Thư viện

Những cái tốt đẹp của nền vǎn minh Pháp (17-6-1924)

Trong cuộc thảo luận về vấn đề đại diện của dân bản xứ các thuộc địa tại Quốc hội Pháp, ông Pôn Tápponniê đã phát biểu ý kiến ở Hạ nghị viện như sau:

“Nước Pháp vốn hào hiệp và đức khoan nhân của nước Pháp được biểu hiện trong mọi trường hợp. Không có gì có thể sánh tầy nền vǎn minh Pháp” . Chúng tôi thành thật cảm ơn ông nghị ấy đã cho chúng tôi dịp tốt kể ra đây một số đức tính bất hủ của nước Pháp – ngoài cái đức tính rất cương quyết khai hoá dân bản xứ bằng đại bác và lưỡi lê.

Lễ độ. – Khuôn phép thực dân muốn rằng bất cứ người dân bản xứ nào – dù địa vị, tuổi tác ra sao, dù nam hay nữ – đều phải cúi đầu kính cẩn chào người Âu. Người ta từng thấy ở Đông Dương, ở Mađagátxca những người dân bản xứ bị ngược đãi, đánh đập và bị bỏ tù, chỉ vì Đã QUÊN Tỏ DấU TÔN KíNH Đó TRƯớC ĐứC UY NGHIÊM CủA CáC Vị ĐI KHAI Hoá. Mới đây thôi, một vị quan cai trị ở Métgiana (Angiêri) đã ra lệnh bắt những người dân bản xứ trong vùng cai trị của mình, vì mải làm không trông thấy quan lớn đi dạo chơi qua, nên đã dám không chào ngài.

Rộng lượng. – ở Đông Dương, thường nhân dịp đi chơi của một ông Giốpphrơ hay sinh nhật một ông Clêmǎngxô chẳng hạn, hoặc khánh thành một đài “liệt sĩ chết vì Tổ quốc” hoặc tiếp đón một phái viên của nền cộng hoà, thì các quan cai trị đều có mở “lạc quyên”. Các quan đã dùng cách như sau: Quan lớn cai trị cứ việc dựa theo dân số và thuế bạ của tỉnh mà quy định số tiền cần thiết cho cuộc lễ, nhân số tiền đó lên gấp 3, gấp 4 hay gấp 5, định ngày nộp, rồi đòi các kỳ hào hương lý đến và nói với họ: “Quan lớn cần tiền, đây là số tiền quan lớn muốn có, đây là kỳ hạn quan lớn định cho các người để nộp cho quan lớn. Hãy liệu lấy đấy. Nếu không thì…”. Để khỏi ngồi tù, các kỳ hào hương lý cứ việc mà “liệu”. Số tiền bị nhân lên của cuộc lạc quyên ép buộc thì dùng để “tỏ lòng tôn kính các bậc đại nhân”, còn số thành của bài tính nhân thì chui vào túi của quan lớn cai trị. Nông dân cứ è cổ đóng các thứ phụ thu luôn luôn như thế.

Lòng hào hiệp. – Tiếp theo châm ngôn “Đã có nước Đức trả” là câu châm ngôn “Đã có các thuộc địa trả”. Nước mẹ đòi hỏi các thuộc địa phải đưa tất cả sức lực của mình, tất cả khả nǎng của mình, tất cả ý chí của mình, tất cả tài nguyên của mình để giúp vào việc phục hưng kinh tế của nước mẹ, trong khi đó thì nước mẹ lại vừa cấm xuất khẩu pôtát của Andátxơ sang thuộc địa, để hoàn toàn dành riêng sản phẩm đó cho nông nghiệp Pháp.

Bình đẳng. – Các công dân Pháp phải làm quân dịch mười tám tháng; dân bản xứ các thuộc địa thì buộc phải phục vụ ba, bốn nǎm dưới ngọn cờ mà… mà… mà rốt cuộc người ta đã nhân danh nó để nhập vào nước họ rượu cồn, thuốc phiện, chế độ lao dịch, chế độ bốc vác nặng nề, chế độ dân bản xứ và sự cướp đoạt. Trong lúc người bản xứ bị tù đày vì những duyên cớ vu vơ, thì bọn thực dân và bọn quan cai trị phạm tội giết người, hối lộ, mua bán chức tước, ǎn cắp, vẫn nhẹ bước thang mây. Tôi không nói đến ngài Đáclơ, uỷ viên Hội đồng quốc gia tư vấn Nam Kỳ, hay ngài Bôđoanh, toàn quyền Đông Dương; chuyện của các vị ấy đã qua ba nǎm nay rồi. Tôi muốn nói đến hai viên chức ở Angiêri hồi tháng 4 vừa rồi, đã bị tố cáo công khai về tội dùng giấy tờ giả mạo, về tội thụt tiền công quỹ cùng các tội nặng khác, nhưng lại được tha bổng. Tôi cũng muốn nói đến mấy vị uỷ viên Hội đồng tư vấn người Âu cũng ở xứ thuộc địa đó, phạm tội giết người hay quả tang đồng lõa giết một dân bản xứ, mà vẫn không bị người ta đụng gì đến.

