Thư viện

Học thuyết Marx – cơ sở lý luận ứng dụng cho Việt Nam

Rà soát lại các học thuyết, các lý thuyết kinh tế chính, ứng dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh Việt Nam là công việc rất cần thiết, góp phần trực tiếp phục vụ nhiệm vụ Đại hội của Đảng.

Tiếp tục đọc

Advertisement

Bảo vệ và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác

Kỷ niệm 195 năm ngày sinh C.Mác (5-5-1818 / 5-5-2013)

QĐND – 1. Ngày 5-5-1818, tại thành phố Tơ-ri-ơ, trong gia đình luật sư Hen-rích Mác (Heinrich Marx), C.Mác (Karl Marx) đã được sinh ra, để rồi sau này trở thành lãnh tụ vĩ đại và thiên tài của giai cấp công nhân thế giới, một vĩ nhân của nhân loại. Tiếp tục đọc

This entry was posted on Tháng Tám 4, 2013, in Chính luận.

Tự do internet của Việt Nam là sự thật không thể bác bỏ

Phòng, chống “diễn biến hòa bình”

QĐND – Sau khi một vài đối tượng bị bắt giữ, điều tra về hành vi “lợi dụng các quyền tự do dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức công dân,” theo điều 258 của Bộ luật Hình sự, mấy ngày qua, một vài trang mạng có địa chỉ ở nước ngoài lại “nhai” lại luận điệu cũ mèm của cái gọi là tổ chức bảo vệ nhân quyền quốc tế Phóng viên không biên giới vu cáo Việt Nam là “kẻ thù của internet”.

Tiếp tục đọc

Vì sao Đảng Cộng sản Việt Nam kiên định chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh?

Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam và cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua chứng tỏ việc Đảng xác định lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là hoàn toàn đúng đắn. Ngày nay, dù tình hình thế giới diễn biến phức tạp khôn lường, tình hình trong nước tiếp tục có những khó khăn mới, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam trước sau như một, vẫn kiên định tư tưởng và con đường đã chọn.

Ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng đánh vào Đà Nẵng và mở rộng chiến tranh xâm lược, nhân dân Việt Nam ở ba miền: Trung, Nam, Bắc đã liên tục nổi dậy chống quân xâm lược. Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX mang đậm tinh thần yêu nước và dũng khí trước quân thù nhưng đều dưới sự dẫn dắt của tư tưởng phong kiến và tư sản – các trào lưu tư tưởng đã lỗi thời, lạc hậu trong sự phát triển của thế giới đương đại và không đáp ứng được yêu cầu của xã hội Việt Nam – nên không tránh khỏi thất bại. Cách mạng Việt Nam lâm vào cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước. Yêu cầu khách quan của dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX là phải có một lý luận tiên tiến dẫn đường, với một đảng cách mạng có đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn lãnh đạo công cuộc cứu nước.

Theo quy luật, khi nào lịch sử đặt ra yêu cầu, thì lịch sử cũng sản sinh ra những điều kiện và những con người đáp ứng yêu cầu đó. Lãnh tụ là những người xuất hiện đúng thời điểm, nắm bắt được yêu cầu của lịch sử, đủ tài năng giải quyết được nhiệm vụ do lịch sử đặt ra. Hồ Chí Minh chính là con người như thế. Từ một thanh niên yêu nước thương dân tha thiết và mẫn cảm chính trị, Nguyễn Tất Thành – Hồ Chí Minh – đã rời đất nước, đi sang phương Tây tìm đường cứu nước. Trải qua gần mười năm bôn ba khắp bốn biển năm châu, nung nấu chí hướng cứu nước, cứu dân, vừa lao động cùng những người anh em chung cảnh ngộ, vừa hoạt động yêu nước, vừa học hỏi những tư tưởng cách mạng mới, mùa Thu năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”1. Đây là lời giải đáp duy nhất cho yêu cầu của cách mạng Việt Nam. Tháng 12-1920, Nguyễn Ái Quốc là một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên.

Từ đó, Nguyễn Ái Quốc hướng hoạt động của mình vào việc vận động cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Trong tác phẩm “Đường kách mệnh” – tác phẩm phác thảo toàn diện đường lối cách mạng Việt Nam – Người đặt vấn đề: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì?” và trả lời: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”2. Nhận thức đúng vai trò to lớn của lý luận đối với đảng cách mạng, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”3. Người còn chỉ rõ: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê-nin”4.

Trong suốt những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc cùng những đồng chí do mình đào luyện và một số nhà yêu nước, cách mạng được ảnh hưởng tư tưởng của Người, đã đưa chủ nghĩa Mác – Lê-nin cùng tư tưởng cách mạng Nguyễn Ái Quốc – tư tưởng Hồ Chí Minh – thâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam nhằm tiến tới thành lập đảng cộng sản. Vì thế, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam lúc này đã phát triển mạnh mẽ và chuyển biến về chất. Đó là “cuộc hội ngộ lịch sử”. Đến cuối năm 1929, phong trào yêu nước và cách mạng Việt Nam đòi hỏi phải có một tổ chức chính trị có tư tưởng tiên tiến, đường lối và phương pháp cứu nước đúng đắn, được tổ chức vững mạnh để lãnh đạo phong trào. Nắm bắt được yêu cầu của lịch sử, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cùng những người cách mạng tiên tiến do Người huấn luyện, dìu dắt, đã sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), trên cơ sở hợp nhất ba tổ chức cộng sản. Đảng ra đời đã đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng lãnh đạo kéo dài trong nhiều năm, mở ra thời đại thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Từ khi ra đời, ĐCSVN luôn lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Đảng lấy nền tảng lý luận, tư tưởng đó làm cơ sở lý luận, xác định lập trường, quan điểm, đề ra cương lĩnh chính trị, hoạch định đường lối, chủ trương, tìm ra phương pháp cách mạng và phương hướng chỉ đạo thực tiễn phong trào cách mạng của quần chúng; đề ra những nguyên lý và tổ chức thực tiễn công tác xây dựng Đảng; đồng thời, coi đó là vũ khí sắc bén để đấu tranh có hiệu quả chống lại các tư tưởng phản động, sai trái. ĐCSVN đã trải qua lò lửa đấu tranh cách mạng hơn 80 năm qua. Trong quá trình đó, chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh luôn là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động để Đảng lãnh đạo toàn dân đi đúng hướng, đáp ứng yêu cầu phát triển của dân tộc, phù hợp với quy luật của thời đại mới và giành những thắng lợi vĩ đại. Thực tế lịch sử ra đời và phát triển của ĐCSVN cho thấy, việc Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp tính chất của thời đại mới và đáp ứng yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam.

Thế nhưng, từ thập kỷ cuối của thế kỷ XX đến nay, lợi dụng sự kiện CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, cùng những khó khăn trong xây dựng CNXH ở nước ta, các thế lực thù địch của cách mạng Việt Nam ra sức xuyên tạc, bài bác chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Dã tâm của chúng là muốn loại bỏ nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của ĐCSVN và của xã hội Việt Nam, làm tha hoá Đảng; từ đó xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội, xoá bỏ chế độ XHCN. Chúng lớn tiếng rêu rao: “Chủ nghĩa Mác – Lê-nin chỉ là một lý thuyết không tưởng, dân tộc nào đi theo sẽ không thể tránh khỏi thất bại”; “Hồ Chí Minh đưa chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào Việt Nam giống như đem cái mầm ngoại lai ghép với cây truyền thống là sai lầm, đất nước và dân tộc không thể đơm hoa kết trái” hoặc “chủ nghĩa Mác – Lê-nin là lý luận đấu tranh giai cấp, còn tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa dân tộc”; thậm chí, chúng còn cố tình đổi trắng thay đen, lớn tiếng tuyên truyền luận điểm quái gở rằng dân tộc ta đi theo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lao vào cuộc cách mạng vô sản tháng 8-1945 và hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ hao người, tốn của là một sai lầm lịch sử, làm cho đất nước điêu tàn, dân tộc phân ly…(!). Phải khẳng định rằng: đó chỉ là trò xuyên tạc lịch sử, kích động tâm lý với mưu đồ đen tối nhằm làm giảm niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ nhận thành quả của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, xoá bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng cũng chính là làm suy yếu dẫn đến tan rã Đảng. Những âm mưu, thủ đoạn đó đều nằm trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và mục đích cuối cùng của chúng là xóa bỏ ĐCSVN, lái cách mạng Việt Nam đi theo quỹ đạo của chúng.

Lịch sử cách mạng Việt Nam gần một thế kỷ qua đã minh chứng chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống lý luận thống nhất, là ngọn cờ  dẫn dắt cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi. Chủ nghĩa Mác – Lê-nin là sự kết tinh và phát triển trên một tầm cao mới trí tuệ của nhân loại, là lý luận cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và loài người tiến bộ nhằm giải phóng giai cấp, giải phòng dân tộc và giải phóng con người. Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết tinh sự vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin, các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại. Những người Việt Nam chân chính, những người có lương tri trên thế giới đều nhận thức rõ ràng điều này.

Một thực tế lịch sử là trong quá trình lãnh đạo cách mạng và củng cố phát triển của ĐCSVN, khi nào toàn Đảng thấm nhuần sâu sắc và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thì Đảng đoàn kết, vững mạnh, được đông đảo nhân dân tin theo và lãnh đạo cách mạng thành công. Ngược lại, khi nào một bộ phận trong Đảng, do thiếu tinh thần độc lập, tự chủ hoặc chủ quan nóng vội, quán triệt không đầy đủ hoặc vận dụng giáo điều chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thì trong Đảng thiếu đoàn kết thống nhất, suy giảm lòng tin của nhân dân, phạm sai lầm khuyết điểm về đường lối và cách mạng gặp khó khăn, tổn thất.

Lãnh đạo cả một dân tộc đi lên CNXH bao giờ cũng vậy, nhất là trong tình hình vô cùng phức tạp hiện nay, không khỏi gặp những khó khăn, vấp váp, kể cả những sai lầm, khuyết điểm. Hiện nay, trong Đảng có một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, suy giảm lòng tin vào chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, dao động mục tiêu, lý tưởng, làm suy yếu Đảng, làm giảm sút lòng tin của nhân dân và ảnh hưởng đến phong trào cách mạng. Điều đó xảy ra do nhiều nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan, song hoàn toàn không phải bắt nguồn từ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đối với ĐCSVN và nước Việt Nam ta, chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn là lý luận “chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất”. Chính vì thế, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) và Điều lệ ĐCSVN do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI thông qua, tiếp tục khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”5.

