tiểu đoàn 63 và 64 đã trực tiếp lập công. Ngày 12-4-1966, máy bay B.52 lần đầu tiên ném bom đèo Mụ Giạ ở Tây Nam Quảng Bình, mở đầu việc đánh phá của B.52 ở miền Bắc nước ta. Ít lâu sau, B.52 đánh rộng đến Vĩnh Linh, phía bắc giới tuyến 17 với mức độ ngày càng dữ dội. Bác mời đồng chí Đặng Tính, Chính uỷ Quân chủng Phòng không – Không quân lên báo cáo tình hình và trực tiếp giao nhiệm vụ cho quân chủng: “Máy bay B.52 Mỹ đã ném bom miền Bắc. Phải tìm cách đánh cho được B.52. Nhiệm vụ này Bác giao cho các chú Phòng không- Không quân”.da danh nhat dinh thang 2Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm các chiến sĩ lực lượng phòng không bảo vệ thủ đô năm 1966. (Ảnh Tư liệu – Internet)

Các đồng chí trong Quân uỷ Phòng không – Không quân báo cáo Bác ý định đưa lực lượng tên lửa, ra-đa vào chiến trường phía Nam tìm cách bắn rơi máy bay B.52, để củng cố ý chí quyết thắng và xây dựng niềm tin đánh thắng B.52 cho bộ đội. Người suy nghĩ rồi thong thả nói: “Đúng, muốn bắt cọp phải vào tận hang”. Tháng 5-1966, một số đơn vị tên lửa, ra-đa và những cán bộ có kinh nghiệm của quân chủng đã được cấp tốc đưa vào chiến trường. Trung đoàn tên lửa H38 (biệt danh Đoàn Hạ Long) – đơn vị hoả lực đầu tiên nhận trọng trách lớn lao này, đã kịp thời cơ động từ đồng bằng Bắc Bộ, vượt qua nhiều chặng đường hiểm trở đầy ác liệt của bom đạn Mỹ để tới Vĩnh Linh vào đầu năm 1967. Các chiến sĩ đã anh dũng nằm ngay trong tầm đạn pháo mặt đất, pháo biển của địch phục kích bắn B.52. Một số đơn vị ra-đa đã vượt qua muôn vàn gian khổ, khó khăn đưa máy lên tận đỉnh Trường Sơn để nghiên cứu phát hiện B.52. Đưa tên lửa vào Vĩnh Linh là chặng đường đầu tiên trên con đường dài đi đến chiến thắng B.52. Nghe tin 1 trung đoàn tên lửa SAM-2 của ta vào Vĩnh Linh, Lầu năm góc hoảng sợ và quyết tiêu diệt những bệ phóng của ta bằng mọi giá. Các khí tài của ta bị bom, đạn Mỹ đánh hỏng nặng. Biết đơn vị gặp khó khăn, Bác thường xuyên quan tâm thăm hỏi xem có biện pháp khắc phục chưa.da danh nhat dinh thang 3Ngày 09-02-1967, Bác Hồ thăm bộ đội Không quân nhân dân Việt Nam.
(Ảnh Tư liệu – Internet)

Ngày 17-9-1967, Phân đội tên lửa 84, Đoàn H38 lần đầu tiên chỉ trong vòng ba mươi phút đã kịp thời phát hiện và bắn rơi 2 chiếc B.52 trên bầu trời Vĩnh Linh. Nhận được tin vui từ Vĩnh Linh ra, các đồng chí lãnh đạo Quân chủng Phòng không – Không quân muốn báo tin ngay đến Bác vì Người đã cho phép gọi điện thoại trực tiếp đến bất cứ lúc nào cần thiết. Trời đã khuya, sợ Bác thức giấc, đồng chí Tư lệnh đã gọi cho đồng chí Vũ Kỳ (thư ký của Bác) thì được biết Bác vẫn chưa ngủ. Đồng chí quay số 01 (mật danh điện thoại của Bác), Bác nhận ra giọng đồng chí Phùng Thế Tài và hỏi ngay: “Chú Tài đấy à? Có việc gì thế? Bắn rơi B.52 rồi phải không?”

Việc Bác đoán trước đã bắn rơi B.52 là xuất phát từ niềm tin tuyệt đối của Người vào lòng dũng cảm, trí tuệ, khả năng sáng tạo của bộ đội ta. Từ ngôi nhà sàn, Bác đã tự tay viết thư khen quân và dân Vĩnh Linh anh hùng và ký Lệnh thưởng Huân chương Quân công hạng Nhì cho Tiểu đoàn 84 thuộc Trung đoàn tên lửa H38 là đơn vị trực tiếp đã lập công.

Bước leo thang của Mỹ đã lên đến đỉnh. Chúng tổ chức những chiến dịch không quân liên tục đánh phá quyết liệt Thủ đô. Bộ Tư lệnh Phòng không -Không quân được giao nhiệm vụ chuẩn bị phương án chiến đấu bảo vệ Hà Nội, Hải Phòng trong tình huống địch sử dụng B.52. Vào một buổi tối mùa Xuân năm 1968, tại ngôi nhà sàn, Bác Hồ nói với đồng chí Phùng Thế Tài, lúc này là Phó Tổng tham mưu trưởng lời dự báo về một cuộc chiến căng thẳng, khốc liệt sắp diễn ra: “Sớm muộn đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B.52 ra ném bom Hà Nội rồi có thua mới chịu thua. Chú nên nhớ trước khi đến Bàn Môn Điếm ký hiệp định đình chiến ở Triều Tiên, Mỹ đã cho không quân hủy diệt Bình Nhưỡng. Ở Việt Nam, Mỹ nhất định thua, nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội. Vì vậy nhiệm vụ cuả chú rất nặng nề”.

Đúng như lời dự đoán của Bác, ngày 17-12-1972, Ních-xơn chính thức ra lệnh mở Chiến dịch Lai-nơ-bêch-cơ II, sử dụng không quân chiến lược B.52, tập kích với quy mô hủy diệt vào Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, thị xã trên miền Bắc.

Trong suốt 12 ngày đêm vần vũ trên bầu trời Hà Nội, đế quốc Mỹ đã huy động một lực lượng lớn chưa từng có kể từ sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai (tính đến tháng 12/1972) cho cuộc tập kích này: gần 1/2 số máy bay chiến lược B.52 của toàn nước Mỹ (193 chiếc trên tổng số 400 chiếc), gần 1/3 số máy bay chiến thuật của toàn nước Mỹ (1.077 chiếc trên tổng số 3041 chiếc) cùng nhiều phương tiện chiến tranh hiện đại khác. Chúng đã huỷ diệt nhiều khu phố, làng mạc, phá sập 5.480 ngôi nhà, trong đó gần 100 nhà máy, xí nghiệp, trường học, bệnh viện, nhà ga, giết hại 2.368 dân thường, làm bị thương 1.355 người khác. Tờ báo lớn nhất của Anh, the Daily Mirror đã bình luận rằng: “Việc Mỹ quay lại ném bom Bắc Việt Nam đã làm cho cả thế giới lùi lại vì ghê sợ”.

Đế quốc Mỹ toan tính rằng, bằng sự tàn sát dã man của B.52, chúng có thể buộc nhân dân ta phải khuất phục. Nếu đế quốc Mỹ thành công trong cuộc tập kích bằng B.52 thì hậu quả thật khôn lường. Báo Pháp Nhân đạo viết: “Tấn thảm kịch Việt Nam đang trải qua cho ta hương vị của cái mà trái đất chúng ta sẽ nếm trải nếu nước đế quốc mạnh nhất đặt được nền thống trị độc tôn của nó!”. Thế nhưng, “thần tượng B.52” – con át chủ bài trong bộ ba chiến lược của đế quốc Mỹ đã phải sụp đổ trước ý chí kiên cường và trí tuệ thông minh tuyệt vời của dân tộc Việt Nam. Chỉ trong 12 ngày đêm, lưới lửa phòng không dày đặc của ta đã xé tan xác 81 máy bay của giặc Mỹ, trong đó “siêu pháo đài bay” B.52 là 34 chiếc, F111 – 5 chiếc và 42 máy bay chiến thuật khác, bắt sống nhiều giặc lái, trong đó có nhiều giặc lái B.52.

Thông thường trong chiến tranh, ở những trận tập kích đường không lớn, tỷ lệ tổn thất về máy bay của phe tiến công là khoảng 1-2%. Vậy mà trong cuộc tập kích không quân chiến lược cuối tháng 12-1972 này tỷ lệ tổn thất về máy bay của Mỹ đạt kỷ lục cao nhất từ trước tới nay (25%), khiến các nhà quan sát quân sự Mỹ phải thú nhận: “Cứ cái đà mất máy bay, người lái này và nếu Mỹ còn tiếp tục ném bom thì chỉ đến ngày 28 tháng 4 năm 1973 toàn bộ lực lượng không quân chiến lược Mỹ ở vùng Đông Nam Á sẽ hết nhẵn”. Người Mỹ cũng đã phải cay đắng thừa nhận rằng: “B.52 đã được tung ra chiến trường với số lượng lớn chưa từng có, để cuối cùng Tổng thống phải chấp nhận một kết cục bi thảm chưa từng thấy!”. Chính Ních-xơn cũng đã phải cay đắng thừa nhận về thất bại thảm hại này trong hồi ký của mình: “Nỗi lo của tôi trong những ngày này không phải là lo những làn sóng phản đối, phê phán nghiêm khắc ở trong nước và trên thế giới, mà chính là mức độ tổn thất về máy bay B.52 quá nặng nề”.

da danh nhat dinh thang 4 Xác pháo đài bay B.52 chất đống ở Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam. (Ảnh tư liệu – Internet)

Trước sự thất bại liên tiếp trong 12 ngày đêm đánh phá miền Bắc, 7h sáng ngày 30/12, Tổng thống Mỹ Ních-xơn buộc phải tuyên bố ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra và chấp nhận họp lại Hội nghị Pari về Việt Nam. Cuộc tập kích đường không chiến lược quy mô lớn bằng máy bay B.52 của đế quốc Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương miền Bắc kéo dài 12 ngày đêm đã bị thất bại hoàn toàn. Ngày 27-01-1973 Hiệp định Pari về “chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” được ký kết.

