Thư viện

“Dùng tâm công, dội bão lửa!

QĐND- Điện thoại phòng làm việc của Thiếu tướng Nguyễn Thanh Ngụ liên tục đổ chuông. Nhiều cán bộ, nhân viên ra vào tấp nập xin chữ ký, nộp tờ trình, báo cáo… Định đến phỏng vấn về ngày truyền thống Binh chủng Pháo binh (29-6) nhưng thấy ông bận rộn, chúng tôi đang lưỡng lự thì đúng lúc ông nhìn ra và khoát tay: “Mời các phóng viên vào, tôi đang chờ các đồng chí đấy”. May quá, ông vẫn nhớ lịch hẹn. Câu chuyện của chúng tôi bắt đầu từ sự bận rộn hiện nay của đồng chí Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Binh chủng Pháo binh.

Thiếu tướng Nguyễn Thanh Ngụ: Dạo này đơn vị triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng, rồi đang chuẩn bị hội nghị rút kinh nghiệm công tác tư tưởng trong quản lý bộ đội, công tác xây dựng điển hình tiên tiến, hội nghị tọa đàm sĩ quan trẻ và nhất là tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh nên tôi khá bận. Nhưng dù bận, cũng phải thu xếp để tiếp các nhà báo, sắp đến ngày thành lập Binh chủng Pháo binh, rất mong các đồng chí tuyên truyền về truyền thống của Binh chủng anh hùng, Binh chủng hỏa lực mặt đất chủ yếu của quân đội ta.

Thiếu tướng Nguyễn Thanh Ngụ, Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Binh chủng Pháo binh trò chuyện cùng sĩ quan trẻ. Ảnh: Đình Hùng

PV: Thưa đồng chí Chính ủy, nhắc đến pháo binh, chúng tôi nhớ ngay đến lời khen tặng của Bác Hồ dành cho Binh chủng: “Chân đồng, vai sắt, đánh giỏi, bắn trúng”. Lời khen ấy của Bác, chắc hẳn là phương châm để Đảng ủy Binh chủng triển khai việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh hiện nay?

Thiếu tướng Nguyễn Thanh Ngụ: Đúng vậy. Lời khen của Bác là niềm tự hào của các thế hệ bộ đội pháo binh. Đó là ngày 13-4-1967, bộ đội pháo binh xuất sắc bắn cháy nhiều tàu chiến Mỹ và đánh trả pháo binh địch ở Cồn Tiên-Dốc Miếu. Sinh thời, Bác Hồ rất quan tâm, chăm lo phát triển bộ đội pháo binh. 14 lần Bác đến thăm, nói chuyện hoặc gửi thư khen bộ đội pháo binh. Đó là “vốn liếng” rất lớn để chúng tôi triển khai học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức và phong cách của Người. Việc làm theo, tất nhiên là rất phong phú, đa dạng nhưng chúng tôi cứ khắc ghi lời Bác: “Nắm vững kỹ thuật, chiến thuật, giữ gìn xe tốt, pháo tốt, tiết kiệm đạn dược, đánh giỏi, bắn trúng” là có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của Binh chủng Pháo binh.

PV: Nhân nói về truyền thống “đánh giỏi, bắn trúng”, là lực lượng kỹ thuật với xe pháo nặng nề nhưng pháo binh luôn nổ phát súng lệnh, khởi đầu cho các chiến dịch lớn trong hai cuộc kháng chiến vệ quốc của nhân dân ta?

Thiếu tướng Nguyễn Thanh Ngụ: Điều nhà báo nói, cũng là điều mà chúng tôi muốn gửi gắm đến các chiến sĩ pháo binh trẻ hôm nay. Trong hai cuộc kháng chiến, chống Pháp và chống Mỹ trước đây, bộ đội pháo binh đã đánh hàng nghìn trận lớn nhỏ, đặc biệt là chuyên đánh mở màn trong các chiến dịch lớn, giành thắng lợi rất huy hoàng.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, lúc 20 giờ 3 phút ngày 19-12-1946, tiếng súng từ Pháo đài Láng chính là phát đạn đầu tiên của quân ta báo hiệu sự nghiệp toàn quốc kháng chiến đã bắt đầu. Đến Chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, pháo binh ta làm bất ngờ hoàn toàn quân địch. Giặc Pháp không ngờ ta có thể điều động nhiều trung đoàn, tiểu đoàn pháo cỡ lớn, vượt qua bao đèo dốc để dội bão lửa lên đầu chúng dữ dội đến thế. Trong chiến dịch giải phóng Quảng Trị năm 1972, liên quân Mỹ-ngụy cũng đã hoàn toàn bất lực trước hỏa lực mạnh mẽ của pháo binh ta. Còn trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, hơn 20 trung đoàn, lữ đoàn pháo với gần 800 khẩu pháo, tổ chức thành 30 cụm pháo binh đã tạo ra hệ thống hỏa lực cực mạnh, tập trung áp đảo địch ngay từ đầu, khống chế các sân bay, bến cảng, chi viện đắc lực cho 5 cánh quân tiến vào giải phóng Sài Gòn.

Bây giờ, với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, việc bảo đảm cho pháo binh luôn “bắn giỏi, đánh trúng” là điều rất quan trọng, tạo ra “thế và lực” để giữ vững chủ quyền đất nước bằng phương pháp hòa bình.

PV: Bộ đội pháo binh, trong lịch sử đã là một trong những lực lượng oai hùng nhất của quân đội. Rất nhiều tác phẩm nghệ thuật hay về đề tài người lính thường nhắc đến bộ đội pháo binh. Thanh niên nhập ngũ cũng rất nhiều người muốn làm pháo thủ. Nhưng chúng tôi được biết, hiện số học sinh giỏi đăng ký thi vào Trường Sĩ quan Pháo binh ngày càng ít, phải chăng “tình yêu pháo binh” đã giảm trong thanh niên hiện nay?

Thiếu tướng Nguyễn Thanh Ngụ: Đó cũng là một vấn đề mà chúng tôi băn khoăn, trăn trở. Đây không chỉ là vấn đề riêng của pháo binh. Thực tế, thời bình, thanh niên có nhiều cơ hội lựa chọn nghề nghiệp, phát triển kinh tế lại là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ, nên việc nhiều học sinh giỏi không chọn pháo binh là nghề cũng là lẽ dễ hiểu. Điều chúng tôi quan tâm hơn là chăm lo giữ gìn truyền thống của Binh chủng, làm sao để mỗi đơn vị pháo binh là một cơ quan văn hóa. Người dân địa phương đến tham quan, gia đình quân nhân đến chơi đều cảm nhận và đánh giá cao về môi trường văn hóa – nhân văn của đơn vị mới là điều quan trọng. Đó cũng là cách để “hút” người có năng lực về công tác tại các đơn vị pháo binh. Năm ngoái, chúng tôi có làm một cuộc điều tra sơ bộ, cho thấy tuyệt đại đa số sĩ quan trẻ vẫn yên tâm công tác, gắn bó với đơn vị; 70% sĩ quan trẻ hoàn thành tốt nhiệm vụ ngay năm đầu ra trường trong khi có tới 50% tổng số sĩ quan hiện vẫn chưa hợp lý hóa gia đình, nghĩa là vẫn phải chịu cảnh sống xa nhà, đồng lương nhiều khi chỉ đủ rải dọc đường về phép… Đấy là những con số chứng tỏ, bộ đội pháo binh hiện nay vẫn xứng đáng với truyền thống hào hùng mà thế hệ đi trước đã dày công xây đắp.

PV: Giáo dục truyền thống cho sĩ quan pháo binh trẻ quả là một vấn đề hấp dẫn nhưng… hóc búa hiện nay. Chúng tôi vẫn băn khoăn là làm thế nào để sĩ quan trẻ có thể “đánh giỏi, bắn trúng” trong điều kiện giá cả vũ khí đắt đỏ, có khi rất lâu mới được thực hành bắn đạn thật như hiện nay ?

Thiếu tướng Nguyễn Thanh Ngụ: Vấn đề các đồng chí nêu làm tôi nhớ đến kỷ niệm thời trẻ của mình. Năm 1979, tôi là học viên Trường Sĩ quan Pháo binh đi thực tập ở đảo Trần (Quảng Ninh). Cả đảo có hai trận địa pháo nhưng chưa từng sử dụng, cũng không có ai là sĩ quan pháo binh. Nhân dịp tôi ra, cấp trên lệnh cho tôi huấn luyện bộ đội rồi tổ chức diễn tập bắn đạn thật luôn. Là một cán bộ thực tập, cũng chưa từng bắn đạn thật bao giờ, đối với tôi đó là một thử thách rất lớn. Tôi tâm niệm, cứ trung thành với kiến thức cơ bản được học, tổ chức bắn đạn thật đúng quy trình. Kết quả thật bất ngờ. Phát pháo đầu tiên do tôi đích thân bắn mẫu đã trúng mục tiêu trên biển. Kết quả buổi diễn tập được đánh giá cao. Như vậy thì thấy, trong điều kiện thời bình, ít được bắn đạn thật nhưng nếu anh huấn luyện bộ đội thật nghiêm, kỷ luật thật tốt thì không lo gì về chất lượng SSCĐ cả. Mà muốn để bộ đội có kết quả huấn luyện giỏi, người cán bộ không chỉ truyền kiến thức mà phải truyền cả ngọn lửa đam mê, nhiệt huyết nghề nghiệp của mình vào đó. Tôi nói vui, đó là cách “dùng tâm công” trong thời bình để sẵn sàng “dội bão lửa” lên đầu kẻ thù nếu tình huống chiến tranh vệ quốc xảy ra. Chúng tôi tự tin là ở thời kỳ nào, Binh chủng Pháo binh cũng sẵn sàng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

PV: Xin cảm ơn đồng chí !

Lại Nguyên Thắng (thực hiện)
qdnd.vn

Máy bay ta ném bom chiến hạm Mỹ

QĐND – Trong những trang vàng của lịch sử lực lượng không quân nhân dân Việt Nam có một trận đánh được cho là độc đáo nhất từ trước tới nay: Máy bay ta ném bom tàu Mỹ. Đó là trận chiến Mig -17 đánh tàu Hepeer của Hạm đội 7 của hai phi công Lê Xuân Dị và Nguyễn Văn Bảy (B) ngày 19-4-1972. Kết quả, cả 4 quả bom đều đánh trúng mục tiêu, 2 tàu khu trục địch bị đánh hỏng, trong đó tàu Hepeer bị hỏng nặng, 2 máy bay ta về hạ cánh an toàn. Người trong cuộc trận đánh ấy bây giờ ở đâu?

Từ cuốn nhật ký bạc màu…

Hình ảnh minh họa trận đánh chiều 19-4-1972.

Trận đánh “Mig -17 đánh tàu Hepeer của Hạm đội 7 Mỹ” được Bảo tàng Phòng không -Không quân chọn giới thiệu trong Triển lãm “17 trận đánh độc đáo của Bộ đội Phòng không -Không quân” vào tháng 10-2011. Ngày ấy, không quân ta còn non trẻ lắm! Sau bao năm, những người lính tham gia trận đánh giờ ở đâu? Lục tìm trong sử liệu, tôi mới hay, đáng chú ý trong trận đánh này có hai gương mặt phi công Lê Xuân Dị và Nguyễn Văn Bảy (B). Thế nhưng, không may là hơn 2 tháng sau chiến thắng đó, trong một trận đánh trên bầu trời Thanh Hóa, máy bay của phi công Nguyễn Văn Bảy đã trúng đạn và anh đã anh dũng hy sinh. Chỉ còn ông Lê Xuân Dị. Tôi rất háo hức khi được tin ông vẫn còn sống, nay ở quê nhà Bắc Ninh. Mừng hơn nữa, tôi tiếp tục tìm ra manh mối về ông Bảy (B) khi được Trung tá Nguyễn Thị Thanh Lương – Trưởng Ban sưu tầm Bảo tàng Phòng không -Không quân cho hay, hơn 5 năm về trước, gia đình liệt sĩ Nguyễn Văn Bảy (B) có tặng Bảo tàng một cuốn nhật ký và đã được Bảo tàng lưu giữ rất cẩn thận. Cầm cuốn nhật ký trên tay, trong tôi dâng trào một niềm xúc động. Ngoài những bài viết của đồng đội và các tác giả liên quan đến trận đánh, có rất nhiều bài văn, bài thơ, những bức thư, tấm ảnh liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của Anh hùng phi công Nguyễn Văn Bảy (B). Các tư liệu trong cuốn nhật ký được sắp xếp theo trình tự thời gian từ thuở thiếu thời cho đến lúc anh hy sinh.

Kế hoạch táo bạo

Từ những thông tin trong cuốn nhật ký đã giúp tôi lần tìm ra các tư liệu và nhân chứng trong cuộc. Trận đánh diễn ra mau lẹ, song quá trình chuẩn bị rất công phu, tỉ mỉ và bí mật đến giây phút cuối cùng. Cuốn “Lịch sử Quân chủng Phòng không -Không quân” ghi: “Suốt tháng 3 và đầu tháng 4 năm 1972, các tàu chiến của Hạm đội 7 ngày đêm pháo kích vùng đông dân ven biển Quảng Bình làm cho nhân dân hết sức hoang mang, gây khó khăn cho việc tiếp tế cho tiền tuyến miền Nam bằng đường biển. Trước tình hình đó, Bộ đội Không quân được lệnh đánh tàu chiến Mỹ với mục đích là để chúng giãn xa bờ, không đánh phá được tiếp tế của ta cho miền Nam”.

Để chuẩn bị cho kế hoạch này, vào năm 1971, một số phi công MiG -17 được tuyển chọn để huấn luyện bay biển và ném bom mục tiêu trên biển. Tháng 3 năm 1972, sau khi hoàn thành các khoa mục bay chiến đấu trên biển, các phi công đã cơ động bằng đường bộ vào Gát (Quảng Bình) để nghiên cứu về quy luật hoạt động của máy bay và tàu chiến địch. Sân bay Gát thực ra chỉ có một đoạn đường băng bằng đất nện và một khu vực cất giấu máy bay. Trong suốt thời gian thi công cho tới khi hoàn thành, sân bay Gát giữ được bí mật tuyệt đối. Địch không phát hiện được, kể cả các trang thiết bị, phương tiện và các mặt bảo đảm cho máy bay hoạt động đã được tập kết ở khu vực xung quanh sân bay.

Bộ tư lệnh Quân chủng Phòng không -Không quân đã tổ chức cuộc họp bàn phương án đánh địch trên biển. Phương tiện tác chiến là MiG -17, Trung đoàn Không quân 923 là đơn vị trực tiếp thực hiện nhiệm vụ chiến đấu. Bộ tư lệnh Quân chủng bố trí một tổ chỉ huy bổ trợ tại sở chỉ huy tiền phương của Bộ tư lệnh Hải quân, một đài quan sát tại Cửa Dinh và đặt Trạm Ra -đa 403 đối hải ở cửa Nhật Lệ, thu thập tin tình báo trên biển cung cấp cho sở chỉ huy. Ngày 18-4-1972, sau khi nghiên cứu quy luật hoạt động của địch, Bộ tư lệnh quyết định cơ động MiG -17 vào sân bay Gát. Lúc 15 giờ 45 phút, 2 chiếc MiG -17 do hai phi công kỳ cựu là Lê Hồng Điệp và Từ Đễ đã cất cánh từ Kép (Bắc Giang) bay về Gia Lâm (Hà Nội), rồi từ đó bay tiếp vào sân bay Vinh (Nghệ An). Tới đây, để đảm bảo bí mật, sở chỉ huy tiền phương điều hành cho từng chiếc một vào Gát. Hai chiếc máy bay sau khi hạ cánh đã được các nhân viên kỹ thuật kiểm tra và chuẩn bị đầy đủ các mặt bảo đảm, đồng thời cất giấu vào vị trí an toàn, đợi lệnh chiến đấu.

