Archive | Tháng Mười Hai 2012

Cảnh giác với thủ đoạn xuyên tạc, bôi đen lịch sử

Làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình”

Sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ vào những năm cuối thập niên 80, 90 của thế kỷ XX, các thế lực thù địch chống chủ nghĩa xã hội coi đây là “thời cơ vàng” để đẩy tới chiến lược “Diễn biến hòa bình”, tấn công toàn diện vào các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, trong đó có Việt Nam với tham vọng loại bỏ chủ nghĩa xã hội hiện thực khỏi đời sống chính trị thế giới như cựu Tổng thống Mỹ R.Ních-xơn từng tuyên bố: “1999 – chiến thắng không cần chiến tranh“.

Trong cuộc chiến mới, kẻ thù sử dụng nhiều phương thức, thủ đoạn, lực lượng, phương tiện mới tiến công trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội để làm chuyển hóa chế độ chính trị các nước xã hội chủ nghĩa theo hướng tư bản chủ nghĩa, thực hiện phương châm “không đánh mà thắng”. Trong chiến lược tổng hợp đó, kẻ thù đặc biệt chú trọng tấn công vào trận địa tư tưởng, văn hóa nhằm làm thay đổi nhận thức, tình cảm, phá hoại niềm tin, lý tưởng cách mạng, suy đồi đạo đức, lối sống của mỗi cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân với kỳ vọng biến “diễn biến hòa bình” thành “tự diễn biến”, kích động tư tưởng chống đối từ trong nội bộ, thủ tiêu thành quả cách mạng xã hội chủ nghĩa một cách “hòa bình”. Do vậy, một trọng tâm của công tác đấu tranh tư tưởng, lý luận ở nước ta hiện nay là nâng cao cảnh giác, nhận rõ âm mưu, thủ đoạn địch chống phá, kiên quyết đấu tranh với các luận điệu tuyên truyền phản động, xuyên tạc, bôi đen lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng, dân tộc góp phần làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc.

Lâu nay, các thế lực chống phá chủ nghĩa xã hội, cách mạng Việt Nam luôn triệt để lợi dụng các phương tiện thông tin, tuyên truyền để gieo rắc các quan điểm, tư tưởng tư sản, phản động, xuyên tạc, bôi đen lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc ta. Chúng cố tình rêu rao rằng, lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng ta ưa dùng bạo lực, say máu chiến tranh nên đã đưa cả dân tộc vào con đường “nồi da nấu thịt”, “huynh đệ tương tàn”… Bằng thủ đoạn thâm độc này, kẻ thù đã làm cho không ít người, nhất là các thế hệ trẻ mơ hồ, hoài nghi, giảm sút niềm tin vào Đảng, Bác Hồ. Do vậy, công tác tư tưởng của Đảng cần làm cho mọi người dân hiểu rõ truyền thống lịch sử dân tộc, thực tiễn cách mạng gần 80 năm qua dưới sự lãnh đạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã đấu tranh giành và giữ vững nền độc lập dân tộc, xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Những năm trước 1930, khi chưa có Đảng, đất nước rên xiết dưới ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân Pháp, biết bao cuộc khởi nghĩa, phong trào yêu nước, đấu tranh đòi lại độc lập cho dân tộc đã nổ ra nhưng đều thất bại, bị kẻ thù đàn áp dã man dìm trong biển máu do không có đường lối chính trị đúng đắn lãnh đạo. Từ năm 1930 đến nay, có Đảng, Bác Hồ lãnh đạo, giáo dục, tổ chức, cách mạng Việt Nam đã vượt qua giai đoạn khủng hoảng đường lối chính trị, nhân dân ta kiên quyết đứng lên đấu tranh làm thay đổi địa vị của cả dân tộc, từ người nô lệ thành người tự do làm chủ vận mệnh của mình. Tên tuổi và sự nghiệp của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh gắn liền với bước ngoặt cách mạng vĩ đại đó của dân tộc.

Hồ Chí Minh là Nhà yêu nước Việt Nam đầu tiên đến với chủ nghĩa Mác – Lê-nin và Cách mạng Tháng mười Nga để tìm ra con đường đúng đắn đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi của ngày hôm nay. Người nhận rõ chân lý thời đại: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản“; bởi vì “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên trái đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc”. Trong đấu tranh cách mạng, việc xác định hình thức, phương pháp đấu tranh không thể chủ quan, tùy tiện, mà phải căn cứ vào bản chất, phương thức hoạt động của kẻ thù. Trong Bài giảng về “Đường cách mệnh” (năm 1925), Người đã chỉ rõ rằng, tự bản thân chủ nghĩa thực dân đã là một hành động bạo lực, vì vậy cách mạng Việt Nam chỉ có thể giành thắng lợi bằng con đường cách mạng bạo lực để chống lại bạo lực phản cách mạng của thực dân xâm lược Pháp.

Có đường lối đúng, tổ chức chặt chẽ, phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc, cách mạng Việt Nam đã trải qua những chặng đường oanh liệt và thắng lợi vẻ vang: 15 năm sau khi Đảng ra đời, Cách mạng Tháng tám (năm 1945) đã nổ ra và giành thắng lợi, lật đổ ách đô hộ của thực dân Pháp gần một trăm năm, ách thống trị của chế độ phong kiến gần một nghìn năm, lập nên Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á; 30 năm chiến tranh cách mạng (1945-1975), nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, Bác Hồ đã đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, giành thắng lợi trọn vẹn giành lại độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hơn 30 năm qua, đặc biệt sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng, lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam trong hành động cách mạng, trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, đất nước chồng chất khó khăn, những thành tựu đạt được của sự nghiệp đổi mới là rất to lớn và có ý nghĩa lịch sử, khẳng định lý tưởng cộng sản cao đẹp, sức sống bền vững của chủ nghĩa xã hội hiện thực.

Tên tuổi và sự nghiệp cách mạng của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh gắn liền với sự nghiệp cách mạng vĩ đại của dân tộc Việt Nam suốt thế kỷ XX cho đến ngày nay và cả mai sau. Người đã hiến dâng cả cuộc đời cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người, nêu tấm gương sáng ngời về đức hy sinh, tinh thần tận tụy, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị… Người là hiện thân của những phẩm chất cao quý nhất của con người Việt Nam: Yêu nước, thương dân, thông minh, cần cù, sáng tạo, anh hùng, vì nghĩa lớn… Người đã hiến dâng cho tất cả chỉ quên mình. Khẳng định công lao, đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với dân tộc và nhân loại, UNESCO đã tôn vinh Người là “Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới”. Vậy mà, để phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, kẻ địch đã không từ bỏ một thủ đoạn tuyên truyền phản động nào. Chúng tuyên truyền xuyên tạc tư tưởng, thân thế và sự nghiệp vĩ đại của Người, tách rời và đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lê-nin nhằm phủ nhận cơ sở lý luận của Đảng; rằng tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là tư tưởng dân tộc không chịu ảnh hưởng gì của chủ nghĩa Mác – Lê-nin có tính quốc tế. Đặc biệt, kẻ thù mở chiến dịch phản tuyên truyền vu khống để “hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh” bằng những thủ đoạn hèn hạ nhất, như dựng chuyện đời tư để bôi nhọ Người; phát tán nhiều tài liệu tuyên truyền phản động, bằng nhiều phương tiện khác nhau như: sách, báo, đài truyền thanh, truyền hình, Internet, rỉ tai truyền miệng, tranh ảnh… làm cho không ít người nhẹ dạ cả tin, hoài nghi về Lãnh tụ kính yêu của mình, nhân dân phân tâm, mất niềm tin vào Đảng do Người thành lập. Chúng ra sức xuyên tạc ý nghĩa của cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, trắng trợn bôi nhọ các lãnh tụ của Đảng, Nhà nước ta.

Hiện nay, đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới toàn diện gắn xây dựng với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Do vậy, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của kẻ địch trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” trong cả nước và trong quân đội. Trước hết, cần nâng cao chất lượng giáo dục chính trị tư tưởng, lịch sử truyền thống yêu nước và cách mạng, tuyên truyền sâu rộng trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định con đường phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; nâng cao niềm tin vững chắc của nhân dân vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước; nắm vững âm mưu, thủ đoạn hoạt động phá hoại của kẻ địch với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt để chủ động phòng ngừa không để cho nó phát sinh, phát triển gây tác động xấu trong xã hội, quân đội. Thứ hai, trang bị cho mỗi cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và người dân khả năng “tự bảo vệ” chống sự xâm nhập phá hoại của các tư tưởng xấu độc làm cho nội bộ ta “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về lập trường, quan điểm tư tưởng theo hướng tư bản chủ nghĩa. Thứ ba, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, xây dựng thế trận phòng, chống các hoạt động phá hoại của địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, hình thành mạng lưới tiến công các tư tưởng thù địch đang lan truyền trong xã hội; bảo đảm định hướng tư tưởng chính trị trên các phương tiện thông tin đại chúng và trong các sinh hoạt văn hóa cộng đồng góp phần xây dựng con người mới, nền văn hóa mới tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Thứ tư, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh tạo ra những tiền đề thuận lợi cho xây dựng con người mới; kết hợp đẩy mạnh Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thực sự gương mẫu về tư tưởng, đạo đức, lối sống để quần chúng học tập, làm theo, chủ động phòng, chống sự xâm nhập của các quan điểm, tư tưởng, đạo đức, lối sống tư sản, phản giá trị văn hóa và phát sinh các tiêu cực nội bộ.

Đại tá, Phó giáo sư, Tiến sĩ PHẠM VĂN NHUẬN
Viện Khoa học Xã hội Nhân văn quân sự – Bộ Quốc phòng
qdnd.vn

This entry was posted on Tháng Mười Hai 30, 2012, in Chính luận.

Về những luận điệu chống Việt Nam ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền: Như “dòng nước ngược”

QĐND – Trong ý kiến phát biểu tại phiên thảo luận chung ngày 1-10-2012 của Đại hội đồng khóa 67, Trưởng đoàn Việt Nam, Thứ trưởng Ngoại giao Phạm Quang Vinh đã chính thức thông báo Việt Nam ứng cử làm thành viên Hội đồng Nhân quyền (HĐNQ) Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014-2016.

Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (United Nations Human Rights Council) là một tổ chức trực thuộc Đại Hội đồng Liên hợp quốc. Tổ chức này ra đời ngày 15-3-2006, theo Nghị quyết A/RES/60/251. Đây là tổ chức nhân quyền mới, thay thế cho Ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc đã chấm dứt hoạt động từ năm 2006.

Ngay sau khi Việt Nam thông báo chính thức ứng cử làm thành viên HĐNQ, trên các trang mạng của các tổ chức “hành nghề chống Cộng” như “Ủy ban Nhân quyền Việt Nam”, “Những người bảo vệ nhân quyền Việt Nam” cùng với “Quỹ tù nhân lương tâm”, “Tập hợp vì nền dân chủ”, và “Ủy ban cứu người vượt biển”… đã rầm rộ “ký tên”, lên tiếng phản đối, đồng thời tìm cách thuyết phục các quốc gia thành viên của Liên hợp quốc không bỏ phiếu cho Việt Nam tham gia HĐNQ. Có thể nói, việc làm của họ như một “dòng nước ngược”, không chỉ tốn công vô ích, mà còn tự vạch mặt họ là những kẻ có động cơ xấu và thiếu thiện chí.

Cũng với cái lý do “xưa như trái đất”, họ nói: “Chính quyền Hà Nội vi phạm rất trắng trợn quyền tự do lên tiếng của người dân”. Họ dẫn chứng các vụ xử blogger như: Điếu Cày, Tạ Phong Tần, AnhbaSG, hoặc đàn áp các cuộc biểu tình của dân oan hay của những người muốn lên tiếng về chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa”.

Người ta còn “gà” cho các tổ chức, cá nhân cách viết đơn gửi đến các chính phủ: “Chúng tôi hoặc là những nạn nhân của những vi phạm nhân quyền ngay trên đất nước chúng tôi, hoặc phải sống lưu vong ngoài Việt Nam vì kết quả của đàn áp khốc liệt mà chính quyền Việt Nam không bao giờ nương tay”… Bởi vậy “chúng tôi muốn lên tiếng để nói cho cả thế giới, cho tất cả các thành viên của Liên hợp quốc, cho các thành viên trong HĐNQ Liên hợp quốc biết rằng Hà Nội không xứng đáng và không đủ tư cách để ứng cử làm thành viên của tổ chức này”.

Như một phản xạ “không điều kiện”, ông Phil Robertson, Phó giám đốc phụ trách khu vực châu Á trong tổ chức Theo dõi Nhân quyền (Human Rights Watch) – tổ chức được xem là “sân sau” của các ông nghị cực hữu, chống Cộng trong Hạ viện Mỹ cũng “té nước theo mưa”, nói rằng: “Họ bỏ tù trên chục năm đối với những người thực thi quyền bày tỏ quan điểm cá nhân như Điếu Cày hay Tạ Phong Tần. Thật quá tàn nhẫn. Điều này hoàn toàn trái ngược với cam kết của Hà Nội về tôn trọng nhân quyền và cách hành xử như vậy hoàn toàn không xứng đáng để Việt Nam ngồi vào chiếc ghế của HĐNQ Liên hợp quốc”.

Không phủ nhận rằng, Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác đang còn tồn tại không ít những vấn đề nhân quyền, nhưng đó không phải là việc bỏ tù những người “bất đồng chính kiến”, mà là những người vi phạm pháp luật quốc gia.

Nhân đây xin lưu ý rằng, Việt Nam không bỏ tù ai về việc người đó “bày tỏ quan điểm cá nhân”, mà chỉ trừng phạt họ về hành vi “Tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam” (Điều 88, Bộ luật Hình sự, 1999). Quy định này hoàn toàn không trái với “Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị”, năm 1966.

Điều 19 của Công ước nói trên quy định rằng: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận… Việc thực hiện những quy định (về quyền này) kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, có thể phải chịu một số hạn chế nhất định… để:

a) Tôn trọng các quyền và uy tín của người khác;

b) Bảo đảm an ninh quốc gia, hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng”.

Đối với nhân dân Việt Nam, quyền con người là thành quả của cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Việc tôn trọng và bảo đảm quyền công dân và quyền con người đối với Đảng và Nhà nước ta không xuất phát từ bất kỳ sức ép nào của cộng đồng quốc tế, hoặc của các lực lượng thù địch trong và ngoài nước mà xuất phát từ bản chất của chế độ xã hội.

Cho đến nay, Việt Nam đã gia nhập hầu hết các công ước nhân quyền quốc tế cơ bản về quyền con người, trong đó có Công ước về quyền dân sự, chính trị, Công ước về quyền kinh tế, xã hội, văn hóa; Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc, Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ. Việt Nam là nước thứ hai trên thế giới và nước châu Á đầu tiên tham gia Công ước Quyền trẻ em. Việt Nam cũng đã ký kết và phê chuẩn 17 công ước của Tổ chức Lao động quốc tế. Hiện nay, Việt nam đang nghiêm túc xem xét việc tham gia Công ước chống tra tấn.

Các văn bản pháp luật trong nước được ban hành hoặc sửa đổi trong nhiều năm qua theo hướng nội luật hóa các công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.

Có thể nói ở Việt Nam cho đến nay, các quyền con người về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa đều được bảo đảm theo khả năng có thể của nền kinh tế và trình độ phát triển của văn hóa đất nước. Đặc biệt từ khi đất nước đổi mới, đời sống mọi mặt của người dân được nâng cao đáng kể.

Theo Báo cáo của Ủy ban Dân tộc, thực hiện Chương trình 135 giai đoạn 2 (2006-2010), ngân sách Trung ương đầu tư lên tới 15.000 tỷ đồng, trong đó các tổ chức quốc tế hỗ trợ 350 triệu USD. Từ nguồn vốn trên, Chương trình đã xây dựng được gần 13.000 công trình hạ tầng thiết yếu như điện, đường, trường, trạm ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thực hiện Nghị quyết 30a của Chính phủ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo trong cả nước, với kinh phí hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng ưu đãi, hỗ trợ của doanh nghiệp, Quỹ vì người nghèo các địa phương… đến hết năm 2010 các huyện nghèo đã cơ bản hoàn thành việc xóa nhà tạm với tổng số 73.418 căn nhà đạt 94,58% kế hoạch.

Kể từ năm 2009, lần đầu tiên Việt Nam thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp. Đây là một cố gắng lớn của Việt Nam. Năm 2011, trong hoàn cảnh nền kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn, chi ngân sách Nhà nước cho công tác an sinh xã hội ước tăng khoảng 20% và dư nợ tín dụng ưu đãi thực hiện chính sách xã hội tăng khoảng 17% so với năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo giảm khoảng 1,5%, Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đang được triển khai có hiệu quả. Những điều này đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.

Quyền tự do ngôn luận, báo chí và thông tin được bảo đảm ngày càng tốt hơn. Cho đến nay, cả nước có hơn 700 cơ quan báo chí với hơn 1000 ấn phẩm báo chí, chương trình truyền hình, đài phát thanh… Người dân Việt Nam ngày nay còn được tiếp cận với nhiều hãng thông tấn, báo chí, các kênh truyền hình nước ngoài như: Reuters, BBC, VOA, AP, AFP, CNN… Hội Nhà báo Việt Nam có tới hơn 17.000 hội viên. Tốc độ phát triển internet ở Việt Nam được xếp hạng nhanh nhất khu vực Đông Nam Á.

Còn nhớ ngày 24-9-2009, Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc đã thông qua Báo cáo quốc gia của Việt Nam về tình hình thực hiện quyền con người trong khuôn khổ cơ chế Báo cáo kiểm điểm định kỳ (UPR) của Liên hợp quốc. Tham gia phiên họp thông qua báo cáo này có đầy đủ đại diện của 192 nước thành viên của Hội đồng Nhân quyền, các tổ chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ.

Trong phần phát biểu đánh giá, bình luận, đóng góp ý kiến của đại diện các quốc gia, hầu hết các ý kiến đánh giá cao những thành tựu của Việt Nam trong lĩnh vực thực hiện quyền con người ở Việt Nam. Nhiều ý kiến cho rằng báo cáo của Việt Nam đã thể hiện thái độ nghiêm túc, hợp tác, cởi mở với cộng đồng quốc tế.

Cu-ba, Vê-nê-xu-ê-la và Nga, xem cách tiếp cận và phương pháp giải quyết của Việt Nam trong việc thực hiện quyền con người là một tấm gương để các nước học tập. Thái Lan nói rằng Việt Nam đã cung cấp kinh nghiệm quý cho các nước khác trong việc thực hiện đầy đủ quyền của người dân. An-giê-ri coi những thành tựu của Việt Nam, cũng như cách tiếp cận của Việt Nam trong việc thực hiện Cơ chế kiểm điểm định kỳ là một đóng góp thiết thực vào cơ chế hoạt động của HĐNQ (theo TTXVN 24-9-2009).

Cách đây không lâu, đầu năm 2012 khi Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Hoa Kỳ thông qua “Dự luật nhân quyền Việt Nam 2012” do một nhóm Hạ nghị sĩ cực hữu Mỹ đồng bảo trợ, Hạ nghị sĩ Eni Faleomavaega – một cựu chiến binh Mỹ tại Việt Nam và đã từng nhiều lần trở lại thăm Việt Nam, nói rằng : “Tôi có một cách nhìn khác khi nói tới Việt Nam… Điều mà tôi không đồng tình với dự luật này là tại sao chúng tôi lại cứ coi Việt Nam như là một nước duy nhất vi phạm nhân quyền. Quan điểm của tôi là Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực hết sức để đưa người dân thoát ra khỏi những vi phạm về nhân quyền đó, cũng như đã cố gắng để giải quyết những vấn đề này… Trong khi đó, chính ở Mỹ cũng có những vi phạm về nhân quyền. Ở Mỹ cũng có vấn đề buôn người, giống như ở Việt Nam hay bất cứ nước nào khác, từ châu Phi, châu Âu. Lập luận của tôi là các ngài đang áp đặt một thứ tiêu chuẩn kép”, theo VTV, ngày 9-3-2012.