“Phải tin tưởng vững chắc là ta nhất định thắng, Mĩ nhất định thua. Lúc này mà còn phân vân, tàu địch to, tàu ta nhỏ, máy bay địch nhiều, súng ta ít, liệu có đánh được không? Đó là biểu hiện quyết tâm chưa cao. Tuy không dám tự nhận là sợ địch, nhưng chính là sợ địch. Phải khẳng định rằng: Dù đế quốc Mĩ có lắm súng nhiều tiền. Dù chúng có B57, B52 hay “bê” gì đi chăng nữa, ta cũng đánh. Từng ấy máy bay, từng ấy quân Mỹ, chứ nhiều hơn nữa ta cũng đánh, mà đã đánh là nhất định thắng… Ta phải có lòng tin sắt đá ở Đảng. Đảng đã nói: “Nhất định đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” là nhất định thắng… Đánh nhau có hi sinh, có gian khổ, nhưng bền gan, vững chí thì cuối cùng ta nhất định thắng, giặc nhất định thua”. Lời của Bác tựa như lời sông núi, thấm sâu vào trái tim mỗi người dân Việt Nam, cổ vũ, thôi thúc quân dân ta vững niềm tin tất thắng kiên cường chống lại kẻ thù xâm lược. Đoàn kết một lòng, quân dân thống nhất, dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã kiên cường, dũng cảm, quyết chiến, quyết thắng, làm nên Chiến thắng “Hà Nội – Điện Biên phủ trên không” vang dội, đánh một đòn chí mạng vào kẻ thù xâm lược, khiến chúng phải thua một cách “tâm phục, khẩu phục”.da danh nhat dinh thang 5Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quân đội trao cờ cho các đơn vị lập công xuất sắc trong Chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” cuối năm 1972.
 (Ảnh tư liệu – Internet)

Đã bốn thập kỷ qua đi nhưng những bài học vô giá về tính chủ động, sáng tạo, tinh thần dám đánh và quyết thắng mà Bác Hồ để lại từ trận “Hà Nội – Điện Biên phủ trên không” vẫn còn vẹn nguyên giá trị và sẽ giúp cho dân tộc ta vững tay lái khi ra biển lớn trong quá trình hội nhập quốc tế hôm nay.

Thu Hiền (Tổng hợp)
bqllang.gov.vn

Advertisement

70 năm, Người về chỉ lối

Đúng vào ngày này 70 năm về trước (28-1-1941), Bác Hồ về nước. Từ mọi hoạt động của Người trong năm Tân Tỵ lịch sử ấy đã tạo nên những nền tảng đầu tiên cho cuộc cách mạng vĩ đại nhất của lịch sử dân tộc

Phải đến 30 năm kể từ năm 1911 – thời điểm người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành xuất hành rời Bến Nhà Rồng đi tìm đường cứu nước – Bác mới có thể đặt chân lên địa đầu biên giới phía Bắc. Cũng sau chừng ấy thời gian, đất nước mới đến được thời cơ cách mạng.

Bác Hồ làm việc tại Pắc Bó (Cao Bằng) trong những năm 1940. Ảnh: TƯ LIỆU

Như vậy là mùa Xuân 1941 đã đến với Tổ quốc VN bằng tin vui lớn – Bác về, như một ánh lửa, một ngọn lửa sưởi ấm không gian đất nước, rồi bùng lên thành một rừng lửa thiêu cháy toàn bộ cơ đồ chủ nghĩa thực dân đặt lên đầu lên cổ 25 triệu dân ta sau ngót 80 năm nô lệ. Năm 1941, ngay sau khi về nước, Bác đã chọn hang Cốc Bó (đầu nguồn) làm nơi ở đầu tiên. Và dĩ nhiên, với một người xa nước, xa nhà trong suốt 30 năm thì nơi đây, dẫu chỉ là suối và hang, vẫn là nơi duy nhất gợi biết bao là cảm xúc, để Bác có thể “tức cảnh” mà có hai bài thơ vào tháng 2-1941:

Non xa xa, nước xa xa
Nào phải thênh thang mới gọi là
Đây suối Lênin kia núi Mác
Hai tay xây dựng một sơn hà

Sớm ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang.

Ngay sau Tết Tân Tỵ 1941, Bác đã khai bút bằng 2 bài thơ “tức cảnh” và “sinh tình” là thế, như là một cách Bác nói với mình và về mình; để rồi ngay sau đó là hàng chục bài thơ khác Bác viết cho đồng chí, đồng bào như một cách huấn luyện, tuyên truyền đưa quần chúng vào trường học cách mạng đã ra đời, như: Ca công nhân, Ca dân cày, Ca binh lính, Kêu gọi phụ nữ, Kêu gọi thiếu nhi, Trẻ chăn trâu, mỗi bài trên dưới 20 câu với chữ nghĩa nôm na, vần điệu dễ nhớ, đọc chỉ vài lần là thuộc…

Người yêu nước lớn – Nguyễn Ái Quốc, nhà cách mạng vĩ đại – Hồ Chí Minh bất cứ lúc nào cũng có thể làm thơ trong một giao cảm lớn với nhân dân và Tổ quốc.

Năm 1941, hơn 3 tháng sau khi về nước, thay mặt Quốc tế Cộng sản, Bác chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ VIII. Vào tháng 5, trên một cái lán có tên Khuổi Nậm, hội nghị đã quyết định chiến lược giải phóng dân tộc với hàng loạt công việc trọng đại và cụ thể, như thành lập Mặt trận Việt Minh (thường gọi tắt là VN Độc lập Đồng minh); xây dựng căn cứ địa cách mạng, xây dựng lực lượng vũ trang, thành lập Đội VN Tuyên truyền Giải phóng quân… tiến tới tổng khởi nghĩa toàn quốc.

Năm 1941 – chẵn 70 năm về trước, tính tới Xuân Tân Mão 2011 này, đã đến với dân tộc VN sự kiện Hồ Chí Minh về nước; để từ mọi hoạt động của Người trong năm Tân Tỵ lịch sử ấy mà tạo nên những nền tảng đầu tiên cho một cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc. Đó là khối đoàn kết toàn dân trong Mặt trận Việt Minh, với hạt nhân trung tâm là Đảng, và người anh hùng số 1 vừa là lãnh tụ của Đảng vừa là của dân tộc, có tên Nguyễn Ái Quốc, lúc này đang trong vai một ông ké cách mạng mang bộ y phục người Nùng. Ông ké ấy trong bận rộn với bao công việc trọng đại của đất nước vẫn rất mực ung dung trong những bài thơ khai bút viết cho mình; và rất mực gần gũi, thân thiết viết cho đồng bào mình ở một nơi, được gọi là đầu nguồn (Cốc Bó) – nơi 20 năm sau, vào ngày 20-2-1961, cũng vào mùa Xuân, Bác sẽ lại có thơ về nó:

Hai mươi năm trước ở hang này
Đảng vạch con đường đánh _Nhật, Tây
Lãnh đạo toàn dân ra chiến đấu
Non sông gấm vóc có ngày nay.

Mùa Xuân này, vào những ngày này, cả dân tộc hãy hướng về nguồn Cốc Bó và cột mốc biên giới có số hiệu: 108 – nơi in dấu chân đầu tiên của Bác, nơi cả dân tộc chờ đón Bác sau 30 năm xa xứ…

GS Phong Lê

nld.com.vn

Mười “tiên đoán” lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, tư tưởng thành văn và cả tư tưởng truyền miệng đều nói đến những nhà tư tưởng lớn có khả năng “tiên tri tiên lượng” về thời cuộc, về thế sự,… như Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Trãi… Họ đã được nhân dân tôn vinh như những vị thánh. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần bộc lộ khả năng như vậy.

Về các sự kiện lớn trên thế giới

1. Chủ nghĩa Mác – Lênin sẽ cùng với chủ nghĩa yêu nước truyền thống ở Việt Nam tạo thành sức mạnh đánh bại chủ nghĩa thực dân phong kiến….

Ngay từ năm 1921, Nguyễn Ái Quốc viết trong bài “Phong trào Cộng sản quốc tế” đăng trong tạp chí La Revue Communiste số 15 đã tiên đoán “chủ nghĩa cộng sản thâm nhập vào châu Á dễ dàng hơn ở châu Âu. Chủ nghĩa Mác – Lênin sẽ cùng với chủ nghĩa yêu nước truyền thống ở Việt Nam tạo thành sức mạnh tổng hợp vừa mang tính dân tộc vừa mang tính thời đại. Sức mạnh đó sẽ đánh bại chủ nghĩa thực dân phong kiến xây dựng nước Việt Nam độc lập và chủ nghĩa xã hội”.