MiG-17 tấn công hạm đội 7

Về diễn biến của trận đánh này, Đại tá Phi công Lê Xuân Dị kể lại: “Ngày 19-4-1972, tôi và Nguyễn Văn Bảy (B) được giao nhiệm vụ trực ban chiến đấu. Từ 9 giờ 30 phút, các trạm ra -đa quan sát đã phát hiện các tốp tàu địch ở xa ngoài khơi. Các sở chỉ huy không quân và hải quân, các đài bổ trợ, trạm quan sát liên tục theo dõi, bám sát các hoạt động của địch. Đến 15 giờ, một tốp 4 chiếc tàu địch đã vào đến đông đèo Lý Hòa 15km, một tốp 3 chiếc ở đông Quảng Trạch 18km. Đặc biệt, một tốp 2 chiếc đã tới Đông Nhật Lệ 7km, các tàu chiến của Hạm đội 7 nã pháo vào thị xã Đồng Hới. Cấp trên nhận định, đây là thời cơ thuận lợi để tiến công địch. Lúc 16 giờ 5 phút, tôi và Nguyễn Văn Bảy (B) được lệnh xuất kích, mỗi chiếc máy bay mang 2 quả bom dưới cánh. Chúng tôi bay đến cửa sông Gianh thì bị sương mù cản trở tầm nhìn. Chúng tôi được dẫn bay chếch về bên trái điểm cao 280, cách bờ biển Quảng Bình 10km rồi vòng phải liên lạc trực tiếp với sở chỉ huy Đồng Hới. Sau khi vượt qua cửa Lý Hòa, chúng tôi giữ độ cao 500m trên mặt biển, tốc độ 800km/h và tập trung quan sát tìm mục tiêu. Cách khoảng 10 đến 12km, biên đội nhìn thấy hai vệt sáng trắng di chuyển trên mặt biển xanh, xác định đó là 2 chiếc tàu địch đang chạy. Tôi thông báo cho sở chỉ huy đã phát hiện mục tiêu và xin phép công kích. “Cho phép công kích!” – lệnh của cấp trên vừa dứt, tôi chỉnh lại đường ngắm rồi cắt bom, cả hai quả bom nổ sát thân tàu. Vòng máy bay về, tôi còn nhìn rõ cột nước vọt lên cao. Sau loạt bom đó địch phát hiện bị MiG đánh, chúng phóng tên lửa và báo động toàn Hạm đội 7. Vì giãn cách đội hình hơi xa nên Nguyễn Văn Bảy (B) không quan sát được tôi, Bảy tiếp tục bay vòng ra phía biển. Khi bay qua cửa Dinh, phát hiện 2 tàu địch phía dưới, Nguyễn Văn Bảy (B) lập tức vòng lại công kích. Cách mục tiêu 750m, anh báo cáo về sở chỉ huy và cắt bom. Đúng vào lúc Bảy vừa cắt bom chúng tôi mới liên lạc được với nhau. Sau đó, biên đội được dẫn về hạ cánh xuống sân bay Gát lúc 16 giờ 22 phút”.

Như vậy, sau 17 phút chiến đấu, biên đội đã trở về an toàn. Theo quan sát và sự thú nhận của địch, cả 4 quả bom đều trúng mục tiêu. Hai tàu khu trục địch bị đánh hỏng, trong đó tàu Hepeer bị hỏng nặng.

Ngay sau khi máy bay ta vừa về hạ cánh, địch đã vào đánh phá dữ dội sân bay Đồng Hới. Ngày 20-4, chúng cho máy bay đánh sân bay Vinh. Và phải tới ngày 22-4, chúng mới phát hiện và tập trung đánh phá hủy diệt sân bay Gát. Một chiếc MiG -17 bị đánh hỏng, chiếc còn lại bay được về sân bay Gia Lâm hạ cánh an toàn. Biên đội sau đó đã được Thủ tướng Phạm Văn Đồng gặp mặt và khen thưởng.

Sự thú nhận từ phía bên kia

Thú nhận về sự thất bại này, ngày 20-4-1972, hãng AP đưa tin: “Khoảng 6 giờ, tàu Hepeer cùng liên đội đảm nhiệm của Hạm đội 7 hoạt động ở vùng biển tỉnh Quảng Bình, Bắc Việt Nam. Hepeer là khu trục hạm vừa được Tổng thống Nixon tuyên dương vì đã vào gần vùng biển Hải Phòng cứu các phi công Mỹ bị bắn rơi ngày 16 tháng 4 năm 1972. Chiếc Hepeer đang pháo kích thì MiG bay tới… Hai quả bom đánh trúng tàu, boong sau của hạm đội bốc cháy, một đoạn lớn của hông bị phá toang, ụ súng chứa đầy đạn nổ tung, tiếng la hét, kêu cứu thất thanh, quang cảnh thật buồn thảm, các khẩu pháo lớn vỡ toác như cái loa kèn. Cuộc tấn công này thật nghiêm trọng vì đây là lần đầu tiên Bắc Việt Nam dùng MiG tấn công Hạm đội 7 của Mỹ. Tin về cuộc tấn công này được loan truyền nhanh chóng trong Quốc hội Mỹ giữa lúc các nghị sĩ Mỹ đang tranh cãi về những bất đồng trong cuộc chiến tranh Việt Nam”.

Bài và ảnh: Nguyễn Thành Trung
qdnd.vn

Anh chủ nhiệm kiêm “kiến trúc sư”

QĐND – Nhiều người gọi Đại tá Trịnh Văn Thiện, Chủ nhiệm Kho 858 Quân chủng Hải quân, người đã 17 năm liền được bầu là “Chiến sĩ thi đua” cấp toàn quân và toàn quốc như vậy bởi chính anh là người đóng vai trò chính trong việc kiến tạo nên sự thay đổi kỳ diệu ở Kho 858. Từ một đơn vị bộn bề thiếu thốn, nhờ người chủ nhiệm biết lo toan và nhiều sáng tạo, Kho 858 đã thật sự “lột xác”, được đề nghị phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân thời kỳ đổi mới…

Chủ nhiệm lái máy cày và làm… “kiến trúc sư”

Anh về nhận công tác tại Kho 858 Hải quân từ năm 1976 với chức Trợ lý Kế hoạch tổng hợp. Hồi mới về, kho của Mỹ để lại chỉ là dãy nhà cấp 4 mái tôn xập xệ, thấp lè tè. Gọi là kho, nhưng thực chất là nơi lính Mỹ dùng thay quân, hoặc nghỉ ngơi sau mỗi lần đồn trú. Vùng đất hoang hóa, bạc màu, không có cây xanh, chỉ có nắng và gió…

13 năm sau, anh nhận chức Chủ nhiệm kho vẫn chưa có gì thay đổi nhiều so với trước. Thời kỳ bao cấp, đời sống nhân dân và quân đội còn nhiều khó khăn. Những người lính thợ cũng không ngoại lệ. Hồi đó, hơn 300 cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên Kho 858 sống trong cảnh thiếu nước, thiếu điện, thiếu lương thực, thực phẩm. Khí hậu, thời tiết khắc nghiệt, lương “ba cọc, ba đồng” không đủ sống, một số đồng chí có biểu hiện bi quan, chán nản.

Đại tá Trịnh Văn Thiện thường xuyên sâu sát động viên anh em làm việc kiểm tra đơn vị.

Thầm nghĩ: “Bộ đội phải có cái ăn, cái mặc, mới yên tâm công tác”, anh Thiện quyết định tổ chức cho bộ đội đào ao lấy nước ngọt phục vụ sinh hoạt hằng ngày, tưới cây, thả cá; cải tạo đất đai trồng mía, khoai, sắn; nuôi bò, dê, lợn, gà…Thương bộ đội oằn lưng cuốc đất, bàn tay rộp phồng, bỏng rát, anh Thiện lặn lội vào miền Nam trực tiếp mua rồi tự tay lái máy cày chạy từ Tây Ninh về Cam Ranh. Thế nên mọi người mới gọi anh là “Chuyên gia…lái máy cày”. Ngày đó, phương tiện sản xuất cũ, nát, hằng ngày anh xuống phân xưởng cơ khí cặm cụi sửa chữa, sáng chế các loại nông cụ, máy móc. Anh trực tiếp xắn tay áo nhặt từng viên gạch, vần từng khối bê tông, xới từng luống đất…Thấy chủ nhiệm kho vất vả, anh em công nhân làm theo, thành phong trào lớn. Người không phụ đất, chất chẳng phụ người, sau một thời gian tích cực tăng gia, sản xuất, hệ thống ao hồ cung cấp đủ nước cho sinh hoạt và chăn nuôi, cứu hỏa. Đàn bò, dê, lợn, gà ngày càng sinh sôi. Cây cối sum sê, đâm chồi nảy lộc. Đời sống cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên được cải thiện đáng kể. Nhờ vậy mọi người yên tâm công tác, góp phần xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện…

Mãi tới năm 2000, Kho 858 mới được Quân chủng Hải quân đầu tư nâng cấp. Song, nhìn chung hạ tầng cơ sở vẫn còn thiếu đồng bộ. Mùa mưa, lũ ngập trắng đồng, nước tràn vào kho. Trước tình hình đó, anh Thiện đã đề xuất phương án xây dựng bờ kè và đắp đê chống lũ. Cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên chạy đua với thời gian đắp một con đê dài 3,8km, hai bề ta -luy và mặt đê được lát bằng những tấm bê tông tận dụng từ các công trình tháo dỡ, gắn xi măng chắc chắn. Để có được con đê ấy, anh Thiện và cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên toàn đơn vị đã nạo vét, khơi thông và kè ta -luy suối với chiều dài 1, 5km với khối lượng 3.600m3 bê tông, đào đắp hàng ngàn mét khối đất đá và huy động hàng ngàn ngày công, hàng trăm chuyến xe và ca máy phục vụ suốt ngày, đêm… Công trình trị giá hàng chục tỷ đồng khánh thành và đưa vào sử dụng đã góp phần ngăn lũ, bảo vệ an toàn hệ thống kho tàng, tài sản của Nhà nước và Quân đội…

Giữa không gian bao la, tràn ngập màu xanh cỏ cây, hoa lá chúng tôi được nghe anh em kể về tài năng thiết kế của vị “kiến trúc sư bất đắc dĩ” – Trịnh Văn Thiện. Dạo đó, Ban chỉ huy kho có ý định thuê người ngoài vào thiết kế không gian, quần thể văn hóa. Nhưng khi kiến trúc sư vào khảo sát tình hình rồi ra giá thù lao với khoản kinh phí quá cao, đơn vị không thể đáp ứng nổi. Không còn cách nào khác, Chủ nhiệm kho kiêm luôn chức “kiến trúc sư”. Gần một tháng trời, anh Thiện tự tay viết vẽ, thiết kế, sau đó tham khảo ý kiến anh em. Cuối cùng “đề án” đã được Ban chủ nhiệm “chuẩn y”. Xây dựng đề án đã khó, thực hiện đề án càng khó khăn hơn. Để có được khuôn viên Câu lạc bộ Quân nhân trên 8000m2 (gồm nhà thủy tạ, ao cá, vườn hoa, hòn non bộ); sân tennis; nhà truyền thống… đích thân Đại tá Trịnh Văn Thiện xắn tay áo chỉ đạo anh em sử dụng nguyên liệu tại chỗ như bê tông, gạch ngói tận dụng, cây cảnh, cây ăn quả huy động anh em đóng góp. Cứ cần mẫn tích cóp như con ong thợ mất mấy năm, cán bộ, chiến sĩ Kho 858 Hải quân đã xây nên một “công viên xanh” giữa vùng cát cháy.

Bằng tình yêu của người lính thợ và tinh thần tự lực, tự cường, dám nghĩ, dám làm, cán bộ, chiến sĩ Kho 858 đã làm nên những công trình bạc tỷ, trở thành lá cờ đầu của Quân chủng Hải quân trong thực hiện phong trào “xanh – sạch – đẹp”…

Chính quy như… “bộ đội ông Thiện”

Đó là cảm nhận không chỉ riêng cán bộ, chiến sĩ các đơn vị quân đội đóng quân trên địa bàn huyện Cam Lâm và thành phố Cam Ranh (Khánh Hòa) mà còn cả nhân dân địa phương trong vùng.

Đến Kho 858, ấn tượng đầu tiên là hình ảnh chiến sĩ đứng trên chòi canh cách xa gần cây số, nhưng khi thấy có khách là đứng nghiêm giơ tay chào. Giữa trưa trời nắng chang chang, từng tốp cán bộ, công nhân viên vạt áo ướt đầm mồ hôi trên đường từ kho về nhà nghỉ, thấy xe chở chúng tôi vẫn đứng nghiêm chào đúng điều lệnh…

Nhà báo Đăng Khoa – Phóng viên Chuyên mục Quốc phòng – An ninh, Đài Truyền hình Khánh Hòa còn kể cho tôi nghe câu chuyện khá thú vị về “bộ đội ông Thiện”. Cuối năm 2011, anh Khoa vào Cam Lâm thực hiện phóng sự, thấy tốp lính áo quần xộc xệch, chân đi dép lê. Anh Khoa buột miệng nói với đồng nghiệp: “Chắc là bộ đội Kho 858 Hải quân đây mà!”.

Nghe vậy, mấy người dân đứng gần đó quả quyết: “Không phải đâu! “Bộ đội ông Thiện” bao giờ cũng đội mũ, đi giày, mang mặc đúng tác phong!”.

Trong lần đến thăm đơn vị gần đây, Thượng tướng Đỗ Bá Tỵ, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam cũng đã khen ngợi công tác xây dựng nền nếp chính quy và chấp hành kỷ luật ở Kho 858.

Gắn bó máu thịt với cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương từ những ngày gian khó nhất, nên anh Thiện vẫn thường nhắc nhở cấp dưới: “Nhiệm vụ của người lính thời bình là phải gần dân, lo cho dân như chính lo cho mình!”. Thế nên, mọi hoạt động của địa phương, đơn vị đều tham gia, đóng góp. Chỉ tính mấy năm gần đây, Kho 858 đã trích gần 150 triệu đồng thăm hỏi, tặng quà các gia đình chính sách, hộ nghèo trên địa bàn huyện Cam Lâm và thành phố Cam Ranh (Khánh Hòa); huy động 1.200 ngày công lao động giúp dân đào đắp đường liên thôn, tu bổ nghĩa trang liệt sĩ; tặng 2.000kg gạo, 200 bộ quần áo cho người nghèo trong mùa giáp hạt; quyên góp ủng hộ đồng bào miền Trung bị lũ lụt, xây dựng nhà tình nghĩa hơn 100 triệu đồng… Vào mùa nắng hạn, anh Thiện chỉ đạo đơn vị cho xe bồn chở hàng trăm mét khối nước ngọt phục vụ đồng bào… Người dân Cam Lâm vẫn thường kể chuyện “lính ông Thiện” nhiều lần giúp dân cứu hỏa nhưng chưa bao giờ nhận quà. Dũng cảm dập cháy xong là tập hợp lên xe về ngay đơn vị. Đến nỗi bà con không kịp hỏi tên, tuổi, chỉ biết là “bộ đội ông Thiện”!. Mới đây, Kho 858 vinh dự được Quân chủng Hải quân đề nghị phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong thời kỳ đổi mới, trong thành tích chung ấy, có đóng góp lớn lao của Đại tá Trịnh Văn Thiện!