Tự do. – Một ngạn ngữ Gôloa nói rằng “Lao động là tự do”. Vậy nên dân bản xứ buộc phải làm lao động khổ sai. Mới đây Thượng nghị viện Pháp lại đã trịnh trọng thông qua bản tường trình của viên Toàn quyền xứ Đông Phi thuộc Pháp. Bản thuyết trình đó nói rằng “cần phải tránh những ảo tưởng cũng như những công thức; rằng sản xuất bông là một vấn đề của Nhà nước; rằng muốn đạt kết quả thì phải bắt buộc dân bản xứ trồng bông…”.

Bằng phương pháp đó, các thuộc địa hằng nǎm tất phải cung cấp được cho nước Pháp 10.000 tấn bông. Phương pháp đó đã từng được dùng ở Tây Phi thuộc Pháp (1) đối với vấn đề ca cao… Người ta cũng đã áp dụng phương phápđó đối với vấn đề bông và nǎm 1916, đã thu được tại vùng Bờ Biển Ngà 600 tấn bông.

Tuy vậy, nước Pháp dĩ nhiên vẫn là kẻ giải phóng cho loài người và là chiến sĩ tiền phong trong công cuộc huỷ bỏ chế độ nô lệ.

Nhân đạo. – Ông Boanớp, nghị sĩ da đen nói: Nước Pháp bảo hộ kẻ yếu và dạy dỗ những người lạc hậu. Misơlê nói: nước Pháp là chiến sĩ tiên phong của vǎn minh và là người đem lại các quyền tự do. Xarô, cựu Thủ hiến và Thủ hiến tương lai của Đông Dương nói: Chính sách thuộc địa của Pháp đầy tính chất nhân đạo và vị tha. Tạp chí Hàng không quân sự một lần nữa vừa cho ta biết rằng ở các thuộc địa người ta hiểu về lòng “nhân đạo” như thế nào. Xem đây: Thống chế Liôtây, toàn quyền Marốc, tổng chỉ huy quân đội T.O.M (2) đã cấm dùng đạn nổ có hơi ngạt và hơi làm chảy nước mắt, bởi vì… Nhưng ta hãy trích dẫn lời tạp chí đó: “Bởi vì mục đích nhằm đạt tới dĩ nhiên không phải là giết cho được nhiều người phiến loạn, mà là nhanh chóng làm cho họ phải phục tùng…”.

Với sự quá ư ân cần chǎm sóc đó, mà từ 1919, nghĩa là sau khi “công lý” và “chính nghĩa” thắng lợi trên thế giới thì ở Marốc, người ta đã giết hại 800 lính Pháp, 5.000 người Môrơ để sáp nhập 72.700 hécta ruộng đất cướp đoạt của người Marốc vào nước Pháp – “nước Pháp rộng 1 triệu mét vuông và 100 triệu dân cư”(1) .

NGUYỄN ÁI QUỐC

Tập san Inprekorr, tiếng Pháp,
số 32, ngày 17-6-1924.
cpv.org.vn

——————————–

(1) Ngay sau khi Nguyễn ái Quốc gửi bản Yêu sách của nhân dân An Nam tới trưởng đoàn các nước dự Hội nghị Vécxây, bọn bồi bút thực dân lồng lộn. Trên tờ Courrier Colonial ra ngày 27-6 có một bài nhan đề Giờ phút nghiêm trọng chỉ trích bản yêu sách : “Làm sao một người dân thuộc địa lại có thể dùng bản yêu sách của nhân dân để công kích Chính phủ Pháp. Thật là quá quắt. Cứ theo đà này thì bọn dân thuộc địa sẽ lên ngang hàng với người Pháp chúng ta và sớm trở thành ông chủ của chúng ta. Không được, phải kìm giữ chúng mãi mãi trong vòng nô lệ”. Nguyễn ái Quốc viết bài này là để trả lời bài báo sặc mùi thực dân trên. Tr. 1.

(2) Bản Yêu sách của nhân dân An Nam: Năm 1918, Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc. Ngày 18-1-1919, đại biểu các nước đế quốc tham gia chiến tranh họp hội nghị ở Vécxây (Pháp). Hội nghị này (còn gọi là Hội nghị hoà bình Pari) nhằm xác định sự thất bại của Đức và các nước đồng minh của Đức, chia lại thị trường thế giới cho các nước đế quốc thắng trận, chủ yếu là Mỹ, Anh, Pháp.

Nhân danh nhóm người yêu nước Việt Nam, Nguyễn ái Quốc đã gửi đến Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam. Nguyễn ái Quốc còn thuê in thành truyền đơn, đăng trên các báo, gửi đến các nhà hoạt động chính trị có tên tuổi, phân phát trong các buổi hội họp, mít tinh, gửi cho Việt kiều ở Pháp và gửi về nước. Tr.1.