Lịch sử cách mạng VN hiện đại cho thấy tiên đoán đó đã thành sự thật.

2. Nước Trung Hoa sẽ trở thành nhà nước cộng sản và sẽ bắt tay với Liên Xô.

Cũng trong bài viết trên, từ năm 1921, Người tiên đoán: “Sự thành lập chính quyền của nhà cách mạng Tôn Dật Tiên ở phía Nam đã hứa hẹn với chúng ta một nước Trung Hoa được tổ chức lại và vô sản hóa… trong một tương lai gần đây,… nước Trung Hoa mới và nước Nga công nhân sẽ nắm tay nhau trong tình hữu nghị để tiến lên vì lợi ích của nền dân chủ và nhân đạo”.

20 năm sau, tiên đoán đó đã thành hiện thực.

3. Chiến tranh thế giới lần thứ II và cuộc tiến công của chủ nghĩa tư bản vào nước Nga Xô-viết.

Tháng 3 năm 1924 viết bài đăng trên Tập san Inprekorr, Nguyễn Ái Quốc đã viết: ‘Thế nào rồi cũng có ngày nước Nga cách mạng phải đọ sức với chủ nghĩa tư bản”.

17 năm sau, năm 1941 lời tiên đoán đó thành hiện thực.

4. Lò lửa chiến tranh sẽ nổ ra ở Thái Bình Dương và Đông Dương sẽ bị bần cùng, giảm sút dân số…

Tháng 4 năm 1924 cũng bài đăng trên tạp chí nêu trên, Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Vì đã trở thành trung tâm mà bọn đế quốc tham lam đều hướng cả vào nhòm ngó, nên Thái Bình Dương và các nước thuộc địa xung quanh Thái Bình Dương tương lai sẽ trở thành lò lửa của chiến tranh thế giới mới và giai cấp vô sản sẽ phải nai lưng ra gánh” và “để làm cho các thuộc địa đó cũng trở thành “có ích” cho chính quốc. Nếu dự án được thực hiện, thì nhất định là Đông Dương sẽ lâm vào tình trạng giảm sút dân số và bần cùng”.

Gần 20 năm sau lời tiên đoán đó đã xảy ra. Và ở nước ta vào năm 1945, hàng triệu người đã bị chết đói do phát xít Nhật vơ vét hết lương thực cung ứng cho chiến tranh.

5. Hítle tấn công Liên Xô và sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa.

Tháng 6–1940 khi phát xít Đức đã chiếm nước Pháp và một số nước châu Âu, Nhật chiếm Trân Châu cảng của Mỹ và hất cẳng Anh, Pháp ra khỏi các thuộc địa ở Thái Bình Dương, Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Ngày Hítle tấn công liên bang Xô-viết sẽ trở thành ngày bắt đầu diệt vong của chủ nghĩa phát xít Đức. Có thể nói một cách chắc chắn rằng chiến tranh đế quốc lần thứ nhất dẫn đến việc thành lập liên bang Xô-viết thì lần này chủ nghĩa phát xít sụp đổ sẽ dẫn đến thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nhiều nước khác”.

Lời tiên đoán đó 4 năm sau thành hiện thực.

Về các sự kiện lớn cách mạng nước ta

6. Năm 1945 nước Việt Nam độc lập.

Tháng 2 năm 1942 trong bài thơ “Lịch sử nước ta” Hồ Chí Minh viết: “1945 Việt Nam độc lập”. Ba năm sau, tháng 9-1945 Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập tại vườn hoa Ba Đình – Hà Nội, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

7. Kết thúc cuộc chiến tranh chống Pháp bằng chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, Hồ Chí Minh đã tiên đoán rằng đế quốc Mỹ sẽ xâm lược Việt Nam.

Ngày 12-4-1999 nhân kỷ niệm 45 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp trả lời phỏng vấn báo chí: “Bác Hồ – Nhà tiên tri”. Đại tướng cho biết: “Khi gặp tôi sau chiến thắng, Bác nói: Chiến thắng Điện Biên Phủ đáng mừng, nhưng chú hãy nhớ, đây mới là bắt đầu – bắt đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ. Ta còn phải đánh Mỹ…”.

Mười năm sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Mỹ đã hùng hổ đem quân xâm lược VN.

8. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta nhất định thắng lợi và thắng lợi vào khoảng năm 1975.

Trong Di chúc viết 15-5-1965 có câu: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể kéo dài mấy năm nữa. Đồng bào có thể hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao, chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn… Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất”.

Mấy năm nữa có nghĩa là trong vòng 10 năm trở lại, tức là nhiều lắm là 1975.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã kể lại rằng: “Trong bản thảo diễn văn nhân dịp kỷ niệm Quốc khánh lần thứ 15 nước Việt Nam Dân chủ Cộïng hòa, ngày 2-9-1960, Bác viết: “Toàn dân ta đoàn kết nhất trí, bền bỉ đấu tranh thì chậm lắm là 15 năm nữa Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất, Bắc Nam sẽ sum họp một nhà”.

9. Mỹ sẽ đem B52 đánh phá Hà Nội, và sẽ chịu thua trên bầu trời Hà Nội.

Hồi ký của Thượng tướng Phùng Thế Tài, nguyên Tư lệnh Quân chủng Phòng không – không quân Việt Nam viết, vào năm 1967, Bác Hồ đã nói với ông: “Sớm muộn gì thì đế quốc Mỹ cũng đưa B52 ra đánh phá Hà Nội rồi có thua nó mới chịu thua”. Bác khẳng định dứt khoát “… Mỹ sẽ nhất định thua, nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội”.

5 năm sau, năm 1972, ta thắng trận “Điện Biên Phủ trên không” và sau đó Mỹ mới chịu ký Hiệp định Pari chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam.

10. Về tiến trình kết thúc chiến tranh ở Việt Nam là “Mỹ cút” rồi “Ngụy nhào”.

Trong Thư chúc mừng năm mới – Xuân Kỷ Dậu (năm 1969), Bác viết: “Vì độc lập vì tự do/Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”…

Sự việc đã diễn ra đúng như vậy vào năm 1973 (Mỹ cút) và năm 1975 (ngụy nhào) giải phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam…

Tiến sĩ NGUYỄN ĐỨC ĐẠT

vietbao.vn

Từ câu trả lời phỏng vấn nhà báo Mỹ ngày 11 – 9 – 1946 tại Pari

Trong chuyến thăm nước Pháp với tư cách là thượng khách của Chính phủ Pháp từ tháng 6 đến tháng 9 năm 1946, Hồ Chủ tịch đã có nhiều cuộc tiếp xúc với giới báo chí thế giới đang tập trung “săn tin” về Hội nghị Phôngtennơbơlô.

Ngoài 26 tờ báo với màu sắc chính trị tả hữu khác nhau của Pari và miền Tây nước Pháp, một số tờ báo lớn của nước Mỹ, Anh, Trung Quốc cũng có mặt quanh khu vực Hội nghị Phôngtennơbơlô. Một số nhà báo tên tuổi thế giới và khu vực châu Âu vào thời kỳ đó rất có cảm tình với Hồ Chủ tịch, họ đã gặp Bác và Thủ tướng Phạm Văn Đồng phỏng vấn những vấn đề liên quan đến thái độ, lập trường chính trị của phái đoàn Việt Nam. Đáng chú ý là nhà báo Mỹ Đêvítsơnbrum, một nhà báo có ảnh hưởng rất lớn đối với Tổng thống Mỹ Aixenhao, Tổng thống Pháp Đờgôn. Trong cuốn sách của ông được dịch ra tiếng Pháp, tái bản tại Pari năm 1984 đã dành những trang sinh động ghi lại nội dung cuộc phỏng vấn Bác Hồ ngày 11-9-1946 tại Xanh Cờlu (Pari) vào thời điểm nóng bỏng không khí chính trị do phía Pháp kéo dài Hội nghị Phôngtennơbơlô, dây dưa trả lời những đòi hỏi chính đáng về quyền lợi độc lập dân tộc của phái đoàn Việt Nam. Trước khi Bác ký Hiệp ước 14 – 9, nhà báo Đêvítsơnbrum đã bằng mọi cách gặp và xin được phỏng vấn Bác. Dưới đây là cuộc phỏng vấn.

Đêvítsơnbrum: “Chủ tịch nghĩ thế nào mà tính đánh lại người Pháp trong khi chưa có quân đội, chưa có vũ khí hiện đại?”

Bác trả lời: “Chắc chắn sẽ là gay go, nhưng cuối cùng chúng tôi sẽ thắng. Chúng tôi có một đạo quân ít ra cũng mạnh bằng xe tăng, đại bác. Đó là chủ nghĩa dân tộc. Ông chớ nên đánh giá thấp, nhất là người Mỹ các ông. . .”. Rồi Bác điềm tĩnh lý giải sức mạnh đoàn kết của cuộc chiến tranh toàn dân: “. . . Đầm lầy có hiệu quả hơn súng chống tăng. Rừng rậm thì máy bay, bom đạn làm gì được. Có hang trên núi thì chỉ một người nấp bắn có thể cự hàng trăm người và chúng tôi có hàng triệu túp lều tranh, mỗi túp lều đều là một con ngựa thành Tơ roa đặt sẵn đó, sẵn sàng đánh quật lại bất cứ quân xâm lược nào”. Câu trả lời phỏng vấn một nhà báo Mỹ của Bác tại Thủ đô Pari đã được minh chứng sau 9 năm kháng chiến gian khổ, quyết liệt và đã giành được thắng lợi.