Tại Hội nghị không chính thức các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN (ngày 27 và 28-9-2012) nhân dịp Khóa họp của Đại hội đồng Liên hợp quốc, tại New York (Mỹ), sau khi nghe Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Quang Vinh thông báo chính thức Việt Nam ứng cử làm thành viên HĐNQ nhiệm kỳ 2014-2016, các Ngoại trưởng ASEAN nhất trí ủng hộ mạnh mẽ Việt Nam ứng cử làm thành viên HĐNQ Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014-2016, dự kiến sẽ được bầu trong năm 2013.

Như vậy có thể nói, cơ hội để Việt Nam trở thành thành viên của HĐNQ khóa 2014-2016 là rất lớn. Tuy nhiên, việc Việt Nam nếu trở thành thành viên của tổ chức này thì không phải như các thế lực chống Cộng trong và ngoài nước nói là để “che đậy những hành vi vi phạm nhân quyền trắng trợn hơn”, mà là tự nhận lấy trọng trách của mình trong việc bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền con người của nhân dân Việt Nam, đồng thời chia sẻ trách nhiệm bảo đảm quyền con người với cộng đồng quốc tế.

BẮC HÀ
qdnd.vn

Bác Hồ xem Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài

Tháng 6 năm 1956, đoàn Ca kịch liên khu 4, tiền thân của Nhà hát Cải lương Trung ương bây giờ, được lệnh vào Phủ Chủ tịch biểu diễn phục vụ Bác Hồ và các đồng chí Trung ương.

Khỏi phải nói là anh em nghệ sĩ cũng như cán bộ, công nhân viên trong Nhà hát phấn khởi đến nhường nào. May mắn, đêm ấy sân khấu biểu diễn dựng ở ngoài trời mà thời tiết như chiều lòng người, rất đẹp, thật mát mẻ và dễ chịu.

Trước buổi biểu diễn, đích thân Thủ tướng Phạm Văn Đồng bê một chiếc ghế tựa tới đặt ở hàng đầu để Bác ngồi xem. Đêm ấy vở diễn Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài đã được diễn với một không khí nghiêm túc cộng với sự nỗ lực hết mình của tất cả diễn viên. Và lẽ đương nhiên, buổi diễn đã thành công rực rỡ trong tiếng vỗ tay vang dội của mọi người. Như mọi lần, vở diễn kết thúc, Bác lên sân khấu động viên và khen tặng anh chị em. Tặng hoa cho các diễn viên xong, Bác giơ tay ra hiệu mọi người im lặng rồi đột nhiên Người nói:

– Một đôi Sơn Bá, Anh Đài

Chữ tình đáng trọng, chữ tài đáng thương.

Mọi người chưa kịp ngạc nhiên vì câu thơ xuất thần của Bác thì Bác đã chỉ tay vào diễn viên đóng vai bố của Chúc Anh Đài, tiếp:

Chỉ vì lão già dở dở ương ương

Làm cho đôi lứa dở dang không thành

Đánh cho phong kiến tan tành

Để bao nhiêu Anh Đài, Sơn Bá lại thành lứa đôi.

Đọc xong câu thơ cuối cùng, Bác choàng tay, âu yếm ôm vai hai diễn viên đóng Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài. Mọi người đứng hết cả dậy và tiến đến vây quanh Bác, sung sướng và xúc động trong tiếng vỗ tay như sấm…

HOÀNG AN
qdnd.vn

“Chiến thắng “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không” – Tầm cao trí tuệ và bản lĩnh Việt Nam”

LTS: Tại cuộc Hội thảo cấp Nhà nước với chủ đề: “Chiến thắng “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không” – Tầm cao trí tuệ và bản lĩnh Việt Nam”, do Bộ Quốc phòng, Ban Tuyên giáo Trung ương và Thành ủy, UBND thành phố Hà Nội phối hợp tổ chức ngày 28-11, phóng viên Báo Quân đội nhân dân đã có dịp gặp gỡ, tiếp xúc, ghi lại nhiều ý kiến, câu chuyện, kỷ niệm của các chuyên gia, nhà nghiên cứu, các nhân chứng lịch sử đã trực tiếp tham gia làm nên chiến thắng “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không”. Chúng tôi xin trân trọng lược ghi, giới thiệu một số ý kiến.

* Tiến sĩ Trương Minh Tuấn, Phó trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương:

Biểu trưng của ý chí quật cường

Trong chiến dịch phòng không ác liệt cuối năm 1972, các tầng lớp nhân dân Thủ đô đã biểu lộ cao ý chí và tinh thần kiên cường khắc phục mọi khó khăn gian khổ; phát huy những kinh nghiệm của chiến tranh nhân dân ở đô thị, phối hợp chặt chẽ với lực lượng bộ đội để thực hiện các phương án tác chiến. Cùng với bộ đội phòng không kiên cường và các tay súng tự vệ vững chắc, nhân dân thủ đô Hà Nội đã góp sức to lớn làm nên chiến công hiển hách. Cuộc sống đô thị được tổ chức theo kiểu thời chiến. Các cụ già, em nhỏ, học sinh, sinh viên về nơi an toàn. Công tác phòng không tại chỗ được triển khai tích cực. Mọi người, mọi nhà, mọi cơ quan trường học, xí nghiệp đều kiến tạo hầm hào trú ẩn. Trong thành phố có 230.000 hố cá nhân, 1.130km hào giao thông, hàng nghìn hầm tập thể…

Tiến sĩ Trương Minh Tuấn.

Sự bạo tàn của kẻ thù càng tăng thêm quyết tâm đánh giặc Mỹ của quân và dân Hà Nội. Trong tổn thất, đau thương càng sâu nặng nghĩa đồng bào. Hà Nội chiến đấu vì cả nước; cả nước hướng về Hà Nội sẻ chia, cổ vũ. Hàng trăm tấm gương sáng ngời của Thủ đô xuất hiện trên tất cả các lĩnh vực: Trong bảo vệ sản xuất, bảo vệ trật tự, tính mạng, tài sản của nhân dân, trong cứu thương, cứu hỏa, trong đùm bọc cưu mang, giúp đỡ lẫn nhau. Đó là hình ảnh của các chiến sĩ công nhân anh hùng “Bến phà kiên cường chống Mỹ” Bác Cổ, lặn lội bám trụ ngày đêm để bảo đảm giao thông thông suốt, bất chấp bom đạn của kẻ thù. Đó là hình ảnh về tấm gương hy sinh của hai đồng chí Đặng Đức Thọ và Vũ Xuân Hòa bám máy đến cùng để bảo đảm dòng điện cho Thủ đô. Và hình ảnh các chiến sĩ công an đường phố sâu sát, nắm dân, quên mình để cứu chữa, bảo vệ tính mạng nhân dân. Đó là lực lượng cứu sập, cứu hỏa xả thân dưới bom đạn địch làm nhiệm vụ. Đó là hàng trăm nghìn chiến sĩ tự vệ, các hội viên chữ thập đỏ và cả những người dân bình thường vì nghĩa lớn đã không quản ngại khó khăn, nguy hiểm tận tình cưu mang bà con, xóm ngõ của mình trong cơn hoạn nạn. Đội ngũ các thầy thuốc, những “chiến sĩ áo trắng” từ giáo sư, bác sĩ đến y tá, hộ lý đã lăn lộn bất chấp mọi nguy hiểm để làm nhiệm vụ cao cả của người lương y vì sự sống còn của hàng nghìn nạn nhân. Đó là cán bộ, công nhân trong ngành phục vụ điện, nước, ăn uống, giao thông vận tải. Nhiều đảng bộ, chi bộ và đảng viên đã phát huy vai trò tiên phong đứng mũi chịu sào trong cuộc chiến. Hàng trăm tổ chức đảng và cấp ủy các chi bộ, đảng bộ và hàng nghìn đảng viên được biểu dương gương mẫu trong đợt chiến đấu chống máy bay B-52. Mọi tầng lớp nhân dân Thủ đô, đã góp phần tạo nên chiến công vĩ đại này.

Thắng lợi của quân và dân ta 12 ngày đêm cuối năm 1972 đã để lại cho các thế hệ người Việt Nam niềm tự hào, tự tin và làm giàu thêm ý chí và tri thức về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; là biểu tượng rực rỡ về sức mạnh của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ sáng tạo Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Thắng lợi của chiến dịch “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không” là thắng lợi của đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện của Đảng; là thắng lợi của truyền thống yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân thủ đô Hà Nội; góp phần làm rạng rỡ truyền thống Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội…

DUY HỒNG (lược ghi)

* Trút đau thương lên đầu súng

Tại cuộc Hội thảo “Chiến thắng Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không: Tầm cao trí tuệ và bản lĩnh Việt Nam” chỉ có một đại biểu nữ lên tham luận. Bà là Phạm Thị Viễn, nữ pháo thủ của Trung đội tự vệ Nhà máy cơ khí Mai Động Hà Nội, người tham gia Liên đội tự vệ, chiến đấu tại trận địa Vân Đồn, đơn vị đã bắn rơi chiếc máy bay F-111A của Không quân Mỹ ngày 22-12-1972.

Bà Phạm Thị Viễn.

Bà kể, trong thời gian làm tự vệ Nhà máy cơ khí Mai Động, bà tích cực học tập, huấn luyện, sử dụng thành thạo loại súng bộ binh, nhất là phòng không 14,5mm trang bị cho trung đội tự vệ nhà máy. Trong thời kỳ không quân Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, năm 1967 gia đình bà đón nhận nỗi mất mẹ do bom Mỹ sát hại. Trong chiến dịch phòng không tháng 12-1972, một lần nữa, Không quân Mỹ đem bom giội xuống Hà Nội, gây nhiều tội ác, đặc biệt là sát hại dân thường. Bà Viễn nhớ lại: Lúc này tôi đã là tự vệ của nhà máy nên phải trực chiến trên trận địa cả ngày lẫn đêm. Khi máy bay B-52 đem bom rải thảm vào khu tập thể, một quả bom rơi trúng hầm trú ẩn của cha tôi… Biết tin cha bị bom Mỹ sát hại, em gái vội vàng chạy ra trận địa thông báo khi tôi đang trực chiến.