Advertisement

Các nước đế quốc chủ nghĩa và Trung Quốc (24-9-1924) ‘1’

Những sự biến ở Trung Quốc có hai mặt: sự xung đột giữa các tướng lĩnh Trung Quốc và sự can thiệp của các cường quốc bên ngoài. Chính mặt sau này làm cho chúng ta quan tâm hơn cả, vì nó quyết định cuộc chiến tranh nồi da nấu thịt có thể đưa lại những hậu quả nghiêm trọng nhất.

Hãy thử tóm tắt lịch trình những cuộc can thiệp của nước ngoài trong quá khứ để tìm ra nguyên nhân thực tế, lý do chính của sự can thiệp hiện tại.

Một số ngày tháng

1635, vua Anh gửi thư yêu cầu cho phép buôn bán ở Trung Quốc.

1830, đại sứ Anh yêu cầu cho phép nhập khẩu thuốc phiện vào Trung Quốc. Yêu cầu bị Trung Quốc bác bỏ.

1836, người Anh nhập khẩu 20.280 hòm thuốc phiện lậu vào Trung Quốc.

1839, nước Anh tuyên chiến với Trung Quốc để bắt buộc nước này phải nhận thuốc phiện.

1841, Hương Cảng bị chiếm đoạt, Trung Quốc phải bồi thường 21.000.000 đồng đôla chiến phí, trong đó 6.000.000 đồng là đền vào giá trị số thuốc phiện bị phá huỷ.

1856, nước Anh gây ra một cuộc chiến tranh mới để buộc Trung Quốc phải hợp pháp hoá việc bán thuốc phiện và mở cửa biển cho nước ngoài vào buôn bán.

1860, quân đội Anh – Pháp chiếm Bắc Kinh. Nhượng bộ: Anh – Pháp được chiếm đóng đảo Víchtôria. Bồi thường: 800 triệu lượng (1) cho Pháp và 10 triệu bảng cho Anh.

1874, Nhật Bản tấn công Trung Quốc. Nhượng bộ: bãi bỏ chủ quyền của Trung Quốc ở Đài Loan, và đảo này thành thuộc địa của Nhật. Bồi thường: 50 triệu lượng.

1876, chiến tranh với Nga. Nhượng bộ: lãnh thổ bị chiếm đóng. Bồi thường: 900 triệu rúp.

1878, lại xung đột với Anh. Nhượng bộ: thừa nhận trị ngoại pháp quyền. Bồi thường: 20 triệu lượng.

1885, Pháp tấn công. Nhượng bộ: bãi bỏ chủ quyền Trung Quốc ở An Nam , nước này bị Pháp chiếm làm thuộc địa.

1895, Nhật tấn công. Nhượng bộ: Trung Quốc hết chủ quyền ở Triều Tiên. Nước này bị Nhật chiếm làm thuộc địa. Bồi thường: 20 triệu lượng.

1895, Nga, Pháp và Đức cùng tấn công. Nhượng bộ: thừa nhận quyền xây dựng đường sắt. Bồi thường: 3 tỷ lượng.

1897, Đức xâm lược. Kiều Châu bị chiếm đóng, phải thừa nhận quyền khai thác hầm mỏ.

1897, Nga xâm lược. Cửa Lữ Thuận bị chiếm.

1897, Anh xâm lược. Hải Xâm Uy bị chiếm đóng.

1898, Pháp xâm lược. Thừa nhận quyền thiết lập đường điện tín ở Hoa Nam.

1900, Can thiệp vũ trang của Anh, Nga, Đức, Pháp, Mỹ, ý, áo và Nhật (Cuộc khởi nghĩa của Nghĩa hoà đoàn (52) ). Quân

đội nước ngoài đóng ở Bắc Kinh và ở các cửa biển quan trọng. Bồi thường: 450 triệu lượng.

Từ khi nổ ra cuộc chiến tranh thế giới, bọn đế quốc chủ nghĩa thay thế việc ǎn cướp công khai và vũ trang bằng việc ǎn cướp che đậy và ngoại giao. Chúng thông qua những cuộc hội nghị, lặng lẽ cướp bóc Trung Quốc đang ở trong tình trạng chia rẽ và bị bó tay trước bọn chúng.

1919, Hiệp ước Vécxây chuyển giao tất cả những tô giới của Đức ở Trung Quốc cho Nhật, mặc dầu chính Trung Quốc cũng là một nước đồng minh.

1922, Hội nghị Oasinhtơn thông qua việc các nước Anh, Pháp, Mỹ và Nhật nắm lấy các khoản thu nhập ở Trung Quốc và nắm các độc quyền về rượu, muối, v.v..

1923, Thông điệp của các đại sứ đòi cho Pháp, Anh, Mỹ, Nhật, và Bỉ quyền quản lý các đường sắt Trung Quốc. Tháng 9 nǎm 1924, hạm đội của các cường quốc nói trên thao diễn trước Quảng Châu.