Kiên định chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam tiếp tục đi trên con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn: độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; kiên định với mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Bằng đường lối đổi mới đúng đắn, những năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta đã vượt qua tình trạng đói nghèo, kém phát triển; tình hình chính trị, kinh tế – xã hội và quốc phòng – an ninh tiếp tục ổn định, phát triển; uy tín, vị thế của nước ta không ngừng nâng cao trên trường quốc tế. Sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và xuất khẩu tăng trưởng; an sinh xã hội được cải thiện; các lĩnh vực văn hóa, xã hội đạt thành tựu trên nhiều mặt… Việt Nam tiếp tục nhận được sự đồng tình, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều đó càng chứng tỏ sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự kiên định của ĐCSVN là đúng đắn.

Vì vậy, lập trường chân chính, thái độ đúng đắn nhất của toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên hiện nay là tiếp tục kiên định chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; dùng cơ sở lý luận, lập trường, quan điểm đó để đánh giá một cách khách quan, toàn diện những thành tựu và hạn chế của chặng đường cách mạng đã qua; tổng kết những kinh nghiệm thành công và không thành công để tìm ra những hình thức, bước đi, giải pháp đúng đắn, giải quyết được những vấn đề thực tiễn đặt ra để lãnh đạo toàn dân xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

PGS, TS. VŨ NHƯ KHÔI
Viện KHXHNVQS – Bộ Quốc phòng
tapchiqptd.vn
_______________

1 – Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 9Nxb CTQG, H. 2002, tr. 314.
2, 3, 4 – Sđd, Tập 2, tr. 267, 268.
5 – ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 88.

Nghịch cảnh nhân quyền Mỹ

Trong khi cả thế giới cùng đông đảo nhân dân Mỹ còn chưa hết bàng hoàng trước những hành động ngược đãi tù nhân tại nhà tù A-bu Gra-íp (I-rắc) của binh lính Mỹ thì ngày 17-5 vừa qua, Oa-sinh-tơn lại công bố cái gọi là “Hỗ trợ nhân quyền và dân chủ: Thành tích Mỹ năm 2003-2004”. Thực là nghịch cảnh!

So với những báo cáo trước đây, lần này người ta thấy không có gì mới. Nội dung cao giọng bàn về nhân quyền vẫn theo cái nhìn của những người có “vấn đề” về thị giác ở một số nước với những cấp độ kỳ quái. Sự khác biệt, có chăng, chỉ là những thay đổi về tên tuổi của những kẻ cơ hội, đầu cơ chính trị ở một số quốc gia hay mức độ đề cập giữa các nước khác nhau mà thôi.

Bản báo cáo dài 270 trang đề cập đến nhân quyền tại 101 nước, ngay lập tức bị các nước, các tổ chức khác nhau trên thế giới phản đối vì tính mơ hồ cùng nội dung trâng tráo của nó. Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã tỏ rõ thái độ rằng: “Mỹ hãy lo cho những vấn đề của mình và ngưng ngay sử dụng vấn đề nhân quyền như cái cớ để can thiệp tình hình nội bộ các nước”. Nhân việc báo cáo này được công bố, nhiều học giả đã lên án chính quyền của Tổng thống Gioóc-giơ Bu-sơ về các “thành tích” nhân quyền của chính giới Mỹ. Giáo sư S.Giu-nơ, trường Đại học Xan Phran-xi-cô nêu rõ, chính quyền Mỹ đã “bị mất uy tín” về đạo đức và phá vỡ lòng tin của các đồng minh”. Đại diện Tổ chức giám sát nhân quyền, Tôm Ma-li-nốp-xki nói: “Trung Quốc, Ai Cập, Dim-ba-bu-ê, những nước mà Mỹ cho là cần Mỹ ủng hộ để bảo vệ nhân quyền, giờ đây có thể nói với các nhà bảo vệ nhân quyền rằng, nước Mỹ thần tượng của các ông, chẳng phải đang lăng nhục con người đó sao?”. Còn báo Kô-mơ-san (Mỹ) viết: “Báo cáo nhân quyền của Mỹ là thí dụ rõ nét nhất về sự đạo đức giả, nó được công bố để xoay sở với làn sóng phẫn nộ ở trong nước Mỹ và trên thế giới”…

Khoan hãy nói về tính lố bịch của báo cáo này khi ngang nhiên can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Việt Nam, mà chỉ đơn cử những ví dụ cụ thể để thấy rõ cách nhìn sai trái của nó. Chuyến thăm của các quan chức Chương trình phát triển LHQ (UNDP), Quỹ Nhi đồng LHQ (UNICEF), Quỹ Dân số LHQ (UNFPA), Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) tới thăm các tỉnh Tây Nguyên trong thời gian từ 12 đến 15-5 đã nhấn mạnh đến những thành tựu đạt được trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Việt Nam nêu trong Tuyên bố Thiên niên kỷ của LHQ. Đoàn đã ghi nhận và đánh giá cao thành tựu của các địa phương về các lĩnh vực kinh tế, giáo dục, y tế, nhất là công tác xóa đói giảm nghèo, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các dân tộc thiểu số. Còn trong vấn đề tự do tôn giáo,Việt Nam có khoảng 20 triệu tín đồ, hàng chục ngàn nhà tu hành và cơ sở thờ tự. Số lượng tín đồ của các tôn giáo, số lượng các trường đào tạo tôn giáo không ngừng tăng. Năm 1975 nước ta chỉ có 1 trường đào tạo đến nay đã có 3 trường Đại học Phật giáo, 34 trường cao cấp và trung cấp Phật học (so với 22 trường năm 1993). Nhiều cơ sở thờ tự được tu bổ và xây mới, nhiều kinh sách, ấn phẩm tôn giáo đã được xuất bản đáp ứng nhu cầu tìm hiểu đạo pháp của các tín đồ… Vậy thì vì cớ gì bản báo cáo nhân quyền của Bộ Ngoại giao Mỹ lại đề cập rằng, các quyền tự do tôn giáo “đã bị hạn chế”…

Thực tế là vậy, đối lập hoàn toàn với những gì mà Bộ Ngoại giao Mỹ nêu trong “báo cáo”. Người ta tự hỏi phải chăng Nhà Trắng không nhìn thấy một thực tế rộng mở đang được rất nhiều tổ chức nước ngoài có mặt tại Việt Nam đánh giá cao ? Cựu Đại sứ Mỹ tại Việt Nam, ngài Pi-tơ Pê-tê-sơn trong một lần phát biểu với báo chí về nhân quyền đã nêu rõ, chúng ta phải bảo đảm rằng, việc đánh giá về Việt Nam không chỉ dựa vào việc nhận xét các hoạt động nhân quyền, hoặc tôn giáo mà phải nhìn vào đất nước này một cách tổng thể. Cần phải nhìn vào các tiến bộ hơn là chỉ nhận thức về những mức độ bảo vệ nhân quyền, bởi không một nước nào dám chắc là mình đã đạt được mức độ hoàn hảo về bảo vệ nhân quyền mà chúng ta phải luôn luôn nỗ lực. Và nếu tiếp cận theo cả một tiến trình thì rõ ràng. Việt Nam đang thực hiện rất tốt trong việc tôn trọng quyền con người của từng cá nhân cũng như của các nhóm thuộc các tôn giáo khác nhau.

Rõ ràng, thực tế đã đối lập hoàn toàn với những điều mà Bộ Ngoại giao Mỹ đề cập. Dư luận cho rằng, trước hết, Oa-sinh-tơn nên tự điều chỉnh những vấn đề tại nước mình, “sám hối” trước vụ xì-căng-đan tại nhà tù A-bu Gra-íp hơn là can thiệp vào công việc nội bộ của các nước. Bởi đó chính là vết nhơ trong vấn đề nhân quyền hiện nay của nước Mỹ.

Bùi Lê, Báo HNM, 25.5.2004
dangcongsan.vn

This entry was posted on Tháng Tư 17, 2013, in Chính luận.

Vấn đề nhân quyền ở Việt Nam

Thời gian gần đây, một số phần tử cực hữu ở Mỹ và các nước phương Tây tiếp tục vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền. Nghị viện Liên minh châu Âu thông qua Báo cáo về tình hình nhân quyền thế giới, trong đó, vu cáo Việt Nam vi phạm tự do tôn giáo, tự do dân chủ. Đây là một sự vu khống, bịa đặt.

1. Trong lịch sử gần sáu thập kỷ của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam), Hiến pháp qua những lần sửa đổi, bổ sung, phát triển (1946, 1959, 1980, 1992) đã xác lập và thực thi quyền con người Việt Nam trên nhiều mặt: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, phù hợp với những điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam trong từng giai đoạn. Thế nhưng, các thế lực thù địch luôn luôn tìm cách vu khống, bịa đặt cho rằng, nước ta, chế độ ta vi phạm quyền con người, quyền công dân; bóp nghẹt dân chủ; đàn áp tôn giáo, dân tộc; chúng công kích đường lối, chính sách đổi mới, phê phán chế độ một đảng, đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập,… Bất chấp những luận điệu vu khống và những thủ đoạn phá rối, gây kích động ấy, Việt Nam vẫn luôn luôn tự hào và có quyền tự hào rằng, chúng ta là một đất nước độc lập, tự do và ngày càng phát triển theo mục tiêu cao cả vì “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” .

Trong lịch sử đấu tranh lâu dài để chinh phục tự nhiên, lịch sử đấu tranh giai cấp, cải tạo xã hội, thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội, loài người đã đạt được những thành quả vĩ đại về nhân quyền và dân chủ. Chính vì thế, nhân quyền và dân chủ được coi như một trong những tiêu chí cơ bản, quan trọng nhất, đánh dấu sự phát triển của các chế độ xã hội cao hay thấp trong tiến trình phát triển lịch sử.

