Thư viện

Chiều ba mươi Tết bên cạnh Bác Hồ ở chiến khu Việt Bắc

Bác Hồ chúc TếtNăm đó, 1951, như thường lệ, vào mùa đông cơ quan Phủ Chủ tịch và Phủ Thủ tướng đóng ở Bản Vèn, thuộc tỉnh Bắc Cạn, từ Đầm Hồng đi vào khoảng vài chục cây số. Rồi đến màu hè, hai cơ quan lại dọn về ở Châu Tự do, hoặc huyện Định Hóa, ở bên núi Hồng, từ Quảng Nạp đi vào cũng hơn 10 cây số. Hôm ấy chiều cuối năm âm lịch, trời tạnh ráo, nhưng gió buốt, lại các lán của cơ quan ở dưới bóng những cây to nên cái rét càng thấm vào da thịt.

Chúng tôi, anh em ở phủ Thủ tướng đốt củi ngồi sưởi ấm, nướng mấy củ sắn ngồi nói chuyện, kể những kỷ niệm về Tết ở quê nhà cho đỡ buồn, cho đỡ nhớ gia đình. Bếp của chúng tôi là những khúc gỗ to chụm lại, lúc lửa đã bén, thì các đầu gỗ cứ thế mà cháy âm ỉ, có khi suốt đêm suốt ngày không tắt, mường tượng như những đầu than âm và dương trong một bóng điện khổng lồ phát ra sức nóng và ánh sáng. Khoảng nửa tiếng đồng hồ một, mới cần đẩy các cây đầu gỗ lại gần với nhua. Bên bếp lửa hồng cháy đượm như vậy anh em đỡ rét, và đỡ lạnh lẽo trong lòng. Mọi người thi nhau nói những kỷ niệm lý thú nhất về cái Tết ở quê nhà, về những cái Tết lúc còn nhỏ, về cái thú đốt pháo, về cái thú theo mẹ theo cha, theo bà đi chợ Tết…

Câu chuyện đang đượm như lửa ấm thì Bác Hồ đi tới. Chúng tôi đứng dậy để chào thì Bác giơ tay ra hiểu bảo ngồi xuống và Bác cũng ngồi xen vào giữa chúng tôi bên cạnh bếp lửa trại. Ghế của Bác ngồi là một khúc gỗ được cưa bằng. Bác hỏi chúng tôi đã nấu bánh chưng chưa, và chương trình Tết của chúng tôi như thế nào. Chúng tôi báo cáo với Bác những trò vui mà chúng tôi định tổ chức với nhau ba ngày Tết. Bác dặn ngay là phải đi thăm đồng bào trong bản, cùng đồng bào tổ chức vui chơi ngày Tết đánh còn, thi bán chim, thi bắt cá trong hang suối…

Bỗng nhiên có một anh đứng dậy mạnh dạn thưa với Bác: “Thưa Bác tha cho, cho con được hỏi Bác một câu?”. “Chú cứ hỏi, và chú cứ ngồi xuống nói chuyện”. “Thưa Bác, tại sao Bác không lập gia đình?”. Tất cả chúng tôi lặng im đi một phút, một phần vì sợ Bác mắng do câu hỏi đường đột của đồng chí chúng tôi, một phần vì thấy nét mặt của Bác cũng dường như trầm ngâm trước câu hỏi đó. “Người ta ai cũng muốn có gia đình (giọng Bác nói thong thả và dường như có hạ cung bậc). Bác cũng là người như các chú, Bác cũng muón có đời sống gia đình đầm ấm. Nhưng các chú xem, hoàn cảnh của đời Bác không cho phép Bác lập được gia đình, đó là điều thiệt thòi cho Bác, mà Bác đâu có muốn thế!”. Rồi Bác cười: “Bây giờ thì muộn quá rồi! Bây giờ, gia đình Bác là tất cả các cô các chú, là tất cả bà con, đồng bào. Không có gia đình riêng, thì Bác lấy gia đình chung làm cái vui của Bác, làm cái ấm áp của Bác!”.

Giọng Bác nói khẽ trầm ngâm, chúng tôi nghe có người ứa nước mắt. Thấy vậy, Bác lại khuấy động không khí vào bảo chúng tôi hát lên cho vui, và bảo bới củ sắn ra cho Bác ăn với. Chúng tôi hát những bài kháng chiến quen thuộc, còn sắn thì mải câu chuyện không ai lật trở cho đều, cho nên đã cháy thui gần hết. Tuy vật Bác cũng cầm một mẩu nhỏ cùng ăn và khen sắn cháy càng thơm.

Trong đời chúng tôi đã ăn bao nhiêu cái Tết vui, ấm, lúc trong gia đình khi xa quê hương, nhưng chưa bao giờ lại có được một buổi chiều cuối năm ấm lòng như chiều Tết ở bản Vèn bên cạnh Bác. Rồi chiều mùng 1 Tết chúng tôi đi đánh còn với đồng bào ở ngoài đám ruộng khô, trong một thung lũng khá rộng, đi chúc Tết đồng bào, đi lội suối bắt cá… Sống cái Tết gần như cổ sơ, mà ngày tháng, giờ gấc tính theo độ lên xuống của mặt trời trên núi, mà sớm hay khuya không cần nhìn đồng hồ, chỉ nghe độ gió buốt lọt vào chăn cũng biết. ai có ngờ lúc đó, chúng tôi là một cơ quan đầu não kháng chiến là phủ Thủ tướng của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.

Theo vanhien.vn
Vknyo (st)

Xuân về càng thấm thía lời Bác dạy

Những khó khăn trong cuộc sống, những tác động tiêu cực ngoài xã hội những tưởng sẽ làm cho một bộ phận cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân (CAND) dao động và sa ngã. Nhưng những gì đang diễn ra theo chiều tích cực trong toàn lực lượng CAND, chúng ta có thể hoàn toàn đặt niềm tin và hy vọng. Bởi, những cán bộ, chiến sĩ CAND luôn khắc ghi những lời Bác dạy, dũng cảm vượt qua mọi khó khăn, thử thách để không ngừng trưởng thành.

xuan

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành nhiều tâm trí và tình cảm đối với lực lượng CAND. Ngay sau khi nước nhà giành được độc lập và trên cương vị Chủ tịch nước, ngoài việc ký ban hành các văn bản pháp lý làm cơ sở để xây dựng, phát triển lực lượng CAND, Người còn có nhiều bài nói, bài viết chỉ dẫn về công tác xây dựng lực lượng, về xây dựng đạo đức, tác phong của người cán bộ, chiến sĩ CAND. Tháng 3 năm 1948, trong thư gửi đồng chí Hoàng Mai, Giám đốc Công an khu XII, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị phải xây dựng cho được đội ngũ cán bộ, chiến sĩ công an vững mạnh đáp ứng yêu cầu của công cuộc kháng chiến, kiến quốc. Người chỉ rõ phương pháp rèn luyện “Tư cách người công an cách mệnh:

Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính

Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ

Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành

Đối với nhân dân, phải kính trọng lễ phép

Đối với công việc, phải tận tụy

Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo”.

Lời dạy của Bác ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, đã chỉ rõ nội dung xây dựng đạo đức, tác phong người cán bộ, chiến sĩ CAND. Tư tưởng xuyên suốt trong lời dạy của Người tập trung vào xây dựng con người. Khắc ghi lời dạy của Bác, lớp lớp các thế hệ cán bộ, chiến sĩ CAND không ngừng trưởng thành, vượt qua mọi khó khăn thách thức, trung thành tuyệt đối, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ cuộc sống bình yên cho nhân dân.

Trong những năm tháng đầu tiên của một đất nước mới giành được độc lập và trong suốt chặng đường dài của các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, trước những gian khổ hy sinh, khó khăn về đời sống vật chất, đội ngũ cán bộ, chiến sĩ CAND luôn rèn luyện và giữ vững bản chất của người công an cách mệnh. Thực hiện lời dạy của Bác “Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính”, “cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của đời sống mới, nền tảng của thi đua ái quốc…”(1), trong 65 năm qua, hình ảnh những người công an tận tuỵ với nhiệm vụ, nhiều tấm gương của những cán bộ, chiến sĩ CAND đã hy sinh vì cuộc sống bình yên của nhân dân, vì an ninh, ổn định chính trị – xã hội đất nước đã minh chứng cho phẩm chất cách mạng trong sáng của lực lượng CAND.