TìNH HìNH TRUNG QUốC

Chúng ta đã thấy rằng, dưới nhiều lý do khác nhau và bằng nhiều thủ đoạn khác nhau, các nước tư bản chủ nghĩa can thiệp vào Trung Quốc trước sau cũng vẫn chỉ nhằm đi tới một kết quả là bắt nhượng đất và lấy tiền bồi thường.

Bây giờ hãy nhìn qua tình hình kinh tế và tài chính của cái nước lớn ấy, nước có một nền vǎn minh lâu đời và hiện đang là đối tượng dòm ngó của bọn chúng.

Từ nǎm 1895, Trung Quốc đã ký kết 16 hiệp ước vay mượn, mà tổng số lên đến:

902.000.000 phrǎng,

61.500.000 bảng Anh,

64.368.000 đôla,

115.000.000 yên,

1.763.000 cuaron Hà Lan.

Thuế quan, thuế chợ, tiền thu về đường sắt, lợi tức về công nghiệp, thuế rượu và thuế thuốc lá, tiền thu về bưu điện và ngân khố quốc gia, thuế muối, v.v. đều phải đem ra bảo đảm cho cái khoản vay mượn ấy.

Nhìn vào bản đồ Trung Quốc, ta thấy rằng hầu hết các hải cảng quan trọng, hầu hết các vị trí chiến lược, hầu hết các trung tâm sản xuất hiện đại đều bị nước ngoài chiếm đóng. Song bản đồ vẫn chưa nói được hết. Bản đồ vẫn chưa chỉ rõ được ảnh hưởng của tư bản nước ngoài lan rộng tới đâu, cũng chưa chỉ rõ được tầm đại bác của bọn đánh thuê của nước ngoài có thể bắn tới tận đâu.

Việc biến Trung Quốc Thành thuộc địa

Mặc dầu Trung Quốc rất suy nhược, mặc dầu nội bộ Trung Quốc bị chia rẽ, nhưng dẫu sao con số 11.139.000 km (2) của nó cũng vẫn là một miếng mồi quá to mà cái mõm của chủ nghĩa đế quốc thực dân không thể nuốt trôi ngay một cái được. Và không thể trong một ngày mà đẩy một cách tàn bạo 489.500.000 người Trung Quốc vào xiềng xích của chế độ nô lệ thuộc địa. Cho nên người ta cắt vụn Trung Quốc ra: cách này chậm hơn nhưng khôn hơn.

Một nguyên nhân khác làm chậm việc biến Trung Quốc thành một thuộc địa có tính chất quốc tế là sự tranh giành giữa các nước đế quốc chủ nghĩa.

Nước Pháp đã chiếm được Đông Dương, muốn xâm lược miền Nam Trung Quốc. Việc xây dựng tốn kém con đường sắt Bắc Kỳ – Vân Nam phủ là một bằng chứng về điều đó.

Nước Anh hiện chiếm được Hương Cảng, ít nhất lúc này cũng tạm vui lòng với lối nô dịch kinh tế, nó đã kiểm soát được hầu hết tất cả các nguồn sản xuất; vậy thì ích gì mà phải lúng túng về việc đóng quân trên một lãnh thổ vô cùng rộng lớn nữa? Nhưng không đời nào Anh lại chịu để cho Pháp trở thành một cường quốc thực dân thật sự ở châu á. Và bởi vì ấn Độ đã thức tỉnh đang bắt đầu gạt bỏ ách áp bức kinh tế của nước Anh, cho nên bọn hám lợi nước Anh phải tìm cách vớt bù lại ở Trung Quốc. Nước Nhật quá đông dân vẫn lǎm le chiếm lấy vài tỉnh của Trung Quốc, nhưng khi nào Mỹ lại chịu để như thế, vì nó sẽ là một mối nguy cho Mỹ. Đối với Mỹ, Trung Quốc là một thị trường và có thể là một đồng minh trong một cuộc xung đột với Nhật Bản.

Ý nghĩa của một cuộc can thiệp hiện nay

Trong một cuộc can thiệp hiện nay, bọn đế quốc nhằm hai mục đích. Trước hết, giành thêm những nhượng bộ mới, sau nữa – và tôi cho rằng đây là điều chủ yếu – lật đổ Tôn Dật Tiên. Chúng ta biết rằng các chính phủ lên thay nhau ở Bắc Kinh luôn luôn vẫn thực hiện có một chính sách là: bên trong thì chính sách hủ bại, bên ngoài thì khuất phục trước bọn đế quốc chủ nghĩa nước ngoài.