Bài và ảnh: Phan Tiến Dũng
qdnd.vn

Chuyện kể sau ngày toàn thắng

Đại tướng Phạm Văn Trà:

QĐND – Trước, trong và sau ngày toàn thắng 30-4-1975, những người lính Trung đoàn 1 U Minh (Quân khu 9) đã làm gì, ở đâu? Lằn ranh giữa cái sống và cái chết, niềm vui ngắn chẳng tày gang, lính đồng bằng bỗng nhiên xông pha nơi biển đảo… Nhân dịp kỷ niệm 37 năm Ngày Giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, Đại tướng Phạm Văn Trà, nguyên ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đã dành cho phóng viên Báo Quân đội nhân dân Cuối tuần cuộc trò chuyện về ngày toàn thắng…

Ngày ấy, ở miền Tây

Đại tướng Phạm Văn Trà kể: Tôi chiến đấu nhiều năm ở địa bàn Quân khu 9, nơi mà sau Hiệp định Pa -ri, tập trung lực lượng địch rất nhiều. Nhiều nơi im tiếng súng sau năm 1973 nhưng Quân khu 9 thì không. Có lúc khu vực U Minh – Hậu Giang tập trung tới 75 tiểu đoàn địch, riêng lực lượng đối đầu với Trung đoàn 1 U Minh do tôi làm trung đoàn truởng lên tới 18 tiểu đoàn. Chúng muốn đẩy chủ lực ta ra khỏi miền Tây, bình định Tây Nam Bộ…

Đại tướng Phạm Văn Trà. ảnh: Nguyễn Hòa

Những ngày cuối tháng 4-1975, trung đoàn tôi đang tập trung chặn cắt, khống chế địch ở lộ 4, sẵn sàng giải phóng Vĩnh Long thì tôi nhận lệnh về Bộ tư lệnh tiền phương của Quân khu họp. Buổi sáng hôm ấy, chừng 18-20 tháng Tư, tôi cùng một số anh em bí mật cuốc bộ đi họp thì lọt vào ổ phục kích của địch. Hàng trăm tên địch bất ngờ nhảy xổ ra từ các lùm cây, nổ súng định tiêu diệt và đuổi theo chúng tôi. Mỗi người một hướng, tôi và mấy anh em chạy ngược lại phía sở chỉ huy trung đoàn. Chúng tôi chạy thục mạng, mặc đạn bay vù vù bên tai xen lẫn tiếng reo hò của bọn địch: “Bắt sống Ba Trà, bắt sống Ba Trà!”…May mà chúng vừa đuổi vừa bắn nên không chính xác. Tôi chạy về tới gần sở chỉ huy trung đoàn thì đã thấy thấp thoáng các tay súng đồng đội trong lùm cây sẵn sàng chi viện cho mình. Biết rõ điều đó, tôi vội lăn xuống đất. Lập tức hàng chục cây súng của ta nhả đạn. Bọn địch nhiều tên bị trúng đạn, số còn lại kinh hoàng quay đầu bỏ chạy. Cho đến bây giờ tôi vẫn không thể hiểu tại sao mình có thể thoát chết trong tình huống cực kỳ nguy hiểm đó, lại trước ngày toàn thắng chỉ hơn chục ngày.

Trưa 30-4, trung đoàn tôi ở thị xã Vĩnh Long. Lúc này mặc dù ở Sài Gòn, Tổng thống Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng. Sau đó, vào 2 giờ chiều, tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh vùng 4 chiến thuật và Quân đoàn 4 ngụy đã đầu hàng song tại Vĩnh Long, địch vẫn ngoan cố chống cự, buộc chúng tôi phải vừa đánh vừa tích cực gọi hàng. Phải đến xế chiều 30-4, sau khi trinh sát thông tin của ta bắt được sóng đài địch, qua điện đài, ta kêu gọi tên tỉnh trưởng Vĩnh Long đầu hàng, nếu không sẽ phải đền tội dù cách mạng không muốn điều đó. Mãi đến 5 giờ chiều 30, tên này mới chấp nhận đầu hàng sau khi xin ta giữ lời hứa bảo toàn tính mạng…

Hòa bình, biển Tây Nam lại nổi sóng

Toàn thắng, trung đoàn tôi về đứng chân ở bến phà Mỹ Thuận, chưa hưởng trọn niềm vui cùng bà con cô bác Vĩnh Long thì lại bất ngờ nhận mệnh lệnh lên đường chiến đấu. Thì ra, chỉ 3 ngày sau khi “ngụy nhào”, ngày 3-5-1975, vùng biển Tây Nam bất ngờ nổi sóng, tập đoàn phản động Pôn Pốt đưa quân đánh chiếm phần phía bắc đảo Phú Quốc, các đảo Hòn ông, Hòn Bà, Thổ Chu, giết hại hơn 500 đồng bào ta sống lâu đời ở đây. ít ai ngờ rằng thời điểm kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ đã gắn với điểm khởi đầu của một cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc không kém phần ác liệt như thế…

Ngày 25-5, trung đoàn tôi hành quân tới Rạch Giá, Kiên Giang để đi tàu ra Phú Quốc chiến đấu. Lần ra trận này không phấn chấn như những ngày đánh Mỹ mà trĩu nặng ưu tư, trăn trở. Trước đó, mặc dù hải quân và quân khu đã giải phóng đảo Thổ Chu, bắt 300 tên địch, nhiệm vụ của chúng tôi là giải phóng đảo Hòn ông, Hòn Bà. Khó khăn lớn nhất với chúng tôi là không một ai biết hòn đảo này như thế nào, nằm ở đâu, tình hình địch ra sao. Phải qua 2 ngày trinh sát, dựa vào dân, tìm được một lão ngư phủ đã ra hai đảo này đánh cá trước đó vài tháng, chúng tôi mới hiểu được sâu hơn về hai hòn đảo. Qua trinh sát, ta cũng nắm được lực lượng địch gồm 2 tiểu đoàn và nhiều vũ khí như ĐKZ 82mm, 75mm, cối, đại liên… Để tác chiến, chúng tôi được giao phối hợp chặt chẽ với hải quân và không quân bàn cách đánh và triển khai nhiệm vụ. Lúc này, hải quân ta mặc dù đã có các hạm đội nhưng trang bị còn rất mỏng, cả hạm đội chỉ có hai chiếc tàu cao tốc, mấy khẩu 12, 7mm và 37mm, vài tàu “há mồm”… Lái tàu lại là lính ngụy trước đây, nay được ta giáo dục để họ nhận nhiệm vụ…

Giải phóng Hòn ông, Hòn Bà đã để lại cho tôi nhiều bài học kinh nghiệm quý trong chỉ đạo tác chiến cũng như xây dựng lực lượng hải quân sau này. Lúc đó, phía các anh hải quân cho rằng quân Pôn Pốt rất yếu, cùng lắm chỉ bằng quân ngụy trước đây nên ta có thể đánh “bài bản”, đổ bộ trực tiếp vào bãi cát rộng rồi dùng hỏa lực, xung lực tiến công địch. Nhưng tôi cho rằng ta chưa nắm chắc tình hình địch, hỏa lực, trang bị của ta cũng mỏng, quân Pôn Pốt lại rất thâm hiểm nên muốn thắng địch phải thận trọng, đánh chắc, tiến chắc. Tôi nói là tôi chưa ra biển bao giờ, nhưng tôi sẽ “đánh theo cách của tôi”. Tranh cãi mãi, các anh hải quân cũng “chịu thua”. Trung đoàn sẽ hành quân đêm, vòng xuống phía nam đảo đi ngược lên, lợi dụng ngược gió để địch không nghe được tiếng máy tàu, rồi đổ bộ nơi bão đá hiểm trở, chứ không phải bãi cát. Khi ta nổ súng, nơi bãi cát đúng là chỗ địch bố trí trận địa phòng ngự hỏa lực mạnh, anh Hán, chỉ huy hải quân xúc động nói với tôi:

– May quá, nhờ có anh chưa ra biển bao giờ mà lại đi guốc trong bụng chúng!

Sau nhiều ngày chiến đấu, đến ngày 14-6-1975, trung đoàn đã tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch, riêng số bị bắt là 782 tên, thu hàng nghìn khẩu súng. Trung đoàn tôi hy sinh 18 đồng chí và bị thương hơn 80 đồng chí. Vậy là hòa bình chưa đầy hai tháng mà những người lính trung đoàn U Minh đã phải tiếp tục hy sinh, đổ máu vì nền độc lập, tự do của dân tộc. Qua đó cũng thấy được vấn đề chủ quyền biển đảo luôn “nóng” nếu chúng ta thiếu quan tâm, thiếu đi chiến lược xây dựng và bảo vệ.

Lòng dân là vũ khí mạnh nhất

PV: Sau 37 năm nhìn lại ngày toàn thắng, Đại tướng thấy tâm huyết nhất điều gì?

Đại tướng Phạm Văn Trà: Điều tôi tâm huyết và trăn trở nhất là phải làm sao giữ được “thế trận lòng dân”. Miền Tây không có dân thì bộ đội không sống được. Dân là tường thành, là chỗ dựa vững chắc, lòng dân mênh mông như nước sông Tiền, sông Hậu. Không có dân, tổ chức Đảng cũng không tồn tại được. Trung đoàn tôi không có dân thì đã bị 18 tiểu đoàn ngụy “nhổ cỏ” từ lâu. Miền Tây sình lầy, trống trải, sông ngòi chằng chịt không thích hợp với tác chiến hiệp đồng quy mô lớn mà rất phù hợp với chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích. Dựa vào dân nên chúng tôi “lai vô ảnh, khứ vô tung” như Bác Hồ đã dạy. Dựa vào dân nên Tư lệnh Quân khu Lê Đức Anh cũng ở sát bốt địch mà địch đâu biết, cứ ngỡ ổng ở mãi U Minh. Vì vậy, bây giờ hòa bình rồi là lúc phải nghĩ đến dân, lo cho dân. Quân đội tham gia xây dựng nông thôn mới hiện nay lại ở gần dân nơi vùng sâu, vùng xa, phải làm sao giúp dân được nhiều nhất.

PV: Vậy để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay, cần lưu ý đến những vấn đề gì nhất?

Đại tướng Phạm Văn Trà: Muốn đất nước vững chỉ xây dựng quân đội mạnh thì chưa đủ. Quân đội Liên Xô cũ mạnh thế mà cũng để mất chế độ. Trong nền quốc phòng toàn dân, thứ nhất là phải xây dựng Đảng thật mạnh, Đảng được lòng dân, có chính sách cho dân. Thứ hai, chính quyền phải vì dân. Thứ ba, kinh tế phải phát triển, mọi người dân được hưởng từ thành quả phát triển đó. Thứ tư, giáo dục quốc phòng, truyền thống yêu nước. Thứ năm, phải chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang. Thứ sáu, xây dựng công nghiệp quốc phòng, tiềm lực quốc phòng. Thứ bảy, xây dựng các công trình phòng thủ mạnh.

Cần chú trọng xây dựng công nghiệp quốc phòng mạnh để hiện đại hóa quân đội. Nếu không sản xuất được, cái gì cũng phải đi mua thì không bao giờ đủ tiền. Một quả tên lửa có bao nhiêu sắt, thép đâu mà tới 2 triệu USD, máy bay tiêm kích giá hàng chục triệu USD… Phải chủ động sản xuất thì mới có tiềm lực. Công nghiệp quốc phòng cũng chi phối, hỗ trợ công nghiệp khác trong nước, giúp phát triển kinh tế.

PV: Thế hệ của Đại tướng đã hoàn thành sứ mệnh đánh đuổi ngoại xâm, thu non sông về một mối nhưng vừa qua, cũng đây đó còn có người phân tâm, đòi “xét lại quá khứ” hoặc có những phát ngôn, hành xử chưa tốt, không có lợi cho sự nghiệp cách mạng chung? Đại tướng có suy nghĩ gì về hiện tượng này?

Đại tướng Phạm Văn Trà: Số đó không nhiều, chỉ là cá biệt. Bởi tôi nghĩ đã là người sĩ quan, người Đảng viên Cộng sản thì phẩm chất hàng đầu là trung thành với Đảng. Không giữ được cái đó thì anh không xứng đáng ở trong hàng ngũ rồi. Trong một vài vụ việc có người phát ngôn, hành xử chưa phù hợp theo tôi cái tâm của họ cơ bản vẫn là tốt, mong muốn vì sự phát triển của đất nước nhưng có thể do thiếu thông tin nên xử lý chưa tốt, lại bị kẻ xấu tung tin hỏa mù, kích động nữa nên việc xử lý thông tin càng hạn chế. Tôi thấy các cựu chiến binh, cán bộ hưu trí hiện nay còn thiếu thông tin nhiều, thiếu cả báo để đọc nữa. Trong chống tham nhũng, thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 hiện nay cũng vậy, cần phải có thông tin đúng, đừng để kẻ xấu lợi dụng kích động lên là quá mù ra mưa, hỏng việc và gây thiệt hại khó lường…

PV: Xin cảm ơn và kính chúc Đại tướng mạnh khỏe!

Nguyên Minh – Nguyễn Hòa
qdnd.vn

Nghe chuyện “chung sức…” ở Sư đoàn 325

QĐND – Tôi “vào đề” với Đại tá Mai Hồng Đại, Trưởng phòng Tuyên huấn Quân đoàn 2: Chuyện huấn luyện và chiến đấu của Binh đoàn Hương Giang tôi đã được nghe nhiều rồi. Được biết, một trong những hoạt động “mới” của quân đoàn trong tháng qua là phát động hưởng ứng và thực hiện phong trào “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới”. Lần này tôi muốn tìm hiểu phong trào này của quân đoàn ta?

Đại tá Mai Hồng Đại nói: Đây đúng là một phong trào mới nhưng cũng không phải là mới, bởi lâu nay thực hiện chức năng “Đội quân công tác”, các đơn vị trong toàn quân vẫn làm. Tuy nhiên, lần này “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” là một phong trào lớn của Nhà nước do Thủ tướng Chính phủ trực tiếp phát động và đề ra những tiêu chí cụ thể. Theo đó, Bộ Quốc phòng đã có Chỉ thị và Tổng cục Chính trị đã ra Hướng dẫn toàn quân phát động phong trào thi đua “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới”. Như vậy, phong trào này là một trong những nội dung nhiệm vụ quan trọng trong Phong trào Thi đua Quyết thắng hằng năm của toàn quân. Vừa qua, Cục Chính trị Quân đoàn 2 đã quán triệt cho lãnh đạo và chỉ huy các đơn vị nắm được những “nét mới” này, nhằm tiếp tục khẳng định vai trò của quân đội trong sự nghiệp phát triển kinh tế -xã hội của đất nước; góp phần cải thiện, nâng cao đời sống vật chất -tinh thần của nhân dân trên từng địa bàn, đặc biệt là những địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo… Việc “chung sức” phải theo phương châm “phát huy nội lực là chính”, phù hợp với khả năng của cơ quan -đơn vị và thực tiễn của địa phương; bảo đảm thiết thực, hiệu quả, tránh phô trương hình thức… Sư đoàn 325 là một trong ba đầu mối trực thuộc được Bộ tư lệnh Quân đoàn đã chọn “làm điểm” phát động phong trào này.

Đoàn đại biểu thị trấn Ba Đồn (Quảng Trạch -Quảng Bình) thắp hương tưởng niệm các liệt sĩ Trung đoàn 18, nhân kỷ niệm 60 năm giải phóng Ba Đồn (1952-2012). Ảnh: Đình Hùng

Vậy là tôi xin phép xuống ngay Sư đoàn 325 – Đoàn Bình Trị Thiên anh hùng. Sau đây là ý kiến của một số cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp đơn vị và cơ quan, trao đổi xung quanh mục đích, yêu cầu, nội dung, chỉ tiêu, biện pháp… thực hiện phong trào “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới” ở Sư đoàn 325.