Lời dạy của Người luôn là mục tiêu, là đích vươn tới của mỗi cán bộ, chiến sĩ CAND. Trong cuộc đấu tranh hằng ngày, hằng giờ chống lại các loại tội phạm, loại bỏ cái ác, cái xấu, thường xuyên phải tiếp xúc với những tiêu cực, mặt trái của đời sống xã hội, đòi hỏi mỗi cán bộ, chiến sĩ CAND hôm nay phải luôn vững vàng trong nhận thức và hành động. Trước những biến động của đời sống xã hội, những âm mưu, thủ đoạn của bọn tội phạm và của các thế lực thù địch, ngày hôm nay với bản lĩnh chính trị vững vàng, đội ngũ cán bộ, chiến sĩ CAND tiếp tục vượt qua những khó khăn trong cuộc sống và hoàn thành tốt nhiệm vụ, nỗ lực học tập, rèn luyện và thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy. Trong toàn lực lượng CAND đã và đang xuất hiện ngày càng nhiều những tấm gương cán bộ, chiến sĩ không quản ngại gian khổ, hy sinh, tận tụy công tác, liêm khiết, dũng cảm chiến đấu, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng và các hiện tượng tiêu cực. Đó là những bông hoa đang nở rực rỡ trong sự tin cậy và yêu mến của nhân dân. Năm 2012, toàn lực lượng CAND có trên 4.000 lượt cán bộ, chiến sĩ được biểu dương, khen ngợi. Họ là những người lính dũng cảm đương đầu với hiểm nguy, kiên quyết truy bắt tội phạm buôn bán ma tuý, buôn người; đấu tranh với các tệ nạn xã hội; ngăn chặn các hoạt động vi phạm an ninh quốc gia, bạo loạn lật đổ do các thế lực thù địch kích động. Lực lượng Cảnh sát giao thông có 1.478 lượt cán bộ, chiến sĩ được biểu dương khen thưởng vì thành tích công tác, được tập thể và quần chúng ghi nhận: Liêm khiết, không nhận hối lộ, thực hiện đúng chức trách nhiệm vụ được giao(2). Những tấm gương đó là một phần của những kết quả đã đạt được từ phong trào “CAND học tập, thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy”, là kết quả tự rèn luyện phấn đấu của những cán bộ, chiến sĩ CAND với phương châm “Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính”, giữ vững bản chất của người công an cách mạng.

Nhưng bên cạnh những tấm gương tốt vẫn còn những biểu hiện tiêu cực trong một bộ phận cán bộ, chiến sĩ CAND. Do thiếu tự giác rèn luyện, không vững vàng về tư tưởng chính trị, một số cán bộ, chiến sĩ đã bị cám dỗ, bị kẻ địch và tội phạm lôi kéo, đánh gục, làm xấu đi hình ảnh của người công an cách mạng trong lòng dân. Để làm trong sạch đội ngũ, xây dựng lực lượng CAND ngày càng vững mạnh theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, hơn lúc nào hết cần phải tiếp tục quán triệt và đẩy mạnh phong trào học tập, thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy CAND trong toàn lực lượng, tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm chỉnh 4 nhóm giải pháp trong Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Mỗi cán bộ, chiến sĩ CAND phải coi việc học tập và thực hiện lời dạy của Bác Hồ đối là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt; phải tích cực, tự giác trong tu dưỡng, rèn luyện bản thân; thẳng thắn và trung thực trong kiểm điểm, tự phê bình và phê bình.

Xuân về, trong thời khắc giao hoà của đất trời, chúng ta càng thấy thấm thía về ý nghĩa và giá trị những lời dạy của Bác đối với CAND. Mỗi lần đọc lại là một lần hiểu sâu thêm về 6 lời dạy của Người, để tự soi mình, tự giác phấn đấu học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, để xứng đáng là người “Công an cách mệnh”.

——–

(1) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, H.1996, tập 9, tr.631.

(2) Nguồn: Tổng cục Xây dựng lực lượng CAND, Bộ Công an.

ThS. Lê Văn HạnhVăn phòng Bộ Công an
Tạp chí Xây dựng Đảng

Huyền Trang (st)

bqllang.gov.vn

Ngày Xuân thấm thía lời Bác: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”

Cách mạng Tháng TámNgày nay, đất nước đã im tiếng súng song chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”  vẫn còn nguyên giá trị, vẫn tiếp tục được phát huy. Độc lập, tự do hiện nay là phải làm sao để đất nước vừa mở rộng hợp tác quốc tế nhưng vừa giữ vững được quyền tự chủ về kinh tế, về chính trị, không bị lệ thuộc vào nước ngoài, đảm bảo toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền quốc gia và tự do, dân chủ, hạnh phúc cho mỗi người dân.

“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”! Đó là mục tiêu, là lẽ sống của dân tộc ta được Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết từ chính thực tiễn Việt Nam. Điều đó đã trở thành chân lý. Năm 1966, khi đế quốc Mỹ điên cuồng mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!” Lời của Bác đã trở thành quyết tâm sắt đá của mỗi người dân đất Việt.

Trải qua những năm dài chìm trong đêm trường nô lệ, người dân nào cũng thấu hiểu nỗi nhục mất nước. Nước mất độc lập thì dân đâu còn có tự do? Đất nước bị mất tên trên bản đồ thế giới, mọi quyền hành rơi vào tay kẻ cai trị bạo tàn, nhân dân sống đời nô lệ, tăm tối, bị áp bức, bóc lột đến tận xương tuỷ, đói khổ lầm than! Từ thực tế ấy không chỉ riêng Bác Hồ mà là cả dân tộc Việt Nam đều nhận thấy “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là một chân lý vĩnh hằng. Độc lập, tự do trong tư tưởng Hồ Chí Minh phải là độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn chứ không phải là thứ độc lập giả hiệu, độc lập nửa vời. Độc lập đó phải gắn với quyền tự quyết dân tộc, gắn liền với thống nhất đất nước, đảm bảo chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, chống lại mọi sự chia cắt. Độc lập đó cũng phải gắn với tự do, dân chủ và hạnh phúc của nhân dân, gắn với chủ nghĩa xã hội. Độc lập cho Tổ quốc, tự do cho nhân dân là tiền đề để đi đến CNXH; còn CNXH sẽ là cơ sở, là điều kiện để giữ vững sự độc lập, tự do ấy. Nếu nước được độc lập mà dân không được ăn no mặc ấm, không được hạnh phúc thì cũng chẳng có nghĩa lý gì. “Không có gì  quý hơn độc lập, tự do” đã trở thành chân lý, mục tiêu, lý tưởng của cả dân tộc Việt Nam và chính Hồ Chí Minh – người khái quát nên chân lý ấy, hơn ai hết đã hy sinh cả cuộc đời mình cho lý tưởng cao đẹp này. Suốt ba mươi năm bôn ba tìm đường giải phóng cho dân tộc, mang lại hạnh phúc ấm no cho nhân dân, biết bao hiểm nguy, gian khó, Người vẫn luôn khẳng định mà không hề nao núng rằng “tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn”. Người luôn tâm niệm một điều duy nhất là “làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.  Rồi đến khi về nước, lúc thì phải ẩn mình nơi hang đá, lúc phải đối mặt với những nguy cơ thách thức khốc liệt, Người luôn luôn chỉ nghĩ đến đất nước, đến nhân dân mà quên chính bản thân mình.

Khi Tổ quốc chưa được giải phóng hoàn toàn, Bác không lo cho hạnh phúc của riêng mình. Cả đến giấc ngủ cũng trằn trọc không yên vì “thương đoàn dân công đêm nay ngủ ngoài rừng, trải lá cây làm chiếu, manh áo phủ làm chăn, trời thì mưa lâm thâm, làm sao cho khỏi ướt”. Lòng Bác cứ nặng trĩu vì nhân dân, vì Tổ quốc mà quên nghĩ đến bản thân. Cuộc đời của Người là một tấm gương hy sinh quên mình vì lý tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Ngay cả lúc ốm thập tử nhất sinh Người vẫn dặn dò: “Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”! Một tấm gương, một con người mà cả thế giới nghiêng mình cảm phục!