Trái lại, Tôn Dật Tiên, “người cha của cách mạng Trung Quốc”, người đứng đầu chính phủ Quảng Châu, thì luôn luôn trung thành với những nguyên lý của mình, ngay cả trong những lúc khó khǎn nhất. Cương lĩnh của đảng ông – Quốc dân đảng – là một cương lĩnh cải cách. Cương lĩnh đó gồm những điều khoản chống đế quốc và chống quân phiệt một cách rõ rệt. Đảng đó lớn tiếng tuyên bố đoàn kết với các dân tộc bị áp bức ở các nước thuộc địa và với giai cấp vô sản quốc tế. Đảng đó đồng tình với Cách mạng Nga: Thật là một tội lỗi không thể tha thứ được! Chủ nghĩa đế quốc Pháp, kẻ áp bức nhân dân Đông Dương, đang lo ngại về ông bạn láng giềng khó chịu ấy, vì những tư tưởng phá hoại của ông láng giềng cũng có thể xuyên qua biên giới và thâm nhập vào những người nô lệ An Nam của họ. Trung Quốc có biên giới chung với ấn Độ và Triều Tiên. Một nước Trung Hoa thống nhất, tự do và hùng mạnh sẽ là màn giáo đầu của một nước Triều Tiên độc lập và một nước ấn Độ giải phóng. Đế quốc Anh và đế quốc Nhật không thể không lo ngại về điều đó. Nguy cơ tuy còn xa, nhưng suy theo tính chất rộng lớn ấy, thì cũng đã là một mối nguy cơ thực tế rồi.

Chính vì thế mà ngày nay người ta đang tìm cách thanh toán Tôn Dật Tiên và đảng của ông, cũng như trước đây người ta đã tìm cách bóp chết nước Nga cách mạng vậy.

Những khả năng của một cuộc can thiệp vũ trang

Các cường quốc đế quốc chủ nghĩa theo nhau gửi tối hậu thư. Người ta huy động các hạm đội trên mặt biển Trung Quốc. Người ta tập trung tàu chiến vào cửa bể Thượng Hải và cửa sông Dương Tử. Có lẽ sẽ có một cuộc can thiệp trực tiếp chǎng? Điều đó không chắc chắn lắm. Trong cái âm mưu mới chống lại nhân dân Trung Quốc này, Anh nắm vai trò lãnh đạo. Mácđônan sẽ không dám liều lĩnh tiến hành một cuộc can thiệp ra mặt. Ông ta đành chỉ sẽ ra sức giúp cho những kẻ thù của Tôn Dật Tiên, và cái sách lược cổ truyền của chính sách nước Anh lại được tiếp tục thực hiện chờ đợi tình trạng đục nước béo cò.

Những hậu quả của việc can thiệp

Chủ nghĩa tư bản quốc tế đang điên cuồng tích luỹ. Kế hoạch của các nhà chuyên môn đang tổ chức việc nô dịch công nhân nước Đức. Ngoại giao đầy tính chất can thiệp – ngoại giao của các tuần dương hạm, như Tôn Dật Tiên nói – đang chuẩn bị nô dịch những người lao động da vàng. Việc nô dịch hoàn toàn giai cấp vô sản Đức chắc chắn sẽ dẫn tới việc nô dịch giai cấp vô sản châu Mỹ và châu Âu. Kế hoạch Đaoxơ (53) là một sự tấn công trực tiếp vào giai cấp công nhân. Việc biến Trung Quốc thành thuộc địa sẽ khiến cho chủ nghĩa tư bản kiếm được nhân công hết sức rẻ mạt, sẽ hạ thấp tiền lương ở châu Âu và châu Mỹ, sẽ củng cố thế lực tư bản. Việc can thiệp vào Trung Quốc là một cuộc tấn công trực tiếp vào giai cấp công nhân.

NGUYỄN ÁI QUỐC

Tập san Inprekorr, tiếng Pháp, số 67, ngày 24-9-1924.
cpv.org.vn

——————————

1) Ngay sau khi Nguyễn Ái Quốc gửi bản Yêu sách của nhân dân An Nam tới trưởng đoàn các nước dự Hội nghị Vécxây, bọn bồi bút thực dân lồng lộn. Trên tờ Courrier Colonial ra ngày 27-6 có một bài nhan đề Giờ phút nghiêm trọng chỉ trích bản yêu sách : “Làm sao một người dân thuộc địa lại có thể dùng bản yêu sách của nhân dân để công kích Chính phủ Pháp. Thật là quá quắt. Cứ theo đà này thì bọn dân thuộc địa sẽ lên ngang hàng với người Pháp chúng ta và sớm trở thành ông chủ của chúng ta. Không được, phải kìm giữ chúng mãi mãi trong vòng nô lệ”. Nguyễn ái Quốc viết bài này là để trả lời bài báo sặc mùi thực dân trên. Tr. 1.