Đại tá Nguyễn Ngọc Triển, Phó chính ủy Sư đoàn: Từ những ngày đầu ra đời trên mảnh đất Bình Trị Thiên ác liệt, gian khổ, thiếu thốn mọi bề… sư đoàn đã có truyền thống về công tác dân vận; phối hợp chặt chẽ với cấp ủy và chính quyền địa phương, dựa vào dân và gắn bó máu thịt với nhân dân để xây dựng địa bàn an toàn và đơn vị vững mạnh toàn diện. Từ ngày chuyển ra phía Bắc, đơn vị tiếp tục có nhiều hoạt động thiết thực xây dựng mối đoàn kết quân -dân, tham gia phát triển kinh tế -xã hội địa phương, xây dựng cơ sở vững mạnh. Đặc biệt, thực hiện Nghị quyết 8B của Trung ương khóa VIII và Nghị quyết 152 của Đảng ủy Quân sự Trung ương về công tác dân vận trong tình hình mới, chất lượng công tác vận động quần chúng của sư đoàn có bước chuyển biến và về lượng và chất. Trong 5 năm (2005-2010) Sư đoàn 4 lần được TCCT và UBND tỉnh Bắc Giang tặng Bằng khen, 41 tập thể và cá nhân được khen thưởng vì thành tích dân vận, giúp dân sản xuất và khắc phục hậu quả thiên tai… Những kết quả và kinh nghiệm trên đây là tiền đề quan trọng để sư đoàn hưởng ứng và thực hiện tốt phong trào thi đua “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới”, một hình thức cao hơn của công tác dân vận trong thời kỳ mới!

Trung tá Vũ Ngọc Tam, Trưởng ban Tuyên huấn sư đoàn: Cuộc vận động “Chung sức” lần này rõ ràng là một hình thức và nội dung mới của công tác dân vận ở tầm cao hơn. Chẳng hạn, trước đây hoạt động “giúp dân” của đơn vị chủ yếu là tham gia thực hiện các chính sách xã hội, đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo, phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai v.v.. Nhưng hiện nay, đây là một phong trào lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, có tiêu chí và “lộ trình” cụ thể. Theo đó, phong trào “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới” phải bám sát các tiêu chí của Chính phủ về xây dựng nông thôn mới, căn cứ vào điều kiện đơn vị và đặc điểm địa bàn để xác định từng giai đoạn, từng tiêu chí và đối tượng cụ thể. Vừa qua, căn cứ vào hướng dẫn của cấp trên, sư đoàn đã lựa chọn tập trung vào 5 nhóm nội dung chính để triển khai thực hiện phong trào này trong thời gian trước mắt, đó là: Tham gia xây dựng một số hạng mục điện -đường-trường-trạm; Tham gia phát triển một số ngành nghề truyền thống của địa phương; Tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục và đẩy mạnh chương trình quân -dân y kết hợp; Tham gia củng cố cơ sở chính trị và nâng cao chất lượng hoạt động của các đoàn thể; Tham gia bài trừ tệ nạn xã hội và xây dựng địa bàn an toàn…

Thiếu tá Tạ Văn Thiện, Chủ nhiệm Chính trị Trung đoàn 18: Còn nhớ năm 1993, thực hiện cuộc vận động “Đẹp người, đẹp doanh trại, đẹp tình quân dân”, Trung đoàn 18 đã được sư đoàn chọn rút kinh nghiệm mô hình xây dựng “thôn – xã điểm” trong công tác dân vận. Đặc biệt, nhiều hoạt động kết nghĩa của tuổi trẻ đơn vị và địa phương đã có “hiệu quả kép”, góp phần xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh cả trong và ngoài doanh trại, được hội nghị cán bộ Đoàn toàn quân đến tham quan và đánh giá cao.

Ngày 12-3-2012, toàn trung đoàn đã tổ chức phát động hưởng ứng và triển khai thực hiện phong trào “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới”. Từ kết quả và kinh nghiệm của các mô hình kết nghĩa quân -dân trên đây và căn cứ vào nội dung phong trào “chung sức…” hiện nay, trung đoàn đã chọn xã Đồng Cốc của huyện Lục Ngạn (Bắc Giang) để triển khai làm “điểm”, với một số “hạng mục” cơ sở hạ tầng, vệ sinh môi trường, đối tượng giúp đỡ… cụ thể. Theo đó, các đại đội đăng ký triển khai thực hiện từ 1-2 nội dung; các tiểu đoàn là đầu mối chỉ đạo, theo dõi, kết nối nội dung của các đại đội để phát huy kết quả chung. Các cơ quan căn cứ vào chức năng nhiệm vụ của mình để tham mưu cho chỉ huy trung đoàn phối hợp chặt chẽ với địa phương trong quá trình thực hiện các nội dung “chung sức”…

Đại tá Nguyễn Văn Nghĩa, Sư đoàn trưởng: Phong trào “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới” vừa được Bộ Quốc phòng chính thức phát động từ đầu năm 2012, có nhiều nội dung cần quán triệt rõ để thực hiện đúng và trúng. Đây là phong trào “quân đội chung sức” cùng cấp ủy, chính quyền, đoàn thể và nhân dân để tham gia xây dựng nông thôn mới, chứ không phải phong trào tự quân đội phát động và tự làm. Vì vậy, trước khi xây dựng kế hoạch, nội dung và các chỉ tiêu thi đua, sư đoàn đã trao đổi thống nhất với Ban chỉ đạo xây dựng nông thôn mới của địa phương về những nội dung công việc, công trình và sản phẩm cụ thể, theo 5 nhóm nội dung cần “chung sức” mà sư đoàn đã xác định. Địa bàn đóng quân của sư đoàn là vùng trung du và miền núi với 11 dân tộc sinh sống trên nhiều địa hình phức tạp, điều kiện kinh tế -xã hội nhiều vùng còn khó khăn. Vì vậy, một trong những biện pháp nhằm thực hiện tốt các mục tiêu và nội dung phong trào mà đơn vị đã đề ra, là phải làm tốt công tác tuyên truyền vận động nhân dân trên địa bàn hiểu rõ và thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về xây dựng nông thôn mới; không nghe theo những luận điệu sai trái, không tham gia các tệ nạn và hủ tục; phấn đấu ngày càng có nhiều làng, xã kết nghĩa quân dân đạt tiêu chuẩn văn hóa. Đồng thời, mỗi cán bộ, chiến sĩ phải là những tấm gương về nếp sống văn hóa, mỗi đơn vị là một điểm sáng văn hóa trên địa bàn.

Đồng Lê
qdnd.vn

Có một thời con gái bên mâm pháo

QĐND – Như bao câu chuyện, bao con người từng góp phần làm nên huyền thoại của một thời ra ngõ gặp anh hùng, một thời “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”, những người con gái ấy chìm khuất trong dòng đời mưu sinh hối hả, nghiệt ngã khi cuộc chiến tranh đi qua. Không ai biết những thiếu phụ bán rau, quét rác, sấp ngửa từng buổi chợ đông hay bán mặt cho đất, bán lưng cho trời trên cánh đồng kia họ từng có một thời con gái rất đẹp, rất hào hùng bên mâm pháo cao xạ 37mm để bảo vệ bầu trời thành phố Thái Bình …

Pháo thủ tuổi 16, đại đội trưởng tuổi 18

Một ngày nọ, chị Ngô Thị Hòa, Phóng viên Đài Phát thanh Truyền hình tỉnh Thái Bình đến tận trụ sở Báo Quân đội nhân dân Cuối tuần tìm gặp chúng tôi với lời đề nghị tha thiết: “ở Thái Bình, từng có một đại đội nữ pháo thủ toàn những cô gái mười sáu, mười tám tuổi thời đánh Mỹ. ở khuôn viên bảo tàng Thái Bình nhiều năm nay, vẫn thấy trưng bày 4 khẩu pháo cao xạ 37mm một thời gắn bó với họ. Nhưng đã lâu rồi, ít ai nhắc đến những người con gái này…”.

Một khẩu đội của đại đội nữ cao xạ Thái Bình (năm 2011).

Hàng trăm nữ pháo thủ quê lúa ấy nay ở đâu?

Câu chuyện lập tức kéo chúng tôi tìm về Thái Bình cùng lời hứa hẹn của chị Hòa: Sẽ tập hợp được một phần đại đội. ấy vậy mà khi chúng tôi về thành phố Thái Bình, nơi chị Hòa dẫn chúng tôi đến lại là một… ngôi chùa – chùa Bồ, nằm ven đường Trần Thái Tông, gần nhà máy bia Hương Sen. Lý do thật đơn giản: Chùa Bồ nằm sát các trận địa pháo năm xưa và trong số những người tham gia đại đội nữ pháo thủ có cả sư thầy Thích Đàm Cầm, từng là người vừa tiếp đạn, vừa tiếp phẩm cho đại đội. “Ngày xưa, có báo động thì cả đại đội có mặt ngay dù bom rơi đạn nổ. Nay hòa bình rồi, “tập hợp” mãi mới được hơn chục người, ai cũng mải làm ăn, kiếm sống. Mà cũng đã 43 năm rồi…” – chị Đào Thị Hồng Loan, nguyên đại đội trưởng phân trần. 43 năm, thời gian và bao nỗi gian truân đã lấy đi nét thanh xuân của những nữ pháo thủ tuổi trăng tròn, tuổi đôi tám năm nào. Nữ đại đội trưởng Đào Thị Hồng Loan, “chị cả” của đại đội năm đó mới có 18 tuổi, nay tóc cũng đã điểm bạc. Chị bồi hồi nhớ về cái ngày ra đời của đại đội.

Năm 1969, để tăng cường khả năng phòng thủ bầu trời của lực lượng dân quân tự vệ tỉnh, Quân khu tăng cường cho lực lượng dân quân tự vệ thị xã Thái Bình 4 khẩu pháo cao xạ 37mm. Nhưng lúc này, lực lượng tự vệ thị xã còn rất ít nam giới nên đại đội nữ cao xạ được thành lập. Chị em tham gia đại đội hầu hết là những thiếu nữ trẻ vừa học xong cấp hai, đa số mới mười lăm, mười sáu tuổi, người lớn nhất như chị Loan cũng mới bước sang tuổi 18. Lý do chị Loan trẻ vậy mà trở thành đại đội trưởng cũng rất đặc biệt. Cha chị, ông Đào Văn Thạnh khi ấy là xã đội trưởng. Khi trên bàn giao pháo cùng thời điểm ông Thạnh được điều lên thị đội, chị Loan đã xung phong xin được giữ chức đại đội trưởng 37mm. Tham gia đại đội, dòng họ Đào còn có nhiều thiếu nữ khác như chị Đào Thị Liên, năm ấy mới 16 tuổi, chị Chiến 17 tuổi là chị em con chú con bác. Ngày 11-1-1969, đại đội pháo cao xạ được thành lập, gồm 300 lượt người, chủ yếu là nữ. Đây là những tự vệ thuộc các Công ty Cơ khí 2-9, Công ty Kiến trúc, Công ty Dược phẩm, các phường, xã Kỳ Bá, Quang Trung, Tô Hiệu, Hồng Phong, Đề Thám, Bồ Xuyên, Trần Phú… chia thành các khẩu đội thay nhau trực chiến. Họ vừa lao động, vừa huấn luyện, sẵn sàng bắn máy bay. Tỉnh đội cử đồng chí Phạm Thanh Tịnh ra tập huấn cho mọi người chỉ trong một tháng. “Lúc đó ngoài sự hăng hái “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” thì ai ở hợp tác xã nông nghiệp đi trực chiến sẽ được 15kg gạo /tháng, ai ở hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp sẽ được cộng thêm 15 điểm mỗi ngày” – chị Nguyễn Thị Lan nhớ lại. Mấy năm liền, các nữ tự vệ miệt mài bên mâm pháo, họ đã thành thục từng thao tác.

Pháo đè lưng vẫn vùng lên nổ súng

Rồi những ngày ác liệt cũng đến vào mùa thu năm 1972, máy bay Mỹ điên cuồng đánh phá thị xã Thái Bình. Trận đầu chạm trán máy bay Mỹ là sáng 17-8-1972, 5 chiếc F4H và 5 chiếc AD6 bay vào bầu trời thị xã. Chị Loan hô to: “Bỏ tốp thứ nhất, bắt chiếc đầu của tốp thứ hai”. Địch bổ nhào xuống nhà máy tơ, các khẩu đội dõng dạc nhả đạn nhưng chúng bay lướt qua nhanh quá. Song, ở phía huyện Vũ Thư, một đơn vị dân quân đã kịp nổ súng, hạ một chiếc F4H. Sáng 18-8, tiếp tục có 3 chiếc AD6 từ cửa Ba Lạt bay vào oanh tạc trục đường Tiền Hải. Dân quân huyện Đông Hưng đã hạ một chiếc. Những tin chiến thắng báo về làm cả đại đội thêm náo nức. “Liệu đại đội mình có bắn rơi máy bay được không? Chúng tôi tự hỏi và bảo nhau phải quyết tâm thật cao” – chị Loan kể. “Rồi ngày chiến đấu thứ 3 cũng tới. 7 giờ sáng 19-8, đúng ngày kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám thành công, 5 chiếc F4H từ cửa Ba Lạt qua trục đường 39 vào vùng trời thị xã Thái Bình, ném bom phá cầu Bo, trụ sở tỉnh ủy và nhiều nhà máy. Khi trắc thủ phát hiện, hô “8000, 6.500, 4000”, tôi đã lệnh “bỏ chiếc thứ nhất, bắt chiếc thứ hai, điểm xạ dài”. Sau loạt đạn dứt khoát, một chiếc F4H bỗng phụt khói, bốc cháy rồi lảo đảo rơi xuống hướng cửa Ba Lạt, cách trận địa khoảng 30km, tên phi công Mỹ nhảy dù xuống huyện Tiền Hải cũng nhanh chóng bị ta bắt. Các tốp máy bay khác thấy vậy kinh hoàng, cuống cuồng kéo nhau bay ra phía biển chạy trốn. Nhưng trước khi bỏ chạy, chúng điên cuồng ném bom vào trận địa. Loạt bom rơi rất may chệch các mâm pháo gần cạnh bờ đê, tạo cột nước bốc cao và gây sức ép rất mạnh, đẩy và hất tung các khẩu pháo. Chị Loan bị hất ngã, khẩu pháo đè lên lưng, day qua day lại. Người con gái nhỏ thó chỉ chừng 40kg tưởng như ngất đi, song chị đã vùng dậy tiếp tục chỉ huy trận địa.

Hôm ấy là một ngày dữ dội và tang tóc ở thị xã Thái Bình. Rất nhiều cán bộ và nhân dân hy sinh, trong đó có cả đồng chí phó chủ tịch thị xã. Đau thương chắc sẽ nhiều hơn nếu không có sự chiến đấu kiên cường và tiêu diệt máy bay của đại đội nữ pháo thủ. Chị Nguyễn Thị Ngần, pháo thủ nạp đạn khi thao tác bị hộp đạn kẹt mất hai đốt của ngón út, máu tuôn chảy. Vậy mà không nao núng, sau khi băng vết thương, chị vẫn không rời trận địa. Còn chị Đào Thị Liên và chị Nguyễn Thị Lan, pháo thủ tiếp đạn, lúc đó đều mới 16 tuổi, chỉ nặng chừng 40kg song khi đang lúc chiến đấu, đơn vị sắp hết đạn đã dũng cảm lao qua cánh đồng Bồ Xuyên, băng băng khiêng các hòm đạn nặng hơn 70kg trở về. Anh Vũ Văn Phương, một trong số ít “mày râu” tham gia đại đội kể: “Tôi lúc đó 18 tuổi, là bí thư Đoàn xã, tham gia đại đội ở vị trí nạp đạn. Qua chiến đấu, tôi rất khâm phục các chiến sĩ nữ. Họ nhỏ bé mà rất kiên cường. Lòng yêu nước đã khiến họ lớn hơn, mạnh hơn rất nhiều so với cái tuổi 16, 17 “ăn chưa no, lo chưa tới”.

