Tập 9 của bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, bao gồm những tác phẩm, bài nói, bài viết, những điện vǎn, thư từ, … của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ đầu nǎm 1958 đến hết nǎm 1959. Các vǎn kiện in trong tập sách này thể hiện sâu sắc những quan điểm, đường lối và chủ trương của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc lãnh đạo nhân dân ta thực hiện những nhiệm vụ trước mắt của thời kỳ lịch sử mới “là ra sức xây dựng và củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, nhằm xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh” (tr.156).
Bước sang nǎm 1958, miền Bắc đã kết thúc thời kỳ khôi phục kinh tế đã kết thúc và mở đầu thời kỳ phát triển kinh tế một cách có kế hoạch. Chúng ta bắt đầu thực hiện kế hoạch 3 nǎm (1958-1960) mà trọng tâm là cải tạo nền kinh tế quốc dân và bước đầu xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, là hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh của đồng bào miền Nam đòi hoà bình thống nhất Tổ quốc. Đó cũng là nội dung chủ yếu được đề cập đến trong các bài viết, bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở tập sách này.
Về nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định là phải “đẩy mạnh cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp và công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa, đồng thời ra sức củng cố và phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, lực lượng lãnh đạo của nền kinh tế quốc dân (tr.319), trong đó “Hợp tác hoá nông nghiệp là khâu chính thúc đẩy công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc (tr. 589).
Để nông dân phát huy được vai trò tích cực và to lớn trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương từng bước đưa nông dân vào con đường hợp tác hoá nông nghiệp bằng những hình thức, bước đi thích hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ tổ chức và quản lý của cán bộ cũng như sự nhận thức và giác ngộ của nông dân.
Trong nhiều bài nói của Người với cán bộ và xã viên hợp tác xã nông nghiệp ở các địa phương, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh mục đích của việc hợp tác hoá “Là để cải thiện đời sống nông dân, làm cho nông dân được no ấm, mạnh khoẻ, được học tập, làm cho dân giàu, nước mạnh” (tr.537), muốn vậy, việc xây dựng hợp tác xã phải làm từ nhỏ đến lớn, “phải theo nguyên tắc tự nguyện tự giác, không gò ép” (tr.245), “phải tổ chức, quản lý hợp tác xã cho tốt” (tr.537), “Phải làm thế nào cho xã viên trong hợp tác xã thu nhập nhiều hơn thu nhập của nông dân trong tổ đổi công và tổ viên trong tổ đổi công thu nhập nhiều hơn thu nhập của nông dân còn làm ǎn riêng lẻ” (tr.410), “phải chú ý phân phối cho công bằng… cán bộ phải chí công vô tư,… phải dân chủ, tránh quan liêu mệnh lệnh,… cần chú trọng đến chất lượng, không nên chạy theo số lượng” (tr.537, 538), phải “ra sức thực hiện khẩu hiệu cần kiệm xây dựng hợp tác xã” (tr.539).
Nhấn mạnh quan điểm hợp tác hoá nông nghiệp là khâu chính thúc đẩy công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đồng thời rất chú trọng vấn đề cải tạo các thành phần kinh tế khác theo hướng đi lên chủ nghĩa xã hội. Đối với thợ thủ công, người buôn bán nhỏ và những người lao động riêng lẻ khác, Người chủ trương “bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm ǎn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất theo nguyên tắc tự nguyện”
(tr. 589). Với các thành phần kinh tế công thương nghiệp tư bản tư doanh và đối với tư sản dân tộc, cǎn cứ vào sự phân tích khoa học những đặc điểm kinh tế tư bản chủ nghĩa và thái độ chính trị của giai cấp tư sản dân tộc ở miền Bắc nước ta trong điều kiện chính quyền dân chủ nhân dân ngày một củng cố và không ngừng lớn mạnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương dùng phương pháp hoà bình cải tạo: “không xoá bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ; mà ra sức hướng dẫn họ hoạt động nhằm làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà nước. Đồng thời Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo chủ nghĩa xã hội bằng hình thức công tư hợp doanh và những hình thức cải tạo khác.” (tr.589).
Những chủ trương thấu tình đạt lý đó vừa thể hiện tư tưởng nhân vǎn Hồ Chí Minh, vừa củng cố được Mặt trận dân tộc thống nhất, phát huy tinh thần yêu nước của tất cả các tầng lớp, các giai cấp trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trong nhiều bài viết và bài nói của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: cải tạo và xây dựng là hai mặt có quan hệ chặt chẽ và phải được tiến hành đồng thời, trong đó xây dựng “là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài“. Người chỉ rõ, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nước ta phải tiến hành đồng thời việc cải tạo và xây dựng trên tất cả các mặt: lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, khoa học – kỹ thuật và tư tưởng – vǎn hoá nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất mới; phải đặc biệt coi trọng việc “phát triển thành phần kinh tế quốc doanh“, bảo đảm vai trò lãnh đạo của nó trong nền kinh tế quốc dân; phải gắn chặt nhiệm vụ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp;
Trong quá trình từng bước xây dựng một nền công nghiệp hiện đại, Người chủ trương phải chú trọng cả công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ, cả công nghiệp trung ương và công nghiệp địa phương theo phương châm “tự lực cánh sinh”, “Nhà nước và nhân dân cùng làm”.