Con người luôn luôn hướng tới những cái thật, cái đúng (chân), cái tốt lành (thiện) và cái đẹp (mỹ). Trong quá trình chung sống ở cộng đồng, trong quan hệ giữa người với người, khát vọng có “quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc”, trở thành điểm tương đồng của toàn nhân loại. Song, khát vọng chung nhất ấy đã bị kìm hãm, chà đạp, dồn nén khi xã hội loài người phân chia thành những giai cấp khác nhau: có tập đoàn người này áp bức, thống trị tập đoàn người khác, thông qua những quy định, sắc lệnh (pháp luật) của nhà nước do giai cấp thống trị nắm giữ và điều hành. Cũng từ đó, đã xuất hiện cuộc đấu tranh cho nhân quyền.

Bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ Lục địa lần thứ hai long trọng công bố ngày 4-7-1776. Nội dung cơ bản của Tuyên ngôn là lời tuyên bố các quyền tự do dân chủ tư sản và khẳng định nền độc lập của các bang ở Bắc Mỹ. Tuyên ngôn nêu rõ: “Mọi người sinh ra đều bình đẳng. Tạo hóa đã ban cho họ những quyền bất khả xâm phạm, trong đó, có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp được Hội đồng Lập hiến thông qua ngày 26-8-1789, gồm 17 điều khoản. Đó là một Cương lĩnh chứa đựng những tư tưởng “Tự do, bình đẳng, bác ái” của các nhà triết học Pháp thế kỷ XVIII. Lần đầu tiên trong lịch sử nước Pháp và châu Âu, chủ quyền tối cao được tuyên bố thuộc về nhân dân cùng với những quyền tự do, dân chủ khác. Quyền lực của nhà vua cùng chế độ đẳng cấp bất bình đẳng trong xã hội phong kiến bị bãi bỏ.

Các bản Tuyên ngôn trên là những văn kiện đề cao dân chủ, tự do, là một tiến bộ lớn lao, phản ánh những mong muốn của nhân dân. Tuy nhiên, trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ không có điều khoản thủ tiêu chế độ nô lệ, không nghiêm cấm việc buôn bán nô lệ, nên các chủ nô vẫn mặc sức tự do buôn bán nô lệ, nô lệ vẫn chỉ là một “công cụ”, một thứ “hàng hóa biết nói” . Trong bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp cũng như bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ, mặc dầu những quyền tự do và bình đẳng đã được ghi trong văn bản, nhưng các Tuyên ngôn đều xác lập dứt khoát cơ sở của chế độ mới là chế độ tư bản, duy trì công khai quan hệ bóc lột của tập đoàn thống trị đối với quần chúng nhân dân. Về thực chất, cuộc cách mạng tư sản hoàn toàn không có ý định xóa bỏ bóc lột, mà chỉ thay đổi giai cấp bóc lột và phương thức bóc lột. Như vậy, đại bộ phận nhân dân và giai cấp công nhân lại rơi vào một chế độ áp bức, bóc lột mới rất “văn minh”, mà không kém dã man – chế độ tư bản chủ nghĩa, vi phạm nhân quyền lại tiếp tục gia tăng.

Ngày 7-11-1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, mở đầu thời đại mới của xã hội loài người – thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, và giai đoạn cao là chủ nghĩa cộng sản. Mục tiêu chính của cách mạng là xóa bỏ ách áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản đối với giai cấp công nhân và nhân dân lao động; thủ tiêu chế độ người bóc lột người, giải phóng con người một cách triệt để. Cuộc đấu tranh cho tương lai tươi sáng đó đã mở ra một triển vọng xán lạn cho loài người, đưa cuộc đấu tranh cho nhân quyền lên một đỉnh cao mới.

Nhân quyền là niềm mơ ước, giá trị chung của toàn nhân loại, là khát vọng ngàn đời của mỗi người dân, nhưng lại là vấn đề của mỗi quốc gia, thuộc quyền xử lý của quốc gia, gắn chặt với lợi ích quốc gia và độc lập chủ quyền của từng quốc gia – dân tộc trong từng giai đoạn lịch sử.

Con người sinh ra, dù muốn hay không cũng phải lệ thuộc vào tự nhiên, mà giới tự nhiên vận động theo quy luật vốn có của nó. Con người tồn tại trong xã hội phải nắm vững quy luật, đó là cơ sở của quyết định luận mácxít: con người tồn tại theo quy luật và do quy luật quyết định. Theo quan điểm mácxít, tự do có nghĩa là nắm được tính tất yếu. Con người càng tự do bao nhiêu – điều đó phụ thuộc vào việc con người nắm được tính tất yếu bấy nhiêu. Tất yếu là cái tạo tiền đề cho tự do, tất yếu dung nạp tự do, chứ không phủ nhận tự do, không bài trừ tự do. Để đạt được tự do, phải nắm vững được tính tất yếu. Khơi dậy ở con người ham muốn tìm hiểu khoa học, vươn lên cái tất yếu và tạo cho con người một hành lang để con người tiếp cận được cái tất yếu khách quan là tiền đề cho sự giải phóng con người, đưa con người tới tự do. Trong đời sống xã hội, cái tất yếu là luật. Trong xã hội có giai cấp, con người làm việc theo pháp luật, càng có tự do; ngược lại, nếu sống không theo pháp luật, con người sẽ mất tự do. Vì vậy, trong xã hội còn giai cấp, chế độ xã hội nào cũng phải đưa ra một hệ thống luật pháp và thực hiện được những điều luật đó để làm cho con người được tự do.

Trong câu nói bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, cần phải hiểu tự do của mỗi con người luôn luôn phải gắn liền với độc lập của dân tộc, của đất nước. Một quốc gia không có (hoặc chưa có) chủ quyền dân tộc, thì không thể nói đến nhân quyền, đến “quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc” của người dân. “Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”; hơn nữa, nền độc lập đó không thể bền vững. Như vậy, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và nhân quyền có mối quan hệ biện chứng, trong đó, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là vấn đề trước hết, là điều kiện tiên quyết, làm tiền đề cơ bản để thực hiện đầy đủ quyền con người – nhân quyền.

Việc thực hiện dân chủ, nhân quyền còn tuỳ thuộc vào nhiều điều kiện, trong đó, trước hết là trình độ phát triển kinh tế và điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, dân tộc về tất cả các phương diện chính trị, văn hoá, xã hội, tập quán, phong tục… Các nước có chế độ chính trị khác nhau, trình độ phát triển khác nhau, thì không thể lấy quan niệm, thực tế của nước này, dân tộc này về dân chủ và nhân quyền áp đặt cho dân tộc khác, đất nước khác.

Hiện nay, khi toàn cầu hoá kinh tế trên thế giới đang diễn ra mạnh mẽ và chính sự phát triển hiện đại hoá nghiêng hẳn về mục tiêu kinh tế, kỹ thuật đã làm mất cân đối sự phát triển xã hội, đánh mất tính nhân văn.

Đứng trước sự thách thức về chủ quyền quốc gia trong xu thế toàn cầu hoá, có những ý kiến rất khác nhau, thậm chí có khi rất trái ngược nhau. Loại thứ nhất cho rằng, trong tiến trình toàn cầu hoá, vai trò của nhà nước không giảm đi, mà ngược lại, còn tăng lên. Sự tăng lên đó không phải để cản trở sự phát triển mà để thúc đẩy tiến bộ. Loại thứ hai cho rằng, chủ quyền quốc gia ngày nay, không còn giữ nguyên giá trị cơ bản như trước đây, do vậy, địa vị và vai trò của nhà nước giảm đi rõ rệt. Theo họ, nhân quyền hiện đã vượt lên trên chủ quyền ở trong tất cả các xã hội khác nhau; nó không đếm xỉa tới biên giới quốc gia và trên một số mặt, đã phá bỏ sự phân cách giữa các quốc gia và độc lập của các quốc gia; chủ quyền quốc gia đã bị suy yếu và lỗi thời, còn nhân quyền cao hơn chủ quyền là điều tất yếu.

Ngày nay, sự phụ thuộc và mối quan hệ mật thiết giữa các quốc gia, dân tộc, các giai cấp ngày càng gia tăng, do thành tựu của hợp tác kinh tế, khoa học công nghệ, của đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, đấu tranh với thiên nhiên và đấu tranh với các nạn dịch và tham gia giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu. Tuy nhiên, đó là một quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cạnh tranh và ngày càng quyết liệt. Đó là sự thống nhất của mâu thuẫn, thống nhất trong mâu thuẫn, trong đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc, trong rất nhiều sự khác biệt phức tạp về trình độ phát triển, về văn hóa, về tôn giáo,… Những mâu thuẫn cơ bản của thời đại vẫn tồn tại và có bước phát triển mới, dưới hình thức mới, thậm chí cả nội dung mới, tiềm ẩn những nguy cơ khó lường đối với toàn cầu. Trong từng khu vực, từng quốc gia khác nhau, lại nổi lên những vấn đề rất khác nhau hoặc là xung đột vũ trang, tranh chấp lãnh thổ, xung đột tôn giáo, sắc tộc,… Sự đa dạng đó cộng với những đặc thù riêng biệt về văn hóa, lịch sử, truyền thống, phong tục, tập quán, kinh tế, đặc biệt là đường lối chính trị và lợi ích quốc gia, dân tộc khác nhau, nên chủ trương và phương pháp xử lý mọi vấn đề trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội,… và cả vấn đề nhân quyền cũng sẽ rất khác nhau. Xét cho cùng, việc thực hiện quyền con người sẽ được thông qua sự bảo đảm của quốc gia, dân tộc, được khẳng định trong hiến pháp, luật pháp và ở chỗ thể hiện và thực thi các chính sách của quốc gia đó. Vì lẽ đó, không thể có một thứ “nhân quyền toàn cầu”, “nhân quyền không biên giới” và càng không thể có cái gọi là “nhân quyền cao hơn chủ quyền quốc gia”, “nhân quyền đặt trên tổ quốc” được và không thể thực hiện đầy đủ quyền con người ngay một lúc.
2. Kế thừa và phát huy một cách sáng tạo những truyền thống lịch sử tốt đẹp là một trong những nguyên tắc của Đảng và Nhà nước ta. Ở Việt Nam, thực tiễn lịch sử cho thấy, tư tưởng “thân dân” là tư tưởng chủ đạo xuyên suốt của giai cấp quý tộc phong kiến trong quá trình phát triển đời sống xã hội Việt Nam. Giai cấp quý tộc phong kiến Việt Nam nhận thức được sức mạnh vĩ đại “chở thuyền và lật thuyền” của nhân dân. Chính vì vậy, các chính sách “dân vi bản”, “ngụ binh ư nông”, mở rộng chế độ tự quản ở làng, xã,… đã được thực thi một cách phổ biến và phát huy tác dụng to lớn.

Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946 ra đời là Hiến pháp dân chủ đầu tiên nhằm mục tiêu dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc. Hiến pháp năm 1959, năm 1980 tiếp tục khẳng định điều đó.

Từ năm 1986, nước ta bắt đầu sự nghiệp đổi mới. Hiến pháp sửa đổi trong thời kỳ này – Hiến pháp năm 1992 (Điều 50) quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng…”, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực thi dân chủ. Chỉ thị 30-CT/TƯ (18-2-1998) của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã chỉ rõ: “Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là mục tiêu, đồng thời là động lực bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng, của công cuộc đổi mới”. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ra ba Nghị định (số 29, năm 1998; số 71, năm 1998; số 7, năm 1999), ban hành Quy chế dân chủ ở xã, phường; ở cơ quan hành chính; ở doanh nghiệp nhà nước đã góp phần thể hiện tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định chủ trương đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đại hội đã chỉ rõ, phải “thực hiện tốt quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý xã hội, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng. Khắc phục mọi biểu hiện dân chủ hình thức. Xây dựng Luật trưng cầu ý dân. Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người; tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Đổi mới cơ chế, xác định trách nhiệm của các cấp, các cơ quan, cán bộ, công chức trong việc giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo của công dân. Phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật, tuyên truyền, giáo dục toàn dân, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật”. Một trong những nội dung của quy chế dân chủ cơ sở và việc đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo trong xây dựng hệ thống chính trị cơ sở là dựa vào dân, lấy dân làm gốc: dân là chủ thể chính quyền; đảng, chính quyền và đoàn thể là chủ thể thực hiện sự uỷ quyền của dân. Dân là đối tượng phục vụ. Hệ thống chính trị cơ sở phải thực sự của dân, do dân, vì dân.
Thực tế cho thấy vấn đề dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam ngày càng được thực hiện tốt hơn, thể hiện:

Một là, người dân Việt Nam có niềm tin rất cao vào các giá trị dân chủ. Người dân ủng hộ mạnh mẽ việc dân chủ hóa xã hội mà cụ thể là đối với việc đưa thêm nội dung “dân chủ” vào mục tiêu phấn đấu của quốc gia: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Có tới 62,6% số người được hỏi rất hài lòng và 33,9% khá hài lòng, hay nói cách khác là có tới 96,5% số người trả lời hài lòng ở mức độ cao với mục tiêu dân chủ của quốc gia. Cuộc sống của chính họ đã đem lại cho họ niềm tin. Niềm tin đó còn có một chỗ dựa vững chắc là nền văn hóa, văn minh.

Một thực tế là, trong hệ thống chính trị của Việt Nam, đội ngũ cán bộ và trí thức người dân tộc thiểu số ngày càng tăng. Nhiều cán bộ là dân tộc thiểu số đã giữ trọng trách trong các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể quần chúng và quân đội. Số đại biểu người dân tộc thiểu số trong Quốc hội khoá XI chiếm 17,3%, đại biểu hội đồng nhân dân tỉnh (nhiệm kỳ 1999 -2004) là 14%, huyện 17%, xã 19%… Lấy Tây Nguyên làm thí dụ: Nếu trước đây người Giarai, Bana, hằng năm thường thiếu gạo ăn, thậm chí có năm phải ăn củ rừng 4-5 tháng, thì nay đã chấm dứt tình trạng đói kinh niên. Tỉ lệ đói nghèo của tỉnh Gia Lai giảm từ 28% (năm 1998) xuống 16% (năm 2003).

Những người được hỏi đánh giá rất cao hệ thống chính trị dân chủ ở Việt Nam. 68,9% người trả lời cho rằng, hệ thống chính trị dân chủ rất tốt và 36,6% cho rằng, hệ thống này khá tốt. Như vậy, ở Việt Nam, 95,5% người được hỏi đánh giá hệ thống chính trị dân chủ giữ vai trò tích cực. Chỉ số này ở Nhật Bản: 91,9%, Canađa: 88,7%, Hoa Kỳ: 88,5%, Trung Quốc: 73,3%. Chính sự cố kết, chung lưng đấu cật bao đời nay, đã giác ngộ người dân Việt Nam ý thức về quyền con người, cũng như trên thực tế được thực hiện quyền con người gắn liền với hệ thống chính trị dân chủ. Đây là một thực tế không thể phủ nhận được. Tất nhiên, có nhiều điều người dân còn muốn hệ thống chính trị dân chủ phải phát huy tốt hơn. Thí dụ: Có tới 30,1% số người được hỏi tỏ ý mong muốn hệ thống dân chủ cần quyết đoán hơn (tỉ lệ này ở Trung Quốc: 35,0%, Hoa Kỳ: 39,2%, Nhật Bản: 43,3%, Canađa: 50,0%).

Hai là, quyền cá nhân con người ở Việt Nam rất được tôn trọng. Việc tôn trọng quyền cá nhân như một chỉ số về quyền con người. Cụ thể, có tới 95,1% số người được hỏi đều công nhận quyền cá nhân được tôn trọng. Tất nhiên, quyền phải đi đôi với trách nhiệm và không được làm trái pháp luật, ai làm trái pháp luật đều phải trừng trị. Có như vậy, mới bảo đảm chủ quyền quốc gia, ổn định chính trị, an sinh xã hội.

Ba là, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ vượt bậc về xoá đói, giảm nghèo, phát triển con người và chất lượng cuộc sống. Dân chủ và quyền con người không đơn giản có thể đạt được chỉ bằng những thay đổi về thể chế hay sự điều hành của các cơ quan quyền lực. Sự phát triển kinh tế là điều kiện quan trọng nhất cho việc thực thi dân chủ và quyền con người. Quyền cơ bản nhất của con người là quyền sống, được sống trong một xã hội ổn định. Mười năm gần đây, mức sống thực tế của người dân trung bình tăng lên hai, ba lần. Báo cáo phát triển con người năm 2003 của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) nhận định Việt Nam đã đạt được những tiến bộ vượt bậc về xoá đói giảm nghèo, phát triển con người và chất lượng cuộc sống trong thập kỷ qua. Chỉ số phát triển con người (HDI) ở mức 0,688, Việt Nam xếp hạng 109/175 nước. Về chỉ số phát triển giáo dục: dưới chế độ thực dân, phong kiến chỉ có 5%. Hiện nay 94% dân cư biết chữ. Đây là một trong những quyền cơ bản nhất của con người. Về chỉ số nghèo đói, tỉ lệ nghèo ở Việt Nam đã giảm mạnh, từ hơn 70% vào giữa thập kỷ 80 của thế kỷ trước, xuống còn khoảng 29% năm 2002, xếp hạng 39/94 nước. Về chỉ số phát triển giới (GDI) đạt giá trị 0,687, Việt Nam xếp 89/144 nước, là nước có chỉ số GDI tốt nhất trong khu vực (tỉ lệ nữ đại biểu Quốc hội khoá XI: 27,3%, cao nhất trong khu vực). Các số liệu này nói lên chính sách phát triển kinh tế, đồng thời với chăm lo giải quyết các vấn đề xã hội, chú trọng công bằng xã hội, lấy văn hóa và con người là mục tiêu cao nhất – một chính sách phát triển thật sự dân chủ của Đảng và Nhà nước ta.

Các kết quả nêu ở đây do nhiều yếu tố tạo nên, trong đó, yếu tố quan trọng là nền kinh tế đất nước chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời, một yếu tố khác không kém phần quan trọng là đã có các chính sách giải phóng tiềm năng của con người, của cộng đồng, giải quyết ngày càng hợp lý lợi ích của cá nhân và cộng đồng, lợi ích của công dân và xã hội, quyền hạn và trách nhiệm của các công dân sống trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đây là những điều kiện cơ bản của một xã hội có một chế độ chính trị dân chủ thật sự đang tồn tại ở Việt Nam.

Bốn là, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được bảo đảm. Ở nước ta có khoảng 20 triệu (tức là khoảng 25%) dân cư theo các tôn giáo (Phật giáo, Công giáo, Tin lành, đạo Hồi, Cao Đài, Hoà Hảo), nhưng hầu như 100% dân cư đều giữ phong tục thờ cúng tổ tiên. Điều tra đưa ra các giá trị: chúa trời, tôn giáo, lao động, gia đình, bạn bè, giải trí và yêu cầu người đánh giá xem giá trị nào là rất quan trọng. Kết quả là “gia đình” được 82,11% người được hỏi đánh giá là rất quan trọng, “lao động”: 56,8%; “bạn bè”: 21,8%; “tôn giáo”: 10%; “giải trí”: 7,4%. Các con số này là một bức tranh khá sinh động và trung thực về tự do tín ngưỡng, tôn giáo được tôn trọng ở Việt Nam. Chỉ có những người lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước thì mới bị pháp luật trừng trị và nhân dân ủng hộ sự trừng trị đó. Đó là lẽ phải, là công lý, quốc gia nào cũng phải làm như thế…

(Theo: TS Nguyễn Viết Thông, Lẽ phải của chúng ta, NXB Chính trị Quốc gia, 2004)
dangcongsan.vn

This entry was posted on Tháng Tư 17, 2013, in Chính luận.

Việt Nam quyết định ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp quốc nhiệm kỳ 2014-2016

(ĐCSVN) – Ngày 25/2/2013 tại Giơ-ne-vơ (Thụy Sĩ), Khóa họp 22 Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp quốc (LHQ) đã chính thức khai mạc. Mở đầu là Phiên cấp cao diễn ra trong 3 ngày từ 25-27/2. 76 nước cử Đoàn cấp cao tham dự, Đoàn Việt Nam do Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh dẫn đầu.