Tin đại đội nữ cao xạ hạ máy bay loan nhanh khắp tỉnh. Trưa hôm đó, Thượng tá Đoàn Văn Vang, Tỉnh đội trưởng đã tới thăm trận địa, khen ngợi và thưởng “nóng” cho đại đội… một con bò. Cũng trong ngày, tỉnh đội trưởng đã ký quyết định tặng bằng khen cho đại đội và nhiều chiến sĩ tiêu biểu. Ba ngày sau, đại đội vinh dự được đón đồng chí Phi -đen Ca -xtơ-rô và đại biểu Đoàn thanh niên Grát của Liên Xô đến thăm. Phi -đen ôm lấy các nữ chiến sĩ nhỏ bé, tự hào nói: “Các đồng chí là biểu tượng quyết chiến quyết thắng của phụ nữ Việt Nam, dân tộc Việt Nam!”. Phi-đen còn tặng đại đội một lá cờ và nhiều huy hiệu.

Ngày gặp lại

Năm 1973, sau Hiệp định Pa -ri, trên lệnh cho đại đội tạm dừng trực chiến nhưng các cô gái vẫn cử các ca trực thay nhau bảo vệ pháo cho tới năm 1974, các khẩu pháo được kéo về bàn giao cho thị đội. Những nữ pháo thủ trở về với đời thường, không nhiều người thành đạt, có cuộc sống sung túc. Phần lớn số họ làm ruộng, buôn thúng bán mẹt, có tới 17 chị sau này quá lứa lỡ thì, không xây dựng gia đình. Mãi đến năm 2006, chị Ngô Thị Hòa, “em út” của đại đội nay đã trở thành… nhà báo và được biết có chế độ 290, trợ cấp một lần cho những người tham gia kháng chiến như các nữ pháo thủ, chị đã nhiệt tình cùng chị Loan đi tìm, tập hợp đơn vị, lập nên ban liên lạc. Họ đã được nhận trợ cấp một lần, dù ít ỏi nhưng cũng là niềm động viên, một vài người đã được công nhận là thương binh, nhưng cũng còn nhiều người chưa được công nhận. Nữ đại đội trưởng Loan bị pháo đè lên lưng sáng 19-8 song đã để lại dị tật cả đời, khiến chị bây giờ không thể ngồi xổm được.

Ngày gặp lại, tình đoàn kết một thời bên mâm pháo lại tỏa sáng. Họ thầm lặng giúp đỡ nhau vượt lên gian khó đời thường. Một quỹ “nghĩa tình đồng đội” trị giá hàng trăm triệu đồng được lập ra bằng sự tự nguyện đóng góp của những chị có điều kiện như chị Mai Thị Tuyết, Bùi Minh Nguyệt, Phạm Thị Cầm… Nhờ quỹ này, nhiều chị được vay vốn làm ăn, xây nhà, giúp con cái xuất khẩu lao động. Bận rộn với mưu sinh, song cứ đến ngày 19-8 mang âm hưởng của mùa thu cách mạng, các nữ pháo thủ lại “ới” nhau, vận quân phục kéo ra bảo tàng tỉnh Thái Bình, tới bên các khẩu pháo thân yêu của một thời, hình thành các khẩu đội, thao tác một lần cho đỡ nhớ pháo. Họ hàn huyên chuyện bắn máy bay Mỹ, chuyện nhà cửa, chuyện làm ăn. Loáng thoáng có cả chuyện tình yêu của thời bên mâm pháo. Trong đại đội, có nữ pháo thủ Thảo và nam pháo thủ Bao yêu nhau. Được ít lâu thì anh Bao có lệnh gọi nhập ngũ. Đêm trước ngày anh lên đường, Thảo xin phép đại đội trưởng tới gặp anh một tiếng để chia tay. Nhưng mãi đến 12 giờ đêm cô mới trở về. Đại đội trưởng kỷ luật nghiêm, vẽ vòng tròn bắt Thảo đứng nghiêm suy nghĩ. Bao thương người yêu, đến gặp chị thú tội đã “trót dại”…Ngày ấy, chuyện nam nữ như vậy là một cái gì đó rất ghê gớm nhưng may mà không có chuyện gì phức tạp hơn xảy ra. Bao vào chiến trường rồi hy sinh, Thảo ở vậy không lấy ai. Khi đại đội làm thủ tục công nhận chế độ 290, chị chưa kịp nhận thì bị ung thư, ra đi quá sớm…

Chuyện về họ là như thế và còn bao điều sâu lắng hơn thế mà chúng tôi mới phần nào ghi lại được về những nữ pháo thủ tuổi trăng non, về một thời con gái bên mâm pháo bảo vệ bầu trời thành phố quê lúa…

Ghi chép của Đức Toàn-Minh Khánh
qdnd.vn

Bản Lào nơi đầu nguồn sông Mã

QĐND – Từ thành phố Sơn La, ngược hướng Tây Bắc theo Quốc lộ 4G hơn 150 cây số, rẽ vào con đường tuần tra biên giới, đi độ chục cây số nữa là đến xã Mường Và, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La. Nói thì ngắn gọn vậy, nhưng ô tô chạy sấp ngửa cũng gần nửa ngày, vì đây là chặng đường hiểm trở bậc nhất Tây Bắc, nhiều đoạn men theo thượng nguồn “sông Mã gầm lên khúc độc hành” nghe rợn cả người.

Xã Mường Và có 27 bản, chủ yếu là người dân tộc Thái và Lào. Trong đó có 3 bản toàn bộ là người Lào là: Mường Và, Nà Vèn và Nà Khoang. Bản Mường Và đất rộng người đông nhất, nên tên bản được chọn làm tên xã. Từ đây ra đường biên giới Việt -Lào chỉ non chục cây số theo đường chim bay…

Chúng tôi lên thăm bản Mường Và một ngày cuối tháng 6-2012. ô tô bon bon trên con đường bê tông từ thị trấn Sốp Cộp, dọc theo thung lũng Mường Và về trung tâm bản. Hai bên đường hiện lên một khung cảnh thật hữu tình: Bên phải là những ngôi nhà sàn mái ngói dựa vào chân đồi san sát, nhà nào cũng có vườn cây, vạt rau, bể nước… Bên trái là cánh đồng vàng rực đang vào mùa gặt rộ, có cả những cỗ máy tuốt lúa đang nổ máy giòn giã giữa đồng. Thung lũng trải dọc theo con suối Mường Và nên ruộng bậc thang không dốc đứng như ở nhiều nơi. Đồng ruộng này, làng bản này sao thấy thân quen như một vùng trung du quê kiểng…

Một góc bản Lào ở Mường Và. Ảnh: Thiết Sơn

Nghe tôi nhận xét như vậy, Bí thư Đảng ủy xã Vì Văn Chỉnh hào hứng “khoe”: Cảnh sắc ấy của Mường Và mới dần dần hình thành độ chục năm gần đây thôi. Mường Và là bản cổ của người Lào từ hàng trăm năm nay. Ngôi tháp 5 tầng cao 13m trên ngọn đồi giữa bản, theo các nhà khoa học thì được xây dựng từ hơn 700 năm trước. Tháp Mường Và là một công trình kiến trúc độc đáo mang đậm bản sắc văn hóa Lào, được xếp hạng Di tích quốc gia từ năm 1960. Là một bản có truyền thống văn hóa, nhân dân cần cù lao động, nhiều năm qua được cấp trên quan tâm đầu tư, giúp đỡ… nhưng do nhiều yếu tố khách quan, chủ quan… nên cuộc sống của bà con ở đây vẫn hết sức khó khăn, tỉ lệ đói nghèo cao. Chỉ từ năm 2002, khi Đoàn Kinh tế -Quốc phòng Sông Mã về Sốp Cộp, những dự án xóa đói giảm nghèo và Chương trình 135 của Chính phủ mới thực sự mang lại những hiệu quả thiết thực…

Đầu tiên là những công trình điện, đường, trường, trạm… Năm 2009, công trình cấp điện Sốp Cộp -Mường Và khánh thành, một nửa số bản của xã -trong đó có 3 bản Lào -có điện quốc gia. Cuối năm 2010, con đường bê tông từ thị trấn huyện lên Mường Và hoàn thành, thay thế con đường cấp phối lồi lõm, sạt lở mỗi năm chỉ chạy xe được vài tháng mùa khô. Rồi các dự án mương phai thủy lợi, đường ống nước sạch, trụ sở UBND, trạm xá, trường học… cũng dần dần hoàn thiện. Đồng tiền “một ba lăm” của Nhà nước không bị thất thoát, làm sai, làm hỏng… nhờ có “bộ đội Sông Mã” tư vấn, hướng dẫn, giám sát… Cả cánh đồng lúa vàng rực kia cũng là nhờ bộ đội làm “mô hình trình diễn” cho bà con làm theo, từ áp dụng kỹ thuật thâm canh đến chọn giống mới… Rồi những ngôi nhà cao ráo xung quanh có vườn cây, vạt rau, ao cá, chuồng trại chăn nuôi sạch sẽ… cũng đều từ những “mô hình trình diễn” của “bộ đội Sông Mã” mà nhân rộng ra… Với những dự án lớn của Chương trình 135, Đoàn Kinh tế -Quốc phòng Sông Mã chỉ đóng vai trò tham gia phối hợp tư vấn, hướng dẫn, tổ chức thực hiện… Nhưng với các “mô hình trình diễn” về chăn nuôi, trồng trọt, vệ sinh môi trường… thì các đội sản xuất tự vay vốn cấp trên để thực hiện, khi có hiệu quả thì hoàn vốn và tiếp tục tái đầu tư để nhân rộng mô hình. Cũng có nhiều trường hợp, như đội sản xuất số 3, anh em tự trích lương cho một hộ vay hàng triệu đồng làm kinh tế gia đình dưới sự hướng dẫn gần như “cầm tay chỉ việc” của đội. Từ thành công của một hộ mà nhân rộng mô hình tự vươn lên xóa đói giảm nghèo cho nhiều hộ khác…

Bản Lào ở Mường Và bây giờ không chỉ cuộc sống vật chất khấm khá hơn trước mà đời sống tinh thần cũng khởi sắc. Mỗi bản có một đội văn nghệ hoạt động rôm rả lắm. Người Lào vốn thích múa hát mà! Con em trong bản năm nào cũng có vài cháu đỗ đại học, cao đẳng, nhiều trường ở tận các thành phố lớn, như: Hà Nội, Hải Dương, Thanh Hóa, Thái Nguyên. Nhiều con em bản Lào đỗ đạt, nay là cán bộ của xã, như: Lò Văn Thoong là Phó chủ tịch UBND xã, Lò Văn Hốt là Chủ tịch Mặt trận, Lò Văn Phanh là Chủ tịch Hội nông dân… Cán bộ của các ngành, đoàn thể trong xã là người Lào thì nhiều lắm!

Vâng, kể về những đổi thay tiến bộ của bản Lào ở bản Mường Và hôm nay thì còn nhiều chuyện lắm. Nhưng ngoài kia bà con đang gặt lúa rất đông vui. Năm nay Mường Và được mùa to, chúng mình ra đó là khắc nghe, khắc thấy, khắc biết mọi chuyện. Thế là chúng tôi hăm hở theo đồng chí Bí thư Đảng ủy xã ra thăm cánh đồng Mường Và đang kỳ gặt rộ…

Trần Ngọc Yến
qdnd.vn

Bài báo và bức thư của Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị

Hồi âm bài báo “Đôi mắt và cảnh đời người dũng sĩ”

QĐND – Những ngày này, ngôi nhà nhỏ bên bến đò Đống Cao (xã Yên Lộc, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định) của CCB Bùi Công Chiến tấp nập người vào ra. Bà con, đồng đội tìm đến chúc mừng anh vừa có được niềm vui bất ngờ sau hơn 38 năm chờ đợi: Anh đã được công nhận là thương binh sau 3 tháng kể từ ngày Báo Quân đội nhân dân Cuối tuần số 845 (11-3-2012) đăng bài về anh…

Việc khó

Bùi Công Chiến nguyên là chiến sĩ Đại đội 5, Binh trạm 41, Sư đoàn 473, Đoàn 559. Khi giữ chốt ở Điểm cao 619 Khe Sanh (Quảng Trị) vào năm 1971, cả tiểu đội hy sinh gần hết nhưng anh cùng 3 đồng chí còn sống vẫn bám chốt đến cùng. Riêng anh dù bị thương vẫn mưu trí, dũng cảm, lao xuống chiến hào bắt sống 12 tên địch. Anh được tặng Huy hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ hạng nhì, được nhà báo Duy Khán, phóng viên chương trình Phát thanh Quân đội nhân dân đến tìm hiểu, viết bài, làm thơ tặng anh. Năm 1974, anh Chiến phục viên về quê thì vết thương cũ trên mặt tái phát, con mắt phải bỗng dưng bị “nổ”. Hòa bình, anh lấy vợ, sinh con, phải ở tạm túp lều cạnh vó bè ven sông, bão lụt làm mất hết giấy tờ, chỉ còn duy nhất mảnh giấy xuất ngũ… Bẵng đi nhiều năm, Ban liên lạc Hội đồng ngũ tháng 8-1970 mới tìm lại được anh, thấy hoàn cảnh anh rất cơ cực, bèn quyên góp dựng giúp anh ngôi nhà nhỏ. Trong số đồng đội cùng nhập ngũ chiến đấu bị thương, chỉ duy nhất còn Chiến chưa được hưởng chế độ gì. Trong số đồng đội của anh, có một người làm ở Phòng Lao động, Thương binh và Xã hội huyện, nhiều lần được Ban liên lạc Hội đồng ngũ “giao nhiệm vụ” phải lo chuyện làm chế độ chính sách cho anh. Nhưng rồi, người đồng đội ấy cũng đành “bó tay” vì ngoài giấy chứng nhận xuất ngũ, anh Chiến không còn giấy tờ gì khác.

Dũng sĩ Bùi Công Chiến với cuộc sống khá khó khăn, chật vật hiện nay.

Chúng tôi đã về xã Yên Lộc gặp anh và viết bài “Đôi mắt và cảnh đời người dũng sĩ”. Trước khi đăng Báo Quân đội nhân dân Cuối tuần, tôi nói với anh Chiến cùng đồng đội của anh: “Tôi còn nhớ trường hợp anh Trần Quyết Định trong bút ký nổi tiếng mang tên “Thủ tục làm người còn sống” của nhà văn Minh Chuyên. Bài viết từ năm 1987 mà tròn 20 năm, cơ quan chức năng mới hoàn tất thủ tục để anh được công nhận là thương binh. Trường hợp của anh có lẽ còn khó hơn Trần Quyết Định”…

 “Người thật mà không lo được thì… buồn quỏ!”