Trong lịch sử thông tin báo chí trên thế giới, ít có một nhân vật được báo chí phía đối lập chế độ chính trị phản ánh với một thái độ trân trọng, khách quan như Bác Hồ của chúng ta. Tổng kết về sự thất bại cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương và Việt Nam, riêng ở Mỹ đã có hàng nghìn đầu sách. Và cuốn sách nào cũng đề cập vai trò quyết định của Hồ Chủ tịch tới mỗi chủ trương, quyết sách có quan hệ đến vận mệnh đất nước, dân tộc Việt Nam.

Bất cứ tờ báo tư bản nào mà chẳng bảo vệ quyền lợi chính trị của giai cấp tư sản. Ấy thế mà khi nhắc tới Chủ tịch Hồ Chí Minh, tuyệt nhiên không có tờ báo tư bản nào lại có giọng điệu thiếu nhã nhặn. Đương nhiên tính chất của báo chí tư sản không vì thế mà thay đổi nội dung chính trị vốn có.

Còn nhớ khi Bác Hồ “đi theo cụ Lênin, cụ Cácmác” vào tháng 9 – 1969, tờ “Thế giới hàng ngày”, một trong những tờ báo lớn của Mỹ đã đăng bài ca tụng trên mười số với tiêu đề “Di sản của Hồ Chí Minh”. Số báo ra ngày 20-9-1969 đăng bài với nội dung: “. . . Hồ Chí Minh không những tìm ra con đường đi tới tự do mà còn sáng lập và xây dựng công cụ lãnh đạo là chính Đảng Mác – Lê nin. Chính Đảng đó đã lãnh đạo toàn diện cuộc đấu tranh của quần chúng nhằm đánh đổ ách thống trị của bọn xâm lược và đưa Nhà nước mới có chủ quyền tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa và trước hết tạo ra cho dân tộc Người ý chí và nghệ thuật bảo vệ linh hồn và lãnh thổ của mình chống lại các cuộc xâm lược của lực lượng quân sự viễn chinh được trang bị kỹ thuật quân sự hiện đại bậc nhất và vô lương tâm chưa từng thấy…”.

Một tờ báo có số lượng phát hành hàng chục triệu bản và ảnh hưởng rất lớn ở Mỹ – tờ “Bưu điện Hoa Thịnh Đốn” đã viết về Bác Hồ với sự thành kính đặc biệt: “Không một nhà hoạt động lớn nào trong thập kỷ cách mạng dân tộc đầy sôi động này lại sống lâu, có ảnh hưởng lớn trên thế giới, thực hiện nhiều sách lược và đường lối với nhiều mối thách thức to lớn như vị lãnh tụ cộng sản Việt Nam Hồ Chí Minh. Con người mảnh khảnh đó với đôi mắt bốc lửa đã trải qua nhiều nghề nghiệp từ khi còn là người bồi bàn trên tàu thủy, làm nghề rửa bát, làm cấp dưỡng, giáo viên, làm ảnh để rồi trở thành nhà tổ chức không mệt mỏi, vươn lên trên cả những nhân vật đương thời”.

Sau hai ngày Bác Hồ kính yêu của chúng ta ra đi vào cõi vĩnh hằng, ngày 04-9-1969, tờ “Thời báo Niu Oóc” đăng bài viết: “Trong số các chính khách của thế kỷ 20, Hồ Chí Minh là nhân vật nổi bật về tính bền bỉ dẻo dai và lòng kiên nhẫn trong việc tìm kiếm mục tiêu độc lập cho Việt Nam và về sự thành công trong việc dung hòa giữa Chủ nghĩa cộng sản với Chủ nghĩa dân tộc…”.

Hẳn không thể có lời bình luận gì hơn về sự ghi nhận, đánh giá, khẳng định tôn trọng một cách thẳng thắn của giới báo chí tư bản, đặc biệt là báo chí nước Mỹ đối với Bác Hồ của chúng ta.

* Văn Hiền (Nguồn: Những mẩu chuyện làm báo của Bác Hồ NXB Thanh Niên)

tinhdoankhanhhoa.org.vn

Suy nghĩ của một người lái xe về Đảng, về Bác Hồ

Tôi nghĩ, dù ai có cố tình nhắm mắt phủ định bằng bất cứ lý do gì thì Đảng và Bác vẫn có công lao vô cùng to lớn với dân tộc, Tổ quốc Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Bác Hồ, nhân dân ta phá tan ách thống trị thực dân, phong kiến, đánh Pháp, đuổi Nhật và thắng Mỹ, non sông thu về một mối, đất nước thái bình, nhân dân yên ổn làm ăn và phát triển, vị thế của nước ta ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Có thể nói, từ khi có Đảng, có Bác, đất nước Việt Nam đã hoàn toàn đổi mới. Chính vì thế người dân Việt Nam luôn nói: Ơn Đảng, ơn Bác…

Không biết từ bao giờ, Đảng và Bác Hồ luôn ở trong trái tim, khối óc, trong công việc và trong cuộc sống hằng ngày của tôi. Còn nhớ ngày đầu vào mạng In-tơ-net, vô tình vào một trang (tôi không còn nhớ) có những bài viết nói xấu Đảng, nói xấu Bác, tôi thấy như mình bị xúc phạm và lập tức gửi phản hồi “phản công” lại.

Tôi nghĩ, dù ai có cố tình nhắm mắt phủ định bằng bất cứ lý do gì thì Đảng và Bác vẫn có công lao vô cùng to lớn với dân tộc, Tổ quốc Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Bác Hồ, nhân dân ta phá tan ách thống trị thực dân, phong kiến, đánh Pháp, đuổi Nhật và thắng Mỹ, non sông thu về một mối, đất nước thái bình, nhân dân yên ổn làm ăn và phát triển, vị thế của nước ta ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Có thể nói, từ khi có Đảng, có Bác, đất nước Việt Nam đã hoàn toàn đổi mới. Chính vì thế người dân Việt Nam luôn nói: Ơn Đảng, ơn Bác…

Là một lái xe, tôi không quá thần tượng và ảo tưởng, tôi luôn hướng về Đảng, về Bác và có một niềm tin sắt đá về sự trường tồn của Đảng và tư tưởng, đạo đức của Bác. Tuy nhiên, nhìn vào thực trạng hiện nay, bên cạnh những mặt tích cực, Đảng muốn trường tồn, đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống, thiết nghĩ, Đảng cần phải quyết liệt với một số vấn đề đang gây bức xúc dư luận cả nước.

Về chống tham nhũng

Thực tế khẳng định, tham nhũng đã trở thành quốc nạn, là một trong bốn nguy cơ ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của Đảng. Có thể nói bọn sâu dân mọt nước, bọn cơ hội, những cán bộ, đảng viên biến chất, hư hỏng là “một bầy sâu” hằng ngày, hằng giờ đục khoét, moi móc của cải vật chất của Nhà nước, của nhân dân, làm mất uy tín của Đảng, mai một lòng tin của nhân dân vào Đảng. Nhiều kỳ đại hội đảng đã qua, nhiều giải pháp đã được đề cập tới, nhưng vấn nạn tham nhũng không giảm mà có xu hướng tăng lên với những thủ đoạn tinh vi hơn. Tham nhũng đã và đang có mặt ở khắp mọi nơi, khắp các ngành nghề, biến thái đủ các hình thức, nhiều góc độ… Làm thế nào để người dân thấy được công cuộc chống tham nhũng của Đảng không là hô khẩu hiệu? Không là “giơ cao đánh khẽ” ? Không để những vụ việc được báo chí, người dân phát hiện bị “chìm xuồng”…? Chỉ có thể là trừng trị thẳng tay như Bác đã từng làm trước đây, bất kể kẻ tham nhũng đó là ai.

Về cảnh sát giao thông

Là một lái xe, tôi tiếp xúc hằng ngày với cảnh sát giao thông. Với tôi, hình ảnh phản cảm, đau đớn nhất là hình ảnh những người công an mặc sắc phục, được Nhà nước trang bị mọi phương tiện để thi hành công vụ lại nhận hối lộ. Điều đó không chỉ bôi nhọ lực lượng công an vì nhân dân phục vụ mà còn ảnh hưởng to lớn đến uy tín của Đảng, của Nhà nước. Từ 30 đến mồng 5 Tết Nhâm Thìn, trên toàn quốc đã xảy ra hơn 3.000 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm nhiều người chết và bị thương. Những con số đó đã cho chúng ta thấy hiệu quả của việc tuần tra kiểm soát của lực lượng cảnh sát giao thông như thế nào.