“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, câu nói tuy ngắn gọn nhưng ý nghĩa thật bao trùm, trong mọi trường hợp đều có thể tóm được “mẫu số chung” trong câu nói nổi tiếng ấy. Với một cá nhân, một đơn vị, một ngành, một địa phương hay trong phạm vi một quốc gia nào cũng đều đúng cả. Trong cuộc sống, trong công tác và nhất là trong các mối quan hệ, một khi ai đó phải lệ thuộc vào người khác về tình cảm, về vật chất hay về ơn huệ, nói chung ít nhiều đều tự mình làm mất đi một phần độc lập, tự do của mình. Một người nhận hối lộ, tất không thể độc lập, tự do giải quyết vấn đề một cách vô tư…

Với câu nói của Bác, độc lập, tự do mang ý nghĩa thật lớn lao và đó là sinh mệnh của cả đất nước, dân tộc. Để có được độc lập, tự do, điều tất yếu là phải hiến dâng xương máu cho cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do; phải chiến đấu và chiến thắng để bảo vệ nền độc lập, tự do ấy. Trên bước đường tranh đấu với lý tưởng độc lập, tự do, thời gian và công việc là liều thuốc thử để nhận rõ phẩm chất, ý chí và lòng trung thành của mỗi người dân cũng như với cả dân tộc. Lịch sử từng hơn một lần chứng minh rằng, cái giá mà dân tộc ta phải trả để giành được độc lập, tự do là không hề nhỏ. Chính vì thế mà chúng ta càng phải nâng niu, quý trọng và đồng tâm dốc sức vì nền độc lập, tự do vẹn toàn và mãi mãi của đất nước; triệu người như một, quyết không khuất phục trước bất kỳ một thế lực phản động nào. Trong suốt cuộc đời cao đẹp của mình, dù ở hoàn cảnh nào Bác Hồ cũng nêu cao tinh thần độc lập, tự do. Chính lý tưởng đó tạo nên nghị lực phi thường, niềm tin sắt đá của Bác trên con đường bôn ba tìm đường cứu nước. Sau này, với cương vị Chủ tịch nước, một lần nữa Bác tiếp tục khẳng định giá trị của độc lập, tự do bằng câu nói bất hủ: Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập, tự do…

Ngày nay, đất nước đã im tiếng súng song chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”  vẫn còn nguyên giá trị, vẫn tiếp tục được phát huy. Độc lập, tự do hiện nay là phải làm sao để đất nước vừa mở rộng hợp tác quốc tế nhưng vừa giữ vững được quyền tự chủ về kinh tế, về chính trị, không bị lệ thuộc vào nước ngoài, đảm bảo toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền quốc gia và tự do, dân chủ, hạnh phúc cho mỗi người dân. Để phát huy tinh thần này chúng ta cần phải ra sức hành động, xây dựng đất nước giàu mạnh. Phải đẩy mạnh CNH, HĐH để đưa nền kinh tế đất nước phát triển nhanh, tiến kịp với các nước trên thế giới. Phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá, khoa học là nhiệm vụ trung tâm hàng đầu, đồng thời phải thường xuyên chăm lo củng cố quốc phòng an ninh, sẵn sàng đánh bại mọi hoạt động, âm mưu bạo loạn, lật đổ, xâm lược; bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ công cuộc lao động hoà bình của nhân dân ta. Cần phải phát huy những giá trị tốt đẹp của văn hoá dân tộc, khơi dậy lòng tự hào, tự tôn dân tộc trong mỗi người để nhân dân có thể tự ý thức được trách nhiệm của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

Theo Tạp chí Xây dựng Đảng
Huyền Trang
(st)

bqllang.gov.vn

Thiệp chúc Tết của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua các năm

thiep.5Thiệp chúc Tết của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1948

thiep 3
Thiệp chúc Tết của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1949

thipe.4
Thiệp chúc Tết của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1951

thiep .1
Thiệp chúc Tết của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1952

thiep.2
Thiệp chúc Tết của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1953

thiep tet 6
Thiệp chúc Tết của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1957

thiep tet  7
Thiệp chúc Tết của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1958

thiep  8
Thiệp chúc Tết của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1965

thiep   9
Thiệp chúc Tết của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1962

thiep  10
Thơ mừng Xuân Đinh Mùi năm 1967 của Chủ tịch Hồ Chí Minh

thiep  11
Thơ chúc Tết Mậu Thân của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1968

thiep 12
Thơ chúc Tết đồng bào và chiến sĩ Xuân Kỷ Dậu của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm1969

Kim Yến (Tổng hợp)
bqllang.gov.vn

Chuyện nhỏ về Bác Hồ với Tết trồng cây

Những năm 60 của thế kỷ trước, tôi là cán bộ phòng tuyên truyền của Tổng cục Lâm nghiệp. Cứ mỗi độ Tết đến Xuân về, cán bộ tuyên truyền ngành lâm nghiệp chúng tôi lại bận rộn vô cùng. Đó là việc chuẩn bị cho “Tết trồng cây” do Bác Hồ khởi xướng.

Trong Di chúc, Bác dặn trồng nhiều cây ở những nơi lưu niệm Người, không nên dựng bia đá, tượng đồng - Ảnh tư liệu

Trong Di chúc, Bác dặn trồng nhiều cây ở những nơi lưu niệm Người, không nên dựng bia đá, tượng đồng – Ảnh tư liệu

Năm 1969, không ai ngờ đó là năm cuối cùng Bác Hồ đi trồng cây ở xã Vật Lại (Hà Tây cũ). Tôi là người được bác Nguyễn Tạo – Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp – cử đi đưa công văn lên Văn phòng Phủ Chủ tịch. Công văn báo cáo việc trồng cây của các tỉnh và kế hoạch phát động “Tết trồng cây”, đồng thời đề xuất, bố trí địa điểm để Bác chọn và đến trồng cây.

Năm ấy,  đọc xong  báo cáo của các tỉnh, Bác đề nghị ông Nguyễn Tạo mời Bí thư tỉnh Nghệ An cùng đến Phủ Chủ tịch để báo cáo  thêm những vấn đề xung quanh về “Tết trồng cây”. Thấy Bí thư Nghệ An xách chiếc cặp to, Bác hỏi luôn: “Cặp của chú đựng gì mà to thế?”. Đồng chí bí thư bị hỏi bất ngờ nên hơi lúng túng: “Dạ thưa Bác, cháu mang đủ tài liệu của tỉnh để báo cáo Bác”. Bác bảo: “Hôm nay Bác không hỏi chú  nhiều, mà chỉ hỏi một việc về Tết trồng cây của tỉnh chuẩn bị và đã thực hiện như thế nào”.

Nghe đến đây, Bí thư Nghệ An thở phào nhẹ nhõm, liền báo cáo Bác: “Thưa Bác, năm nay Nghệ An đã phát động “Tết trồng cây” sớm, hiện đã trồng được một triệu bảy nghìn sáu trăm tám mươi cây, và sau cấy,  chúng cháu sẽ trồng tiếp mười lăm nghìn cây nữa ạ!”. Nghe xong Bác khen: Tỉnh Nghệ An quê Bác trồng cây như thế là tốt. Nhưng Bác muốn hỏi, Nghệ An trồng hàng triệu cây, vậy có bao nhiêu cây chết, chú có cho đếm được không?

Đồng chí bí thư không trả lời được, Bác nói tiếp: Nghệ An cũng là quê Bác, các chú làm không tốt thì Bác vui sao được, các chú chỉ nghĩ đến thành tích mà không nghĩ đến hậu quả, thế cũng là chưa thật thà với nhân dân. Trồng cây nào phải sống tốt cây ấy, phải biết chăm sóc cây, không để lãng phí công sức và của cải vật chất. Vậy “Tết trồng cây” năm nay Nghệ An phải làm tốt hơn nữa để bác vui.

Đồng chí bí thư xin hứa thực hiện thật tốt lời dặn dò vừa thân tình vừa như phê bình nhẹ nhàng của Bác. Quay về phía đồng chí Nguyễn Tạo, Bác nói: Chú Tạo phát động báo chí viết bài chú ý đến việc trồng cây nào sống tốt cây ấy.

Mấy ngày sau, trên báo Nhân Dân đã có bài  “Trồng cây nào sống tốt cây ấy” của Bác. Xúc tiến những chỉ thị của Bác, một tuần sau, các báo đều đồng loạt có bài viết về “Tết trồng cây”, phát động phong trào “Ông trồng cháu chăm”, rồi hàng loạt tranh cổ động in ra với câu ca: “Mùa xuân là Tết trồng cây/ Vâng lời bác dạy ta gây nên rừng…”. Lúc đầu “Tết trồng cây” còn là phong trào quần chúng,  chưa có quy hoạch cụ thể, vì thế chất lượng cây trồng chưa cao, từng vùng chưa chọn giống cây phù hợp. Sau này khi đi kiểm tra, đồng chí Võ Nguyên Giáp thấy nhiều đồi cây ít được chăm sóc, vì thế đã đề xuất: Thà có một cánh rừng của nhân dân còn hơn để đồi trọc của Nhà nước. Và cũng chính vì ý kiến ấy mà một số chính sách của Nhà nước đã dần dần phù hợp với đời sống, nguyện vọng của nhân dân. Việc giao đất, giao rừng cho gia đình và tập thể hoặc cá nhân đã được thực hiện.