Nhưng anh Chiến đã không phải chờ đợi lâu như anh Trần Quyết Định. Báo đề ngày 11-3-2012, nhưng vì là báo cuối tuần nên phát hành từ ngày 7-3 và ngay trong ngày hôm ấy, Thượng tướng Ngô Xuân Lịch, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị đã đọc bài báo và viết ngay bức thư gửi Đại tá Trần Văn Minh, Cục trưởng Cục Chính sách, chỉ đạo xử lý vụ việc. Đại tá Trần Văn Minh kể lại: “Hôm đó, tôi đang cùng đoàn công tác làm việc tại Cam Ranh thì bất ngờ nhận được điện thoại của Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, hỏi về bài báo. Phải đến ngày hôm sau ở Vùng 4 Hải quân mới có báo, chúng tôi lập tức đọc và triển khai xử lý. ít ngày sau trở về Hà Nội, tôi rất bất ngờ và xúc động khi nhận được bức thư viết tay của Thượng tướng Ngô Xuân Lịch, ghi: “Hà Nội, ngày 7-3-2012. Kính chuyển: Đồng chí Trần Văn Minh, Cục trưởng Cục Chính sách. Đề nghị Cục nghiên cứu số báo Quân đội nhân dân Cuối tuần số 845 (11-3-2012) “Đôi mắt và cảnh đời người dũng sĩ” phản ánh trường hợp cựu chiến binh Bùi Công Chiến. Tổ chức kiểm tra, xác minh, đề xuất với Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị trong thời gian sớm nhất”.

Thực hiện chỉ đạo của Thượng tướng Ngô Xuân Lịch, Cục Chính sách đã làm việc với Quân khu 3. Đúng một tuần sau, Cục Chính trị Quân khu 3 đã có Công văn số 1081/CCT-CT ghi nhận nội dung báo nêu là đúng và đề xuất việc giải quyết chế độ chính sách đối với anh Chiến. Tuy nhiên, theo Đại tá Trần Văn Minh, mọi chuyện cũng không dễ dàng vì nếu “chiểu theo” đúng những văn bản hiện hành, trường hợp anh Chiến là “rất khó”. Nghe Đại tá Trần Văn Minh báo cáo, Thượng tướng Ngô Xuân Lịch lặng đi hồi lâu rồi dặn dò: “Các đồng chí và Quân khu 3 đã xác minh, chuyện anh Chiến bị thương là có thật, được tuyên dương dũng sĩ là có thật. Người thật việc thật, một tấm gương chiến đấu anh dũng nay đời thường khó khăn thế mà không lo được chế độ thương binh cho anh em thì… buồn quá. Tôi giao cho các đồng chí phải làm việc với Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, tìm mọi cách giúp anh em, đó là trách nhiệm của chúng ta đối với đồng đội!”.

Một thời gian ngắn sau đó, Cục Chính sách đã trao đổi, thống nhất với Cục Người có công (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội) và nhận được sự đồng tình. Ngày 25-6-2012, Cục Người có công đã có Công văn số 614/CS-HP đồng ý vận dụng xác lập hồ sơ thương binh đối với anh Bùi Công Chiến. Nghe báo cáo lại sự việc, Thượng tướng Ngô Xuân Lịch rất mừng. Thượng tướng đã chỉ đạo phải làm ngay việc vận dụng xác lập hồ sơ, giải quyết giám định thương tật đối với Bùi Công Chiến, hoàn thành các thủ tục giám định, cấp giấy chứng nhận thương binh trước ngày 27-7-2012, nhân kỷ niệm 65 năm Ngày Thương binh -Liệt sĩ. Thượng tướng cũng chỉ đạo nên xây tặng gia đình ông Bùi Công Chiến một ngôi nhà tình nghĩa.

Chiều 20-7, Đại tá Trần Văn Minh báo tin vui cho chúng tôi: “Quân khu 3 đã hoàn tất thủ tục giám định thương tật và ra quyết định công nhận anh Chiến là thương binh, tỷ lệ thương tật 51%, đã chuyển hồ sơ cho địa phương làm chế độ từ tháng 7-2012. Bộ tư lệnh Quân khu 3 cũng đã quyết định tặng anh Chiến một ngôi nhà tình nghĩa trị giá 60 triệu đồng, khởi công vào ngày 22-7”. Nghe tôi gọi điện báo tin, anh Chiến đã bật khóc, chỉ nói được câu: “Các anh cho tôi gửi lời cảm ơn Thượng tướng Ngô Xuân Lịch, cảm ơn Báo Quân đội nhân dân!”.

Bài và ảnh: Nguyên Minh
qdnd.vn

Sống trong tình cảm của đồng bào, đồng chí

QĐND – Tháng tư năm 2012, trong chuyến đưa hài cốt liệt sĩ Nguyễn Xuân Cảnh từ Cà Mau về xã Tân Quang, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, ngoài những người ruột thịt còn có một số anh em cùng đơn vị của liệt sĩ, trong đó có vợ chồng chị Nga, anh Phóng. Chuyến ra Bắc lần này, sau khi đưa hài cốt của đồng đội mình về Hưng Yên, vợ chồng chị sẽ ngược lên Bắc Ninh thăm mộ liệt sĩ Nguyễn Công Đãn – Đại đội trưởng Đại đội 5, Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 10, Quân khu 9 những năm đánh Mỹ. Anh hy sinh tháng 5-1973 tại Long Mỹ, Cần Thơ. Chị Nga nguyên là văn thư của Trung đoàn 10 và anh Phóng -chồng chị, nguyên là Trợ lý chính trị trung đoàn.

Sau khi dự lễ truy điệu và đưa hài cốt liệt sĩ Nguyễn Xuân Cảnh ra nghĩa trang, chị Nga cùng chồng về xã Mộ Đạo, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.

Nhờ được báo trước nên khi vợ chồng chị về đến xã Mộ Đạo, mọi người trong gia đình liệt sĩ Đãn ùa ra tay bắt mặt mừng như đón người thân đi công tác xa trở về. Cô em gái và mấy người em dâu của liệt sĩ ôm chầm lấy chị Nga, mắt ngấn lệ. Sau một hồi trò chuyện, anh Kiên – em trai thứ tư của liệt sĩ, giờ là Chủ tịch UBND xã Mộ Đạo, đưa cho chị Nga cuốn sổ nhật ký của anh mình. Anh Kiên nói: “Gia đình em giữ gìn cuốn sổ này rất cẩn thận, coi đó như là báu vật mà anh Đãn để lại”. Cuốn sổ có bìa màu nâu nhạt, bên trong là những trang giấy đã úa vàng. Chị Nga chậm rãi lật từng trang và thực sự xúc động khi thấy ở trang thứ 8 của cuốn nhật ký, lá thư chị viết gửi cho anh Đãn ghi ngày 17-10-1972 được anh chép lại nguyên văn, rất trang trọng. Xin trích một đoạn trong lá thư đó: “Anh em ta quen biết đã lâu nhưng chưa có dịp tâm sự với nhau nhiều. Em chưa hiểu rõ về gia đình của anh. Em học tập ở các anh nhiều lắm. Các anh đã vì miền Nam ruột thịt vào quê hương em chiến đấu, không ngại gian khổ, hy sinh. Các anh luôn lạc quan yêu đời… Còn chuyện… chúng ta sẽ tạm gác lại chờ khi nào nước nhà thống nhất, Nam Bắc sum họp một nhà, không còn cảnh đầu rơi máu chảy, anh em ta sẽ nói chuyện sau. Khi nào lên trung đoàn họp, nhớ ghé thăm em nghe”.

Đọc xong lá thư, chị gục đầu vào vai chồng, kín đáo lấy khăn lau nước mắt. Ra nghĩa trang thắp hương cho người đồng đội, người anh -liệt sỹ Nguyễn Công Đãn, bằng giọng trầm hẳn xuống, chị Nga nói với mọi người: “Ra Bắc lần này đến thắp hương cho anh Đãn và đồng chí, đồng đội, vợ chồng tôi cảm thấy yên lòng. Anh Đãn hy sinh nhưng còn may mắn hơn nhiều liệt sĩ khác vì hài cốt được đưa về quê hương. ở Tây Nam Bộ, tôi biết, nhiều anh quê miền Bắc vào trong đó chiến đấu và hy sinh, nhưng đến nay không biết nằm ở đâu để quy tập vào nghĩa trang liệt sĩ. Chiến tranh đã lùi xa gần 40 năm rồi, xót xa lắm chứ!”.

Lần đầu tiên trong đời được ra miền Bắc, đến thắp hương cho anh em, đồng đội; trước sự đón tiếp đầm ấm, thân tình của người thân các liệt sĩ, chị Nga rất xúc động. Chị đã ghi lại những dòng cảm xúc của mình gửi cho gia đình liệt sĩ Nguyễn Công Đãn. Chị viết:

Cô gái Cà Mau lần đầu tiên ra Bắc

Nhớ lời của chàng trai Kinh Bắc

Quế Võ đây rồi

Mộ Đạo quê anh

Em đứng đây bên dòng sông Đuống

Trên con đê dài hun hút giữa hoàng hôn

Về quê anh, dù anh không còn nữa

Nhưng em ấm lòng với hai tiếng quê hương.

Anh nằm đây giữa làng quê Mộ Đạo

Trong vòng tay của bố mẹ yêu thương

Anh nằm đây giữa làng quê yên ả

Trong tiếng ru hời của mẹ ngày xưa

Hãy yên nghỉ và ngủ ngon anh nhé

Trong nắng chiều có hương lúa đồng quê

Em như nghe thấy khúc dân ca quan họ

Rằng người ơi, người ở đừng về

Bên mộ anh, nghe tim mình thắt lại

Anh nằm đây, em ngồi kế bên anh

Mà âm dương hai nẻo đường ngăn cách

Để em gọi hoài, gọi mãi tên anh

Em cố nén không để dòng lệ chảy

Nuốt vào trong những giọt mặn nồng cay

Vĩnh biệt nhé! Người anh, người đồng chí!

Em về đây, về lại đất phương Nam

Nếu có nhớ em, hãy nhìn về phương ấy.

Nơi cuối trời đất mũi gọi Cà Mau.

30-4-2012

Từ lá thư viết cho anh Đãn cách đây 40 năm đến những dòng cảm xúc viết bên mộ liệt sĩ Đãn đề ngày 30-4-2012, có thể thấy đây là một ví dụ sinh động về tình đồng chí, đồng đội, tình cảm lứa đôi của những cô gái Nam Bộ đối với những chàng trai miền Bắc vào Nam chiến đấu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta.

Vào những năm tháng đó, hàng triệu người con ưu tú ở miền Bắc đã lên dường vào chiến trường miền Nam chiến đấu. Và hàng vạn người trong số đó đã vĩnh viễn nằm xuống ở tuổi đôi mươi vì độc lập tự do của dân tộc.

Năm tháng sẽ qua đi, thời gian sẽ xóa đi tất cả, nhưng không ai được phép lãng quên sự hy sinh của các anh hùng, liệt sĩ. Họ sống mãi trong tình thương yêu, kính trọng, trong tâm tưởng của đồng bào đồng chí. Vì thế họ trở nên bất tử!

Minh Đức
qdnd.vn

Bản hùng ca Bộ đội Cụ Hồ xây dựng ngành dầu khí (tiếp theo và hết)

Bài 3: Binh đoàn “dời non, lấp biển”

QĐND – Chuyện cả một binh đoàn của quân đội đã được điều sang ngành dầu khí để xây dựng căn cứ dịch vụ tổng hợp trên bờ cho liên doanh Vietsovpetro đã trở thành như một huyền thoại trong lịch sử ngành dầu khí. Những con người làm nên huyền thoại ấy hiện nay đang ở đâu?

Cuộc chuyển binh rầm rộ

Sau khi Binh đoàn 318 Dầu khí giải thể, đáng tiếc là ban liên lạc của Binh đoàn chưa được thành lập, nên để tìm được những nhân chứng, tôi đã mất khá nhiều thời gian để liên hệ, tìm kiếm. Phải khó khăn lắm tôi mới tìm được Đại tá Trương Trí Công, nguyên Phó tư lệnh về Chính trị của Binh đoàn. Chúng tôi cũng đã vào Vũng Tàu để gặp các ông Bùi Xuân Chung, Đào Văn Tự, Phạm Hữu Chức – các cán bộ của Binh đoàn 318 năm xưa và ông Đỗ Trích – nguyên cán bộ của Tổng cục Xây dựng Kinh tế – Bộ Quốc phòng được điều xuống Vũng Tàu giám sát theo dõi việc xây dựng công trình dầu khí do quân đội thực hiện.

Qua câu chuyện của các ông, tôi được biết, sau giải phóng, Vũng Tàu chỉ còn là một vùng đất khá hoang vắng, với những bãi sú vẹt bao quanh rộng hàng trăm héc-ta và hàng chục ngôi biệt thự của Mỹ – ngụy bỏ hoang. Đường vào Vũng Tàu là con lộ 51 ngoằn ngoèo, rộng có 4m, hai bên đường là cỏ lau lút đầu người. Nhưng bằng nhãn quan chiến lược tinh tường, các lãnh đạo của ngành dầu khí khi đó đã chọn Vũng Tàu là địa điểm để xây dựng căn cứ trên bờ của ngành dầu khí. Ngắm nhìn địa thế vùng đất này, Bộ trưởng Đinh Đức Thiện khoanh một vòng tròn lớn trên bản đồ, đánh dấu nơi dự tính sẽ đặt căn cứ. Chỗ đó trên thực địa là một rừng sú vẹt và đầm lầy rộng mênh mông. Nhìn hiện trạng đó, chưa ai hình dung ra bằng cách nào, bằng phương tiện nào, nhất là lực lượng nào để có thể giải phóng mặt bằng rộng lớn và phức tạp ấy. Các công ty bên dân sự chào thua vì không đủ nhân lực và máy móc. Trên quyết định huy động quân đội gánh vác nhiệm vụ gian nan này.

Đồng chí Đỗ Mười đến thăm Binh đoàn 318 Dầu khí Tết Nguyên đán 1982. Ảnh tư liệu.

Thế là một cuộc chuyển quân rầm rộ lập tức được thực hiện. Sư đoàn 318 của Quân khu 4, đang ở Nghệ An thì được lệnh chuyển vào Vũng Tàu để xây dựng căn cứ dầu khí. Sư đoàn 336 đang làm nhiệm vụ ở bên nước bạn Lào cũng được lệnh chuyển về. Tương tự, Trung đoàn 526 (trung đoàn vận tải trực thuộc Bộ Quốc phòng), Trung đoàn 693 (tiền thân là Trung đoàn 4 Công an nhân dân vũ trang – nay là Bộ đội Biên phòng) ở Tây Ninh giáp biên giới với Cam-pu-chia, Bệnh viện 264 (cấp trung đoàn) và một số tiểu đoàn độc lập nữa như: Tiểu đoàn công binh, thông tin… cũng lần lượt được điều về Vũng Tàu. Tất cả các đơn vị nói trên hợp lại dưới một cái tên mới: Binh đoàn 318 Dầu khí (gọi tắt là Binh đoàn 318). Bộ Quốc phòng quản lý quân số, con người, còn nghiệp vụ thì do Tổng cục Dầu khí chỉ đạo. Binh đoàn 318 Dầu khí có vị trí và quyền hạn như một quân đoàn. Nói về quân số của Binh đoàn 318 Dầu khí, các nhân chứng chưa đưa ra con số thống nhất. Có ý kiến nói hơn một vạn quân, có ý kiến nói 2 vạn quân.

Bộ tư lệnh Binh đoàn này gồm: Tư lệnh là Đại tá Nguyễn Cận. Chính ủy là Đại tá Trần Nguyên Độ (sau đó ông Trần Nguyên Độ được phong Thiếu tướng, Tư lệnh kiêm Chính ủy). Phó tư lệnh là: Đại tá Nguyễn Cư, Đại tá Trương Chí Công. Tên giao dịch với bên ngoài của Binh đoàn 318 Dầu khí là: Xí nghiệp Liên hiệp Xây lắp Dầu khí. Cái tên này theo ông Trương Trí Công là có từ quyết định của Tổng cục Dầu khí từ năm 1979. Tư lệnh của Binh đoàn đồng thời là Tổng giám đốc, Phó tư lệnh là Phó tổng giám đốc.