Phát biểu tại Phiên họp cấp cao chiều 25/2, Bộ trưởng Phạm Bình Minh đã nêu bật ý nghĩa đặc biệt của Phiên họp cấp cao Hội đồng nhân quyền năm nay khi diễn ra đúng vào dịp kỷ niệm 65 năm Tuyên ngôn Nhân quyền và 20 năm Tuyên bố Chương trình hành động Viên về nhân quyền. Bộ trưởng nêu rõ: mặc dù nhân quyền đã trở thành một ưu tiên hàng đầu của cộng đồng quốc tế, nhưng thế giới vẫn phải đối mặt với các thách thức ngày càng phức tạp, khó lường về nhân quyền, đặc biệt trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế tiếp tục tác động mạnh đến việc đảm bảo nhân quyền tại hầu hết các nước; tình trạng nghèo đói, thất nghiệp, thiếu lương thực, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường… tiếp tục nan giải mà nạn nhân trước tiên là phụ nữ, trẻ em, người nghèo, người khuyết tật, người di cư. Bộ trưởng cũng bày tỏ lo ngại về các bất ổn về chính trị, nội chiến, xung đột sắc tộc, nhất là tình trạng bạo lực gia tăng ở nhiều nơi đang đặt ra những thách thức nghiêm trọng đối với việc đảm bảo quyền cùa người dân; kêu gọi tìm kiếm các giải pháp chính trị để chấm dứt bạo lực, đồng thời nhấn mạnh trách nhiệm hàng đầu về bảo vệ nhân quyền thuộc về các quốc gia liên quan.

Bộ trưởng Phạm Bình Minh cho rằng trong 7 năm qua, Hội đồng Nhân quyền đã có những đóng góp thiết thực hơn vào việc bảo vệ nhân quyền trên thế giới so với Ủy ban nhân quyền trước đây, tuy nhiên Hội đồng Nhân quyền cần tăng cường hiệu quả hoạt động để đối phó với các thách thức nhiều mặt về nhân quyền mà dư luận đang hết sức quan tâm. Bộ trưởng nhấn mạnh Hội đồng Nhân quyền cần phải thực sự trở thành diễn đàn đối thoại và hợp tác, có cách tiếp cận toàn diện, cân bằng về nhân quyền, tôn trọng các nguyên tắc phổ quát, minh bạch, khách quan, không thiên vị trong mọi hoạt động.

Bộ trưởng Phạm Bình Minh nhấn mạnh chính sách nhất quán đảm bảo quyền con người của Nhà nước Việt Nam xuất phát từ nhận thức coi quyền con người là giá trị chung của nhân loại, có gốc rễ sâu xa từ truyền thống lịch sử, văn hóa hàng nghìn năm của dân tộc, từ nguyện vọng thiết tha của người dân Việt Nam từng bị tước bỏ những quyền và tự do cơ bản nhất khi làm người dân của một nước thuộc địa. Bộ trưởng cũng nêu bật chính sách, luật pháp, thành tựu về đảm bảo quyền con người ở Việt Nam, đặc biệt về tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội và các quyền cơ bản của người dân trên mọi lĩnh vực, đồng thời khẳng định chính sách tăng cường đóng góp và hợp tác quốc tế của Việt Nam trong lĩnh vực quyền con người, đặc biệt Đối thoại Nhân quyền với nhiều nước, tham gia hầu hết các công ước quốc tế về nhân quyền, thực hiện tốt Cơ chế Kiểm điểm định kỳ…

Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh cũng đã tái khẳng định việc Chính phủ Việt Nam quyết định ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2014-2016 nhằm đóng góp nhiều hơn nữa vào các nỗ lực chung của LHQ và cộng đồng quốc tế trong việc bảo vệ quyền con người./.

Mạnh Hùng
dangcongsan.vn

Hãy trở về để thấy và tin vào sự thật

Làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình”

QĐND – Trong suốt 36 năm trước khi trở về quê hương lần đầu tiên, Tổng biên tập kiêm nhà báo Việt kiều Nguyễn Phương Hùng của trang web hải ngoại kbchn.net thừa nhận, đó là quãng thời gian ông mù tịt thông tin về tình hình đất nước và đã không ít lần tham gia các cuộc biểu tình chống đối Việt Nam ở Mỹ. Nhưng sau lần đầu trở về quê hương, ông đã thay đổi hẳn cách nhìn về Việt Nam. Chia sẻ với phóng viên Báo Quân đội nhân dân, ông Hùng đã tâm sự nhiều câu chuyện trong hành trình “trở về” nguồn cội…

Vượt qua quá khứ nặng nề

– Xin ông cho biết ông đã trở về Việt Nam bao nhiêu lần?

– Lần đầu tiên tôi về nước là vào tháng 9-2011 để dự Hội nghị Người Việt Nam ở nước ngoài lần thứ nhất. Từ đó đến nay, tổng cộng tôi đã trở về 6 lần trong 18 tháng. Lần nào về tôi cũng chụp rất nhiều ảnh, quay những thước phim phóng sự, tư liệu… rồi đưa lên trang web kbchn.net.

– Vậy trước đây cũng như hiện nay, trang web của ông tập trung vào những nội dung gì?

– Từng là một cựu quân nhân dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa nên tôi muốn lập ra một trang web để lưu giữ và ghi lại lịch sử của những người lính dưới chế độ này. Nhưng giờ đây, hai phần ba tin tức của trang web là các tin trong nước, có thể do tôi tự viết hoặc chọn lọc đăng lại của báo chí trong nước.

– Ông có thể cho biết do đâu ông quyết định thay đổi như vậy?

– Ngay lần trở về đầu tiên đã khiến tôi thay đổi suy nghĩ. Tại sao mình mãi ám ảnh, than vãn về quá khứ để cuối cùng cũng chẳng giải quyết được gì, trong khi đất nước Việt Nam đã và đang có rất nhiều sự thay đổi? Thực sự tôi đã bị bất ngờ trước những hình ảnh thực của đất nước sau 36 năm lưu lạc, không như những gì tôi hình dung và tưởng tượng.

Nhà báo Nguyễn Phương Hùng. Ảnh: Xuân Phong.

Thực tế, suy nghĩ của tôi đã bắt đầu có chuyển biến từ năm 1995, sau khi Tổng thống Mỹ Bin Clin-tơn dỡ bỏ cấm vận chống Việt Nam. Khi đó, tôi đã viết một lá thư cho ông Bin Clin-tơn, trong đó đặt câu hỏi người Mỹ quan niệm thế nào là nhân quyền? Mỹ đã công nhận Việt Nam là nơi có nhân quyền hay sao mà đã giải tỏa cấm vận? Tôi đã nhận được câu trả lời rằng chủ trương của nước Mỹ là họ muốn đặt vấn đề liên kết tất cả các nước trên thế giới. Từ đó, tôi nghĩ rằng như vậy là người Mỹ đã công nhận Việt Nam là một quốc gia trong cộng đồng thế giới. Tôi cũng nghĩ, dỡ bỏ cấm vận sẽ đem lại lợi ích cho chính người Mỹ và nhân dân Việt Nam. Vậy hà cớ gì mình là người Việt Nam lại quá nặng nề với quá khứ và có những hành động đi ngược lại lợi ích dân tộc?

Bên Mỹ, sự thực là vẫn còn một bộ phận nhỏ cộng đồng người Việt mang tâm lý nặng nề về quá khứ, thậm chí có suy nghĩ và hành động cực đoan và dường như với họ rất khó thay đổi. Nhưng tôi vẫn nghĩ, mình đã thay đổi được thì không lý gì họ lại không thể.

– Như vậy, phải chăng qua trang web của mình, ông mong giúp họ thay đổi cách nhìn?

– Tất nhiên là tôi rất mong được như vậy nhưng chưa dám nói hiệu quả tới đâu. Tôi không bình luận theo các chủ ý cá nhân của mình trong các tin, bài hay hình ảnh, clip đưa trên web. Tôi chỉ đưa một cách khách quan, trung thực những hình ảnh đổi mới ở Việt Nam, những hình ảnh đất nước đang trong quá trình xây dựng và phát triển, cùng những thành công của giới trẻ…

Chúng tôi thống kê, kbchn.net có lượng độc giả tại Mỹ nhiều gấp 5 lần trong nước. Điều đó chứng tỏ cộng đồng Việt kiều bên Mỹ cũng rất quan tâm tìm hiểu đất nước.

Lời nhắn: “Ai chưa về Việt Nam hãy về một lần cho biết”

– Vậy theo ông, tại sao ở Mỹ vẫn có một bộ phận cộng đồng mang tâm lý chống lại đất nước và có các hành động phá hoại trong nước?

– Từng là người trong cuộc, tôi hiểu rất rõ nội tình chuyện này. Trong bộ phận nhỏ cộng đồng chống đối hiện nay phần lớn là những người đã cao tuổi, không thạo về máy tính hay Internet nên việc cập nhật thông tin về tình hình đất nước hạn chế. Họ đã bị hướng dẫn sai lạc để hiểu lầm về tình hình đất nước. Cộng thêm những tư tưởng cực đoan, lỗi thời nên càng dễ để bị lừa gạt bởi các trò xuyên tạc sự thật mang mục đích chính trị.

Lý do quan trọng nữa là những người này chưa một lần trở lại đất nước nên càng bị “mù lòa” trước sự thật. Như trường hợp của tôi, nếu không có lần về Việt Nam tháng 9-2011, có lẽ tôi sẽ không bao giờ mở mắt thấy được thực tế tình hình đất nước. Khi trở lại Mỹ, nhiều người đã không tin những gì tôi nói, những gì tôi đưa lên trang web. Họ còn cho tôi là ngụy biện để che đậy hoặc biện minh cho hành động mà họ gọi là “phản bội” cộng đồng. Tôi cũng không hiểu tại sao họ lại coi việc tôi quay trở về với cội nguồn dân tộc, với đại đa số đồng bào là sự “phản bội”.

Nhưng rồi dần dần qua những chuyến đi sau này, với sản phẩm là những bức ảnh, thước phim video và bài viết của tôi, đã có nhiều người bắt đầu tin và cũng báo tin cho tôi là họ đã về Việt Nam như lời kêu gọi của tôi: “Ai chưa về Việt Nam hãy về một lần cho biết” trên kênh truyền hình VTV4. Qua Báo Quân đội nhân dân, tôi cũng xin gửi lại lời nhắn nhủ này tới kiều bào ở hải ngoại. Bà con hãy trở về và tự mình tìm câu trả lời, chứ đừng tin vào những lời kể lại đã bị bóp méo nhằm mục đích tuyên truyền sai trái, phản động về đất nước. Cũng có nhiều phản hồi từ độc giả khuyến khích, động viên tôi tiếp tục những gì đang làm trên kbchn.net.

– Có cơ hội đi nhiều nơi ở Việt Nam, ông có suy nghĩ gì khi một số tổ chức phản động lưu vong ở Mỹ luôn đòi hỏi dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo ở Việt Nam?