Tết này của năm Quý Tỵ – 2013, đã hơn nửa thế kỷ, lời kêu gọi của Bác Hồ và chính Bác phát động “Tết trồng cây” vẫn mãi còn giá trị và đã đi vào nếp sống thường nhật của nhân dân. Đó là nếp sống văn hóa đầy tính nhân văn, song rất hiệu quả về kinh tế. Tầm nhìn của Bác như đã thấy trước những nguy hại của hiệu ứng nhà kính, của nền công nghiệp hiện đại đang hủy hoại môi trường, và cũng vì thế mà Bác nói: Rừng là vàng, nếu mình biết bảo vệ và chăm sóc.

Ấy thế mà nhiều cánh rừng của chúng ta hôm nay đang bị xâm hại, lâm tặc đang hoành hành, sự quản lý lỏng lẻo, thậm chí một vài nơi kiểm lâm còn tiếp tay cho lâm tặc phá rừng, đấy là tội ác! Giờ đây, mỗi lần Tết đến, chúng tôi lại càng nhớ những ngày đầu xuân được đi theo Bác trồng cây. Bác làm thơ, viết báo, lại còn  trực tiếp đi trồng cây, nói chuyện với nhân dân, vận động mọi người tham gia thiết thực “Tết trồng cây”. Tôi cũng được biết, câu thơ “ Mùa xuân là Tết trồng cây / Làm cho đất nước mỗi ngày một xuân”, sau Bác sửa thành “càng ngày càng xuân”. Nhớ lời Bác, chúng ta hãy giữ vững và phát huy nét đẹp ấy trở thành một mỹ tục làm cho “Tết trồng cây” như một ngày hội lớn và đó chính là chúng ta  đã biết “Học tập tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh” không trở thành hình thức.

TRẦN TRƯƠNG
baodanang.vn

Bác Hồ với báo Tết của thiếu nhi Hải Dương


Bác Hồ với thiếu nhi miền Nam Tết 1969.

Mùa Xuân này các bạn và các em có thể xem hàng trăm loại báo tết, trình bầy đẹp đẽ về hình thức, phong phú về nội dung, thể tài với nhiều khuôn khổ khác nhau theo tôn chỉ mục đích của mỗi tờ báo. Nhưng các bạn và các em khó tìm thấy một tờ báo ra đời cách đây hơn 60 năm của các em thiếu niên nhi đồng ở một tỉnh đồng bằng Bắc bộ. Tờ báo ấy bản in gốc nay chỉ còn ở Viện Bảo tàng cách mạng Việt Nam (Hà Nội). Đó là tờ báo “Xung phong” cơ quan ngôn luận của thiếu nhi yêu nước tỉnh Hải Dương – số tết Mậu Tý, khổ 20*16 dày 16 trang, do anh Quản Tập chủ biên.

Báo “Xung phong” được in hai mầu đỏ và đen, ngoài bìa 1 có vẽ hình hai em bé, một nam, một nữ đứng bên nhau, bụ bẫm, xinh xắn tươi cười hướng về tương lai. Giữa bìa là cảnh một cây nêu bằng ngọn mác xuyên thủng tên thực dân Pháp mũi lõ. Phía xung quanh chân cây “nêu” là bầy các em nhỏ đang quây quần ríu rít. Phía xa nữa là cảnh làng quê lũy tre xanh, lô nhô cờ đỏ sao vàng.

Ngay tết năm ấy, báo vừa xuất bản xong hãy còn thơm mùi mực, các em bàn nhau gửi lên chiến khu Việt Bắc kính biếu Bác Hồ. Bác nhận được báo “Xung phong” đúng vào dịp Tết Nguyên đán năm đó. Đọc xong, Bác tự tay đánh máy vào tấm danh thiếp một bức thư trả lời bằng 8 câu thơ lục bát:

“Bác nhận được báo “Xung phong”
Cảm ơn các cháu có lòng gửi cho
Các cháu nghe bác dặn dò
Phải biết yêu nước, phải lo học hành.
Siêng làm việc, siêng tập tành
Phải giữ kỷ luật mới thành cháu ngoan.
Bác yêu các cháu muôn vàn
Bác gửi các cháu một ngàn cái hôn”.

Vậy là trong làng báo chí cách mạng Việt Nam nói chung và Lịch sử, danh mục báo chí ở Việt Nam, có thêm tư liệu về tờ báo“Xung phong”. Càng vinh dự đó là tờ báo yêu nước đầu tiên của trẻ em cấp tỉnh lại được Bác Hồ gửi thư khen, động viên các cháu. Xuân Mậu Tý (1948) các cháu kính biếu báo tết Bác, Bác tặng thơ các cháu, cả hai món quà đều ý nghĩa. Già yêu trẻ, trẻ kính già.

LÊ HỒNG THIỆN
baohaiduong.vn

Tết trồng cây cuối cùng của Bác Hồ

Đồng chí có biết?

Trong Di chúc, Bác dặn trồng nhiều cây ở những nơi lưu niệm Người, không nên dựng bia đá, tượng đồng - Ảnh tư liệu

Trong Di chúc, Bác dặn trồng nhiều cây ở những nơi lưu niệm Người, không nên dựng bia đá, tượng đồng – Ảnh tư liệu

QĐND – Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến công tác trồng cây gây rừng. Ngày 28-11-1959, với bút danh Trần Lực, Hồ Chí Minh viết bài “Tết trồng cây” để phân tích ý nghĩa và lợi ích thiết thực của phong trào này và “đề nghị tổ chức một ngày Tết trồng cây, việc này tốn kém ít mà lợi ích rất nhiều”. Tết trồng cây đầu tiên đã được tổ chức ở miền Bắc vào đầu Xuân năm 1960. Từ đó, hằng năm, vào dịp đầu Xuân mới Bác Hồ lại đến một địa phương nào đó để trồng cây.

Địa điểm Người trồng cây cuối cùng là mùa Xuân Kỷ Dậu năm 1969 tại đồi Yên Bồ, xã Vật Lại, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội). Hồi ấy sức khỏe của Bác yếu nhiều, việc bố trí để Bác trồng cây ở một địa phương nào đó theo ý của Bác là một vấn đề rất khó khăn. Những người phục vụ Bác rất lo lắng nên nhiều lần đề nghị Bác hoãn lại việc trồng cây. Nhưng Bác rất kiên quyết. Bác gợi ý chọn xã Vật Lại, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây là nơi có phong trào trồng cây tốt.

Theo kế hoạch đã chuẩn bị, Bác đến địa điểm trồng cây. Đông đảo các đại biểu, các tầng lớp nhân dân đã đứng trên những đồi cây đón Bác. Bác trực tiếp trồng thêm một cây đa. Nhìn những xẻng đất, bình nước Bác tưới mát cho cây, mọi người ai cũng xúc động nghẹn ngào.Trồng cây xong, Bác cùng mọi người quây quần dưới tán cây và thân mật hỏi chuyện và chúc Tết mọi người. Tất cả mọi người có mặt trong buổi Bác trồng cây năm ấy không ai nghĩ rằng đó là mùa xuân cuối cùng và cũng là cái Tết trồng cây cuối cùng của Bác.

Ghi nhớ lời bác dạy 54 năm qua, nhân dân Ba Vì đã ra sức thi đua sản xuất giỏi, trồng nhiều cây xanh, năm nào cũng thực hiện tốt phong trào “Tết trồng cây” do Bác Hồ phát động. Xuân Quý Tỵ này, Ba Vì sẽ tổ chức ra quân thực hiện Tết trồng cây vào ngày 18-2 (tức là ngày mồng 9 Tết).

MINH HÀ
qdnd.vn

Mùa Xuân Tân Tỵ 1941 Bác Hồ trở về Pác Bó !

6. 1 bh 1941
Bác Hồ về Pác Bó, Cao Bằng (28/1/1941).

Sau 30 năm đi tìm đường cứu nước, mùa Xuân Tân Tỵ năm 1941, Bác Hồ của chúng ta đã trở về Tổ quốc!

Có cái gì đó giống như một câu chuyện cổ tích, kể về một chàng trai từ biệt quê hương. Anh đã ra đi, vượt qua biết bao núi cao, rừng rậm, biển cả… vượt qua biết bao thử thách, đói rét, tai ương… Và sau 30 năm ròng rã anh đã trở về, đem theo một cuốn sách quý thần kỳ…

Trong bài: “Sen của loài người”, nhà thơ Chế Lan Viên đã viết:

“Văn chương thế giới hay dùng chữ thần kỳ khi nói đến Hồ Chí Minh. Chỉ riêng việc “đi” của Người đã lắm nét thần kỳ. Nơi nào là nơi Người chưa đến trên thế giới?”. Ba mươi năm đi khắp các châu lục để tìm đường cứu nước. Một nhà nghiên cứu đã nói: Đó là một cuộc đi dài nhất so với mọi cuộc đi của bất cứ một anh hùng, chí sĩ nào đầu thế kỷ, và cũng có thể nói, đó là một cuộc đi dài nhất so với bất kỳ một lãnh tụ cách mạng nào trên thế giới! (1911-1941).