2) Bản Yêu sách của nhân dân An Nam: Năm 1918, Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc. Ngày 18-1-1919, đại biểu các nước đế quốc tham gia chiến tranh họp hội nghị ở Vécxây (Pháp). Hội nghị này (còn gọi là Hội nghị hoà bình Pari) nhằm xác định sự thất bại của Đức và các nước đồng minh của Đức, chia lại thị trường thế giới cho các nước đế quốc thắng trận, chủ yếu là Mỹ, Anh, Pháp. Nhân danh nhóm người yêu nước Việt Nam, Nguyễn ái Quốc đã gửi đến Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam. Nguyễn ái Quốc còn thuê in thành truyền đơn, đăng trên các báo, gửi đến các nhà hoạt động chính trị có tên tuổi, phân phát trong các buổi hội họp, mít tinh, gửi cho Việt kiều ở Pháp và gửi về nước

53) Kế hoạch Đaoxơ: Kế hoạch bắt nước Đức bồi thường chiến tranh cho các nước Đồng minh thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Kế hoạch này do Đaoxơ, giám đốc một ngân hàng lớn của Mỹ, lãnh đạo việc soạn thảo và được thông qua tại Hội nghị đại biểu các nước thắng trận họp ở Luân Đôn năm 1924. Mục đích chủ yếu của kế hoạch này là dọn đường cho tư bản nước ngoài, trước hết là Mỹ, đầu tư vào nước Đức, đẩy mạnh việc khôi phục tiềm lực công nghiệp quân sự của chủ nghĩa đế quốc Đức nhằm hướng nước Đức vào con đường chiến tranh chống Liên Xô, đồng thời tăng cường chính sách bóc lột, áp bức và đàn áp phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân nước Đức.

Đảng Ku Klux Klan 1924

Nguồn gốc – ý kiến của nguyên lão nghị viện Sécman (1871). – “Theo lối Mỹ 100 phần trǎm”.- “Hoàng đế” Ximmôn. – Những vụ hành hình theo kiểu Linsơ hồi 1919. – Tại sao, đảng K.K.K phải tiêu diệt.

Nguồn gốc đảng Ku Klux Klan là ở miền Nam nước Mỹ.

Tháng 5-1866, sau chiến tranh Nam – Bắc, một số thanh niên tụ tập nhau tại một địa phương nhỏ ở xứ Tennétxơ để tổ chức một câu lạc bộ. Để giết thời giờ, thế thôi. Người ta đặt tên cho tổ chức đó là Kuklos, một tiếng Hy Lạp nghĩa là câu lạc bộ. Muốn cho tiếng đó có vẻ Mỹ, người ta bèn đổi thành Ku Klux. Và cho độc đáo hơn, thành Ku Klux Klan.

Sau những cuộc đổi thay trong xã hội, tinh thần quần chúng dĩ nhiên là bị nao núng. Họ trở nên khao khát những cảm giác mới, thích những cái gì thần bí. Đảng K.K.K, với những lối ǎn mặc lố lǎng, những nghi thức quái lạ, những sự bí ẩn bí mật, nhất định là phải khêu gợi được óc tò mò của những người miền Nam nước Mỹ và được quần chúng rất ưa chuộng.

Ban đầu, đó chỉ là một nhóm những kẻ thích đua đòi mốt mới và những kẻ ǎn không ngồi rồi, chứ chẳng có mục đích chính trị, xã hội gì. Bọn láu cá đã nhận thấy đó là một lực lượng có thể lợi dụng để đạt những tham vọng chính trị của chúng.

Chính phủ liên bang thắng lợi vừa giải phóng những người da đen và làm cho họ trở thành những người công dân. Nông nghiệp miền Nam, thiếu nhân công người da đen, nên không có người làm. Bọn địa chủ cũ lâm vào nguy cơ phá sản. Giữa khi đó thì những đảng viên của Klan tuyên bố nguyên tắc quyền tối cao của giống người da trắng. Chống người da đen, đó là chính sách duy nhất của họ. Giai cấp tư sản nông thôn và chủ nô thấy ngay đảng Klan là một trợ thủ đắc lực, hầu như là một cứu tinh. Nó liền hết sức giúp đỡ đảng đó. Biện pháp hành động của đảng Klan đi từ doạ nạt đến ám sát. Chúng đã gây ra – trong 3 nǎm trời – cơ man nào là tội ác và thảm hoạ đến nỗi nhiều người vẫn ủng hộ chúng, cũng phải khủng khiếp mà xa lìa chúng.

Vào khoảng nǎm 1869, đảng Klan – trước áp lực của dư luận công chúng – đã bị “Hoàng đế” của nó giải tán. Đảng đó có một Hoàng đế, song ông ta chỉ có một uy quyền thuần tuý về danh nghĩa mà thôi. Những đảng Klan ở các địa phương tiếp tục tồn tại và gây ra những tội ác. Giáo sư Mếclin – người đã cung cấp cho chúng tôi những tài liệu này – nói rằng mỗi trang trong mười ba cuốn sách dầy cộp điều tra về những hành động của đảng Klan hồi 1871-1872, đều có ghi lại một vụ đánh đập người da đen hoặc người da trắng. Những việc tàn bạo đó, thường chỉ là do thói tàn bạo mà thôi. Đối với chúng, những hành động đó là một lối tiêu khiển thích thú.