Đau thương trút lên đầu súng. Sáng 22-12-1972, đơn vị tự vệ của chị được lệnh di chuyển về trận địa Vân Đồn. Sau khi kéo khẩu pháo 14,5mm vào chiếm lĩnh trận địa mới, cả đơn vị chuyển cấp vào trực chiến đấu ngay. Bà Viễn kể, nhiệm vụ của khẩu đội pháo cao xạ của bà là đánh máy bay chiến thuật, bảo vệ các khu dân cư và nhà máy, xí nghiệp xung quanh khu vực. Lúc 20 giờ ngày 22-12-1972, đơn vị nhận lệnh báo động. Cả kíp pháo thủ lên mâm pháo chờ máy bay Mỹ… Đến khi đồng chí Liên đội trưởng hô bắn, các khẩu đội pháo đồng loạt nhả đạn. Là pháo thủ số 1, bà Phạm Thị Viễn nhìn thấy rất rõ chiếc máy bay rẹt qua đầu, phần đuôi của nó lóe sáng.

Khoảng nửa giờ sau, Ban CHQS quận Hai Bà Trưng thông báo với cả trận địa, khẩu đội đã bắn rơi được chiếc máy bay F-111A “cánh cụp cánh xòe” của Mỹ. Trận đánh thể hiện tinh thần, ý chí chiến đấu dũng cảm, sự phối hợp hiệp đồng chặt chẽ, trên nền tảng thế trận phòng không nhân dân vững chắc, góp phần làm nên chiến thắng “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không” tháng 12-1972 lịch sử.

Hương Hồng Thu (lược ghi)

* Ông Hà Đăng, nguyên thành viên đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ cộng hòa tại Hội nghị Pa-ri:

Hiệp định Pa-ri là kết quả chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không”

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của quân và dân ta diễn ra trên cả 3 mặt trận: Quân sự, chính trị và ngoại giao. Do đánh thắng trên chiến trường, ta đã buộc đế quốc Mỹ ngồi vào đàm phán. Rồi suốt trong hơn 4 năm đàm phán tại Pa-ri, ta nhất quán đòi quân đội Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân đội và vũ khí ra khỏi miền Nam Việt Nam, công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam.

Ông Hà Đăng.

Ngày 20-10-1972, qua hàng loạt cuộc đàm phán mật, một Hiệp định cho việc chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam đã được thỏa thuận giữa Hà Nội và Oa-sinh-tơn. Dự thảo Hiệp định này đáp ứng được những đòi hỏi cơ bản của ta. Nhưng rồi sau khi giành được thắng lợi trong cuộc bầu cử Tổng thống ngày 7-11-1972 thì Ních-xơn giở trò lật lọng. Trong hai đợt đàm phán tiếp theo vào cuối tháng 11 và đầu tháng 12, do phía Mỹ đưa ra quá nhiều điều sửa đổi, đáp lại ta cũng đòi sửa đổi một số điều, đàm phán diễn ra hết sức căng thẳng. Đến ngày 12-12-1972, nhiều vấn đề tồn tại đã dần được giải quyết. Chỉ còn lại một số vấn đề, chủ yếu đến khu phi quân sự và thể thức ký Hiệp định. Ngày 13-12, hai bên đồng ý tạm ngừng đàm phán để về xin chỉ thị Chính phủ mình. Ngày 16-12, Kít-xinh-giơ đột nhiên họp báo và đổ lỗi cho Việt Nam dân chủ cộng hòa kéo dài đàm phán. Ngày 18-12, máy bay chiến lược B-52 của Mỹ giội bom xuống Hà Nội, Hải Phòng và nhiều nơi khác. Phía Mỹ gọi đó là cuộc tập kích chiến lược, mà mục tiêu trực tiếp như Ních-xơn nói: “Dùng đòn đánh mạnh nhất để thúc đẩy thương lượng”. Kít-xinh-giơ cũng nói rằng: “Tung con át chủ bài cuối cùng”. Giữa chừng cuộc ném bom, Mỹ gửi công hàm đề nghị ta nối lại đàm phán, chắc mẩm rằng đòn sấm sét Nô-en sẽ buộc ta phải chấp nhận những gì Mỹ đòi. Ta trả lời, đàm phán chỉ có thể chừng nào Mỹ trở lại tình hình trước ngày 18-12, tức là ngừng ném bom vô điều kiện. Ngày 30-12, cuộc ném bom hoàn toàn chấm dứt. Và ngày 8-1-1973, đàm phán Pa-ri nối lại.

Rõ ràng là, nếu không bị đòn chết điếng trong dịp lễ Giáng sinh thì cái đầu nóng của Ních-xơn không dễ gì nguội lạnh nhanh như vậy. Pháo đài bay của Mỹ không lật được thế cờ. Ngày 23-1-1973, cố vấn Lê Đức Thọ, đại diện cho Việt Nam Dân chủ cộng hòa và cố vấn Kít-xinh-giơ, đại diện cho Hoa Kỳ đã ký tắt bản về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Ngày 27-1-1973, bốn bên Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Chính phủ cách mạng lâm thời, Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn đã ký chính thức bản Hiệp định đó.

Hiệp định Pa-ri là kết quả thắng lợi cuộc đấu tranh chống Mỹ của nhân dân ta trong suốt 18 năm kể từ năm 1955, là kết quả trực tiếp của chiến thắng “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không”.

TAM ĐIỆP (lược ghi)

* Ông Nguyễn Văn Trân, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Bí thư Thành ủy Hà Nội:

Quân và dân Hà Nội đã phối hợp chặt chẽ với các địa phương và các lực lượng

Trong chiến dịch Điện Biên Phủ trên không, TP Hà Nội đã sơ tán hơn 50 vạn dân. Để tổ chức cho đồng bào đi sơ tán an toàn, chặt chẽ, chu đáo, TP Hà Nội đã phối hợp với các tỉnh lân cận bố trí nơi ăn ở. Không chỉ vậy, việc học tập của học sinh các trường tiểu học, trung học cơ sở vẫn bảo đảm. Quá trình chiến đấu, đánh trả không quân địch, quân và dân TP Hà Nội đã kiên cường, dũng cảm, tiêu diệt nhiều máy bay và bắt sống giặc lái, góp phần làm nên chiến thắng “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không”.

Ông Nguyễn Văn Trân.

Có được kết quả trên là bởi nhiều yếu tố, trước hết phải kể đến công tác tổ chức phòng không chu đáo; hệ thống báo động của thành phố kịp thời. Cùng với đó, toàn thành phố đã triển khai và thực hiện tốt 3 nhiệm vụ, đó là: Các nhà đều có hầm trú ẩn; Nơi công sở, các cơ quan, xí nghiệp, nhà máy đều có hầm trú ẩn; Trên các đường phố đều có hố cá nhân. Do đó, mỗi khi báo động có máy bay, mọi người dù ở nhà hay đang làm việc hoặc đi trên đường đều có vị trí trú ẩn, hạn chế được thương vong, đổ máu. Đây là một trong những hình thức phòng không mặt đất mang lại hiệu quả cao của hệ thống phòng không thành phố Hà Nội lúc bấy giờ.

Để bảo đảm sản xuất, một số nhà máy, xí nghiệp quan trọng phải sơ tán, số còn lại vẫn tiếp tục vừa sản xuất vừa chiến đấu. Phần lớn các tự vệ là cựu chiến binh thời chống Pháp, có nhiều kinh nghiệm chiến đấu nên được trang bị các súng máy phòng không 14,5mm và 12,7mm… nên khi phối hợp, hiệp đồng với bộ đội chủ lực bắn máy bay địch tầm thấp rất hiệu quả. Nhằm đánh lạc hướng giặc lái, lực lượng phòng không trên địa bàn thành phố lúc bấy giờ liên tục di chuyển các trận địa pháo. Quá trình di chuyển diễn ra hết sức khẩn trương, được các tầng lớp nhân dân ủng hộ nên giặc lái Mỹ rất bất ngờ mỗi khi quay lại ném bom. Lực lượng tự vệ Hà Nội tại chỗ không chỉ phối hợp chặt chẽ với các lực lượng bắn máy bay địch ở tầm thấp mà còn cắt cử người theo dõi mỗi đợt đánh phá của địch có bao nhiêu loại bom, nếu có bom nổ chậm đánh dấu, khoanh vùng để mọi người không vào vị trí nguy hiểm, đồng thời phối hợp với các đơn vị công binh đến xử lý kịp thời. Nhờ có sự chủ động chuẩn bị chu đáo và tinh thần đoàn kết, phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ giữa các lực lượng trong đánh trả không quân địch nên thành phố Hà Nội vẫn vững vàng sau 12 ngày đêm bị giặc Mỹ rải thảm bom B-52…

KHÁNH CHI (lược ghi)

* Đại tá Nghiêm Đình Tích, nguyên Đài trưởng Đại đội Ra-đa 45, Trung đoàn Ra-đa 291:

Xác định chính xác B-52, không để Tổ quốc bị bất ngờ

Mặc dù địch đã phát huy cao độ sức mạnh quân sự, nhất là trong lĩnh vực tác chiến điện tử và vũ khí công nghệ cao nhưng chiến dịch tập kích đường không chiến lược chủ yếu bằng máy bay B-52 vào Hà Nội, Hải Phòng cuối năm 1972 đã bị thất bại rất nặng nề. Trong chiến dịch này, ta đã bắn rơi 81 máy bay Mỹ trong đó có 34 chiếc B-52 với 16 chiếc B-52 rơi tại chỗ. Công đầu trong chiến thắng vĩ đại của chiến dịch thuộc về bộ đội ra-đa phòng không. Mặc dù địch đã tập trung toàn bộ các thiết bị gây nhiễu rất hiện đại hòng “bịt mắt” toàn bộ hệ thống ra-đa phòng không của ta, nhưng bộ đội ra-đa đã không để Tổ quốc bị bất ngờ trước đòn tập kích đường không chiến lược của địch và bảo đảm vô điều kiện cho các lực lượng phòng không chiến dịch giành thắng lợi.