Mảnh đất Tổ quốc đầu tiên được đón bước chân Bác Hồ, là cái bản nhỏ Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Và chính ở nơi đây, trong những ngày đầu trở về Tổ quốc, Bác đã viết bài thơ:

Pác Bó hùng vĩ

Non xa xa, nước xa xa

Nào phải thênh thang mới gọi là

Đây suối Lê-nin, kia núi Mác

Hai tay gây dựng một sơn hà.

Tháng 2-1941

Đại tá Dương Đại Lâm, quê ở Pác Bó kể lại: Sau cái đêm đầu tiên nghỉ lại tại nhà một đồng bào Nùng có cảm tình với cách mạng, hôm sau Máy Lỳ – người chủ nhà – dẫn Bác và mấy đồng chí vừa về nước, theo một con đường nhỏ chạy ngoằn ngoèo qua rừng, lên một ngọn núi đá. Từ bờ suối trèo lên phải qua một đoạn dốc khá dài, cây cối rậm rạp, mới lên tới cửa hang. Hang không rộng lắm, có hai ba ngách nhỏ. Trong một ngách có tảng đá khá to, bằng phẳng, sau này mọi người gác cây rồi rải lá lên làm giường nằm. Gần đấy, một con suối nhỏ chảy quanh các tảng đá, rồi đổ xuống phía dưới, tung những bọt trắng xoá. Bác hỏi, Máy Lỳ bảo: “Ở đây mọi người gọi hang này là Cốc Bó, có nghĩa là đầu nguồn!”.

Vốn là một người yêu thích thiên nhiên, Bác tỏ vẻ thích thú. Khi đi xem cảnh vật chung quanh, nhìn ngắm mãi ngọn núi đá hùng vĩ, Bác bảo với mọi người:

– Chúng ta sẽ đặt tên cho ngọn núi này là Núi Các – Mác, còn dòng suối đẹp kia, nước trong vắt bắt nguồn từ ngọn núi ra, chúng ta sẽ gọi là Suối Lê-nin!

Tất cả mọi người đều tỏ vẻ tán thưởng!

Có người nói, nghĩ đến Bác Hồ là chúng ta nghĩ ngay đến sông núi, đất nước, và chính Bác cũng là người đặt tên cho đất nước, sông núi mình. Ngọn núi Các – Mác và dòng suối Lê-nin không những là biểu tượng cho một con đường cách mạng vĩ đại mà cả dân tộc ta ngay từ đầu đã lựa chọn, mà còn làm cho vùng đất núi non này như xa, rộng hẳn ra, gắn liền Việt Nam với Cách mạng thế giới!

Cũng ở hang Pác Bó này Bác Hồ còn viết bài thơ:

Tức cảnh Pác Bó

Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang!

                                    Tháng 2-1941

Đồng chí Vũ Kỳ kể lại: “Hành trang theo Bác trở về Pác Bó vẻn vẹn chỉ có một chiếc va ly xách tay bằng mây, trong đựng hai bộ quần áo đã cũ. Và tập tài liệu “Con đường giải phóng” tập hợp những bài giảng trong lớp huấn luyện ở Nậm Quang (Quảng Tây, Trung Quốc) do Bác phụ trách vừa mới kết thúc trước Tết mấy hôm”.

Về Pác Bó, Bác thường mặc bộ quần áo dân tộc Nùng, màu chàm, ống tay rộng. Thức ăn của Bác và anh em chỉ có rau bí, rau rừng, măng đắng, và ốc bắt ở suối. Tháng giáp hạt, nhân dân ăn độn ngô, Bác cũng ăn cháo, ăn ngô. Trời mưa, hang núi ướt lạnh thấu xương, từ các nhũ đá nước nhỏ giọt xuống đều đều không dứt. Để đỡ lạnh, mọi người phải đốt một đống lửa nhỏ. Nhưng thời gian này, Bác đã viết hàng chục bài thơ tuyên truyền cách mạng. Và cũng từ đây, trong hang đá đại bản doanh này, tháng 5 năm 1941, Hội nghị Trung ương lần thứ 8 của Đảng ta đã họp, định ra đường lối đấu tranh giải phóng dân tộc.

Hai mươi năm sau, Bác Hồ lại trở về thăm lại Pác Bó. Người viết bài thơ:

Thăm lại hang Pác Bó

Hai mươi năm trước ở hang này
Đảng vạch con đường đánh Nhật, Tây
Lãnh đạo toàn dân ra chiến đấu
Non sông gấm vóc có ngày nay!

                              Ngày 20-2-1961

Trong bài thơ này, không một chữ nói về mình, Bác chỉ nhắc đến Đảng, đến Dân, đến non sông gấm vóc! Với người khác, khi đi xa trở lại, thường kể về những ngày đầu gian khổ, nhưng Bác thì không! Bác Hồ của chúng ta là thế đó! “Nâng niu tất cả chỉ quên mình” (Tố Hữu).

Trong thời kỳ cách mạng và kháng chiến, trước sau Bác Hồ đã sống với đồng bào các dân tộc Việt Bắc trên 12 năm. Và núi rừng Việt Bắc, Chiến khu của Cách mạng, cũng đã trở thành tình sâu nghĩa nặng với Đảng, với Bác Hồ, trở thành niềm tin yêu, hy vọng của cả nước trong những ngày kháng chiến gian khổ:

“Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc cụ Hồ sáng soi”

Tố Hữu

Nói đến Việt Bắc, là nói đến “Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào”,  nói đến những an toàn khu Định Hoá (Thái Nguyên), Chiêm Hoá (Tuyên Quang) trong kháng chiến, nói đến Pác Bó, đã trở thành thơ, thành Di tích lịch sử Cách mạng cho muôn đời con cháu!

Mùa Xuân này trở lại Pác Bó thăm vùng đất “Đầu nguồn” Cách mạng, lòng chúng ta lại bồi hồi nhớ đến Bác kính yêu!

Năm 1911, một buổi sáng Nguyễn Tất Thành đã nói với một người bạn thân:

– Lê này, mình đã quyết định ra nước ngoài, đến nước Pháp và các nước khác. Mình muốn biết ở đấy họ sống và lao động ra sao, rồi sau đó sẽ trở về nước để giúp đỡ đồng bào mình.

– Cậu lấy tiền đâu để đi? Người bạn ngạc nhiên hỏi.

Nguyễn Tất Thành giơ hai bàn tay ra:

– Đây, tiền đây! Mình sẽ lao động, sẽ làm bất cứ việc gì để sống và hoạt động…

Thế rồi, chuyến đi lịch sử đã diễn ra. Ngày 5 tháng 6 năm 1911, Bến cảng Nhà Rồng tấp nập. Tàu đô đốc La-tút-sơ Trê-vin, một tàu lớn đang đón khách và lấy hàng. Một thanh niên mảnh khảnh, dáng học trò, bước đến trước viên Thuyền trưởng:

– Tôi đến để làm phụ bếp. Tên tôi là Văn Ba (anh là con thứ ba trong gia đình).

Và 30 năm sau, một con người đã mang hàng trăm tên, làm 12 nghề khác nhau, biết hơn 12 thứ tiếng, đã từng đi qua khắp các châu lục trên thế giới lại trở về Tổ quốc thân yêu của mình. Suốt 30 năm trời đằng đẵng, Người chỉ ước mong cái ngày hôm ấy. Đã nhiều lần, Bác tìm cách về nước, nhưng giặc Pháp giăng lưới cảnh sát dày đặc ở dọc biên giới. Trong khi đó Bác đã bị bọn thực dân Pháp và chính phủ Nam Triều kết án tử hình vắng mặt. Còn bây giờ, tình hình thế giới và trong nước có nhiều thuận lợi, phải gấp rút tìm mọi cách trở về lãnh đạo cách mạng.

Và Pác Bó, Cao Bằng, mảnh đất vùng biên giới đã có cơ sở cách mạng từ năm 1937 này, đã được Bác Hồ chọn là nơi về nước. Và thật không ngờ, ngày trở về Tổ quốc của mình lại đúng vào những ngày Tết, những ngày Xuân Việt Nam. Hoa mơ nở trên những cánh rừng biên giới như lặng lẽ chào đón người con thân yêu nhất của mình, trở về với một ước mơ lớn. Nhưng thời điểm đó không phải là ngẫu nhiên, chúng ta nhớ Hội nghị thành lập Đảng ở Cửu Long (Trung Quốc) Bác cũng chọn vào ngày mùng 5 Tết Canh Ngọ. Những ngày Tết dân tộc cổ truyền, là dịp thuận lợi nhất để che mắt địch.