Về giáo dục – đào tạo

Xã hội phát triển, các gia đình quan tâm hơn đến việc học hành của con em mình. Đồng thời việc chạy trường, chạy lớp đầu năm học, mua điểm, mua bằng, rồi phong bì biếu xén thấy cô giáo các ngày lễ, tết… cũng tăng theo nhưng chất lượng giáo dục không tăng. Năm ngoái dư luận được phen xôn xao với phát biểu của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cho rằng kết quả môn thi lịch sử hàng ngàn điểm 0 là bình thường (!). Tình trạng học sinh bỏ học, bạo lực học đường đang rung lên hồi chuông báo động với nền giáo dục Việt Nam. Thế nhưng, những đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý trong Ngành Giáo dục từ Trung ương xuống cơ sở trong các bản kiểm điểm đánh giá chất lượng đảng viên cuối năm có ai dám nhận trách nhiệm về mình và từ chối các khoản xét thưởng?

Với kiểm lâm
Nhà đày của thực dân Pháp xây dựng ngay tại Buôn Ông Thuột (nay là TP. Buôn Ma Thuột). Nhà đày xây nơi rừng thiêng nước độc, suốt ngày cọp hú, voi gầm, biết bao chiến sĩ cách mạng trung kiên đã bị những cai ngục ném ra ngoài tường rào để làm mồi cho thú dữ. Nói như vậy để biết ngày xưa rừng vào tận trung tâm thành phố bây giờ. Và đúng như nhà báo Đặng Bá Tiến trong bài “Nỗi nhớ đại ngàn” thì: “… không chỉ nhớ, tôi đã rơi nước mắt vì thương rừng, thương đại ngàn. Bởi rừng, bởi đại ngàn giờ đã tan tác, điêu linh !”. Thậm chí cả rừng đặc dụng như Vườn quốc gia Yốk Đôn, Khu bảo tồn thiên nhiên Ea Sô… cũng chỉ còn cái mã ngoài, ruột gan bên trong thì đã bị moi móc băm vằm tan tác. Thật đau đớn, xót xa ! Sự thật là rừng đã và đang bị tàn phá… Tổng kết của ngành kiểm lâm có ai dám thừa nhận tiếp tay cho lâm tặc? Hay chỉ đến khi lật xe, gỗ đè chết người ở Con Cuông, Nghệ An thì mới rút kinh nghiệm, kiểm điểm ? Bây giờ nhân dân cả nước vẫn chưa biết kết quả xử lý cuối cùng vụ này ra sao ? Có ai dám nói đến sự yếu kém, sự bất lực trong công tác quản lý bảo vệ rừng ?

Về tệ nạn xã hội

Ở cơ sở có cả một hệ thống chính trị: Đảng ủy, UBND, HĐND, các hội: phụ nữ, cựu chiến binh, đoàn thanh niên… lực lượng công an phường, xã, dân quân tự vệ… Cả hệ thống đông đảo ấy nếu thật sự tận tụy với dân, tận lực làm việc thì tệ nạn ma tuý, mại dâm, trộm cướp, giết người, bạo lực xã hội, bạo hành gia đình, ngược đãi trẻ em… liệu có đất dung thân hay không? Các điểm vui chơi, quán nhậu, ka-ra-ô-kê đều phải đăng ký kinh doanh. Chỉ cần kiên quyết xử lý các sai phạm ngay từ đầu thì làm gì có đất cho tệ nạn hoạt động. Phải chăng tiếp tay, ăn chia, nhận đút lót rồi nhắm mắt làm ngơ thì tệ nạn xã hội mới có cơ hội hoành hành như vậy?

Trên đây là những vấn đề nhức nhối tôi phải chứng kiến hàng ngày khiến tôi lo lắng, băn khoăn về sự còn mất của Đảng. Phải làm thế nào đây? Tôi chỉ là một người dân bình thường, yêu Đảng, yêu Bác nhưng không thể chấp nhận việc những tiêu cực đó xảy ra hằng ngày mà chỗ nào cán bộ, đảng viên cũng nói học tập và làm theo Bác. Mỗi đảng viên, cán bộ hãy một lần đọc lại Di chúc của Bác, hãy nhớ kỹ: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân…”. Chỉ có như thế Đảng mới trường tồn, xứng đáng với Lãnh tụ kính yêu của Đảng – Bác Hồ vĩ đại.

Trương Long Vũ

xaydungdang.org.vn

Bác Hồ với chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu

Đấu tranh phòng chống tham ô, tham nhũng, lãng phí và quan liêu, là một nhiệm vụ quan trọng, to lớn và cấp bách hiện nay, bởi đây là nguy cơ, ảnh hưởng trực tiếp tới sự lãnh đạo của Đảng và sự ổn định, phát triển của đất nước.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm tới nhiệm vụ này. Người cho đây là “kẻ thù nguy hiểm”, “là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến”, nó làm hỏng tinh thần và phá hoại đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên.

Bởi vậy, Bác Hồ đã có nhiều bài nói, bài viết đề cập trực tiếp tới nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tham ô, tham nhũng, lãng phí và quan liêu. Người thường xuyên nhắc nhở, giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân ta rèn luyện đạo đức cách mạng, thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Người là hình ảnh tiêu biểu của đạo đức cách mạng, là tấm gương trong sáng về đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí và quan liêu mà mỗi người, từng tổ chức của cả hệ thống chính trị phải thường xuyên rèn luyện, học tập và noi theo.

Nhớ lại, sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, Hồ Chí Minh đã sớm cảnh báo nguy cơ tham nhũng, lãng phí, quan liêu trong bộ máy và đội ngũ cán bộ. Người chỉ rõ nạn tham ô, tham nhũng, lãng phí và quan liêu, là một thứ “giặc nội xâm” rất nguy hiểm. Bởi vậy, ngay sau khi tuyên bố độc lập một ngày (ngày 3/9/1945) Người đã đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách cần làm ngay, trong đó có nhiệm vụ “giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện cần, kiệm, liêm, chính”.

Tiếp đó, tại phiên họp Hội đồng Chính phủ tháng 7/1952, trong bài phát biểu Người nhấn mạnh: Bệnh quan liêu, nạn tham ô, lãng phí nguồn gốc trong xã hội cũ mà ra. Chúng ta không lấy làm lạ, nhưng mấy năm sau cách mạng mà tham ô, lãng phí còn khá phổ biến trong cán bộ ta là vì giáo dục thiếu sót. Chúng ta phải sửa chữa một cách có kế hoạch, có chuẩn bị.
Người từng chỉ rõ: Để kháng chiến thắng lợi, để xây dựng nhà nước, chiến sĩ thì hy sinh xương máu, đồng bào thì hy sinh mồ hôi, nước mắt để đóng góp. Những kẻ tham ô, lãng phí và quan liêu thì phá hoại tinh thần, phí phạm sức lực, tiêu hao của cải của Chính phủ và của nhân dân. Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám.

Vì vậy, theo Người chống tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu cũng quan trọng và cần kíp như đánh giặc trên mặt trận. Đây là mặt trận tư tưởng và chính trị.

Nhớ lại trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, giám đốc nhà quân nhu – đại tá Trần Dụ Châu phạm tội tham ô, lợi dụng chức quyền biển thủ 57.950 đồng bạc Việt Nam, 449 USD, 28 tấn lụa vải xanh, nhận 20 vạn đồng tiền hối lộ của người dưới quyền, sống xa hoa, trụy lạc, kèo bé phái, gây chia rẽ nội bộ, vụ lợi riêng, nên ngày 5/9/1950 đã bị tòa án binh tối cao tuyên phạt mức án tử hình. Điều đó cho thấy sự nghiêm minh và quyết tâm của Đảng, Chính phủ, Bác Hồ trong việc đấu tranh chống tham ô, tham nhũng, lãng phí. Sau vụ Trần Dụ Châu, tại phiên họp Hội đồng Chính phủ từ ngày 15 đến 17 tháng 11 năm 1950, Bác Hồ trong bài phát biểu kết luận đã căn dặn: Lúc tìm người phải tìm cả tài, cả đức, chú trọng tư tưởng. Nếu cán bộ biết thương dân, tiếc của dân thì không xảy ra việc đáng tiếc. Đồng thời phải giáo dục, cải tạo, kiểm tra cán bộ.

Cũng trong thời gian này, Bác Hồ còn có nhiều bài viết căn dặn, giáo dục cán bộ, đảng viên, nhân dân ta thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Đồng thời Người nghiêm khắc phê phán những cán bộ phạm phải căn bệnh nguy hiểm nói trên. Đó là bài: Chống quan liêu, tham ô, lãng phí (tháng 9/1952). Người viết:

“Tất cả cán bộ đều là đầy tớ của dân.
Quan liêu là những người phụ trách mà chỉ biết yên thân.
Xa cách cán bộ, nhân dân và việc làm
Việc gì cũng nhắm mắt ký thàm
Không biết cán bộ tốt hay xấu, việc làm đúng hay không
Quan liêu “ngài” không biết đề phòng
Do đó mà tham ô, lãng phí mọc từ trong đến ngoài
Tham ô là những cán bộ chỉ lo phát “hoạnh tài”.
Đục khoét của nhân dân, bộ đội chính phủ, đoàn thể
Của ai họ cũng trộm làm của mình.
Để họ tiêu xài xa xỉ, linh đình
Tội ác ấy thật là to lớn, tâm tình ấy thật là nhuốc nhơ
Lãng phí là những cán bộ ngẩn ngơ
Không biết thương tiếc của cải và thời giờ của Chính phủ và nhân dân.
Đáng tiêu một phần thì tiêu đến 10 phần, 100 phần
Việc một người làm được, cũng kéo gấp đến 10 người, 100 người
Tham ô có tội đã đành rồi.
Tai hại đến của dân, của nước thì lãng phí cũng là tội to.
Hỡi những người quan liêu, lãng phí và tham ô!
Cần, kiệm, liêm, chính các người để ở mô cả rồi.
Đoàn thể và Chính phủ, nhân dân và bộ đội, ủy thác cho các người.
Mà các người làm hỏng việc thì tội này ai mang
Cho nên toàn dân ta phải đứng dậy hiên ngang
Quyết tâm chống quan liêu, tham ô, lãng phí trong hàng ngũ ta.
Mấy câu mộc mạc, nôm na
Xin mọi người ghi nhớ đem ra thực hành”.