Nhiệm vụ của con cháu Sơn Tinh

Mùa hè năm 1979, các đơn vị của Binh đoàn 318 Dầu khí bắt đầu về đóng ở Vũng Tàu để tiếp quản toàn bộ phần đất mà các đơn vị quân đội trước đây chuyển lại cho Binh đoàn. “Lúc ấy, bộ đội về tràn ngập thị xã Vũng Tàu. Thậm chí có cảm giác, quân còn đông hơn cả dân, đi đâu cũng thấy bộ đội”, ông Đào Văn Tự nhớ lại.

Lúc đó, đặc khu Vũng Tàu – Côn Đảo vừa được thành lập. Ngoài nhiệm vụ xây dựng các công trình dầu khí ở Vũng Tàu, Binh đoàn 318 Dầu khí còn xây dựng các công trình quốc phòng khác, đồng thời thực hiện sửa chữa và mở rộng sân bay Cỏ Ống ở Côn Đảo.

Lúc đó, Vũng Tàu chưa có mỏ đá, mà đại công trường cần rất nhiều đá. Binh đoàn 318 liền xây dựng mỏ đá ở hai xã An Ngãi và Phước Tỉnh của huyện Long Đất (nay là huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu). Mỏ đá ấy tồn tại suốt từ năm 1980 cho đến năm 1993 mới dừng, nó đã góp phần xây dựng cả thành phố Vũng Tàu.

Bộ đội lao động rất vất vả, ăn uống kham khổ, tuy đã được ưu tiên do lao động nặng. Mỗi người được cấp 18kg lương thực/tháng (sau tăng lên thành 21kg), nhưng chủ yếu là gạo cũ, sắn khô và bo bo. Thịt thì tiêu chuẩn mỗi người được 3 lạng/tháng. Từ cán bộ chỉ huy cho tới chiến sĩ đều ăn chung trong bếp tập thể.

Lưng trần trong sình lầy

Vì thời đó, Binh đoàn 318 Dầu khí là các đơn vị chiến đấu mới chuyển sang, chưa hề được cấp các công cụ của một đơn vị làm nhiệm vụ xây dựng, chủ yếu vẫn chỉ là các trang bị cá nhân của chiến sĩ làm nhiệm vụ chiến đấu bao gồm: Xẻng ngắn, cuốc chim, rồi mỗi tiểu đội thì có một chiếc xà beng, một hai chiếc búa… những công cụ để người lính đào hầm, đào hào.

Từ trái sang là các ông Đỗ Trích, Bùi Xuân Chung, Đào Văn Tự, Phạm Hữu Chức (các cán bộ Binh đoàn 318 Dầu khí) đến thăm cảng dịch vụ dầu khí tại Vũng Tàu – nơi trước đây họ đã góp sức xây dựng. Ảnh: Quang Phương.

Ông Phạm Hữu Chức nguyên là Thiếu tá, Phó chính ủy Trung đoàn 693 nhớ lại, lúc đó những người làm công tác tư tưởng như ông phải luôn xuống từng trung đội để động viên cán bộ, chiến sĩ vượt qua khó khăn. Ông thường nói với anh em: “Công việc vất vả ngày hôm nay là để góp phần chiến thắng nghèo đói, xây dựng đất nước ngày mai đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, vì thế các đồng chí phải nỗ lực vượt qua khó khăn”. Ý chí đã giúp người lính vượt qua những thử thách khắc nghiệt của thời chiến, lại một lần nữa là điểm tựa để họ vượt qua những gian khổ lúc dựng xây đất nước… Về sau, công trường của Binh đoàn 318 Dầu khí mới được cấp một số trang bị tân tiến, phương tiện vận tải cũng đầy đủ hơn. Trong đó, công nghệ búa máy đóng cọc do Liên Xô viện trợ lần đầu tiên được đưa vào sử dụng.

Ở bến cảng lúc đó được xác định là có vòng xoáy của sông Dinh tạo thành túi bùn. Nhưng không ai có thể ngờ túi bùn ấy lại lớn đến thế và có tác hại ghê gớm thế. Nhiều chỗ bùn lầy quá sâu, lúc làm móng phải nối cọc thì mới đủ độ dài cần thiết. Vào mùa mưa dông, có khi mưa xối xả đến mấy ngày, cát dưới đáy biển vận động mạnh, hàng cọc đã đóng xuống bị sức mạnh của thiên nhiên xô lệch hẳn, rồi đất lún khủng khiếp, bao nhiêu đất đổ xuống cũng bị hao hụt dần, thế là lại công dã tràng. Những người chiến sĩ nhìn công trình mất bao mồ hôi, công sức, nay bị hủy hoại mà lòng đau nhói. Sau đó, bằng các biện pháp kỹ thuật, binh đoàn đã khắc phục được các khó khăn, như vậy việc san nền mới xong.

Đến cuối năm 1983, bãi sú vẹt đã được dọn sạch, một phần của cảng cũng đã hoàn tất việc san lấp mặt bằng. Trước yêu cầu của tình hình mới, tháng 11-1983, Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ký quyết định thành lập Liên hiệp Xây lắp Dầu khí trên cơ sở các đơn vị của Binh đoàn 318 Dầu khí. Binh đoàn 318 Dầu khí giải thể. Cán bộ, chiến sĩ của đơn vị được tham khảo nguyện vọng: Một là nếu tình nguyện thì ở lại làm tại Liên hiệp Xây lắp Dầu khí. Nếu không, Bộ Quốc phòng cho chuyển về quân đội làm công tác khác…

Trong Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam hiện nay có hơn 4.300 người là cựu chiến binh và cựu quân nhân. Vì thế, cái chất bộ đội trong ngành dầu khí vẫn còn rất đậm. Mỗi khi gặp gian khó, thử thách, cái chất bộ đội mới thể hiện rõ nhất giá trị của mình. Bao hàm trong cái chất ấy chính là tinh thần đoàn kết, tính kỷ luật, chịu khó, chịu khổ, sáng tạo, quyết đoán, can trường, sẵn sàng hy sinh cái riêng vì mục tiêu chung… Công cuộc dựng xây ngành dầu khí vẫn đang được tiếp nối bởi những thế hệ ngày nay. Những người chiến sĩ vẫn đang ngày đêm xây dựng, bảo vệ ngành công nghiệp dầu khí, bảo vệ chủ quyền, thềm lục địa, bảo vệ tài nguyên và nguồn lực phát triển cho đất nước không chỉ cho thế hệ này mà cho cả các thế hệ mai sau.

———-

Bài 1: “Tổng động viên” cho ngành dầu khí

Bài 2: Chuyện người dầu khí… làm nông dân

HỒ QUANG PHƯƠNG
qdnd.vn

Bản hùng ca Bộ đội Cụ Hồ xây dựng ngành dầu khí (Bài 2)

Bài 2: Chuyện người dầu khí… làm nông dân

QĐND – Chuyện nghe thật khó tin, ấy thế mà hoàn toàn là sự thật. Cái thời đất nước vừa trải qua chiến tranh, khó khăn, thiếu thốn, cái thời “gạo châu, củi quế” – nghĩa là những thứ bình dị, những mặt hàng thiết yếu cho đời sống nhất cũng trở nên khó kiếm đến mức quý hiếm – thì người dầu khí đã phải làm những công việc của những bác nông dân “một nắng, hai sương”.

Trung tá đi cấy lúa

Hồi ấy, ngành dầu khí trong thời kỳ sơ khởi vất vả, gian nan. Vì thế phong trào tăng gia sản xuất, tự bổ sung thêm lương thực, thực phẩm diễn ra ở nhiều đơn vị trong ngành. Để cải thiện đời sống cho cán bộ, người lao động, Tổng cục Dầu khí quyết định thành lập một công ty đời sống, chuyên lo việc trồng trọt, chăn nuôi, tìm các nguồn lương thực, thực phẩm để cung ứng cho cán bộ, công nhân viên và gia đình có con em công tác trong ngành dầu khí.

Bộ trưởng Đinh Đức Thiện luôn lưu ý để “xin” những cán bộ quân nhu của Tổng cục Hậu cần (Bộ Quốc phòng) về phụ trách trồng trọt, chăn nuôi. Trung tá Nguyễn Xuân Đại, Trưởng phòng Quân nhu của Cục Quân nhu, Tổng cục Hậu cần được chuyển sang ngành dầu khí làm Giám đốc Công ty Dịch vụ Đời sống Dầu khí chuyên lo “cơm, áo, gạo, tiền”, trồng trọt, tăng gia để tăng cường cho anh em mỗi tháng vài cân gạo. Ngành dầu khí mở được hai nông trường: một nông trường trồng sắn và trại nuôi lợn ở Trị An (Đồng Nai), một nông trường trồng lúa ở Phụng Hiệp (Cần Thơ). Lúc đông nhất, công ty đời sống có khoảng 300 người, chủ yếu là các cán bộ, chiến sĩ từ quân đội chuyển sang.

Ông Nguyễn Xuân Đồng thời trẻ.

Ông Nguyễn Xuân Đồng, nguyên Phó chánh văn phòng Tổng cục Dầu khí cũng là một cán bộ quân đội chuyển sang ngành dầu khí và đã từng trong đoàn quân đi gieo hạt, trồng lúa ở tận vùng hoang hóa, sông nước Cần Thơ. Ông kể, đó là tháng 4 năm 1979, khi đang là Trung tá, Quyền trưởng phòng Đối ngoại – Bộ Tham mưu Quân chủng Phòng không – Không quân, ông được điều động chuyển sang Tổng cục Dầu khí. Cùng đợt này với ông còn có 23 cán bộ khác của Quân chủng Phòng không – Không quân chuyển về Tổng cục Dầu khí, trong đó có đại tá Trần Thái Vĩnh, Cục trưởng Cục Hậu cần của Quân chủng, chuyển sang làm Giám đốc Công ty Vật tư Vận tải Dầu khí.

Ông Đồng được điều về Công ty Dịch vụ Đời sống Dầu khí. Lúc ấy, công ty quyết định thành lập nông trường trồng lúa ở Phụng Hiệp (Cần Thơ). Ông nhận được lệnh vào trong nông trường ấy để tham gia trồng lúa, cùng đi với ông có khoảng 50 người nữa. Ông Đồng nhớ lại: “Lúc ấy, lãnh đạo công ty ra lệnh miệng, chứ không có quyết định bằng văn bản, chẳng phân công ai là chỉ huy, cũng chưa biết là đi rồi đến lúc nào thì về. Nhận lệnh là chúng tôi lên đường”.

Nhiệm vụ của đơn vị là tham gia Hợp tác xã Ninh Hiệp, huyện Phụng Hiệp, Cần Thơ trồng lúa rồi gửi thóc ra Hà Nội hỗ trợ thêm cho các gia đình cán bộ, công nhân viên ngành dầu khí. Mặc dù, chỉ tham gia đơn vị trồng lúa trong vài tháng, nhưng đó là những kỷ niệm mà ông Đồng không bao giờ quên.

Thuở ấy, sông nước Cần Thơ còn mênh mông, hoang hóa, dân cư thưa thớt lắm. Đội trồng lúa nước được giao hẳn một cánh đồng mút mát tầm mắt để canh tác, làm được bao nhiêu thì làm. Chèo xuồng mãi, cuối cùng đội cũng tìm được một vạt đất cao, rộng khoảng 500m2, thế là anh em quyết định hạ trại ở đó. Tất cả mọi người bủa đi chặt dừa, mượn thêm kèo cột, lấy lá dừa nước để lợp thành những lán trại dã chiến. Từ nơi hạ trại ra được xóm làng gần nhất cũng phải mất nửa ngày chèo xuồng. Cả đơn vị toàn là bộ đội chuyển sang. Là người lớn tuổi nhất, lại mang quân hàm trung tá, quân hàm cao nhất trong đội, nên ông Đồng được mọi người phong là chỉ huy.

Sinh hoạt của đội dã chiến chẳng khác nào bộ đội thời chiến tranh. Không có vật liệu để xây bể nước, đội dùng vại gỗ để hứng nước mưa, ngoài ra, còn dùng nước dừa để đun, nấu. Từ khoảng tờ mờ sáng là báo thức, cả đội đi thuyền gieo sạ trên cánh đồng mênh mông nước. Lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long chịu nước tốt hơn lúa ngoài Bắc. Nước dâng lên đến đâu thì lúa mọc lên đến đó.

Khoảng 5 giờ chiều, sau khi cơm nước xong là tất cả phải vào màn hết, vì muỗi nhiều như châu chấu, nằm trong màn mà quờ tay ra có thể bắt được muỗi. Đội trồng lúa được Tổng cục Dầu khí trợ cấp lương thực thời kỳ đầu khi chưa thu hoạch được lúa. “Cơm đủ no, thức ăn thì bắt được con gì ăn con đó, rau cỏ thoải mái lắm, nhiều nhất là rau muống. Đời bộ đội như thế đã là sướng lắm rồi, vì lúc còn chiến tranh, có khi còn phải chịu đói, chịu khát” – ông Đồng nhớ lại.

Thế rồi, nhờ sự nỗ lực của cả đội, nhờ “trời thương”, mùa lúa đầu tiên cho thu hoạch rất khá. Lúa được chuyển ra Bắc, đủ để cung cấp cho mỗi hộ gia đình dầu khí khoảng 5kg thóc/tháng. Được khoảng vài tháng, ông Đồng có lệnh điều động ra Tổng cục Dầu khí. Đơn vị trồng lúa tồn tại khoảng vài năm, sau đó do tình hình cung ứng lương thực ngoài Hà Nội đã khá hơn, nên đã có chỉ đạo ngừng sản xuất để tập trung chuyển sang công tác khác.

Vị đại tá và chiếc áo đi mượn

Thời ấy, cán bộ quân đội rất có duyên với nhiệm vụ lo đời sống cho ngành dầu khí. Chuyện thiếu tướng Tô Ký chạy tiền, lo lương thực cho ngành dầu khí vẫn còn in đậm trong tâm trí của những cán bộ ngành dầu khí thời kỳ đó. Ấy là năm 1977, ngành dầu khí gặp muôn vàn khó khăn, phải “giật gấu, vá vai” để lo đời sống cho người lao động. Được tin thiếu tướng Tô Ký chuẩn bị nghỉ hưu, biết được uy tín và cái chất “anh Ba” Nam Bộ của vị tướng này, Bộ trưởng Đinh Đức Thiện quyết ra Bắc một chuyến để xin Thiếu tướng Tô Ký “đầu quân” vào ngành Dầu khí. Lúc hai “thầy trò” Đinh Đức Thiện, Nguyễn Ngọc Ngạn (lúc đó là thư ký của Bộ trưởng Thiện) vào Tổng cục Chính trị thì vừa hay gặp Trung tướng Lê Quang Đạo, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị đang đứng ở sân, Bộ trưởng Thiện liền ngỏ lời. Thế là sau đó, ông Tô Ký được điều sang ngành dầu khí theo diện biệt phái, quân đội vẫn trả lương. Mấy năm công tác ở ngành dầu khí, ông Tô Ký trở thành “cây đũa thần”, cực kỳ đắc dụng trong việc chăm lo đời sống cho anh em. Ông là phái viên Bộ trưởng Đinh Đức Thiện, được phân công ở miền Nam lo chuyện “chạy gạo, chạy tiền” cho ngành. Ông Tô Ký đi khắp nơi xin lợn, xin gạo, xin thịt để về nuôi công nhân trong ngành. Thời ấy, mang được gạo, thịt từ tỉnh này, sang tỉnh kia đâu có dễ, ấy thế mà mấy anh công an chỉ cần nhìn thấy xe ông của Tô Ký hoặc người lái xe chìa tờ giấy ghi tay, ký tên “Tô Ký” thôi, chẳng có dấu má gì sất, nhưng vì nể trọng nên thường tránh đường cho xe đi.