Người còn chỉ rõ rằng khâu then chốt để đẩy mạnh phát triển công nghiệp là phải gắn chặt việc cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật và cải tiến tổ chức. Theo Người, để quản lý tốt xí nghiệp, “Tất cả cán bộ lãnh đạo phải thật sự tham gia lao động chân tay. Tất cả công nhân phải tham gia công việc quản lý các tổ sản xuất, dưới sự lãnh đạo của cán bộ các phân xưởng. Sửa đổi những chế độ và quy tắc không hợp lý.” (tr.230).
Đồng thời với việc lãnh đạo cải tạo xây dựng nền kinh tế nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm chǎm lo củng cố bộ máy nhà nước khi cách mạng Việt Nam đã chuyển sang giai đoạn mới. Những tư tưởng của Người về tính chất và tổ chức của một Nhà nước kiểu mới “của dân, do dân và vì dân” và sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, đã được khẳng định trong Báo cáo về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi…: “Nhà nước của ta là Nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo.” (tr.586). “Để xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, chúng ta cần phải tǎng cường không ngừng sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với Nhà nước dân chủ nhân dân.” (tr.586).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành sự quan tâm đặc biệt đối với việc xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân. Người xác định nhiệm vụ quan trọng cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân là “phải xây dựng quân đội ngày càng hùng mạnh và sẵn sàng chiến đấu để giữ gìn hoà bình, bảo vệ đất nước, bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.”(tr.140). Người giao cho quân đội ta một nhiệm vụ hết sức nặng nề và mới mẻ là phải vừa sản xuất, góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa từng bước xây dựng quân đội tiến lên chính quy, hiện đại.
Trong nhiều bài nói, bài viết của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên nhiều quan điểm sâu sắc, thể hiện đường lối đúng đắn và lập trường của nhân dân ta kiên quyết đấu tranh đến cùng cho sự nghiệp hoà bình thống nhất đất nước. Người khẳng định: “Nước Việt Nam là một, từ Nam chí Bắc chung một tiếng nói, một lịch sử, một nền vǎn hoá và một nền kinh tế. Nhân dân Việt Nam đã hy sinh nhiều xương máu đấu tranh cho tự do độc lập, quyết không một lực lượng nào ngǎn cản được sự nghiệp thống nhất Tổ quốc của mình. “ (tr.40). “Nguyện vọng tha thiết và ý chí sắt đá của toàn dân Việt Nam là thực hiện thống nhất đất nước bằng phương pháp hoà bình. Đấu tranh cho thống nhất là con đường sống của nhân dân Việt Nam”. (tr.53). Người còn chỉ rõ phương châm và phương pháp của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ này là phải đẩy mạnh cuộc đấu tranh bằng phương pháp hoà bình trên cơ sở pháp lý được quốc tế thừa nhận, đòi hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất Tổ quốc như Hiệp định Giơnevơ quy định, và để giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh đó thì mỗi người phải “ra sức xây dựng miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội”…, phải “làm cho chính trị, kinh tế, vǎn hoá, xã hội ở miền Bắc đều hơn hẳn miền Nam, làm cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh của đồng bào miền Nam và của cả toàn dân.” (tr.25).
Một nội dung hết sức quan trọng của tập sách này là những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ, về xây dựng con người mới, về rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ đảng viên. Người dạy: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa, muốn có con người xã hội chủ nghĩa phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa, muốn có tư tưởng xã hội chủ nghĩa phải gột rửa tư tưởng cá nhân chủ nghĩa” (tr. 303).
Trong bài Đạo đức cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ tầm quan trọng của việc rèn luyện đạo đức cách mạng: “Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải cóđạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang“. (tr.283). Người nói: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong.” (tr.293).
Ngoài ra, trong tập này còn có những bài nói, bài viết, trả lời phỏng vấn … của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những chuyến đi thǎm hữu nghị các nước hoặc đón tiếp các nguyên thủ, chính khách nước ngoài đến thǎm nước ta. Những bài đó thể hiện rõ những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về những vấn đề quốc tế, về đường lối đối ngoại hoà bình, hữu nghị và hợp tác trên cơ sở tôn trọng độc lập, bình đẳng và cùng có lợi.
*
* *
So với lần xuất bản thứ nhất, Tập 9 của bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập xuất bản lần thứ hai đã bổ sung thêm được trên 50 đầu tài liệu.
Tập ký Tình nghĩa anh em Việt – Ấn – Miến do Người viết dưới bút danh L.T., đǎng trên báo Nhân dân từ số 1447 (26-2-1958) đến số 1474 (25-3-1958), sau khi xác minh, đã được chính thức đưa vào tập sách này.
Trong phần Phụ lục, ngoài những Sắc lệnh và Quyết định do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký, chúng tôi còn đưa vào một số vǎn kiện như Tuyên bố chung, Thông cáo chung… của Người với nguyên thủ một số nước để bạn đọc tiện tham khảo và tra cứu.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song do hạn chế về thời gian và nǎng lực, chắc chắn tập sách này không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong nhận được sự góp ý của bạn đọc gần xa.
VIỆN NGHIÊN CỨU CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Bạn muốn download trọn bộ Hồ Chí Minh toàn tập
Tập 9 (1958 – 1959) hãy nhấn vào đây Down load
Bạn phải đăng nhập để bình luận.