Sau này, nội dung đấu tranh chống tham ô, tham nhũng, lãng phí và quan liêu còn được Người nêu lên trong nhiều bài nói, bài viết tại các Hội nghị Trung ương, ở những buổi làm việc với lãnh đạo các cấp, các ngành, đoàn thể ở Trung ương, địa phương, cũng như ở nhiều bài viết quan trọng khác! Điều đó cho thấy đây là một nội dung xuyên suốt trong cuộc đời đấu tranh hoạt động của Bác Hồ, là vấn đề được Người thường xuyên quan tâm để giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên và nhân dân ta.

Ngày nay, Đảng ta xác định tham nhũng là trong một quốc nạn. Đấu tranh phòng chống tham ô, tham nhũng, lãng phí là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trước hết là của từng tổ chức, của mỗi cán bộ, đảng viên. Nghị quyết Đại hội X của Đảng vừa qua đã khẳng định quyết tâm: Xử lý kiên quyết, kịp thời, công khai những người tham nhũng, bất kể chức vụ nào, đương chức hay đã nghỉ hưu, tịch thu sung công tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng; những người bao che cho tham nhũng, cố tình ngăn cản việc chống tham nhũng hoặc lợi dụng việc tố cáo tham nhũng để vu khống làm hại người khác, gây mất đoàn kết nội bộ. Có cơ chế khuyến khích và bảo vệ những người tích cực đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực. Biểu dương và nhân rộng những gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”. Điều đó thể hiện Đảng ta đã nhận thức và đang quyết tâm thực hiện đúng những gì mà Bác Hồ kính yêu căn dặn, để tiếp tục phát huy vai trò lãnh đạo của mình, xứng đáng với niềm tin của nhân dân.

Nguồn: Báo Lâm Đồng

dalat.gov.vn

Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng đạo đức mới

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới trong xã hội và chính Người đã suốt đời không mệt mỏi tự rèn mình, cũng như giáo dục cán bộ, đảng viên, nhân dân cùng thực hiện.

Theo Người, nói phải đi đôi với làm, trước hết là sự nêu gương tốt. Sự làm gương của thế hệ đi trước với thế hệ đi sau, của lãnh đạo với nhân viên… là rất quan trọng. Người yêu cầu ông bà làm gương cho con cháu, cha mẹ làm gương cho các con, anh chị làm gương cho em, lãnh đạo làm gương cho cán bộ, nhân viên, đảng viên phải làm gương cho quần chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức, muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.

Người cho rằng, muốn xây dựng đạo đức mới thì xây phải đi đôi với chống. Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết phải chống những biểu hiện phi đạo đức, sai trái, xấu xa, trái với những yêu cầu của đạo đức mới, đó là “chủ nghĩa cá nhân”. Xây đi đôi với chống, nghĩa là muốn xây thì phải chống, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải chống chủ nghĩa cá nhân. Xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành từ giáo dục, từ gia đình đến nhà trường, tập thể và toàn xã hội. Những phẩm chất chung nhất phải được cụ thể hóa sát hợp với các tầng lớp, đối tượng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã cụ thể hóa các phẩm chất đạo đức cơ bản đối với từng giai cấp, tầng lớp, lứa tuổi và nhóm xã hội.

Trong giáo dục, vấn đề quan trọng là phải khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh của mọi người, để mọi người nhận thức được và tự giác thực hiện. Người nhấn mạnh, trong đấu tranh chống lại tiêu cực, lạc hậu, trước hết phải chống chủ nghĩa cá nhân, phải phát hiện sớm, phải chú ý phòng ngừa, ngăn chặn. Để xây và chống cần phát huy vai trò của dư luận xã hội, tạo ra phong trào quần chúng rộng rãi, biểu dương cái tốt, phê phán cái xấu. Người đã phát động cuộc thi đua “Ba xây, ba chống”, viết sách “Người tốt, việc tốt” để tuyên truyền, giáo dục đạo đức, lối sống.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh, rèn luyện bền bỉ mới thành. Người viết: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Phải rèn luyện, tu dưỡng đạo đức suốt đời, Người dạy: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tự rèn luyện có vai trò rất quan trọng, Người khẳng định, đã là người thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ xấu, chỗ tốt, ai cũng có thiện, có ác ở trong mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào con người mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc; thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác để khắc phục. Tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện trong mọi hoạt động thực tiễn, trong đời tư cũng như trong sinh hoạt cộng đồng, trong mối quan hệ của mình.

Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, theo những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức mà Người đã chỉ ra chính là biện pháp quan trọng để mọi cán bộ, đảng viên và tổ chức Đảng sửa chữa, khắc phục tình trạng suy thoái “có tính nghiêm trọng” về đạo đức, lối sống, giữ vững niềm tin của nhân dân về sự lãnh đạo của Đảng.

A.T

dalat.gov.vn

Tinh thần quốc tế trong sáng

Trong thời kỳ mới của cách mạng, nguồn lực quan trọng để xây dựng và phát triển đất nước chính là mở rộng tình đoàn kết quốc tế, quan hệ hợp tác cùng có lợi, chủ động, tích cực hội nhập, như Đảng ta đã khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế… Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực” (Văn kiện Đại hội X của Đảng. Tr. 112. NXB CTQG – Hà Nội – 2006).

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Trong những tác phẩm, bài nói, bài viết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói đến các phẩm chất đạo đức. Từ thực tế của con người và xã hội Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát thành những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức cách mạng việt Nam. Đó là: Trung với nước, hiếu với dân; Yêu thương con người; Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; Tinh thần quốc tế trong sáng. Trong những chuẩn mực trên, trong xu hướng hội nhập, toàn cầu hoá hiện nay, phẩm chất đạo đức “Tinh thần quốc tế trong sáng” có vai trò vô cùng quan trọng. Tinh thần quốc tế trong sáng là phẩm chất, là yêu cầu đạo đức của mỗi người Việt Nam trong mối quan hệ rộng lớn, vượt qua phạm vi quốc gia, dân tộc. Nội dung chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện ở các điểm sau:

1. Đó chính là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước trong cuộc đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc.

Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã đến nhiều nước trên thế giới, các nước tư bản cũng như thuộc địa. Người đã chứng kiến cảnh cùng cực của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đồng thời cũng thấy rõ cảnh sống xa hoa của bọn tư sản.

Thực tế sinh động đã giúp Người đồng cảm và nhận thức rõ: Nơi đâu cũng có người nghèo như ở xứ mình, dù ở các nước thuộc địa hay chính quốc, họ đều bị áp bức, bóc lột tàn nhẫn bởi chủ nghĩa thực dân tàn ác. Người đi tới kết luận: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tính hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản” (Bài Đoàn kết giai cấp của Nguyễn Ái Quốc đăng trên báo Le Paria số 25 tháng 5-1924). Kết luận này cho thấy nhận thức của Hồ Chí Minh về ý thức dân tộc và ý thức giai cấp đã từ tầm nhìn quốc gia tới tầm nhìn quốc tế. Kết luận trên cũng là sự khởi đầu của tư tưởng đoàn kết quốc tế Hồ Chí Minh – đoàn kết với những người lao khổ, cần lao trên thế giới, luôn gắn liền lợi ích dân tộc với lợi ích giai cấp, lợi ích quốc gia với lợi ích quốc tế.

Tháng 6-1919, khi gửi tới Hội nghị “hòa bình” Vécxây “Bản yêu sách của nhân dân An Nam”, lần đầu tiên xuất hiện trên vũ đài quốc tế, Hồ Chí Minh đã thể hiện tư tưởng sát cánh cùng các dân tộc bị áp bức đấu tranh cho sự bình đẳng, hợp tác quốc tế. Mười năm vận động, trải nghiệm ở nhiều nước, Hồ Chí Minh đã sớm xác định, cuộc đấu tranh của Việt Nam, cũng như cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức là bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Từ lời phát biểu đầu tiên tại Đại hội Tua (12-1920) trở đi, Người luôn khẳng định cuộc cách mạng của các dân tộc bị áp bức đều có quan hệ với nhau. Nói về sự liên minh đoàn kết đấu tranh của nhân dân lao động ở các nước thuộc địa, khi đó Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, các nước thuộc địa và phụ thuộc muốn được giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột của chủ nghĩa tư bản thì chỉ bằng cách đoàn kết chặt chẽ để chống kẻ thù chung. Cũng là một người dân thuộc địa, Người thấy được khả năng, sức mạnh đoàn kết của các dân tộc thuộc địa và tin tưởng vào thắng lợi trong cuộc đấu tranh của họ.