– Ở bên kia chúng tôi cũng bị họ tuyên truyền là ở Việt Nam không có tự do tôn giáo, dân chủ và nhân quyền nhằm lôi kéo nhiều người tham gia các hoạt động chống phá trong nước. Tôi thừa nhận mình đã bị ít nhiều tác động. Nhưng đó là chuyện trước đây. Những tuyên truyền về “đàn áp tôn giáo” ở Việt Nam đã hoàn toàn biến mất trong tôi khi về nước, tôi được chứng kiến kiến trúc đồ sộ của Đại Chủng viện (Công giáo) Long Khánh hay chùa Bái Đính ở Ninh Bình được công nhận là lớn nhất ở khu vực Đông Nam Á. Làm sao có thể tin có đàn áp tôn giáo khi ở nhiều nơi tôi đi qua, rất nhiều chùa chiền, nhà thờ được xây dựng dọc bên đường Quốc lộ 1 từ ngã tư Tam Hiệp đến Long Khánh, với những buổi thánh lễ ngày chủ nhật giáo dân đứng chật thánh đường, người dân tấp nập thăm viếng chùa chiền… Các tôn giáo như Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hòa Hảo, Cao Đài và Hồi giáo tự do phát triển ở Việt Nam. Lễ Phật đản vừa qua tôi cũng có mặt tại Việt Nam nên đã được chứng kiến khắp nơi tưng bừng mừng Đức Thích Ca đản sinh. Ngoài tôn giáo, tín ngưỡng cũng được tự do phát triển, thí dụ hầu đồng đã được phép tái hoạt động.

Tôi đã đi, đã thấy, đã tin và vì đã tin nên tôi phải viết, viết sự thật bằng tiếng nói trung thực của người làm báo. Những hình ảnh đó tôi đã đưa hết lên trang web rồi nhưng tôi cũng không bình luận gì thêm để tự mọi người nhìn vào đó và suy ngẫm xem Việt Nam có tự do tôn giáo hay không.

Tôi khâm phục!

– Ở Mỹ vẫn tồn tại một số tổ chức phản động luôn rêu rao Việt Nam đàn áp nhân quyền. Vậy thực chất hoạt động của các tổ chức này ở bên đó là như thế nào?

– Tôi công khai lên án tất cả những tổ chức chống đối Nhà nước Việt Nam như Chính phủ Việt Nam tự do của ông Nguyễn Hữu Chánh, Việt Nam cộng hòa Foundation của Hồ Văn Sinh, tổ chức Việt Tân… Hay các tổ chức đòi tự do tôn giáo, dân chủ nhân quyền ở Việt Nam của linh mục Nguyễn Hữu Lễ, Ngô Thị Hiển… Và nhất là tổ chức Mạng lưới nhân quyền Việt Nam.

Thực ra, những tổ chức này không gây được ảnh hưởng đáng kể cho cộng đồng bên đó. Như tổ chức Mạng lưới nhân quyền Việt Nam đã tự trao giải nhân quyền cho toàn những người chống phá Nhà nước Việt Nam để được xuất ngoại, do Việt Tân bảo trợ.

Các tổ chức này luôn tìm cách đề nghị Mỹ đưa Việt Nam trở lại danh sách “Các quốc gia cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo” (CPC). Nhưng tôi còn nhớ, có lần chính ông Đại sứ Mỹ trước đây là Mai-cơn Mi-ha-lắc (Michael Michalak) đã nói rằng: “Muốn đặt một quốc gia vào danh sách CPC đòi hỏi nhiều điều kiện. Tôi không thấy chúng ta có lợi ích gì trong việc đưa Việt Nam trở lại danh sách này”.

Tựu trung các hành động phản động đó đều nhằm nuôi tham vọng gây mất ổn định tình hình trong nước, làm suy yếu và lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản…

Hiện nay họ đang tích cực xúi giục người thiếu thiện chí trong nước đòi bỏ Điều 4 trong bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, thậm chí đòi bỏ cả bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp.

Theo tôi biết, họ sống dựa vào tiền của những thế lực thù địch với Việt Nam, nên cần nói và hành động theo lập trường của các thế lực thù địch đó. Vì vậy họ buộc phải khoét sâu vào các vấn đề như dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo… ở Việt Nam để có việc làm nhằm nhận được tiền.

– Ông suy nghĩ thế nào về những hành động này?

– Họ không chịu hiểu một thực tế rằng, chính Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo đất nước vượt qua thời kỳ khó khăn sau chiến tranh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước Việt Nam có thể nói đã có được thời gian hòa bình lâu dài và có sự phát triển gần như “lột xác”. Đó chính là nhờ Việt Nam đã giữ được chính trị ổn định, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, đời sống người dân được bảo đảm, vị thế của Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế, được nhiều nước công nhận. Ở Việt Nam, tôi không gặp lực lượng quân đội hay cảnh sát có vũ trang trên đường như ở Mỹ. Điều đó chứng tỏ sự ổn định về an ninh chính trị ở Việt Nam, sự an toàn của người dân được bảo đảm. Như thế chính là thiết thực bảo đảm nhân quyền cho người dân.

Tôi thực sự khâm phục về khả năng điều hành đất nước của Nhà nước Việt Nam trong hơn 3 thập niên qua. Tôi đã nhìn thấy những tòa nhà cao tầng từ những thành phố tôi đi qua như Hà Nội, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Huế, TP Hồ Chí Minh, Long Khánh và Cần Thơ cũng như các thành phố khác của miền Tây Nam Bộ, cùng những khu resort sang trọng ở Đà Nẵng… Tôi chưa có cơ hội đi hết những nơi khác ở Việt Nam, nhưng tôi tin rằng cũng đã có nhiều đổi mới.

– Xin cảm ơn ông!

MỸ HẠNH-XUÂN PHONG
qdnd.vn

Thanh niên quân đội phát huy, làm phong phú thêm phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”

QĐND Online- Mạch ngầm của lịch sử, cội nguồn sức mạnh của dân tộc ta, quân đội ta là những giá trị truyền thống, những tinh hoa được bảo tồn, kế thừa và phát huy trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Sự nghiệp xây dựng quân đội và củng cố quốc phòng, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải thường xuyên phát huy nguồn lực Việt Nam, cả nguồn lực vật chất và nguồn lực tinh thần, nhân lực và vật lực, cả sức mạnh truyền thống và hiện đại.

“Bộ đội Cụ Hồ” – một tên gọi bình dị nhưng vô cùng cao quý mà nhân dân đã giành cho quân đội ta, là hình tượng cao đẹp, tập trung những phẩm chất tốt đẹp nhất của cán bộ chiến sỹ quân đội – một giá trị – văn hoá – đạo đức của con người Việt nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Truyền thống Bộ đội Cụ Hồ là một bộ phận của truyền thống dân tộc, truyền thống cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Truyền thống Bộ đội Cụ Hồ bắt nguồn trực tiếp và là sự tiếp nối truyền thống quân sự, truyền thống đánh giặc giữ nước của ông cha ta trong điều kiện lịch sử mới của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành độc lập tự do. Phẩm chất truyền thống Bộ đội Cụ Hồ được xây đắp nên từ sự phấn đấu, hy sinh vô bờ bến của nhiều thế hệ cán bộ chiến sỹ; được Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh dày công tổ chức, giáo dục, rèn luyện; được nhân dân hết lòng thương yêu đùm bọc và được phát triển thông qua thực tiễn quá trình đấu tranh cách mạng, xây dựng và trưởng thành của quân đội; được lưu giữ, kế tục, phát triển qua nhiều thế hệ…Nói đến truyền thống Bộ đội Cụ Hồ là nói đến truyền thống về những chuẩn mực, lối sống, phong cách, hành vi chính trị, đạo đức của quân nhân quân đội cách mạng, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Đó là, một lý tưởng chiến đấu cao đẹp, trung thành vô hạn với Đảng, với tổ quốc và nhân dân; tinh thần quyết chiến quyết thắng mọi kẻ thù; vượt qua mọi khó khăn gian khổ, hiểm nguy; tinh thần gan dạ dũng cảm kiên cường mưu trí và sáng tạo; tình đồng đội gắn bó keo sơn; tình đoàn kết quân dân cá nước; tính kỷ luật tự giác nghiêm minh…

Rèn luyện, phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” là trách nhiệm của mỗi quân nhân

Suốt 66 năm qua, hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ vẫn luôn luôn gần gũi, thân thương và sống động trong lòng nhân dân ta và nhân dân các nước bạn bè. Được mang danh hiệu “Bộ đội Cụ Hồ” là niềm vinh dự và hạnh phúc của tuổi trẻ quân đội ta. Phẩm chất, truyền thống tốt đẹp ấy phản ánh bản chất cách mạng của quân đội, là một sức mạnh nội sinh đã được tích hợp ở một trình độ cao trong quá trình xây dựng và chiến đấu của quân đội ta. Song, nó không phải là cái “nhất thành bất biến”. Trong bối cảnh mở cửa, hội nhập của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khi kẻ địch đang ráo riết thực hiện “diễn biến hoà bình”; trước đòi hỏi của nhiệm vụ xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, cũng như của sự nghiệp đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước hiện nay, vấn đề giữ gìn và phát huy phẩm chất truyền thống Bộ đội Cụ Hồ trở nên cấp thiết, là sự quan tâm của toàn đảng, toàn dân ta, đồng thời còn là tâm nguyện, ý chí của tuổi trẻ quân đội đối với Đảng, Bác Hồ và nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Cái gì mà tốt thì phải phát triển thêm… Cái gì mà mới mà hay thì ta phải làm”. Thế hệ trẻ trong quân đội cũng như thanh niên cả nước hôm nay và tiếp theo làm gì để ghi tiếp những trang chói ngời, góp phần làm rạng rỡ lịch sử đất nước, dân tộc và Quân đội nhân dân Việt Nam?!… Theo chúng tôi, trên cơ sở nhận thức rõ vinh dự và trách nhiệm của mình, tuổi trẻ quân đội hiện nay cần tập trung thực hiện tốt những định hướng giải pháp cơ bản .

Đó là sự trung thành và tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân độ. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về tổ chức xây dựng quân đội cách mạng là tư tưởng về Đảng lãnh đạo quân đội. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Quân đội ta có sức mạnh vô địch, vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục”. Sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là nhân tố quan trọng hàng đầu có ý nghĩa quyết định đối với giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống cách mạng của quân đội và phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ của mỗi quân nhân. Quân đội ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã tiếp tục phát huy truyền thống anh hùng, xây dựng lực lượng ngày càng tinh nhuệ, hiện đại.