Ngày trở về Pác Bó, Bác Hồ của chúng ta đã 51 tuổi. Và Người lại nhắc lại hình ảnh “Hai bàn tay” trong bài thơ Pác Bó của mình:

“Đây suối Lê-nin, kia núi Mác
Hai tay gây dựng một sơn hà”

Nhưng bây giờ không phải là hai bàn tay trắng lúc ra đi. Hai bàn tay ấy, hôm nay đã có chủ nghĩa Mác – Lê-nin dẫn đường, có đông đảo đồng bào, đồng chí và núi rừng cách mạng chở che.

Trước mắt Người đã là Mùa Xuân Tổ quốc, dù mới chỉ là mùa Xuân trên một cánh rừng biên giới. Song thật là kỳ diệu, lịch sử đã đi những bước đi ngàn dặm. Chỉ bốn năm sau, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dõng dạc tuyên bố với thế giới: Một nước Việt Nam Độc lập, Tự do, Thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ!

Non sông gấm vóc đã mở ra một thời đại mới, một thời đại mang tên Người – Thời đại Hồ Chí Minh!

 Bùi Công Bính
Theo baonamdinh.com.vn
Kim Yến
(st)

bqllang.gov.vn

Bác Hồ với mùa Xuân Hà Giang

Mùa Xuân như có một cái gì đó định mệnh gắn liền với Bác Hồ kính yêu của chúng ta. Có thể bắt đầu từ mùa Xuân năm 1930, khi cách mạng thế giới có những bước phát triển thuận lợi, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc với tư cách là đại biểu của Quốc tế Cộng sản, ngày 3.2.1930, Người đã sáp nhập ba tổ chức Cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam), tại Hương Cảng, Trung Quốc, đánh dấu một bước ngoặt lịch sử vĩ đại, mở ra một thời kỳ mới của cách mạng vô sản theo học thuyết Mác.

5.a1
Ảnh Tư liệu

Những năm tháng hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Bác luôn hướng về Tổ quốc, cùng Đảng tổ chức, lãnh đạo cách mạng Việt Nam đứng lên từng bước đấu tranh giành độc lập tự do cho dân tộc. Để rồi từ Bến Cảng Sài Gòn năm 1911, Bác ra đi tìm đường cứu nước, đúng vào mùa Xuân năm 1941, khi thời cơ cách mạng đã đến, Người từ Trung Quốc trở về Tổ quốc ngày 28.1.1941 tại vùng biên giới tỉnh Cao Bằng, trực tiếp cùng Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đứng lên đánh Pháp, đuổi Nhật, làm nên Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Con đường đi làm cách mạng của Người là cả một chặng đường lịch sử gắn với vận mệnh dân tộc. Có một nhà thơ đã viết: Cuối trời Bác đi ngàn sóng tiễn/ Ngày về hoa nở thắm vùng biên/ Ba mươi năm thức tìm chân lý/ Lập nước Việt Nam sáng vạn niên.

Mùa Xuân này Bác đã đi xa 44 năm. Với Hà Giang, kể từ mùa Xuân 1961 Người lên thăm Đảng bộ và đồng bào các dân tộc tỉnh nhà, đến nay đã 52 năm. Vậy là hơn nửa thế kỷ, trong trái tim đồng bào 22 dân tộc Hà Giang, hình ảnh Bác Hồ vẫn in đậm trong trái tim mỗi người dân như cơm ăn nước uống hàng ngày… Nhớ lại những tháng năm ấy, giữa lúc miền Bắc đang đẩy mạnh hàn gắn vết thương chiến tranh,kiến thiết đất nước tiến lên xây dựng XHCN, nửa nước – miền Nam vẫn còn dưới ách cai trị của đế quốc Mỹ xâm lược. Mặc dù bận trăm công ngàn việc, Bác Hồ đã lên thăm Hà Giang – một tỉnh biên cương cực Bắc của Tổ quốc, thể hiện tình cảm, trách nhiệm của Đảng, Chính phủ, của Người với đồng bào các dân tộc. Ngày lên thăm Hà Giang, trước Lễ đài tại sân vận động Người căn dặn: “Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh phải đoàn kết, ra sức tăng gia, sản xuất, phát triển chăn nuôi, khai thác lâm thổ sản, giữ gìn vệ sinh và cố gắng xóa mù chữ. Các dân tộc từ huyện đến khu cần phải ra sức giúp đỡ đồng bào rẻo cao…”. Thực hiện lời dạy của Người, những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, được sự giúp đỡ trách nhiệm của các bộ, ngành Trung ương, trực tiếp là Đảng bộ Hà Giang, 22 dân tộc anh em trong tỉnh luôn đoàn kết bên nhau, vượt qua nhiều khó khăn gian khổ, thách thức, không cam chịu đói nghèo, lạc hậu, thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng… đã từng bước đưa Hà Giang vươn lên xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế – xã hội, giữ vững quốc phòng – an ninh, xây dựng hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh, luôn xứng đáng là một tỉnh phên giậu vững chắc biên cương của Tổ quốc. Từ một tỉnh sau tái lập thuộc diện nghèo nhất nước, sau 21 năm chia tách, Hà Giang đã vươn lên trở thành tỉnh có nền kinh tế tốc độ tăng trưởng luôn cao, năm 2012 đạt 10,78%; thu nhập bình quân đầu người đạt 11, 1 triệu đồng/năm; thu ngân sách trên địa bàn đạt trên 1.200 tỷ đồng, tăng cao so các năm trước. Đặc biệt tỷ lệ huy động trẻ em trong độ tuổi đến trường đạt 98%; tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 30,06%; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn 1,76%; tỷ lệ che phủ rừng đạt 55,6%; tỷ lệ dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch 64, 5%v.v… Đến nay 100% các xã có đường ô tô trải nhựa đến trụ sở, nhiều xã có đường ô tô xuống thôn. Chương trình: Điện, đường, trường, trạm của tỉnh từ đại hội Đảng bộ tỉnh khóa XIII đã làm thay đổi diện mạo nông thôn, đặc biệt ở vùng sâu, xa, biên giới nâng lên rõ nét. 100% các xã có trụ sở làm việc của UBND, nhà trạm xá xã, trường học cao tầng, điện về xã, có nhiều nơi đến thôn… Chương trình bể nước, mái nhà, con bò ở 4 huyện vùng cao nguyên đá Đồng Văn đã cơ bản giúp cho gần 20 vạn đồng bào thoát khỏi cảnh thiếu nước trầm trọng vào mùa đông. Kinh tế thị trường đã tỏa sâu vào tận xóm thôn, làng bản, đồng bào các dân tộc thiểu số không còn xa lạ với từ kinh tế hàng hóa. Bà con ở vùng cao phía Bắc hay phía Tây… của tỉnh đã biết trồng cỏ để phát triển chăn nuôi bò hàng hóa, từ đó hình thành chợ bò ở huyện Mèo Vạc, Đồng Văn, Yên Minh… Trong lao động sản xuất, XĐGN đã xuất hiện hàng ngàn hộ đồng bào thiểu số lao động giỏi, XĐGN nhanh… Các chương trình đưa báo chí như: PT-TH đến với bà con đạt từ 92 đến 98%; báo Hà Giang và các loại báo ngành trung ương đã đến tận thôn, bản, trường học… không ngừng nâng cao dân trí cho đồng bào… Đặc biệt chương trình xây dựng nông thôn mới do Đảng ta lãnh đạo, hơn 2 năm qua bộ mặt nông thôn Hà Giang như một công trường xây dựng, được gắn với các chương trình, dự án đã nâng cao hiệu quả đầu tư, cộng sự đóng góp của nông dân bước đầu tạo cho nông thôn ở miền núi, biên giới vùng sâu, xa một nền tảng vững chắc để đồng bào xây dựng cuộc sống mới.

Mùa xuân mới lại về trên quê hương Hà Giang. Thị xã Hà Giang ngày Bác lên thăm nay đã thành thành phố khang trang, xanh, sạch, đẹp… Đồng bào các dân tộc Hà Giang đang phấn khởi đón xuân về, trong những cành đào, mận, lê trắng muốt… rộ nở khắp núi rừng, bà con các dân tộc như thấy Bác đang về thăm Hà Giang cùng mùa xuân. Hà Giang đang từng bước thực hiện rất tốt lời căn dặn của Người.

Theo Báo Hà Giang
Tâm Trang (st)

bqllang.gov.vn

Di chúc màu xanh!