2. Tinh thần quốc tế trong sáng còn là vì mục tiêu chung “Bốn phương vô sản đều là anh em”.

Hành trình qua các nước vào những năm đầu của thế kỷ XX giúp Hồ Chí Minh nhận thấy rằng phải có được quan hệ hợp tác giúp đỡ giữa cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa. Ngay từ năm 1921, Người khẳng định thực dân đế quốc là kẻ thù của nhân dân thuộc địa và cũng là kẻ thù của nhân dân lao động chính quốc. Bởi vậy, để chống lại kẻ thù chung, đạt tới mục tiêu giải phóng thân phận nô lệ và bị bóc lột, đòi hỏi sự đoàn kết liên minh chặt chẽ nhân dân lao động ở thuộc địa và chính quốc. Điểm mới và sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là Người đã chứng minh được bọn đế quốc không chỉ áp bức bóc lột nhân dân các nước thuộc địa, mà còn thống trị nhân dân lao động và giai cấp vô sản chính quốc. Người đã ví chủ nghĩa đế quốc giống như “con đỉa hai vòi”. Một vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc, một vòi bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Muốn giết con vật ấy, phải đồng thời cắt cả hai vòi, nếu chỉ cắt một vòi thì vòi còn lại tiếp tục hút máu và vòi bị cắt tiếp tục mọc ra. Vì thế, nhiệm vụ chống chủ nghĩa tư bản, đánh đổ chúng là nhiệm vụ của cả nhân dân lao động chính quốc và thuộc địa. Nhiệm vụ đó đòi hỏi phải đoàn kết cả hai lực lượng nói trên.

3. Từ những năm hai mươi của thế kỷ XX, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, từ thành quả của Cách mạng tháng Mười Nga, Nguyễn Ái Quốc đã nhận ra giữa các quốc gia, giữa các dân tộc ở các châu lục cần có sự hợp tác giúp đỡ và học hỏi lẫn nhau. Sức mạnh của mỗi nước có một phần quan trọng tuỳ thuộc vào các mối liên kết và hiểu biết lẫn nhau. Từ đó Người luôn khẳng định những cuộc cách mạng của các dân tộc bất kỳ gần hay xa, to hay nhỏ đều có quan hệ với nhau. Từ năm 1924, Người đã trở thành một trong những cán bộ châu Á đầu tiên thực thi nhiệm vụ liên kết giữa các dân tộc châu Á với phong trào cách mạng vô sản thế giới.

Trong những năm tháng nhân dân Việt Nam đấu tranh giành độc lập và bảo vệ nền độc lập của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm chăm lo phát triển tình hữu nghị giữa Việt Nam với các nước ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh để mở rộng quan hệ quốc tế của Việt Nam và tranh thủ, khẳng định sự ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Đồng thời, Hồ Chí Minh còn luôn nhắc nhở nhân dân Việt Nam về những nhiệm vụ đối với cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân các nước này. Hồ Chí Minh tha thiết với độc lập tự do của dân tộc mình, cho nên cũng rất trân trọng độc lập tự do của các dân tộc khác. Bởi thế, Người hết sức căm giận trước bất cứ một hành động xâm lược nào và cho rằng: giúp đỡ một dân tộc khác bảo vệ độc lập tự do của họ cũng chính là bảo vệ lợi ích của đất nước mình, “giúp bạn là tự giúp mình”. Đây chính là một bước phát triển mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế. Vì lẽ đó, Người luôn động viên nhân dân Việt Nam vừa tiến hành sự nghiệp bảo vệ độc lập tự do của dân tộc mình, vừa thực hiện sự giúp đỡ vô tư chí tình, chí nghĩa đối với các dân tộc anh em.

Sự đoàn kết ấy là nhằm những mục tiêu lớn của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là hợp tác hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc. Sự đoàn kết ấy dựa trên cơ sở bình đẳng và kết hợp giữa lợi ích quốc gia với lợi ích quốc tế.

4. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Trong bài “Tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế” (1953), Người đã nhấn mạnh: “Tinh thần yêu nước và tinh thần Quốc tế liên hệ khăng khít với nhau. Vì lẽ đó, ta vừa ra sức kháng chiến, vừa tham gia phong trào ủng hộ hoà bình thế giới”. Nếu tinh thần yêu nước không chân chính và tinh thần quốc tế không trong sáng thì có thể dẫn đến chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, hoặc chủ nghĩa bành trướng bá quyền, kỳ thị chủng tộc… Những khuynh hướng sai lệch ấy có thể dẫn đến chỗ phá vỡ một quốc gia dân tộc hay một liên bang đa quốc gia dân tộc, phá vỡ tình đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chung, thậm chí có thể đưa đến tình trạng đối đầu đối địch. Đây là một thực tế đã diễn ra ở châu Âu và nhiều khu vực trên thế giới hiện nay.

Có thể nói tinh thần quốc tế trong sáng trong đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ tình thương yêu đối với con người; vì mục tiêu giải phóng các dân tộc bị áp bức, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, mang lại tự do và bình đẳng thực sự cho con người. Từ chủ nghĩa quốc tế trong sáng đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng và xây dựng nên tình đoàn kết quốc tế rộng lớn của nhân dân Việt Nam với các dân tộc trên thế giới, góp phần vào những thắng lợi to lớn của nhân dân Việt nam và nhân dân thế giới.

Trong thời kỳ mới của cách mạng, nguồn lực quan trọng để xây dựng và phát triển đất nước chính là mở rộng tình đoàn kết quốc tế, quan hệ hợp tác cùng có lợi, chủ động, tích cực hội nhập, như Đảng ta đã khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế… Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực” (Văn kiện Đại hội X của Đảng. Tr. 112. NXB CTQG – Hà Nội – 2006). Nguyễn Thuý Đức – Bảo tàng Hồ Chí Minh

Nguồn: baotanghochiminh.vn

tuoitrebinhduong.vn

60 năm tác phẩm Sửa đổi lối làm việc

(ĐCSVN– Nhân dịp kỷ niệm 78 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930 – 3-2-2008) và 60 năm tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (10-1947 – 10-2007) của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản cuốn sách 60 năm tác phẩm Sửa đổi lối làm việc.

Thiết thực thực hiện cuộc vận động của Đảng và nhân dịp kỷ niệm 60 năm tác phẩm Sửa đổi lối làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, được sự đồng ý của Lãnh đạo Ban Tuyên giáo Trung ương, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam đã phối hợp với Báo Nhân dân, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Viện Khoa học Xã hội và Nhân văn Quân sự, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Ban Tuyên giáo Thành uỷ Hà Nội, tổ chức Hội thảo khoa học – thực tiễn quốc gia với chủ đề: 60 năm tác phẩm Sửa đổi lối làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh với cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng.

Cuộc Hội thảo đã nhận được sự tham gia của các đồng chí lãnh đạo, quản lý, các nhà khoa học của nhiều bộ, ban, ngành, nhà trường, học viện, viện nghiên cứu… Các bài tham luận khoa học đã tập trung phân tích làm nổi bật những tư tưởng, quan điểm cách mạng, khoa học của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc về xây dựng Đảng cầm quyền, về công tác cán bộ, về đạo đức cách mạng, về mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân, về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, v.v.. Đồng thời, các bài tham luận cũng đã nêu bật được ý nghĩa, tính thời sự nóng hổi của tác phẩm Sửa đổi lối làm việc đối với sự nghiệp đổi mới đất nước của chúng ta hôm nay với nhiều thành công nhưng cũng còn tồn tại không ít khuyết điểm, yếu kém cần phải được sửa đổi, khắc phục, theo đúng tinh thần “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ vĩ đại và kính yêu của Đảng và dân tộc Việt Nam. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người là một tấm gương sáng chói và mẫu mực về đức hy sinh cao cả cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng con người. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, kể từ khi chuẩn bị cho sự ra đời chính đảng mácxít – lêninnít chân chính ở Việt Nam cho đến khi Người rời xa chúng ta để về cõi vĩnh hằng, điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm hàng đầu và trăn trở nhiều nhất là vấn đề xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo, chèo lái con thuyền cách mạng đi đến thành công, đem lại độc lập cho Tổ quốc, phồn thịnh cho đất nớc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Do đó, Người thường xuyên chăm lo công tác xây dựng, củng cố Đảng, giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ đức đủ tài, để trong bất kỳ giai đoạn nào, Đảng cũng phải là một tổ chức cách mạng tiêu biểu cho trí tuệ, đạo đức, lương tâm và danh dự của dân tộc, làm tròn nhiệm vụ mà Tổ quốc và nhân dân đã tin tưởng giao phó.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, về công tác cán bộ, về giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên được thể hiện trong rất nhiều bài viết, bài nói của Người, mà một trong số đó là tác phẩm Sửa đổi lối làm việc hoàn thành vào tháng 10-1947 tại Chiến khu Việt Bắc trong hoàn cảnh Đảng ta cầm quyền mới được hai năm, chính quyền cách mạng còn non trẻ, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đang trong những năm đầu tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược vô cùng gian khó. Tác phẩm Sửa đổi lối làm việc của Người được Nhà xuất bản Sự thật xuất bản đầu năm 1948 và phổ biến rộng rãi trong toàn quốc đã chỉ đạo, hướng dẫn toàn Đảng thực hiện một cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng để Đảng thực sự nâng cao năng lực lãnh đạo, nâng cao uy tín, đạo đức và sự gắn bó máu thịt với nhân dân, lãnh đạo nhân dân vượt qua mọi khó khăn, gian khổ giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Tác phẩm Sửa đổi lối làm việc gồm có sáu phần, là sự thể hiện những tư tưởng cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng và chỉnh đốn Đảng, thực sự có ý nghĩa sâu sắc trong xây dựng Đảng ta cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, là cẩm nang cho cán bộ, đảng viên trong học tập, phấn đấu công tác, tu dưỡng đạo đức và rèn luyện tác phong làm việc. Với những câu văn ngắn gọn, hàm súc, lời văn gần gũi với quần chúng, dễ đọc, dễ hiểu, tác phẩm Sửa đổi lối làm việc đề cập một cách toàn diện các vấn đề về xây dựng Đảng:

Tự phê bình và phê bình được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập nhiều lần nhất trong tác phẩm bởi tầm quan trọng đặc biệt của nó đối với công tác xây dựng Đảng. Tự phê bình và phê bình, theo Người, là để nhận rõ ưu điểm, thấy được khuyết điểm, để từ đó mà tìm cách phát huy ưu điểm, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, để giúp nhau tiến bộ, để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn.