Đại tá Nghiêm Đình Tích.

Trong chiến dịch này, Bộ tư lệnh Binh chủng Ra-đa cho mở máy 355 lần đại đội với 447 lần đài ra-đa kết hợp với các vọng quan sát mắt đã phát hiện và xác định chính xác B-52, báo động sớm trong trận đầu, đêm đầu cho Hà Nội 35 phút, các đêm sau từ 50 đến 60 phút. Do được bảo đảm ra-đa tốt, các cấp chỉ huy chiến dịch-chiến lược đã nắm chắc tình hình địch, hạ quyết tâm chiến đấu kịp thời, chính xác; các lực lượng phòng không, không quân được chuyển cấp chiến đấu sớm, chủ động đánh B-52, lập nên kỳ tích có một không hai trong lịch sử tác chiến phòng không trên thế giới. Theo tài liệu “Tổng kết bộ đội ra-đa phục vụ chiến dịch phòng không… năm 1972” thì trong chiến dịch này, Trung đoàn Ra-đa 291 đã phát hiện được 151 trên tổng số 165 tốp B-52, đạt 91,6%; Trung đoàn Ra-đa 290 đạt 76%; Trung đoàn Ra-đa 292 đạt 55,4%; Trung đoàn ra-đa 293 đạt 44,5%. Trong chiến dịch này, Bộ đội Tên lửa phòng không xứng đáng là lực lượng nòng cốt và chủ yếu bắn rơi B-52, tích cực góp phần đánh bại chiến dịch tập kích đường không chiến lược của đế quốc Mỹ. Chỉ tính riêng trong số 34 chiếc B-52 bị bắn rơi thì Bộ đội Tên lửa phòng không đã bắn rơi 29 chiếc, trong đó có 16 chiếc B-52 rơi tại chỗ. Trong chiến dịch, Bộ đội Không quân đã xuất kích 24 lần, bắn rơi 7 máy bay địch, trong đó có 2 chiếc B-52, 4 chiếc F4-D và 1 chiếc RA5C…

Đây là lần đầu tiên trên thế giới, đế quốc Mỹ bị thảm bại trong chiến dịch tập kích đường không chiến lược và bị bắn rơi nhiều B-52 đến thế. Sau cuộc chiến tranh Việt Nam, đã có một số chiến dịch tập kích đường không chiến lược bằng máy bay B-52. Mặc dù các nước đó có nhiều vũ khí phòng không hiện đại hơn ta nhưng chưa có nước nào bắn rơi được máy bay ném bom chiến lược B-52 của Mỹ. Điều đó càng tôn vinh chiến thắng vĩ đại “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không” của bộ đội phòng không Việt Nam.

Trong tác chiến phòng không ngày càng hiện đại, khi chiến tranh điện tử và vũ khí công nghệ cao phát triển thì công tác tác chiến điện tử phải được coi là biện pháp tác chiến chiến lược hết sức quan trọng, có tính chất quyết định đến thành bại của cuộc chiến tranh. Vì vậy, tôi cho rằng cần quan tâm đầu tư xây dựng và tổ chức thêm lực lượng, phương tiện tác chiến điện tử, nhất là lực lượng và phương tiện phản điện tử với địch (hệ thống gây nhiễu các thiết bị vô tuyến của địch, lực lượng trinh sát, đánh phá các nguồn gây nhiễu chủ yếu của địch) để kiện toàn tổ chức và xây dựng hoàn chỉnh nghệ thuật tác chiến điện tử của Quân chủng Phòng không – Không quân, kịp thời đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ tác chiến phòng không hiện đại trong thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc…

LÊ MY (lược ghi)
qdnd.vn

Cầu truyền hình “Bản hùng ca Hà Nội”: Chương trình công phu, tâm huyết

QĐND – Nhân dịp kỷ niệm 40 năm Chiến thắng “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không”, Đài PT-TH Hà Nội phối hợp với Báo Quân đội nhân dân, Sư đoàn Phòng không Hà Nội (Sư đoàn 361) tổ chức cầu truyền hình đặc biệt mang tên “Bản hùng ca Hà Nội”.

Trong buổi họp báo giới thiệu cầu truyền hình “Bản hùng ca Hà Nội” vào sáng 13-12, tại Đài PT-TH Hà Nội, ban tổ chức đã hé lộ với giới truyền thông nhiều thông tin quan trọng quanh việc tổ chức, kịch bản, khách mời… của cầu truyền hình đặc biệt này, được truyền hình trực tiếp vào 20 giờ ngày 16-12 tại kênh 1 và 2 Đài PT-TH Hà Nội; Đài PT-TH Đồng Nai, Quảng Trị, Sơn La, Tuyên Quang, Điện Biên tiếp sóng.

Ông Trần Gia Thái, Tổng giám đốc Đài PT-TH Hà Nội khẳng định: “Chương trình không chỉ đơn thuần tái hiện lại kỷ niệm, ký ức mà điều chúng tôi muốn nói tới là tinh thần bất khuất và bản lĩnh trí tuệ Việt Nam”.

Nét mới của chương trình chính là sự cải tiến về hình thức thể hiện, “Bản hùng ca Hà Nội” không diễn ra trong những khán phòng, studio được bài trí cứng nhắc, với màn giao lưu chiếm nhiều thời gian của MC với khách mời. Thay vào đó, ban tổ chức đã mềm hóa sân khấu tại 5 điểm cầu, là những di tích, trận địa khác nhau để tái hiện rõ nét và mang đến cho khán giả những hình dung rõ nét hơn về những ngày đêm lịch sử hào hùng của dân tộc cách đây 40 năm. 5 điểm cầu ở Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, Sư đoàn Phòng không Hà Nội, Bảo tàng Chiến thắng B-52, Đài tưởng niệm Khâm Thiên, Trận địa tên lửa Chèm; trong đó, điểm cầu tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam sẽ là điểm cầu chính.

Thiếu tướng Lê Phúc Nguyên, Tổng biên tập Báo Quân đội nhân dân (người đứng phát biểu) khẳng định: “Thủ đô Hà Nội đã rất bình tĩnh, rất văn hóa trong những ngày tháng chiến tranh ác liệt”.

Thiếu tướng Lê Phúc Nguyên, Tổng biên tập Báo Quân đội nhân dân tâm sự: “Chúng tôi rất hồi hộp, chương trình đã được nhiều đài truyền hình tiếp sóng, đồng bào cả nước đang đón đợi cầu truyền hình đặc biệt “Bản hùng ca Hà Nội”. Câu chuyện chính trong chương trình sẽ là quân và dân Hà Nội, trong đó Sư đoàn Phòng không Hà Nội là nhân vật chính. 5 điểm cầu trong chương trình là những điểm cầu rất đắt, có được sự bao quát toàn diện, kể lại những câu chuyện hết sức phong phú, giàu tính nghệ thuật. Đến thời điểm này, công sức của Đài PT-TH Hà Nội, Báo Quân đội nhân dân, Sư đoàn Phòng không Hà Nội đã được đền đáp xứng đáng. Tôi hy vọng tối 16-12, sẽ có thêm nhiều đài truyền hình tiếp sóng chương trình đặc biệt này”.

Những cuộc trò chuyện, giao lưu, biểu diễn văn nghệ tại mỗi điểm cầu sẽ gắn liền với bối cảnh thực, phông nền sẽ là các hiện vật cụ thể như máy bay, tên lửa, trạm ra-đa… MC cùng khách mời giao lưu trên xe điều khiển, phía sau bộ đội vẫn làm việc bình thường.

Bối cảnh luôn thay đổi sau mỗi lần trò chuyện và trong tổng thể cả chương trình, không có cảnh nào lặp lại. Để khắc phục tính nhàm chán, đơn điệu của những cuộc giao lưu truyền thống, tiết tấu của chương trình sẽ được đẩy nhanh hơn, mỗi cuộc trò chuyện, tiết mục văn nghệ không kéo dài quá 5 phút.

Người xem sẽ được biết mặt những nhân vật góp phần làm nên chiến thắng lịch sử “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không” 40 năm trước. Đó là Đại tá, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Đình Kiên, người tham gia bắn rơi 4 chiếc B-52, trong đó có kỷ lục bắn rơi 2 chiếc B-52 trong vòng 9 phút chỉ với 2 quả tên lửa SAM-2; là Trung tá Dương Thuận, người ấn nút bắn rơi tại chỗ chiếc B-52 đầu tiên trên thế giới, là Phạm Thị Viễn, nữ tự vệ cùng đồng đội bắn rơi máy bay F111 đêm 22-12-1972, cũng chính là người con gái được nhà thơ Tố Hữu nhắc đến trong bài thơ: Việt Nam: Máu và hoa…

Tất cả các tiết mục văn nghệ trong chương trình sẽ được hát live và chơi nhạc sống. Tại điểm cầu Khâm Thiên, nhạc sĩ Phú Quang và hai người con sẽ thể hiện ca khúc Em ơi Hà Nội phố trong chính ngôi nhà của nhạc sĩ tại phố Khâm Thiên.

Đại tá Đặng Đình Tuấn, Chính ủy Sư đoàn Phòng không Hà Nội cho hay: “Sư đoàn Phòng không Hà Nội, tiền thân là Bộ tư lệnh Phòng không Hà Nội tự hào bắn rơi 25/34 máy bay B-52 trong chiến dịch “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không”, trong đó có 16 chiếc B-52 rơi tại chỗ. Vinh dự cho chúng tôi, sau năm 1972 tiếp tục được nhận nhiệm vụ bảo vệ thủ đô Hà Nội”.