Lòng trung thành và tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội ở mỗi quân nhân – thanh niên quân đội hiện nay phải được thể hiện ở sự thấu triệt nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội, phát huy trách nhiệm của mỗi quân nhân trong thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng đảng bộ quân đội TSVM, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng trong quân đội.

Ngày nay, thanh niên quân đội tích cực, tự giác học tập, rèn luyện nâng cao phẩm chất, năng lực và hiệu quả các mặt công tác là một yêu cầu cơ bản. Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, sẵn sàng chiến đấu thường xuyên, chuẩn bị cho chiến đấu vũ trang trong thời chiến và chiến đấu ngay trong thời bình chống lại các thủ đoạn phi vũ trang của các thế lực thù địch phản động và lạc hậu là một công việc vô cùng khó khăn, gian khổ. Đòi hỏi mỗi thanh niên quân đội hiện nay phải được rèn luyện cả về chính trị, quân sự để chắc tay súng bảo vệ biên cương tổ quốc, bảo vệ cuộc sống, lao động hoà bình của nhân dân; phải có ý chí và nghị lực cách mạng cao, phải biết cộng tác trong những hoàn cảnh thay đổi, sáng tạo đổi mới phương thức hoạt động mọi mặt, đem lại chất lượng hiệu quả mới; biết phát huy truyền thống đạo đức, phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ qua những chương trình dạy chữ cho đồng bào dân tộc, miền núi, vùng sâu, vùng xa; chăm sóc sức khoẻ cho dân nghèo, giúp nhân dân sản xuất tăng gia, vượt qua gian nan thử thách khi gặp thiên tai lũ lụt, thực hiện đúng tinh thần đi dân nhớ, ở dân thương.
Để đáp ứng với những yêu cầu đó, từng thanh niên trong quân đội phải không ngừng học tập và rèn luyện theo lời Bác Hồ dạy: “Phải cố gắng học tập mọi mặt về chính trị, quân sự…”. Trước hết, mỗi thanh niên phải nâng cao trình độ tự ý thức về việc tự tu dưỡng rèn luyện, hình thành động cơ rèn luyện đúng đắn, nhận thức rõ đòi hỏi khách quan về phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ trong từng điều kiện cụ thể. Biết tự nhận xét, tự kiểm tra, đánh giá về những ưu điểm, nhược điểm so với yêu cầu đặt ra và xác định phương hướng, biện pháp tự giáo dục, tự tu dưỡng cho xứng danh Bộ đội Cụ Hồ. Mặt khác, phải rèn luyện ý chí phấn đấu bền bỉ, cầu tiến bộ, trọng danh dự cá nhân, luôn tự trì trích theo yêu cầu cao; rèn luyện khả năng “miễn dịch” với những tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường trong đời sống xã hội hiện nay và năng lực đấu tranh phòng, chống những tác động, ảnh hưởng tiêu cực đến phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ. Đấu tranh kiên quyết với biểu hiện coi nhẹ truyền thống, phủ nhận quá khứ, gieo rắc tư tưởng, lối sống thực dụng vào nhân dân và quân đội ta của những kẻ núp dưới danh nghĩa “cách mạng khoa học công nghệ”, “kinh tế thị trường” và con bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng chống phá chế độ, chống Đảng ta. Mỗi thanh niên thường xuyên lấy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ làm động lực tinh thần, tự cổ vũ và cổ vũ nhau thi đua hoàn thành tốt nhiệm vụ, nhất là khi đứng trước những khó khăn, thử thách ác liệt. Thanh niên là cán bộ, đảng viên trẻ trong các tổ chức lãnh đạo, chỉ huy phải mẫu mực thể hiện phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ ở mọi lúc, mọi nơi để làm gương sáng cho chiến sỹ noi theo.

Trong giai đoạn này, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đang đẩy mạnh cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.Để đẩy mạnh cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đòi hỏi mỗi thanh niên quân đội cần phải khắc phục biểu hiện hô hào học tập một cách chung chung, nói nhiều hơn làm, nói không đi đôi với làm, hoặc chỉ nặng “học tập” nhưng lại nhẹ “làm theo” ; phải cụ thể hoá hơn nữa nội dung, chương trình, kế hoạch học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn từng đơn vị, từng bộ phận và từng công việc, nhiệm vụ cụ thể, với những chuẩn mực đạo đức rõ ràng; đưa cuộc vận động thành nếp sinh hoạt, hoạt động thường xuyên của mỗi đơn vị và quân nhân; định kỳ phải tự kiểm điểm, đánh giá và đăng ký, bổ sung kế hoạch đề ra định mức, chỉ tiêu mới sát với nhiệm vụ mới của đơn vị và cá nhân để thực sự gắn việc học tập với việc làm theo và chuyển mạnh từ học tập sang làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Từ cách mạng, qua cách mạng và nhờ cách mạng, một lớp người mới đã được sản sinh với những đặc trưng nhân cách tiêu biểu của giá trị Việt Nam. Lớp người đó được nhân dân trìu mến, thân thương gọi là Bộ đội Cụ Hồ. Khi bước sang thế kỷ XXI, chúng ta nhất thiết phải bảo vệ những phẩm chất chính trị, đạo đức “Bộ đội Cụ Hồ’’, phát triển lên một trình độ mới, trình độ hiện đại của đất nước ta và của loài người tiến bộ. Vẫn biết rằng giữ vững và phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ không phải là việc riêng của tổ chức quân sự, càng không chỉ là trách nhiệm của mỗi cá nhân… Nhưng suy cho cùng phải là sự chuyển biến trong nhận thức và hành động của mỗi thanh niên quân đội hôm nay. Phát huy, làm phong phú những phẩm chất tốt đẹp Bộ đội Cụ Hồ, tự hoàn thiện mình, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới của đất nước, xứng đáng với niềm tin cậy và niềm tự hào của Đảng ta, nhân dân ta đó là vinh dự đồng thời cũng là trách nhiệm của tuổi trẻ quân đội.

Thạc sĩ Trương văn Bảy
qdnd.vn

Việt Nam có những bước phát triển quan trọng trong tự do tôn giáo

Theo Báo QĐND – Tôn giáo Việt Nam trong bối cảnh hội nhập – Những kinh nghiệm quốc tế được chia sẻ là chủ đề cuộc Hội thảo quốc tế do Ban Tôn giáo Chính phủ phối hợp với Liên minh châu Âu (EU) tổ chức ngày 14-6, tại Hà Nội. Hội thảo nằm trong khuôn khổ dự án “Hỗ trợ đối thoại chiến lược tại Việt Nam” do EU tài trợ. Hội thảo nhằm trao đổi các vấn đề liên quan đến tôn giáo nói chung, làm rõ hơn những chuyển biến và thành tựu về tôn giáo ở Việt Nam trong thời gian qua, đồng thời tạo cơ hội chia sẻ kinh nghiệm trong việc bảo đảm quyền tự do, tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, góp phần hoàn thiện hơn nữa chính sách, pháp luật của Việt Nam về tín ngưỡng, tôn giáo trong thời gian tới.

Một bức tranh đầy đủ về tôn giáo trong thế giới đương đại, việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo bằng pháp luật với những trao đổi về sự chuyển biến trong đời sống tôn giáo ở Việt Nam thời kỳ đổi mới; những nhận định tổng quan về tôn giáo ở Việt Nam và những vấn đề trong quan hệ giữa tôn giáo và nhà nước cũng như sự đa dạng tôn giáo và quyền tự do tôn giáo trên thế giới; khung pháp lý quốc tế bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; kinh nghiệm của EU và Mỹ trong đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo… đã được các đại biểu trong nước và quốc tế chia sẻ hội thảo.

Nhiều đại biểu cho rằng, Việt Nam đã đi sâu vào quá trình đổi mới với những thành tựu to lớn về các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong quá trình đó, đổi mới về chính sách đối với tôn giáo đã đưa lại những thành tựu rất quan trọng, làm thay đổi căn bản đời sống tôn giáo theo chiều hướng ngày càng tiến bộ và tích cực. Những chuyển biến trong đời sống tôn giáo ở Việt Nam làm sáng tỏ chủ trương và chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam, làm cho quần chúng tín đồ, chức sắc thêm tin tưởng vào Đảng, Nhà nước cùng sự đổi mới của đất nước, từ đó ủng hộ và tham gia tích cực vào công cuộc đổi mới. Chính điều đó đã góp phần vào sự ổn định tình hình chính trị và phát triển của đất nước.

Theo cố vấn chính trị Phái đoàn Liên minh châu âu tại Việt Nam H. Hê -ra-đô (J. Herrador), thời gian qua, Việt Nam cũng như các nước khác trên thế giới đã có những bước phát triển rất quan trọng trong vấn đề tự do tôn giáo và tín ngưỡng. Hợp tác của châu âu và Việt Nam đã lên một tầm cao mới và đang hướng tới quan hệ đối tác cũng như ký kết các hiệp định đối tác hợp tác. Việc ký kết này sẽ mang lại cơ hội để hai bên mở rộng thêm các đối thoại của mình trong nhiều lĩnh vực trong đó có lĩnh vực về nhân quyền. Sự hợp tác tăng cường đó sẽ mang lại những thành tựu trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người.

Phó trưởng ban Thường trực Ban Tôn giáo Chính phủ Nguyễn Thanh Xuân khẳng định, đổi mới tôn giáo ở Việt Nam ngang bằng với đổi mới chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trong nước. Đổi mới này là đúng đắn và đưa lại nhiều kết quả rất tích cực, cho thế giới biết được những chuyển biến trong đời sống tôn giáo Việt Nam cũng như những chuyển biến trong chính sách tôn giáo ở Việt Nam. Các tôn giáo khi được công nhận tư cách pháp nhân, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật bao giờ cũng xác định cho mình một đường hướng hoạt động tôn giáo gắn với xã hội. Việc xác định đường hướng đó đã tạo ra lối đi cho các tôn giáo trong hoạt động tôn giáo và hoạt động xã hội, nâng đỡ hoạt động tín ngưỡng tích cực và các tôn giáo cũng tự loại ra những người có hành vi xấu, có hành vi không lợi cho tôn giáo của mình, không đi theo đúng đường hướng. Bên cạnh đó, các tôn giáo rất hăng hái tham gia các hoạt động về kinh tế, văn hóa, xã hội, đặc biệt là tham gia vào công tác từ thiện xã hội, góp phần cùng Nhà nước giảm bớt gánh nặng do vấn đề xã hội đặt ra.