Để biết rõ hơn, và phán đoán được đúng hơn về đảng Klan, thì không gì bằng là trích dẫn ngay bài diễn vǎn của nguyên lão nghị viện Sécman, ở Ôhaiô, đọc trước Thượng nghị viện hồi tháng 3-1871. Sécman hỏi: “Liệu có một nghị viên nào có thể nêu ra cho tôi biết- sau khi lục lại những tội ác trong tất cả các thời đại – một hội nào hoặc một bè đảng nào mà lại có những hành động và những ý định tàn khốc hơn, hung ác hơn đảng Ku Klux Klan không ? Đảng Ku Klux Klan là một hội kín: thành lập bằng cách tuyên thệ, đảng viên của nó đi ám sát, trộm cắp, cướp phá, hành hung, chửi bới, doạ nạt. Bọn chúng phạm những tội ác đó không phải là đối với những kẻ mạnh và kẻ giàu, mà là đối với những người nghèo, những người yếu đuối, những người hiền lành, những người không có khả nǎng tự vệ!”.

Tuy nhiên, đảng Klan cũng đã sống và “hoạt động” trong bốn chục nǎm trời một cách không vẻ vang gì cho lắm.

ĐẢNG KLAN MỚI

Tháng 10 nǎm 1915, trong tình hình mới của nước Mỹ, Uyliam Giôdép Ximmôn, “Hoàng đế” mới của đảng Klan, đã cùng với 34 người bạn phục hồi lại đảng K.K.K. Cương lĩnh của đảng đó là: theo lối Mỹ 100%, tức là chống Kitô giáo, chống người da vàng, chống công nhân, chống người da đen.

Cần chú ý là sau cuộc chiến tranh Nam – Bắc và việc giải phóng người da đen, đảng Ku Klux Klan cũ đã ra đời với mục đích cản bước đường hoạt động xã hội của những người được giải phóng. Trong cuộc chiến tranh thế giới, Mỹ tuyển mộ vào lục quân và thuỷ quân của mình hàng trǎm nghìn người da đen; người ta hứa với họ là sẽ thực hiện những cải cách về mặt xã hội và chính trị; sau khi đã cùng hy sinh như người da trắng, họ đã rụt rè yêu cầu được hưởng những quyền lợi như người da trắng. Tình hình đó cũng ngang như một phong trào “giải phóng lần thứ hai”. Thế là đảng Klan mới xuất hiện.

“Hoàng đế” Ximmôn cũng lại thành lập cái “vương quốc vô hình” ở miền Nam nước Mỹ – xứ sở của những tên chủ đồn điền lớn và những tên phản đối việc giải phóng nô lệ, quê hương của chế độ nô dịch và việc hành hình theo kiểu Linsơ, tổ quốc của đảng Klan cũ. Trả lời một người đến phỏng vấn, Uyliam Giôdép Ximmôn đã nói về những mục đích của mình như sau: “Chúng tôi thấy rõ rằng phải bảo đảm quyền tối cao của giống người da trắng, phải tước những quyền tự trị đã ban bố cho bọn da đen. ý trời muốn rằng giống người da trắng phải cao hơn; và lệnh trời đã định rằng người da đen sinh ra là để làm nô lệ”.

Ngay sau khi đảng Klan xuất hiện lại, thì chỉ riêng ở xứ Tếcdát, người ta đã đếm được hơn 80 vụ đánh đập, trong một nǎm, và 96 vụ hành hình theo kiểu Linsơ.

Đảng Klan đặc biệt thịnh hành ở Gioócgia, Mítxixipi, Tếcdát, Alabama và áccǎngdaxơ. Trong các xứ đó có nhiều nạn nhân bị hành hình theo kiểu Linsơ nhất.

Nǎm 1919, đảng Ku Klux Klan đã thiêu sống: 4 người da đen ở Gioócgia, 2 ở Mítxixipi, 1 ở Tếcdát.

Chúng đã hành hình: 22 người da đen ở Gioócgia, 12 ở Mítxixipi, 10 ở áccǎngdaxơ, 8 ở Alabama, 3 ở Tếcdát.

Chúng đã xông vào và phá huỷ các nhà tù để hành hình những người da đen bị giam ở đấy: 5 lần ở Gioócgia, 3 lần ở Alabama, 3 lần ở Mítxixipi, 3 lần ở Tếcdát, 2 lần ở áccǎngdaxơ.

Chúng đã hành hình: 12 phụ nữ ở Mítxixipi, 7 ở Alabama, 6 ở Tếcdát, 5 ở áccǎngdaxơ, 5 ở Gioócgia.

Chúng đã thiêu, treo cổ, dìm xuống nước cho chết hoặc bắn 9 cựu binh sĩ da đen.

Đảng Klan còn can phạm nhiều vụ hành hình theo kiểu Linsơ ở các xứ khác nữa, nhưng ở đây chúng tôi chỉ nêu những con số đã chắc chắn mà thôi.

SỰ SUY TÀN CỦA ĐẢNG KU KLUX KLAN

Đảng Klan nhất định phải bị tiêu diệt vì nhiều lẽ.