Trong buổi họp báo, ban tổ chức cũng cho hay, ca khúc Hà Nội niềm tin và hy vọng sẽ được “hàn lâm hóa” qua ba giọng ca của ca sĩ Opera Kyo York (Mỹ), Cho Hea Ryong, Park Sung Min (Hàn Quốc) cùng dàn hợp xướng quốc tế; đệm nhạc sẽ là clarinet Đào Nhật Quang, piano Trang Trịnh và dàn nhạc giao hưởng Quốc gia Việt Nam. Các nghệ sĩ quốc tế biểu diễn ca khúc Hà Nội niềm tin và hy vọng sẽ mặc áo dài. Bên cạnh đó là những tiết mục ca nhạc nghệ thuật, được biểu diễn bởi các ca sĩ hàng đầu Việt Nam như Mỹ Linh, Trọng Tấn…

Cầu truyền hình “Bản hùng ca Hà Nội” có thời lượng 150 phút.

Bài và ảnh: ĐÌNH HÙNG
qdnd.vn

Thành phố Hải Phòng: Kỷ niệm 40 năm chiến thắng “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không”

QĐND – Sáng 13-12, thành phố Hải Phòng tổ chức lễ kỷ niệm và chương trình giao lưu “Âm vang 40 năm chiến thắng Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không”. Cùng với quân dân Thủ đô, quân dân Hải Phòng đã dũng cảm, kiên cường đối đầu với không quân, hải quân địch qua hai cuộc chống chiến tranh phá hoại và phong tỏa; bắn rơi 317 máy bay phản lực hiện đại, bắt sống 16 phi công địch, trong đó, Sư đoàn Phòng không 363 (Đoàn phòng không Hải Phòng) bắn rơi 257 máy bay địch, góp phần cùng cả nước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Trong 12 ngày đêm cuối tháng 12-1972, quân và dân Hải Phòng đã chiến đấu ngoan cường, dũng cảm, góp phần lập nên chiến thắng “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không”, buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Pa-ri, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.

Phát huy truyền thống “Trung dũng-quyết thắng”, những năm gần đây, Đảng bộ, chính quyền, quân dân thành phố phát huy nội lực, thu hút ngoại lực, hăng hái thi đua lao động sản xuất, bảo vệ quê hương, phấn đấu xây dựng Hải Phòng cơ bản trở thành thành phố công nghiệp, dịch vụ cảng hiện đại vào năm 2015.

NGUYỄN THƠM
qdnd.vn

Gần 550 tác phẩm tham gia triển lãm về Chiến thắng B-52

QĐND Online – Sáng 13-12, tại Bảo tàng Phòng không-Không quân (171 Trường Chinh-Hà Nội), Cục Chính trị Quân chủng Phòng không-Không quân (PK-KQ) và Thư viện Quân đội đã tổ chức khai mạc triển lãm tranh, ảnh, sách báo, ấn phẩm văn hóa “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không”.

Được trưng bày tại triển lãm có 25 bức tranh sơn dầu, 19 tranh cổ động, 2 tượng, của 30 tác giả là họa sĩ của Hội Mỹ thuật Việt Nam, Hội Mỹ thuật Hà Nội và các thế hệ chiến sĩ vẽ của Quân chủng PK-KQ.

100 ảnh tư liệu của nhiều tác giả, 400 cuốn sách xuất bản ở trong và ngoài nước viết về “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không” cũng được trưng bày tại triển lãm. Nội dung các cuốn sách tập trung chủ yếu vào 9 nội dung lớn, đó là: Sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước; Quân đội nhân dân anh hùng-Truyền thống vẻ vang; Chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ; Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước; “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không”; Ý nghĩa bài học chiến thắng “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không”; Thế giới viết về Chiến thắng “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không”; Quân đội nhân dân Việt Nam trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc; Bộ đội PK-KQ anh hùng.

“Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không”, “Hà Nội, bản hùng ca”, “Hà Nội tháng Chạp năm ấy”, “Năm 1972 lịch sử”…là những đĩa phim tài liệu, cũng được giới thiệu trong triển lãm lần này.

Ông Phạm Nguyên Hùng, nguyên Tổ trưởng Tổ vẽ của Quân chủng PK-KQ, tác giả của bức tranh sơn dầu “Chiến tích Điện Biên Phủ trên không”, chia sẻ, những ngày cuối tháng Chạp năm 1972, chứng kiến không quân địch rải thảm xuống Hà Nội, ông và nhiều họa sĩ đã dồn hết nỗi xót xa, căm giận quân thù và tình yêu Tổ quốc vào những bức ký họa.

Đêm 27-12-1972, một máy bay B-52 của Mỹ đã bị bộ đội tên lửa bắn rơi xuống hồ Hữu Tiệp (Ngọc Hà, Ba Đình, Hà Nội). Ngay sau đó, ông Phạm Nguyên Hùng đã đến Ngọc Hà, ký họa lại hình ảnh “con ngáo ộp” đang phơi xác trên hồ. Năm 2010, ông thể hiện nội dung trên bức ký họa trên chất liệu sơn dầu. “Trong bức tranh của tôi, con ngáo ộp B-52 đã trở thành “ếch ngồi đáy giếng”. Con ếch đó bị hạ gục vì chủ quan, vì không hiểu hết sức mạnh của quân và dân ta”, ông Hùng chia sẻ.

Thiếu tướng Phan Thanh Giảng, Phó Chủ nhiệm Chính trị Quân chủng PK-KQ mong muốn, thông qua đợt triển lãm này, khách tham quan, đặc biệt là thế hệ trẻ sẽ hiểu biết sâu sắc hơn về Chiến thắng “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không”, từ đó có đóng góp xứng đáng cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Theo kế hoạch, triển lãm sẽ mở cửa đến hết ngày 30-12-2012.

Một số hình ảnh tại triển lãm:

Cắt băng khai trương triển lãm

Một trong 19 tranh cổ động được trưng bày tại triển lãm

Ông Phạm Nguyên Hùng bên tác phẩm “Chiến tích Điện Biên Phủ trên không”

Tượng “Bà mẹ và phi công”

Khách tham quan, tìm hiểu tại triển lãm sáng 13-12

Tin, ảnh: HOÀNG HÀ-DUY ĐÔNG
qdnd.vn

Giao lưu “Người lính với bầu trời Hà Nội”

QĐND Online – Đại tá Nguyễn Đình Kiên, nguyên Cục phó Cục Tác chiến, Bộ Tổng Tham mưu và Thượng tá, phi công Nguyễn Công Huy đã tham gia giao lưu trong chương trình “Người lính với bầu trời Hà Nội” kỷ niệm 40 năm Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không diễn ra vào chiều 12-12, tại Hà Nội do Cục Chính trị TCCT, Cục Chính trị BTTM và Thư viện Quân đội phối hợp tổ chức.

Tại buổi giao lưu, Đại tá Nguyễn Đình Kiên đã kể về những ngày đêm đánh B52 của Mỹ trên bầu trời Hà Nội. Ông chính là sĩ quan điều khiển của Tiểu đoàn 57 Anh hùng thuộc Trung đoàn 261, đơn vị lập kỷ lục bắn rơi 4 máy bay B52. Đại tá Nguyễn Đình Kiên cũng là tác giả của cuốn hồi ký “Người lính với bầu trời Hà Nội” – bộ sách kỷ niệm 40 năm chiến thắng Điện Biên Phủ trên không do Nhà xuất bản Quân đội vừa phát hành.

Giao lưu “Người lính với bầu trời Hà Nội”.

Tham gia vào chiến dịch “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không”, Thượng tá Nguyễn Công Huy là phi công lái máy bay tiêm kích MiG-21 đã chiến đấu nhiều trận và lập nhiều chiến công. Ông cũng là đồng đội của Anh hùng Phạm Tuân, Vũ Xuân Thiều-những phi công đã hạ gục B52 trên bầu trời Hà Nội.

Qua câu chuyện của các nhân chứng lịch sử, người xem hiểu rõ hơn về những năm tháng chiến đấu dũng cảm, kiên cường của quân và dân để làm nên chiến thắng “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không”.

Xen kẽ giữa buổi giao lưu là chương trình ca múa nhạc gồm các ca khúc như: “Hà Nội- Điện Biên Phủ trên không” của nhạc sĩ Phạm Tuyên; “Tên lửa ta đánh rất hay” của nhạc sĩ Huy Thục… thể hiện khí thế chiến đấu của người Hà Nội trong 12 ngày đêm đánh B52.

Tin, ảnh: K.HUYỀN
qdnd.vn

Những kỷ niệm không quên của đoàn làm phim “Hà Nội 12 ngày đêm”

QĐND – Chiều12-12, tại Sư đoàn Không quân 371, các nghệ sĩ, diễn viên điện ảnh đoàn làm phim “Hà Nội 12 ngày đêm”, phim tài liệu “Ký ức một thời” đã có buổi giao lưu với cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn. Đây là hoạt động mở màn trong chuỗi các hoạt động văn hóa, nghệ thuật kỷ niệm 40 năm chiến thắng “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không” được Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch, Cục Điện ảnh phối hợp với các đơn vị quân đội tổ chức.

Đoàn làm phim “Hà Nội 12 ngày đêm” giao lưu với cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 371

Trong không khí ấm áp, các nghệ sĩ, diễn viên đã chia sẻ những kỷ niệm, cảm xúc của đoàn làm phim, đặc biệt là chọn bối cảnh phim và diễn xuất để dàn dựng những bộ phim miêu tả lại cuộc chiến 12 ngày đêm của cán bộ, chiến sĩ Quân chủng PK-KQ và Sư đoàn 371 một cách chính xác và sinh động, xây dựng nên một bộ phim mang biểu tượng của ý chí kiên cường, bất khuất của dân tộc, của bản lĩnh, trí tuệ và nghệ thuật quân sự Việt Nam.

Tin, ảnh: VƯƠNG HÀ
qdnd.vn

Bệ phóng tên lửa diệt B-52

Hiện vật biết nói

QĐND – Tham quan khu lưu niệm của Trung đoàn 261 (Sư đoàn 367, Quân chủng Phòng không-Không quân), chúng tôi đặc biệt quan tâm tới một bệ phóng tên lửa được trưng bày ở vị trí trang trọng. Thượng tá Lê Thành Đức, Chính ủy Trung đoàn 261 giới thiệu: “Đây là bệ phóng tên lửa của Tiểu đoàn 57 đã lập nên kỳ tích phóng 2 quả tên lửa tiêu diệt 2 pháo đài bay B-52 trong thời gian 10 phút”.