Nói về cá tính của bộ đội khi giải quyết công việc chung, ông Đỗ Ngọc Ngạn, nguyên Vụ trưởng Vụ Lao động của Tổng cục Dầu khí, kể lại rằng, khó khăn nhất của thời kỳ đầu là phải xây dựng được chế độ, chính sách cho cán bộ, công nhân, người lao động ngành dầu khí. Tuyển được công nhân nhưng lương và phụ cấp không đủ sống thì họ “chạy” thôi. Tổng cục Dầu khí đề nghị nâng lương của cán bộ, công nhân viên ngành dầu khí cao hơn mức đang quy định. Các lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước đồng ý. Nhưng vẫn có một số ý kiến bên dưới phải đối kịch liệt. Để thuyết phục phía Liên Xô cũng không đơn giản. Khi đàm phán với ông Hatlkin, chuyên gia Liên Xô, ông Phan Tử Quang, Phó tổng cục trưởng đã cởi phăng áo ra ngay giữa cuộc họp và nói: “Tôi là Đại tá quân đội cũng vẫn phải đi mượn áo đây này”! Có lẽ, chuyện phải đi mượn áo để mặc không phải là chuyện hiếm ở một đất nước còn muôn vàn khó khăn thiếu thốn do vừa bước ra khỏi chiến tranh và bị cấm vận như Việt Nam lúc ấy. Sau đó, trước những lý lẽ có tính thuyết phục cao được đưa ra, các bên liên quan đã chấp nhận nâng lương cho cán bộ, công nhân viên dầu khí.

Ông Nguyễn Xuân Đồng và các chuyên gia dầu khí Liên Xô đi thăm Cố đô Huế.

Lại nói đến ông Nguyễn Xuân Đồng, người trồng lúa. Sau khi từ nông trường ở Phụng Hiệp (Cần Thơ) ra, ông công tác tại Tổng cục Dầu khí tại Hà Nội, trải qua nhiều cương vị. Ông về hưu năm 1990 với chức vụ cao nhất là Ủy viên thường vụ Đảng ủy, Phó Chánh văn phòng của Tổng cục Dầu khí. Năm 2011 vừa qua, ông được nhận Huân chương Lao động hạng nhất. Là cán bộ tiền khởi nghĩa, năm 2012 này, ông vừa tròn 65 năm tuổi Đảng. Hiện nay, cả gia đình ông, gồm 3 thế hệ đang ở trong một căn hộ chung cư tại khu tập thể của ngành dầu khí ở đường Thái Thịnh, Hà Nội. Rất tiếc là ông không hề có một bức ảnh nào của thời đi nông trường cho ngành dầu khí. Nhắc đến ảnh, ông cười nói: “Hồi ấy, chân lấm, tay bùn, cốt sao hoàn thành tốt nhiệm vụ, lấy đâu ra máy ảnh mà chụp”.

———————–

Bài 1: “Tổng động viên” cho ngành dầu khí

Bài 3: Binh đoàn dầu khí “dời non, lấp biển”

Hồ Quang Phương
qdnd.vn

Bản hùng ca Bộ đội Cụ Hồ xây dựng ngành dầu khí (Bài 1)

QĐND – Ngành dầu khí đang là ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, trong đó Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam là doanh nghiệp hàng đầu, doanh thu hằng năm lên tới hàng trăm nghìn tỷ đồng, đóng góp khoảng 20% GDP. Chắc ít người hình dung được, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam thịnh vượng ngày nay đã trải qua những ngày đầu vô cùng gian khó. Và, để có ngành công nghiệp dầu khí như ngày hôm nay, đã có sự đóng góp lớn lao về trí tuệ, công sức, mồ hôi, thậm chí cả xương máu của cán bộ, chiến sĩ các đơn vị quân đội. Gặp những chứng nhân của thời lịch sử ấy, chúng tôi càng thêm cảm phục tinh thần, ý chí, tính kỷ luật và sự trong sáng, vô tư của Bộ đội Cụ Hồ…

Bài 1: “Tổng động viên” cho ngành dầu khí

Những năm sau khi giải phóng miền Nam, cả nước bắt tay vào công cuộc tái thiết đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Để tạo động lực phát triển cho đất nước, một yêu cầu đặt ra là phải xây dựng được một ngành công nghiệp khai thác dầu khí, thực hiện theo mong ước của Bác Hồ.

Năm 1976, Chính phủ đã bổ nhiệm Trung tướng Đinh Đức Thiện, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần (Bộ Quốc phòng) làm Bộ trưởng phụ trách dầu khí. Ngay sau đó, Tổng cục Dầu khí được giao tiếp quản các cơ sở vật chất và tài liệu của các công ty dầu khí tại miền Nam. Bộ trưởng Đinh Đức Thiện đã có những đóng góp to lớn về chủ trương hợp tác dầu khí với nước ngoài, tạo tiền đề xây dựng cơ sở hạ tầng của ngành dầu khí, đã để lại những dấu ấn mang “cá tính Đinh Đức Thiện” trong lịch sử ngành dầu khí Việt Nam.

Đích thân Bộ trưởng Đinh Đức Thiện đi nhiều địa phương để khảo sát thực địa, cuối cùng ông xác định lấy Vũng Tàu làm nơi xây dựng căn cứ dịch vụ tổng hợp, cảng dầu khí cho Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro, cũng như cả ngành dầu khí. Quyết định sáng suốt này tạo tiền đề quan trọng cho những kế hoạch tìm kiếm, thăm dò khai thác dầu khí sau này.

Bộ trưởng Đinh Đức Thiện thị sát Vũng Tàu trước khi quyết định đặt căn cứ dịch vụ dầu khí tổng hợp tại đây.

Ngành dầu khí là ngành đặc thù, đòi hỏi công nghệ cao, tri thức tổng hợp: Địa chất, vật lý, hóa học, kinh tế học, cơ khí, dịch vụ kỹ thuật ở tầm cao. Công nghiệp khai thác dầu khí là ngành công nghiệp kỹ thuật đòi hỏi những cơ sở hạ tầng lớn, đồng bộ, khoa học. Muốn xây dựng các công trình dầu khí lớn thì phải có những đội quân xây dựng khổng lồ với trình độ chuyên môn, ý chí, với tính kỷ luật, tinh thần trách nhiệm cao. Và nhiệm vụ ấy đã được tin tưởng giao cho quân đội…

Rất may mắn, sau một thời gian tìm kiếm, tôi đã gặp được ông Đỗ Ngọc Ngạn, nguyên là thư ký của Bộ trưởng Đinh Đức Thiện. Như một cái duyên với dầu khí, sau bao năm công tác, ông Ngạn về nghỉ hưu tại một khu phố ở TP Vũng Tàu – nơi ngành công nghiệp dầu khí đang lớn mạnh từng ngày. Năm nay tuổi đã ngoài 80, ông Ngạn vẫn giữ được tính cách sôi nổi và hóm hỉnh của một anh Bộ đội Cụ Hồ năm nào. Quê ở Thọ Xuân, Thanh Hóa, tốt nghiệp Khoa Xăng dầu thuộc Học viện Hậu cần Vận tải ở Liên Xô niên khóa 1961-1964, ông Ngạn đã trải qua suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ trong ngành xăng dầu quân đội, hứng chịu bao trận bom khốc liệt của kẻ thù trên tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn. Ông đã mang quân hàm Trung tá, giữ chức vụ Tham mưu trưởng Cục Xăng dầu (Tổng cục Hậu cần). Sau này, ông Ngạn công tác ở Tổng cục Dầu khí, làm đến chức Vụ trưởng Vụ Lao động, đến năm 1991 thì nghỉ hưu. Nối tiếp con đường của cha, hai con ông cũng từng là bộ đội và giờ đây cũng đang công tác, phục vụ trong ngành dầu khí. Kể chuyện năm xưa, ông sôi nổi: “Khoảng cuối năm 1975, cuộc họp tổng kết ngành xăng dầu phục vụ chiến dịch Hồ Chí Minh có tướng Đinh Đức Thiện xuống dự. Sau cuộc họp, ông Đinh Đức Thiện nói với Đại tá Phan Tử Quang, Cục trưởng Cục Xăng dầu, Tổng cục Hậu cần: “Cho cậu Ngạn đi với tớ”. Thế là sau đó, ông Ngạn ba lô, khăn gói sang làm thư ký cho ông Đinh Đức Thiện. “Mình là người lính, trên điều động đi đâu thì đi chứ chẳng lăn tăn, thắc mắc gì, mặc dù lúc đó, mình đang rất tâm huyết với ngành xăng dầu quân đội”.

Chúng tôi được biết, lúc ấy, ngành dầu khí còn nghèo nàn cả về trang bị, vật chất và con người. Ông Đinh Đức Thiện chủ trương lấy người của quân đội sang để làm nòng cốt ban đầu cho ngành dầu khí, đồng thời tuyển chọn trong cán bộ, học sinh để tìm ra những người có đủ trình độ, cử đi đào tạo kỹ thuật dầu khí tại Liên Xô.

“Nhận được chỉ thị của thủ trưởng Đinh Đức Thiện, tôi lập tức đi “ngắm nghía” ở các đơn vị quân đội, để tìm những người thích hợp. Nhiệm vụ của tôi là phải lấy được các cán bộ từ cấp thiếu tá, chỉ huy từ trung đoàn trở lên để làm bộ khung lãnh đạo, chỉ huy cho các đơn vị, xí nghiệp ngành dầu khí. Công tác thẩm tra lý lịch của cán bộ ngành dầu khí được làm kỹ lắm, vì thế, càng chọn được cán bộ quân đội thì càng yên tâm” – ông Ngạn cho biết. Lúc ấy, chủ yếu lấy từ quân đội các cán bộ chính trị, quân sự; kỹ sư trong các lĩnh vực: Xây dựng, địa chất, vật lý; thợ cơ khí, thợ điện, lái xe để tăng cường cho đội ngũ của dầu khí. Cán bộ chỉ huy quân đội sang ngành dầu khí được bổ nhiệm làm đoàn trưởng, đoàn phó, hoặc phụ trách về mảng hành chính; cán bộ chính trị thì làm Bí thư Đảng ủy, Bí thư chi bộ các đơn vị, xí nghiệp.

Đoàn công tác thuộc Tổng cục Dầu khí và cán bộ Đặc khu Vũng Tàu – Côn Đảo ra thăm giàn khoan số 1 mỏ Bạch Hổ (ông Đỗ Ngọc Ngạn thứ 5, từ trái sang).

“Tâm lý nhiều anh em lúc đó thích ở lại bộ đội hơn, vì đã quen người, quen việc mà chế độ đãi ngộ cũng tốt hơn các ngành khác. Cấp trung tá như tôi lúc đó, tiêu chuẩn mỗi tháng là 18kg lương thực, 10 bao thuốc lá… Còn khi sang dầu khí, làm dân văn phòng nên tiêu chuẩn gạo chỉ còn 13kg lương thực (phiếu C) thôi. Hơn nữa, cán bộ cấp chỉ huy nếu ở lại quân đội thì còn cơ hội tiếp tục được thăng quân hàm nữa, còn sang ngành dầu khí, chế độ cũng chưa thật rõ ràng” – ông Ngạn bộc bạch.

Theo lời ông Ngạn, từ khoảng năm 1977 đến năm 1981, đã có rất nhiều cán bộ quân đội được điều sang ngành dầu khí, tiêu biểu là: Trung tướng Nguyễn Hòa, Tư lệnh Quân đoàn I chuyển sang làm Tổng cục trưởng Tổng cục Dầu khí; Thiếu tướng Tô Ký, Chính ủy – Tư lệnh Quân khu 3 được điều sang làm phái viên Bộ trưởng phụ trách dầu khí ở miền Nam; Đại tá Đặng Quốc Tuyển, Phó chủ nhiệm Tổng cục Xây dựng Kinh tế (Bộ Quốc phòng) kiêm Tư lệnh Binh đoàn 14 chuyển sang làm Phó tổng cục trưởng Tổng cục Dầu khí, phụ trách mảng cán bộ và đời sống; Đại tá Phạm Văn Diêu, Phó chủ nhiệm Tổng cục Xây dựng Kinh tế (Bộ Quốc phòng) sang làm Phó tổng cục trưởng Tổng cục Dầu khí phụ trách về xây dựng công trình ngầm, cảng biển; Đại tá Phan Tử Quang, Cục trưởng Cục Xăng dầu (Tổng cục Hậu cần) chuyển sang làm Phó tổng cục trưởng Tổng cục Dầu khí phụ trách về xây dựng và lao động; Đại tá Trần Sanh, Phó cục trưởng Cục Xăng dầu (Tổng cục Hậu cần) sang làm Viện trưởng Viện Dầu khí, sau là Chánh văn phòng Tổng cục Dầu khí; Đại tá Trần Thái Vĩnh, Cục trưởng Cục Hậu cần của Quân chủng Phòng không – Không quân chuyển sang làm Giám đốc Công ty Vật tư Vận tải Dầu khí; Thượng tá Hoàng Lộc, Chủ nhiệm Chính trị Trường Sĩ quan lục quân 1 sang làm Bí thư Đảng ủy Viện Dầu khí, sau làm Bí thư Đảng ủy Tổng cục Dầu khí…

Ông Ngạn còn nhớ rõ, ngày ấy, cán bộ quân đội có “uy” lắm, đi đâu cũng được nể trọng, chuyện tưởng khó trăm bề, hóa ra lại được giải quyết rất đơn giản. Các quân nhân chính là những “bảo bối” để giúp ngành dầu khí vượt qua khó khăn trong những buổi đầu gian khó. Một lời nói của cán bộ quân đội lúc ấy có thể tháo gỡ những vướng mắc chưa biết phải xử trí thế nào.

Khi muốn đưa giàn khoan ra ngoài Cồn Thoi – Cồn Ngạn (huyện Xuân Thủy, tỉnh Nam Định), yêu cầu đặt ra là phải có phương tiện thủy bởi giàn khoan này nặng đến mấy trăm tấn. Phương tiện thủy để vận chuyển được khối lượng ấy, chỉ có quân đội mới có. Bộ trưởng Đinh Đức Thiện liền viết thư tay ngỏ lời với Đại tướng Võ Nguyên Giáp mong được mượn phương tiện của quân đội để làm nhiệm vụ ấy. Thế là mọi chuyện được giải quyết rất nhanh chóng…

Năm 1981, trong lúc xây dựng tổ chức, cơ sở vật chất cho Liên doanh dầu khí Việt – Xô, yêu cầu đặt ra là phải có hàng vạn thợ với trình độ từ bậc 3 trở lên. Bộ trưởng Thiện lại điện thoại cho đồng chí Võ Văn Kiệt – lúc đó là Bí thư Thành ủy TP Hồ Chí Minh – đề nghị được tăng cường một số công nhân kỹ thuật. Đồng chí Võ Văn Kiệt đồng ý. Thế là trong suốt mấy tháng ròng, một đoàn xe mang dòng chữ: “Công nhân kỹ thuật tăng cường ngành dầu khí Vũng Tàu”, chở cả ngàn công nhân, cứ sáng thứ 2 từ TP Hồ Chí Minh ùn ùn kéo xuống Vũng Tàu, rồi chiều thứ 6 lại chở công nhân về.

—————

Bài 2: Chuyện người dầu khí… làm nông dân

Hồ Quang Phương
qdnd.vn