Trong Di chúc, Bác dặn trồng nhiều cây ở những nơi lưu niệm Người, không nên dựng bia đá, tượng đồng - Ảnh tư liệu

Trong Di chúc, Bác dặn trồng nhiều cây ở những nơi lưu niệm Người, không nên dựng bia đá, tượng đồng – Ảnh tư liệu

“Mùa xuân là Tết trồng cây
Làm cho đất nước càng ngày càng Xuân”

Bác Hồ

Trong cuốn sách “Hồ Chí Minh – Vĩ đại một con Người”, Giáo sư Trần Văn Giàu viết: “Con người là tinh anh của thiên nhiên, thiên nhiên như cha mẹ của con người. Nhưng không phải mỗi ai đều biết yêu thiên nhiên, đều biết gắn thiên nhiên với cuộc sống chiến đấu của mình. Cụ Hồ đem hết nghị lực của mình cho đấu tranh xã hội, ấy vậy mà Cụ Hồ vẫn gắn bó với thiên nhiên đằm thắm. Ở Cụ Hồ thiên nhiên là bạn tri âm”.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng nói: “Chủ tịch Hồ Chí Minh có hai người bạn đời luôn cùng sống là con người và thiên nhiên”.

Năm 1959 Bác Hồ phát động Tết trồng cây, và từ đó Người thường xuyên theo dõi, nhắc nhở, động viên phong trào trồng cây cho đất nước xanh tươi.

Nhưng không phải chỉ có mùa xuân, Bác Hồ đã viết: “Tết trồng cây là ngày mở đầu cho việc trồng cây suốt cả năm”.

Nhìn những tấm ảnh Bác Hồ trồng cây ở khắp nơi, chúng ta đều thấy ánh mắt trìu mến và vui tươi, thể hiện một tình yêu cây của Bác.

“Vượt trùng dương chát mặn bốn phương trời
Bác thương nhớ từng bụi sim cằn cỗi
Mỗi cành lá quê mình xanh tiếng gọi
Bác trở về đất Mẹ – Bác trồng cây”

Đặc biệt, lúc sinh thời Bác Hồ đã trồng sáu cây đa. Cây đa đầu tiên Bác trồng mở đầu cho Tết trồng cây là ở Công viên Thống Nhất, Hà Nội. Và cây đa cuối cùng là ở xã Vật Lại, Ba Vì. Xin kể lại một vài sự tích về những cây đa Bác trồng.

Sáng ngày 31 tháng 1 năm 1965, huyện Đông Anh tổ chức Tết trồng cây ở xã Đông Hội. Nhân dân đi trồng cây rất đông. Trong tiếng trống ếch rộn ràng của các cháu thiếu nhi, các cụ già hăng hái đào hố, đặt cây.

Đúng lúc đó thì Bác Hồ đến thăm! Mọi người chen nhau vòng quanh Bác. Bác vẫy tay cho các cháu thiếu nhi im lặng rồi nói vui:

– Các cụ, các chú trồng mười cây sống cả mười cây thì hơn, hay trồng sáu mươi cây chết cả sáu mươi?

– Thưa Bác, chúng cháu quyết trồng mười cây ăn cả mười ạ.

Bác khen như thế là tốt, rồi Bác xắn quần cùng mọi người đi lên gò. Ở đây, bà con đang đào một cái hố rộng. Mọi người mời Bác cùng các cụ già trồng một cây đa. Bác vui vẻ nhận lời. Xem lại cây đa cẩn thận, đặt cây cho thẳng, rồi Bác cùng mọi người xúc đất tốt đắp vào gốc cây.

Từ đấy, các cụ già làng Đông Hội thay nhau chăm sóc cây đa Bác trồng. Cây đa ngày càng lớn, bà con bảo nhau xây tường gạch bao quanh gò, có đường lên xây bậc rất dễ đi. Giờ đây cây đa lớn đã được 48 năm. Mọi người qua lại vẫn thường ngồi nghỉ dưới bóng mát của cây đa Bác Hồ.

Tết Kỷ Dậu 1969 – Cái Tết cuối cùng của Bác.

Hồi này sức khỏe của Bác đã yếu hơn trước. Bác sĩ dặn dò cần tránh để Bác đi lại nhiều. Gần Tết, Bác hỏi đồng chí Vũ Kỳ:

– Chú Kỳ, Tết này các chú đã chuẩn bị cho Bác đi thăm những đâu?

Rồi Bác bỗng hỏi thêm:

– Chú có nhớ Bác phát động Tết trồng cây năm nay là năm thứ mấy rồi không?
– Thưa Bác, năm thứ mười ạ.

– Đúng! Nhân dịp kỷ niệm mười năm Tết trồng cây, chú bố trí cho Bác đi trồng cây ở một địa phương có thành tích.

Rồi Bác nói tiếp:

– Chắc chú còn nhớ cách đây năm, sáu năm, khi đi thăm xã trồng cây khá nhất, chúng mình có ghé nghỉ ở gần Trung Hà. Nhìn phía đồi trọc trước mắt. Bác có dặn đồng chí bí thư và chủ tịch Hà Tây là cần động viên các cụ trồng cây. Bây giờ, nơi đó thành một đồi cây đẹp rồi! Cho nên Tết này ta phải đến thăm và chúc Tết đồng bào.

Nơi đó chính là xã Vật Lại, huyện Ba Vì.

Đồng chí Vũ Kỳ kể:

– Nhắc đến đó, tôi đã thấy lo lo vì đường sá hơi xa. Không ngờ Bác lại nói thêm, muốn vào thăm trại chăn nuôi của chú Hồ Giáo, thăm các cháu miền Nam, trường Nguyễn Văn Trỗi và một hợp tác xã nông nghiệp giỏi nữa. Sau đó, chúng tôi phải sang nhờ Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói hộ với Bác, và thế là Tết năm ấy Bác đã đi thăm bộ đội phòng không, không quân, rồi trưa về thăm xã Vật Lại.

Đến Vật Lại, chào hỏi bà con xong, Bác lên ngay trên đồi trồng một cây đa. Trước khi trồng, Bác hỏi đồng chí bí thư đảng ủy:

– Cây đa này có rễ không chú?

– Thưa Bác có rễ chứ ạ!

Chúng tôi chưa hiểu vì sao Bác lại hỏi thế, thì Bác đã giải thích luôn, có lần Bác cũng đi trồng cây thế này, nhưng các đồng chí ấy không chuẩn bị trước, nên chặt luôn một cành cây to cắm xuống, rồi mời Bác xúc đất trồng cây.

Nghe xong, Bác cháu đều cười vui vẻ!

Ngày nay cây đa cuối cùng Bác trồng ở Vật Lại đã hơn bốn mươi năm, cũng là hơn bốn mươi năm Bác đã đi xa! Cây Đa Vật Lại giờ đã to lớn, rễ phụ chằng chịt với hàng chục cành lớn, vươn cao tỏa bóng xanh tốt quanh năm. Mùa xuân này, khách du lịch từ bốn phương về thăm vùng đất cổ Ba Vì, ai cũng muốn dừng chân tại Đồi cây Bác Hồ, để tận hưởng bóng mát của Người.

Ngồi dưới bóng cây đa lớn Bác trồng, lại nhớ đến những câu thơ của Bác đã viết về Tết trồng cây:

“Muốn làm nhà cửa tốt

Phải ra sức trồng cây

Chúng ta chuẩn bị từ rày

Dăm năm sau, sẽ bắt tay dựng nhà”

Hình ảnh Bác Hồ – Người trồng cây vĩ đại đã là đề tài cho biết bao nhà thơ viết về Bác. Và trên đất nước ta đã có biết bao những cây đa xanh và những loài cây khác tỏa bóng theo lời kêu gọi trồng cây của Người. Thiên nhiên là người mẹ, là cái nôi xanh của sự sống và con người khôn ngoan phải biết gìn giữ thiên nhiên, biết sống hòa hợp với thiên nhiên. Những năm gần đây, lũ ống, lũ quét, lở đất… cùng nhiều nguy cơ tiềm ẩn của thiên tai, đều có nguyên nhân do nạn phá rừng nghiêm trọng của chính chúng ta. Tình yêu thiên nhiên là một trong những tình cảm lớn của con người và yêu nước là phải yêu chính những cánh rừng xanh của Tổ quốc!
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, nhưng Người đã để lại cho chúng ta bao thế hệ người, bao thế hệ cây, như nhiều nhà thơ đã viết:

“Trong công cuộc gieo trồng vĩ đại
Bác để lại cho chúng ta
Bao thế hệ người, bao thế hệ cây
Cho mùa Xuân tô điểm nước non này!”