Bệ phóng tên lửa của Tiểu đoàn 57 năm xưa.

Đêm thứ 4 trong chiến dịch oanh tạc Hà Nội, sau 2 đợt ném bom một số khu vực trên địa bàn Thủ đô, rạng sáng 21-12-1972, một tốp máy bay B-52 của đế quốc Mỹ tiếp tục xuất kích “rải thảm” khu vực Yên Viên. Tiểu đoàn 57 thuộc Trung đoàn 261 được lệnh tiếp tục bám sát mục tiêu nhưng số lượng đạn quá ít, chỉ còn lại 3 quả. Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Phiệt trực tiếp chỉ huy kíp chiến đấu gồm một sĩ quan điều khiển và 3 trắc thủ xác định quyết tâm không để đạn phóng đi uổng phí. Tốp B-52 đầu tiên vào đến cự ly 35km trong tầm sát thương, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Phiệt hạ lệnh phóng quả đạn thứ nhất nhưng đèn tín hiệu báo trục trặc kỹ thuật bật sáng, đạn không thể rời bệ phóng. Lập tức anh hạ lệnh nhấn nút hoàn lại quả thứ nhất rồi hạ lệnh tiếp tục phóng quả thứ 2. Kíp trắc thủ gấp rút thao tác, căng mắt bám sát dải nhiễu, khéo léo điều chỉnh tên lửa chính xác mục tiêu. Một cột khói bốc cao, ánh lửa bùng lên dữ dội. Chiến sĩ quan sát báo cáo, chiếc B-52 cháy ở cự ly 25km, vào lúc 5 giờ 9 phút.

Thừa thắng xông lên, kíp trắc thủ tiếp tục nhận lệnh tiêu diệt chiếc B-52 trong tốp thứ 2. Chỉ còn quả đạn duy nhất, không thể phóng trượt, cả kíp trắc thủ hết sức thận trọng, mọi thao tác diễn ra nhanh chóng, chuẩn xác; công tác hiệp đồng ăn khớp, bám đúng dải nhiễu B-52. Đợi cho chúng bay vào cự ly sát thương hiệu quả, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Phiệt hạ lệnh phóng nốt quả đạn còn lại. Mặc dù trên màn hiện sóng, các dải nhiễu liên tục biến đổi nhưng kíp trắc thủ vẫn bình tĩnh vận dụng mọi kiến thức, kinh nghiệm, phân tích dải nhiễu, bám tín hiệu mục tiêu máy bay B-52, điều khiển đạn đi trúng đích. Đạn nổ ở cự ly 24km làm tan xác thêm một chiếc B-52, rơi xuống địa phận núi Đôi (Sóc Sơn ngày nay). Thời gian lúc đó là 5 giờ 19 phút.

Như vậy, chỉ trong vòng 10 phút, bằng 2 quả đạn, kíp trắc thủ của Tiểu đoàn 57 đã bắn rơi tại chỗ 2 pháo đài bay B-52 của đế quốc Mỹ, đạt hiệu suất chiến đấu 300%, lập kỷ lục cho bộ đội tên lửa.

Bài và ảnh: HOÀNG THÀNH
qdnd.vn

S-300 chuyển cấp “đánh địch” đột nhập đường không

QĐND Online – Về Sư đoàn 361 (Quân chủng PK-KQ), đơn vị chủ công đánh B-52 trong Chiến dịch “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không” vào những ngày tháng 11, chúng tôi được chứng kiến khí thế luyện tập sôi nổi của các chiến sĩ tên lửa hôm nay. Tại Đoàn Tên lửa phòng không 64, ngay sau khi Sở chỉ huy Đoàn chuyển đơn vị vào cấp 1, tiếng chân người chạy rầm rập, tiếng máy các loại xe tác chiến gầm vang, báo hiệu “trận đánh” của tên lửa S-300 sắp bắt đầu…

“Khắc tinh” của “giặc trời”

Ngay sau khi nhận lệnh từ Sở chỉ huy cấp trên, Sở chỉ huy Đoàn Tên lửa phòng không (TLPK) 64 (Sư đoàn 361, Quân chủng PK-KQ) nhanh chóng chuyển toàn đoàn vào cấp 1. Các xe tác chiến nhanh chóng cơ động triển khai chiếm lĩnh các công sự chiến đấu. Công tác triển khai hoàn thành trước chỉ tiêu thời gian cho phép. Các kíp chiến đấu nhanh chóng vận hành triển khai vũ khí trang bị về trạng thái chiến đấu.

Tại vị trí xe điều khiển, theo lệnh của chỉ huy bắn, Thiếu tá Nguyễn Trần Luyện, Phó đoàn trưởng Tham mưu trưởng Đoàn TLPK 64, các thành phần khẩn trương kiểm tra chức năng, đánh giá khả năng sẵn sàng chiến đấu của khí tài. Sau khoảng một phút 30 giây, tham số trên các màn hiện sóng và tín hiệu đèn báo khí tài tốt, sẵn sàng chiến đấu. Giải quạt chiến đấu quay về hướng X; đài ra-đa phát hiện mục tiêu mọi độ cao tiến hành sục sạo phát hiện mục tiêu trong 360 độ; kíp đài điều khiển sục sạo ở hướng được chỉ định.

Xe điều khiển cơ động chiếm lĩnh trận địa. Ảnh: Hoàng Hà

Trên màn hiện sóng, mục tiêu được xác định là máy bay ném bom chiến lược, đang bay ở cự ly 200km, độ cao 10km, tốc độ 250m/s. Trung úy Nguyễn Văn Đạt, Sĩ quan bắt bám sát, cùng các trắc thủ căng mắt quản lý chặt mục tiêu.

Khi mục tiêu vào đến cự ly 160km, Thiếu tá Nguyễn Trần Luyện hạ lệnh phóng! “Quả đạn” bay vút vào không trung. Tại cự ly 148km, đạn gặp mục tiêu. Tín hiệu mục tiêu ngay lập tức bị xóa trên màn hình, khẳng định mục tiêu đã bị tiêu diệt gọn.

Lúc này, gương mặt đẫm mồ hôi của các sĩ quan trên xe điều khiển mới giãn ra.

Đây là một trong nhiều tình huống đánh địch tiến công đường không, bảo vệ mục tiêu của Đoàn TLPK 64. Theo Trung tá Nguyễn Quốc Văn, Đoàn trưởng Đoàn TLPK 64, các tình huống luyện tập được đưa ra đều sát thực tế chiến đấu, sát đặc thù nhiệm vụ của đơn vị nên trình độ cá nhân, khả năng hiệp đồng của các thành phần kíp chiến đấu được nâng lên qua từng bài tập…

“Với vũ khí trang bị hiện có và với trình độ của các kíp chiến đấu, chúng tôi khẳng định có thể đánh thắng vũ khí công nghệ cao của địch trong tác chiến đường không, khi có tình huống xảy ra”, Trung tá Văn khẳng định chắc nịch.

Coi trọng tự đào tạo chuyển loại

Được sự quan tâm của trên, Đoàn TLPK 64 là một trong những đơn vị của Quân chủng PK-KQ được đầu tư các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại, đơn cử như tổ hợp tên lửa phòng không S-300. Đây là loại vũ khí có hỏa lực mạnh, độ chính xác và tính chống nhiễu cao, có thể đối chọi có hiệu quả với các loại tên lửa và máy bay hiện đại của đối phương trong chiến tranh công nghệ cao.

Để có thể tiếp thu và làm chủ số khí tài nói trên, các cán bộ của Đoàn có nền tảng kiến thức về khoa học kỹ thuật, có kinh nghiệm thực tiễn phong phú đã được tuyển chọn và đưa đi đào tạo chuyển loại vũ khí, khí tài mới ở nước bạn và được bắn đạn thật nghiệm thu khí tài. Khi về đơn vị, số cán bộ này đã tiến hành tự đào tạo chuyển loại cho sĩ quan, nhân viên chuyên môn kỹ thuật của đơn vị.

Thượng tá Bùi Văn Khỏa, Chính trị viên Đoàn TLPK 64 khẳng định: “Bằng nhiều chủ trương, biện pháp tích cực, nên công tác tự đào tạo chuyển loại khí tài mới là nhiệm vụ đạt kết quả nổi bật của Đoàn trong những năm qua. Đối với sĩ quan mới về đơn vị, sau 3 tháng huấn luyện, đơn vị sẽ tiến hành đánh giá bước đầu; sau 6 tháng phải đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ và sau một năm phải đạt khá trở lên trên cương vị được giao”.

Nhân viên tiêu đồ quản lý chắc các mục tiêu trên không. Ảnh: Hoàng Hà

Bám sát phương châm huấn luyện “Cơ bản, thiết thực, vững chắc”, các kíp chiến đấu của Đoàn TLPK 64 đã được huấn luyện từ đơn giản đến phức tạp, từ cá nhân đến hiệp đồng, từ lý thuyết đến thực hành; huấn luyện “khan” kết hợp nhuần nhuyễn với huấn luyện điện; tập trung huấn luyện các bài bắn cơ bản, đánh mục tiêu trên không, đặc biệt mục tiêu là các loại vũ khí công nghệ cao. Trong huấn luyện thực hiện tốt quan điểm cấp trên dạy cấp dưới, người đã được chuyển loại truyền đạt cho người chưa được chuyển loại.

Cùng với huấn luyện tại chỗ, Đoàn TLPK 64 còn tích cực tham gia huấn luyện diễn tập vòng tổng hợp, huấn luyện đêm…nhằm nâng cao khả năng SSCĐ trong mọi điều kiện thời gian. Tính đến nay, 100% kíp chiến đấu của Đoàn TLPK 64 đều đảm nhiệm tốt nhiệm vụ trực ban SSCĐ.

“Kể từ ngày thành lập đến nay, Đảng bộ Đoàn TLPK 64 luôn đạt TSVM, đơn vị VMTD và là đơn vị huấn luyện giỏi nhiều năm liên tục. Đặc biệt, năm 2012, tham gia diễn tập vòng tổng hợp của Sư đoàn 361, đơn vị được Tư lệnh Quân chủng PK-KQ tặng bằng khen; các lần trực SSCĐ tăng cường đều hoàn thành tốt nhiệm vụ”, Đoàn trưởng Nguyễn Quốc Văn cho biết.