Tại hội thảo, các đại biểu cũng cho rằng, những chuyển biến trong đời sống tôn giáo thời gian qua đã góp phần giới thiệu với bè bạn và cộng đồng quốc tế về hình ảnh đất nước Việt Nam đổi mới, hòa bình, ổn định và phát triển. Những chuyển biến đó là bằng chứng để đấu tranh bác bỏ những luận điệu xuyên tạc tình hình tôn giáo và chính sách tôn giáo của Việt Nam của các thế lực thù địch./.

Nguồn: qdnd.vn
Vkyno (st)

Khoan hồng là chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam

QĐND – Theo nhiều phương tiện thông tin đại chúng, ông Lê Công Định người phải chịu hình phạt tù với mức án 5 năm tù về tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” theo Điều 79 Bộ Luật Hình sự, đã được ra tù sáng thứ tư, 6-2-2013, trước thời hạn hơn 1 năm, và hiện còn phải chịu 3 năm quản chế tại địa phương.

Sự kiện này đã được một số trang mạng đưa tin nhằm xuyên tạc bản chất chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước ta. Theo họ, việc ông Lê Công Định được trả tự do sớm là “Sự trở về mang hy vọng”. Đó là “tín hiệu… cho thấy các tác động của cả từ bên trong lẫn bên ngoài, cũng như của những thay đổi trong môi trường chính trị toàn cầu và chính ngay trong nội bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam”, hàm ý theo con đường dân chủ! Có người còn suy luận rằng: “Việc trả tự do cho hai ông Lê Công Định và Nguyễn Quốc Quân khiến người ta nghĩ rằng, Việt Nam đang mong muốn điều gì đó từ phía Mỹ”.

Tại phiên tòa ngày 20-1-2010, Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân tối cao đã tuyên phạt 5 bị cáo gồm: ông Trần Huỳnh Duy Thức (44 tuổi) mức án 16 năm tù, ông Nguyễn Tiến Trung (27 tuổi) nhận 7 năm, ông Lê Công Định (42 tuổi) và Lê Thăng Long (43 tuổi) cùng mức án 5 năm tù về tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” theo Điều 79 Bộ Luật Hình sự. Ngoài ra, tòa cũng buộc các bị cáo phải chịu sự quản thúc tại địa phương từ 3 đến 5 năm sau khi mãn hạn tù.

Tại phiên xét xử phúc thẩm Tòa án Nhân dân tối cao tại TP Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử đã tuyên: Sửa một phần bản án sơ thẩm – giảm 1 năm 6 tháng tù đối với bị cáo Lê Thăng Long. Bác kháng cáo, giữ nguyên mức hình phạt theo án sơ thẩm đối với hai bị cáo Trần Huỳnh Duy Thức và Lê Công Định về tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”.

Tại phiên xét xử sơ thẩm (20-1-2010), bị cáo Lê Thăng Long đã khẩn thiết xin tòa cho hưởng khoan hồng để “hoàn thành chữ hiếu” (theo nguyên văn lời đề nghị của Lê Thăng Long). Với lời đề nghị mang đậm truyền thống dân tộc và vì đã nhận tội, Tòa đã giảm mức án từ 5 năm tù xuống còn 3 năm 6 tháng. Ngày 4-6-2012, Lê Thăng Long đã được trả tự do trước thời hạn 6 tháng tuy vẫn đang chịu 3 năm quản chế.

Còn việc ông Lê Công Định được mãn hạn tù sớm cũng không phải là ngẫu nhiên.

Còn nhớ, tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, trong lời nói sau cùng, Lê Công Định đã thừa nhận: “Luật pháp và hiến pháp Việt Nam quy định và bảo vệ quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với nhà nước và xã hội Việt Nam. Vì vậy, những lời kêu gọi đa nguyên, đa đảng mặc nhiên là muốn thay đổi thể chế chính trị Việt Nam. Những tổ chức nào chủ trương đa nguyên đa đảng là đương nhiên vi phạm vào Điều 79 Bộ Luật Hình sự Việt Nam”.

Từ góc nhìn pháp lý, bị cáo Lê Công Định đã thừa nhận những việc mình làm là vi phạm pháp luật, do xuất phát từ chủ quan, bị ảnh hưởng quan niệm về dân chủ, nhân quyền phương Tây và những tổ chức, cá nhân có hoạt động chống lại Nhà nước Việt Nam mà ông này tiếp xúc.

Hiện tại, còn hai bị cáo trong vụ án “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” theo Điều 79 Bộ Luật Hình sự, bị tòa xét xử ngày 20-1-2010, đang chấp hành án tù. Đó là Trần Huỳnh Duy Thức và Nguyễn Tiến Trung, những kẻ cầm đầu trong vụ án hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân nói trên.

Như vậy việc ông Lê Thăng Long, ông Lê Công Định được mãn hạn tù sớm là bình thường, không có gì được gọi là “Sự trở về mang hy vọng”; “ là tín hiệu… cho thấy các tác động của cả từ bên trong lẫn bên ngoài” đối với Việt Nam; hoặc Việt Nam “đang mong muốn điều gì đó từ phía Mỹ”… như người ta suy diễn. Về bản chất, việc ông Lê Công Định được mãn tù sớm là do chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước Việt Nam và do chính sự ăn năn hối cải của bản thân người phạm tội.

Năm 2005, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Số: 49-NQ/TW Hà Nội, ngày 2-6-2005). Trong đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định một trong những nhiệm vụ của cải cách tư pháp là:

“Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm. Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Giảm bớt khung hình phạt tối đa quá cao trong một số loại tội phạm. Khắc phục tình trạng hình sự hóa quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự và bỏ lọt tội phạm…”.

Theo Trung tướng Lê Quý Vương – Thứ trưởng Bộ Công an, hiện tại có hơn 100.000 phạm nhân đang phải cải tạo, giam giữ tại các trại giam, trại tạm giam trên cả nước. Trong dịp Quốc khánh (2-9-2012), đã có hơn 10.000 người được đặc xá, tha tù trước thời hạn, chiếm 10% tù nhân cả nước, trong đó có 1.300 phạm nhân nữ, 11 phạm nhân là người nước ngoài.

Hiện tại, Việt Nam đang tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; đang tích cực thực hiện Chiến lược Cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, liên quan đến nhiều hoạt động tư pháp, không loại trừ công tác cải tạo giam giữ. Tuy nhiên không nên nghĩ rằng, Nhà nước CHXHCN Việt Nam từ bỏ con đường xây dựng xã hội XHCN, từ bỏ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, thực hiện chính sách tư pháp do sức ép từ một quan hệ quốc tế nhất thời nào đó.

Những suy luận vô căn cứ, thiếu trách nhiệm chẳng những có thể làm ảnh hưởng tiêu cực đối với môi trường xã hội, quan hệ quốc tế ổn định mà còn khuyến khích những hành vi xâm hại an ninh quốc gia, trật tự công cộng, đồng thời còn dẫn người ta vào vòng lao lý.

ĐỨC GIANG
qdnd.vn

Không có Đảng lãnh đạo, không có độc lập, tự do

QĐND – Từ ngày các phương tiện thông tin đại chúng chính thức công bố Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, ngày nào tôi cũng dành thời gian nghiên cứu nội dung bản nghị quyết này.

Càng nghiên cứu, tôi càng thấy những vấn đề được Đảng ta nêu ra trong nghị quyết này rất đúng và phù hợp với thực tiễn hiện nay. Tôi cho rằng, Nghị quyết của Đảng lần này một lần nữa thể hiện rõ phẩm chất, dũng khí cộng sản của Đảng, mà trước hết là các đồng chí Ủy viên BCH Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Thực tế cho thấy, nếu thiếu dũng khí và không có được những phẩm chất trong sáng thì Đảng cũng như mỗi cán bộ, đảng viên thật khó nhìn thấy rõ những khuyết điểm của mình để sửa chữa, để tiến bộ.

Hơn 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, bằng tài năng và trí tuệ của mình với nòng cốt là đội ngũ đảng viên ưu tú, Đảng đã lãnh đạo dân tộc đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác…Với cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Đảng đã đưa nhân dân trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, đóng góp to lớn vào kho tàng lý luận của Chủ nghĩa Mác Lê-nin về phong trào đấu tranh giành độc lập tự do ở các nước thuộc địa. Rõ ràng, không có Đảng thì dân tộc ta không có độc lập, tự do như ngày hôm nay.

Đảng không phải là cái gì đó quá xa vời. Đảng chính là những con người cụ thể tồn tại trong xã hội, trong đó đội ngũ cán bộ, đảng viên là người đại diện của Đảng. Vì thế, trong quá trình phát triển và trưởng thành của mình cũng có lúc, có chỗ, có nơi đội ngũ cán bộ, đảng viên còn vi phạm khuyết điểm, còn thể hiện sự non yếu trong lãnh đạo, chỉ đạo, vận động và tập hợp nhân dân. Khi chỉ ra những hạn chế, khiếm khuyết cần quyết tâm khắc phục, sửa chữa, Đảng ta đã thêm một lần nữa thể hiện bản lĩnh, tính cách mạng, tính chiến đấu của mình. Chỉ đấu tranh gạt bỏ những hạn chế, yếu kém thì Đảng mới phát triển, cũng như mỗi cá nhân con người cụ thể, muốn khỏe mạnh thì phải biết cách phòng và chữa bệnh. Nếu có bệnh mà không chữa hoặc chữa không đúng cách không những thiệt hại về kinh tế, mà chắc chắn sức khỏe cũng chẳng thể nào có được. Và Đảng muốn mạnh, muốn giữ vững được vai trò lãnh đạo xã hội của mình, muốn có được lòng tin của nhân dân, không có cách nào khác là Đảng phải tự sửa mình, tự chấn chỉnh mình. Đó là lẽ thường tình và cũng là việc làm thường xuyên của một Đảng cách mạng mang bản chất giai cấp công nhân.

Nguyễn Trọng Lượng (Công Chính, Nông Cống, Thanh Hóa)
qdnd.vn