“Bác để lại đây Di Chúc màu xanh
Mà rễ đã ăn sâu vào lòng đất
Bao thế hệ đi qua trong vòm bóng mát
Cho lẽ sống của Người thấm mãi trong ta”

“Tết trồng cây đem lại những Mùa Xuân
Tầng đá ong cũng thấy mình trẻ lại
Thấy cây mọc lại nhớ lời Bác dạy
Thấy màu xanh lại nhớ Bác khôn nguôi!”

Bùi Hải Bình
baotintuc.vn

Nhớ lời Bác Hồ dặn khi Tết đến

Bác Hồ của chúng ta lúc sinh thời có viết tác phẩm “Mừng Tết Nguyên đán như thế nào ?”. Trong tác phẩm, Người căn dặn: “Suốt năm chúng ta thi đua lao động, sản xuất, những ngày Tết Nguyên đán chúng ta vui chơi một hôm để chào xuân, việc đó cũng đúng thôi… Chúng ta mừng xuân một cách vui vẻ và lành mạnh. Nếu có bao nhiêu tiền bỏ ra mua sắm hết để đánh chén lu bù, thế là mừng xuân một cách lạc hậu, thế là lãng phí, thế là không xuân”.

Vào những dịp Tết hàng năm, Bác dành thời gian đi chúc Tết không những các cơ quan, xí nghiệp mà còn đến thăm một số gia đình khó khăn, lam lũ làm ăn.

Chúng ta còn nhớ, qua những mẩu chuyện Bác đi chúc Tết đã được ghi lại. Cảm động nhất là Bác đến thăm chị Nguyễn Thị Tín, một người gánh nước thuê ở ngõ 16 Lý Thái Tổ trong đêm 30 giá rét và mưa phùn của Tết Nhâm Dần năm 1962. Với đôi thùng trên vai, chị vừa ra đến ngõ thì gặp Bác. Quá bất ngờ trước sự xuất hiện của Bác, đôi thùng trên vai chị rơi xuống đất. Tay chị run run nắm lấy tay Bác và nói trong sự xúc động chen lẫn tiếng nấc nghẹn ngào: “Cháu không ngờ lại được Bác đến thăm”. Bác vỗ vai an ủi chị: “Bác không đến thăm những gia đình như thím thì thăm ai…”.

Dịp Tết năm 1965, Bác đi thăm các cơ quan, đoàn thể ở Hà Nội, sau đó lên thăm công trường ở Việt Trì, nơi có chuyên gia và cán bộ, công nhân các nước bạn đang giúp ta, Bác nhắc nhở lãnh đạo đơn vị đại ý là phải chú ý chăm lo sinh hoạt của anh chị em trong ngày Tết. Đối với các đồng chí xa nhà trong dịp Tết Nguyên đán này, càng chú ý chăm sóc, các anh em công nhân người Âu, Phi lâu nay đã quen với phong vị Tết Việt Nam, nên làm sao cái Tết được vui vẻ hơn so với những năm trong kháng chiến… Tình cảm của Bác không chỉ dành riêng cho nhân dân mình mà còn cho bè bạn năm châu, thật là xúc động biết bao!

Không chỉ vậy, Bác còn căn dặn chúng ta phải hết sức tiết kiệm và chống lãng phí. Trong lúc đất nước đang khó khăn, việc cần, kiệm để xây dựng Tổ quốc là một nhiệm vụ, không ai được phép quên. Bác chê trách khi phát hiện có những nơi làm không đúng, gây lãng phí tiền của, công sức của nhân dân và Người từng nói:

“Mừng xuân mừng cả thế gian
Phải đâu lãng phí cỗ bàn mới xuân”.

Nhân dịp Tết Kỷ Dậu – 1969, đúng ngày mồng Một, Bác Hồ đến trồng cây ở xã Vật Lại, huyện Ba Vì tỉnh Hà Tây nay thuộc TP. Hà Nội. (Ảnh TL, TNN st)

Tết Nguyên đán Quý Tỵ – 2013 lại đến, cả nước ta tưng bừng đón chào năm mới. Mỗi chúng ta cùng khắc ghi lời Bác Hồ căn dặn. Đón Tết, vui Xuân mới với tấm lòng biết ơn Người, chúng ta nguyện quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng và nhất là tinh thần Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tư, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, để xây dựng Đảng ta luôn trong sạch vững mạnh, xứng đáng là người đầy tớ, là người lãnh đạo trung thành của nhân dân.

LÊ THANH SƠN
binhthanh.hochiminhcity.gov.vn

Bác là Mùa xuân hay Mùa xuân là Bác?

Bác là Mùa xuân hay Mùa xuân là Bác?

Bác Hồ thăm Nhà máy Diêm Thống Nhất (8/1956)

Tính đến mùa xuân này là tròn 44 mùa xuân Bác Hồ mãi mãi ra đi. Và cũng có nghĩa là 44 giao thừa không còn có được sự hồi hộp chờ đợi giây phút thiêng liêng: Bác Hồ đọc thơ chúc Tết đồng bào, chiến sĩ cả nước và kiều bào ở nước ngoài trên Đài tiếng nói Việt Nam.

CôngThương – Nhớ ngày Bác còn sống, cứ đúng thời khắc chuyển giao năm cũ sang năm mới, tất cả đất trời đang rộn rã tiếng pháo bỗng dưng im bặt. Trong mỗi căn nhà, mọi người như nín thở chờ đợi từ chiếc đài đường dây sau một hồi rẹt rẹt chợt lặng đi rồi bỗng cất lên tiếng cô phát thanh viên: Nhân dịp năm mới, mời đồng bào, chiến sĩ trong cả nước và kiều bào ở nước ngoài lắng nghe thơ chúc Tết của Hồ Chủ tịch. Sau đó là lời đầm ấm của Bác vang lên: Đồng bào, chiến sĩ và kiều bào ở nước ngoài thân mến! Các cháu thanh thiếu niên yêu quý…

Trong suốt cuộc đời mình, Bác đã làm tất cả 22 bài thơ chúc Tết. Có năm Bác đọc thơ sau lời chúc Tết nhưng cũng có năm Bác chúc Tết bằng thơ. Bài thơ đầu tiên là Thơ chúc Tết Xuân Nhâm Ngọ (1942), Bác đã viết: “Chúc đồng bào ta đoàn kết mau/Chúc Việt Minh ta càng tấn tới/Chúc toàn quốc ta trong năm này/Cờ đỏ ngôi sao bay phất phới!”. Bài cuối cùng Bác viết là vào năm Kỷ Dậu (1969): “Năm qua thắng lợi vẻ vang/Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to/Vì độc lập, vì tự do/Ðánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào/Tiến lên chiến sĩ đồng bào/Bắc- Nam sum họp, xuân nào vui hơn!”.

Những bài thơ chúc Tết của Bác thường mộc mạc đã gửi gắm tình cảm của vị lãnh tụ kính yêu tới đồng bào cả nước cùng với những lời hiệu triệu và chiến lược hành động của đất nước.

Trong bài Thơ chúc Tết 1969, nếu hai câu đầu là tổng kết năm cũ: Năm qua thắng lợi vẻ vang – vạch ra mục tiêu cho năm mới: Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to, câu thứ ba: Vì độc lập, vì tự do, và câu thứ năm: Tiến lên chiến sĩ đồng bào – là lời hiệu triệu thì câu thứ tư không những là phương châm hành động mà còn là lời khẳng định: Ðánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào.

Sau này, lịch sử thống nhất đất nước đã diễn ra đúng như lời thơ của Bác. Đế quốc Mỹ rút quân về nước một thời gian đến lượt chế độ Việt Nam cộng hòa sụp đổ hoàn toàn. Và Mùa xuân 1975 là mùa xuân cả nước vỡ òa trong niềm vui thống nhất: “Bắc- Nam sum họp, xuân nào vui hơn!”.

Thêm một mùa xuân mới đã về và cũng là thêm một mùa xuân vắng Bác nhưng lý tưởng của Bác, tình cảm của Bác vẫn còn mãi với non sông, đất nước. Bác không chỉ “nằm trong lăng giấc ngủ bình yên” mà Bác đã, đang và mãi mãi đồng hành cùng dân tộc. Mỗi người dân không chỉ thấy hình bóng Bác trong cuộc vận động Học tập tấm gương đạo đức của Người mà còn như thấy Người đang cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4.

Mỗi mùa xuân đến, có lẽ trong tâm tưởng của rất nhiều người Việt Nam ở trong nước cũng như ở nước ngoài đều nhớ về Bác, và tôi tin nhiều người cũng như tôi đều bâng khuâng tự hỏi: Bác là Mùa xuân hay Mùa xuân là Bác?

Nguyễn Thiệu Hưng
laodong.com.vn