Giữa những ngày cả nước đang hướng tới kỷ niệm 40 năm Chiến thắng “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không”, được hòa mình vào không khí luyện tập của các chiến sĩ tên lửa S-300, chúng tôi thêm tin, thế hệ các chiến sĩ PK-KQ hôm nay, trong đó có bộ đội tên lửa S-300 sẽ tiếp nối xứng đáng truyền thống của lớp cha anh đi trước, luôn cảnh giác cao độ, sẵn sàng chiến đấu thắng lợi, vì sự bình yên của bầu trời Tổ quốc…

HOÀNG HÀ-VIỆT CƯỜNG-VĂN HIẾU
qdnd.vn

Huấn luyện đồng bộ, làm chủ khí tài mới và hiện đại

Sư đoàn 361 (Quân chủng PK-KQ):

QĐND Online – Phát huy thành tích bắn rơi 25 máy bay B-52 trong Chiến dịch “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không”, những năm qua, cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 361 (Quân chủng PK-KQ) tiếp tục đẩy mạnh huấn luyện, làm chủ vũ khí, khí tài mới, quản lý vững chắc vùng trời được phân công. Phóng viên Báo QĐND Online đã có cuộc trao đổi với Đại tá Phan Anh Dũng, Phó Sư đoàn trưởng Sư đoàn 361 về nội dung này…

Phóng viên (PV): Thưa Đại tá Phan Anh Dũng, để đảm bảo huấn luyện đạt kết quả tốt, trước hết đơn vị chú trọng nội dung nào?

Đại tá Phan Anh Dũng

Đại tá Phan Anh Dũng: Phải khẳng định, được bảo vệ bầu trời Thủ đô Hà Nội là niềm vinh dự, tự hào của cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 361. Chính vì thế, trong những năm qua, Sư đoàn luôn hoàn thành nhiệm vụ SSCĐ, tham gia quản lý vùng trời. Để có được kết quả đó, công tác huấn luyện luôn giữ vai trò quan trọng.

Đảng ủy, chỉ huy các cấp trong toàn sư đoàn đã tổ chức quán triệt nghiêm túc nghị quyết của cấp trên về công tác huấn luyện, chỉ thị công tác quân sự của Tư lệnh Quân chủng PK-KQ. Ngay từ đầu năm, các cấp có nghị quyết chuyên đề lãnh đạo công tác huấn luyện chiến đấu. Từ đó, chỉ huy các cấp chủ động soạn thảo các kế hoạch huấn luyện chiến đấu sát với nhiệm vụ, biên chế tổ chức của từng đơn vị. Chính vì vậy, kế hoạch huấn luyện chiến đấu luôn có tính khả thi cao và sát với yêu cầu thực tế trong SSCĐ, quản lý vùng trời của sư đoàn.

Để huấn luyện đạt kết quả tốt, Sư đoàn 361 xác định phải làm tốt công tác chuẩn bị. Chính vì vậy, ngay từ đầu năm, các đơn vị tập trung rà soát, đánh giá chất lượng công tác huấn luyện của năm trước, từ đó đặt ra yêu cầu, biện pháp trong công tác chuẩn bị huấn luyện. Trong giai đoạn này, chúng tôi tập trung tập huấn cho đội ngũ cán bộ các nội dung về tham mưu, hậu cần, kỹ thuật và hoạt động Công tác Đảng, Công tác chính trị trong huấn luyện; chuẩn bị tốt bãi tập, đồ dùng, sơ đồ, tranh vẽ; tổ chức các lớp hội thi, hội thao…từ đó rút kinh nghiệm, chỉ ra những mặt đã làm được, những nội dung còn tồn tại trong giai đoạn chuẩn bị huấn luyện, để đề ra biện pháp khắc phục để khi bước vào huấn luyện đạt kết quả cao.

PV: Trong huấn luyện, đâu là nội dung then chốt, thưa đồng chí?

Đại tá Phan Anh Dũng: Trong quá trình huấn luyện, yêu cầu trước hết là phải đảm bảo chặt chẽ, nghiêm túc, đúng theo kế hoạch đã được phê duyệt. Muốn vậy, các cấp phải thực hiện đúng quy trình huấn luyện, từ soạn, thục luyện, thông qua giáo án đến giảng dạy.

Nội dung trọng tâm đơn vị xác định là huấn luyện cán bộ, đảm bảo cán bộ vừa là người tổ chức, điều hành công tác huấn luyện của đơn vị mình, vừa là người giảng dạy, huấn luyện cấp dưới thuộc quyền. Vì vậy, cần phải huấn luyện cho cán bộ nắm được chỉ tiêu công tác huấn luyện của đơn vị mình và của bản thân mình; nắm chắc âm mưu thủ đoạn của địch và phương thức tác chiến của đối phương, nhất là thực tế những cuộc chiến tranh gần đây cho thấy, địch luôn áp dụng vũ khí công nghệ cao; nắm chắc tính năng kỹ, chiến thuật của vũ khí, khí tài đơn vị được trang bị…Với kiến thức đó, cán bộ sẽ xây dựng được nội dung huấn luyện sát với yêu cầu nhiệm vụ, từ bố trí đội hình, sử dụng lực lượng, sử dụng hỏa lực đánh trả và xử lý các tình huống khác.

PV: Để nâng cao chất lượng và đánh giá đúng kết quả huấn luyện, đơn vị đã có những biện pháp gì?

Đại tá Phan Anh Dũng: Chúng tôi luôn chú trọng công tác kiểm tra huấn luyện, với quan điểm cụ thể, thực chất, thông qua hình thức kiểm tra thường xuyên hoặc đột xuất. Qua kiểm tra sẽ phát hiện những điểm mạnh, những nhân tố điển hình để nhân rộng, cũng như tìm ra những tồn tại để kịp thời chấn chỉnh, khắc phục.

Cùng với đó, sư đoàn đã tổ chức tốt các đợt diễn tập, tham gia hội thi, hội thao, qua đó đánh giá công tác tổ chức điều hành của đội ngũ cán bộ; nhìn nhận thực chất kết quả huấn luyện; đồng thời còn nâng cao bản lĩnh cho cán bộ, chiến sĩ…Qua diễn tập, hội thi, hội thao, kịp thời bổ sung kế hoạch huấn luyện, để bộ đội nắm, thao tác, sử dụng thành thạo vũ khí, khí tài.

Với những biện pháp đồng bộ, quyết liệt, năm 2012, Sư đoàn 361 đã hoàn thành kế hoạch huấn luyện, đạt Đơn vị huấn luyện giỏi.

Xe điều khiển của Đoàn tên lửa phòng không 64 huấn luyện bắt, bám sát mục tiêu bằng khí tài tên lửa S-300

PV: Được trang bị các loại vũ khí mới, hiện đại, đơn cử như tổ hợp tên lửa phòng không S-300, Sư đoàn 361 làm gì để quản lý và khai thác hiệu quả, thưa đồng chí?

Đại tá Phan Anh Dũng: Nhằm góp phần xây dựng Quân đội, Quân chủng PK-KQ chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, Sư đoàn 361 đã được trang bị nhiều loại vũ khí, khí tài cải tiến; vũ khí khí tài mới, hiện đại. Làm chủ được các loại vũ khí, khí tài nói trên là nhiệm vụ quan trọng, bởi chỉ có như vậy mới nâng cao được khả năng SSCĐ. Thực hiện nhiệm vụ này, sư đoàn đã tập trung thực hiện quyết liệt, đồng bộ nhiều giải pháp như: Lựa chọn những cán bộ được đào tạo cơ bản ở các nhà trường, có kinh nghiệm thực tiễn, có nền tảng kiến thức về khoa học kỹ thuật, đưa đi đào tạo chuyển loại vũ khí, khí tài mới. Sau khi huấn luyện chuyển loại, đơn vị đã tổ chức huấn luyện bắn đạn thật nghiệm thu khí tài, để bộ đội tin tưởng vào vũ khí trang bị. Cùng với đó, để huấn luyện trên khí tài mới đạt kết quả tốt, đơn vị xác định phải đảm bảo tốt hệ số kỹ thuật của vũ khí, khí tài. Do đó, các đơn vị duy trì tốt nền nếp, chế độ công tác kỹ thuật; trang bị cho đội ngũ chỉ huy, kỹ sư, nhân viên kỹ thuật có đủ trình độ khai thác, bảo quản, bảo dưỡng; duy trì nghiêm công tác bảo quản ngày, tuần.

Trong huấn luyện, sư đoàn tập trung đào tạo cho cán bộ chỉ huy và cơ quan có đủ khả năng giúp đỡ, huấn luyện trực tiếp các kíp chiến đấu, các phân đội có khí tài mới.

Kíp chiến đấu được huấn luyện từ đơn giản đến phức tạp, từ cá nhân đến hiệp đồng, từ lý thuyết đến thực hành, nên bộ đội nắm được chức trách, từ đó thao tác, kiểm tra, hiệp đồng chặt chẽ, đúng quy trình, bảo đảm an toàn. Trong huấn luyện kíp chiến đấu, tập trung huấn luyện các bài bắn cơ bản, đánh mục tiêu trên không, đặc biệt mục tiêu là các loại vũ khí công nghệ cao.

Ngoài ra, để nâng cao khả năng khai thác, làm chủ khí tài mới, đơn vị đã tổ chức huấn luyện diễn tập chiến thuật cho các phân đội, huấn luyện cơ động nhanh, huấn luyện đêm. Kết quả huấn luyện thời gian qua đã khẳng định: Các đơn vị đã làm chủ được vũ khí, tài mới, tổ chức trực ban SSCĐ tốt, sẵn sàng đối phó có hiệu quả với các tình huống xảy ra, bảo vệ vững chắc vùng trời được phân công quản lý, không để Tổ quốc bị bất ngờ vì các tình huống trên không.

PV: Xin cảm ơn đồng chí

PHẠM HOÀNG HÀ (thực hiện)
qdnd.vn