Sửa đổi lối làm việc của Đảng để sửa trị các chứng bệnh nguy hiểm bên trong như chủ quan, hẹp hòi, ba hoa. Đó là ba chứng bệnh rất nguy hiểm, nếu không chữa ngay, để nó lây ra, thì nguy hại vô cùng. Từ bệnh chủ quan mà sinh ra các bệnh kém lý luận, khinh lý luận, lý luận suông; bệnh xa quần chúng, bệnh hình thức. Từ bệnh hẹp hòi mà sinh ra nhiều bệnh khác như: chủ nghĩa địa phương, chủ nghĩa bản vị, chủ nghĩa cá nhân, tham danh vọng, tham địa vị, dìm người giỏi, bệnh hủ hóa… Từ thói ba hoa mà sinh ra nhiều thói xấu khác: dài dòng, rỗng tuếch; cầu kỳ; khô khan, lúng túng; báo cáo lông bông; lụp chụp cẩu thả; “sáo cũ”; nói không ai hiểu; bệnh hay nói chữ… Để chữa khỏi những bệnh đó, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phương thuốc hay nhất vẫn là tự phê bình và phê bình.

Mấy điều kinh nghiệm phê phán những khuyết điểm trong công tác như cách lãnh đạo kém và quan liêu dẫn tới không biết cất nhắc cán bộ tốt, hao phí nhân tài, không biết nghiên cứu kinh nghiệm đến gốc, làm việc ít có sáng kiến và lòng hăng hái, cách lãnh đạo không đợc dân chủ, cách công tác không được tích cực, không sát quần chúng, hợp quần chúng… Đồng thời, đối với sai lầm, khuyết điểm trong mỗi công tác, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều có những chỉ dẫn thiết thực, cụ thể để sửa chữa, khắc phục những khuyết điểm đó.

Tư cách và đạo đức cách mạng được Người đề cập không dài nhưng toát lên đầy đủ những nội dung cơ bản của đạo đức cách mạng, tầm quan trọng của nó đối với mỗi con người cũng như đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng, đặc biệt, Người đã bàn tương đối cụ thể về phương pháp rèn luyện đạo đức cách mạng. Người nêu lên tư cách của Đảng chân chính cách mạng gồm 12 điều, mà theo Người: “Muốn cho Đảng được vững bền, mười hai điều đó chớ quên điều nào”. Về đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên, Người chỉ rõ, cán bộ, đảng viên phải: “Trọng lợi ích của Đảng hơn hết”, nghĩa là “vô luận lúc nào, vô luận việc gì, đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau. Đó là nguyên tắc cao nhất của Đảng. Đó là tính Đảng”. Người chỉ ra năm tính tốt của người cán bộ chân chính cách mạng gồm: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm, và khẳng định: “Đó là đạo đức cách mạng… Đạo đức đó… không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”.

Vấn đề cán bộ luôn là vấn đề Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm. Người cho rằng: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Vì vậy, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”. Với quan điểm đó, Người đề cập đến một cách toàn diện về công tác cán bộ bao gồm cách huấn luyện cán bộ, dạy cán bộ và dùng cán bộ, lựa chọn cán bộ, chính sách cán bộ… chỉ rõ những khuyết điểm trong công tác cán bộ và chỉ dẫn cách khắc phục, để xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện một đội ngũ cán bộ có đức có tài, trong đó đức là gốc, phục vụ cho sự nghiệp cách mạng, phục vụ nhân dân, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân.

Phương thức lãnh đạo của Đảng được Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng cách nói giản đơn, dễ hiểu là cách lãnh đạo. Theo Người, cách lãnh đạo đúng là liên hợp chính sách chung với chỉ đạo riêng và liên hợp lãnh đạo với quần chúng. Cách lãnh đạo đúng còn phải biết làm việc theo cách quần chúng, học hỏi quần chúng nhưng không theo đuôi quần chúng. Lãnh đạo phải gắn với công tác kiểm tra, giám sát thì mới có hiệu quả, đồng thời phải giữ vững mối liên hệ mật thiết, máu thịt giữa Đảng và nhân dân, “một giây, một phút cũng không thể giảm bớt mối liên hệ giữa ta và dân chúng”, bởi vì “không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”, v.v..

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Sửa đổi lối làm việc cách đây đã 60 năm, nhưng những vấn đề Người nêu ra trong tác phẩm vẫn sống mãi với thời gian. Bởi vì, đó là những vấn đề đã được Người nghiền ngẫm, suy nghĩ, dự đoán, tiên liệu khi Đảng ta đã trở thành Đảng cầm quyền, được Người viết ra bằng toàn bộ tâm huyết, bằng lý luận, khoa học và kinh nghiệm thực tiễn hoạt động cách mạng của mình. Học tập, quán triệt và vận dụng những quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Đảng ta đã không ngừng phấn đấu, rèn luyện, đổi mới trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng cả chính trị, tư tưởng và tổ chức để không ngừng trởng thành, nâng cao năng lực tổ chức và năng lực lãnh đạo, nâng cao sức mạnh chiến đấu, uy tín, đạo đức cách mạng, sự liên hệ máu thịt với nhân dân, để từ đó lãnh đạo toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta giành thắng lợi vẻ vang trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và đem lại những thành công có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong sự nghiệp đổi mới hơn 20 năm qua của đất nước ta.

Hơn 60 năm đã trôi qua, đất nước ta đã trải qua bao nhiêu thay đổi lớn lao, nhng những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc vẫn là những vấn đề nóng hổi tính thời sự đối với quá trình đổi mới, phát triển đất nước ta hiện nay. Những căn bệnh của Đảng cầm quyền, của cán bộ, đảng viên mà Người đã phát hiện, cảnh báo từ 60 năm trước vẫn còn tồn tại, thậm chí có phần phức tạp hơn trước, khó sửa chữa hơn trước, như Đảng ta đã chỉ ra: “Dân chủ trong Đảng và trong xã hội còn bị vi phạm. Kỷ cương, kỷ luật ở nhiều cấp, nhiều lĩnh vực không nghiêm. Sự đoàn kết, nhất trí ở không ít cấp uỷ còn yếu. Quan hệ giữa Đảng và nhân dân có lúc, có nơi bị xói mòn… Không ít tổ chức đảng yếu kém…, không đủ sức giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh từ cơ sở, thậm chí có những tổ chức cơ sở đảng tê liệt, mất sức chiến đấu. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp, yếu kém cả về phẩm chất và năng lực; thiếu tính chiến đấu và tinh thần bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nớc, giảm sút lòng tin, phai nhạt lý tưởng; một số ít có biểu hiện bất mãn, mất lòng tin, nói và làm trái với quan điểm, đường lối của Đảng, vi phạm nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, vi phạm pháp luật của Nhà nước. Bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân trong một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng gia tăng; vẫn còn tình trạng “chạy chức”, “chạy quyền”, “chạy tội”, “chạy bằng cấp”. Thoái hoá, biến chất về chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng, kéo dài chưa được ngăn chặn, đẩy lùi… Đó là một nguy cơ liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ”.

Chính vì vậy, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là nhiệm vụ cơ bản và cấp bách hiện nay. Đảng ta đã phát động và tiến hành cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng, trong đó có cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Vì vậy, việc học tập, nắm vững và thực hiện có hiệu quả những lời chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Sửa đổi lối làm việc thực sự có ý nghĩa sâu sắc đối với Đảng, cán bộ, đảng viên trong cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay.

Trên cơ sở hơn 63 bài tham luận khoa học tại Hội thảo của các tác giả, Nhóm Biên soạn và Ban Biên tập đã chỉnh lý, biên tập và sắp xếp thành năm phần. Các bài viết được tập hợp vào mỗi phần chỉ mang tính tương đối, bởi các vấn đề được đề cập trong đó đều xoay quanh chủ đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Phần thứ nhất: Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và sự lãnh đạo của Đảng.

Phần thứ hai: Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” với công tác cán bộ.

Phần thứ ba: Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” với việc giữ vững mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân.

Phần thứ tư: Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” với công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên.

Phần thứ năm: Ý nghĩa cách mạng và tính thời sự của tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”.

BVK

dangcongsan.vn