1. Trong chiến tranh, người da đen đã hiểu rằng họ là một lực lượng nếu họ đoàn kết lại; cho nên họ không để cho người khác tự do đánh đập, hoặc giết hại đồng bào của họ nữa. Họ chống lại mọi mưu toan hành hung của đảng Klan. Tháng 7-1919, ở Oasinhtơn, họ đã đương đầu với đảngKlan và đám đông cuồng loạn. Trong 4 ngày, cuộc chiến đấu sôi sục ở thủ đô. Tháng 8, họ đã đánh nhau trong 5 ngày với đảng Klan và đám đông ở Sicagô, 7 trung đoàn đã được huy động để lập lại trật tự. Tháng 9, chính phủ đã buộc phải gửi quân đội liên bang đến Omaha để chấm dứt một trận đánh nhau tương tự như thế. Tại các xứ khác, người da đen cũng đã tự vệ không kém phần cương quyết.

2. Cũng như đảng Klan trước kia, vì những hành động thái quá, nên đảng Klan mới đã vấp phải dư luận của công chúng đến nỗi những người ban đầu tán thành nó hoặc đi theo nó, nay cũng bắt đầu bỏ rơi nó. Những chuyện xô xát trong nội bộ, những việc quá xấu xa đồi tệ và những vụ gian lận về tài chính cuối cùng đã làm cho những người bàng quan nhất và dễ dãi nhất cũng phải đau lòng. Thượng nghị viện đã buộc phải truy tố đảng Klan.Ngay cả báo chí tư sản như tờ New York World, tờ Chicago Defender,v.v. cũng công kích chúng.

3. “Lối Mỹ 100 phần trǎm” và thái độ chống đối công nhân của chúng đã làm cho 20.000.000 giáo dân Mỹ, 3.000.000 người Do Thái, 20.000.000 ngoại kiều, 12.000.000 người da đen, tất cả những người Mỹ biết điều và toàn bộ giai cấp công nhân Mỹ, tập hợp lại phản đối chúng.

Tại Đại hội Liên hiệp người da đen vừa qua, người ta đã thông qua bản kiến nghị sau đây:

“Chúng tôi tuyên bố rằng đảng Ku Klux Klan là kẻ thù của loài người; chúng tôi tuyên bố quyết định đấu tranh với đảng đó đến cùng và kề vai sát cánh với tất cả những người lao động nước ngoài ở Mỹ cũng như với cả những người bị đảng đó hành hạ”.

Mặt khác, việc di cư của người da đen miền Nam nông nghiệp lên miền Bắc công nghiệp đã buộc những tên chủ đồn điền – bị nguy cơ phá sản vì thiếu nhân công – phải nới tay trong quan hệ đối xử với người lao động da đen, và do đó, ngày càng phải luôn luôn lên án những phương pháp và những sự bạo ngược của tay sai của chúng là đảng Klan.

4. Sau hết đảng Ku Klux Klan mang tất cả những cái xấu của các tổ chức bảo thủ, phản động, bí mật mà lại không có được những cái hay của các tổ chức đó. Đảng đó có tính chất thần bí của hội Phrǎng Maxonnơri, có những nghi thức kỳ dị của công giáo, có cái tàn bạo của chủ nghĩa phát xít, có tính chất bất hợp pháp của 568 hiệp hội khác nhau; nhưng nó chẳng có học thuyết, chẳng có cương lĩnh, sức sống và kỷ luật gì.

NGUYỄN ÁI QUỐC

Tập san Inprekorr, tiếng Pháp, Số 74, nǎm 1924
cpv.org.vn

Chủ nghĩa thực dân bị lên án (28-10-1924)

KINH NGHIỆM Ở CHÂU PHI XÍCH ĐẠO THUỘC PHÁP

Chế độ thực dân Pháp đã “thu được”… nhiều thất bại. Không phải chỉ có chúng tôi mới nhận thấy như thế. Nhân một cuộc thất bại đặc biệt thảm hại, tờ Le Temps, ngày 24 tháng 9 đã viết:

“Thật vậy, ai cũng biết rằng tình hình châu Phi xích đạo của chúng ta không phải là đúng như chúng ta đã hy vọng chút nào cả, khi mà… lá cờ của nước Pháp phấp phới trên những vùng rộng bao la mà chúng ta đã chiếm đoạt được chứ không phải là thu phục được cho nước Cộng hoà. Không phóng đại và cũng không cường điệu gì cả, ta có thể nói rằng… châu Phi xích đạo hiện nay đang ở vào tình trạng thật sự là tụt lùi. Việc khai thác miền đó thật là thô sơ, công cụ ở đó hình như không có gì cả. Hiện nay ngân sách thiếu hụt của miền đó chỉ thǎng bằng được là nhờ chính phủ trợ cấp. Cuối cùng – điều nghiêm trọng hơn – là dân cư miền đó mòn mỏi đi và chết dần, yếu tố dân số mà sự duy trì, sự cải thiện và tǎng lên là cơ sở cho mọi sự nghiệp, đang đi đến chỗ tiêu diệt”. (Do chúng tôi gạch dưới).

Và sau đó, tờ báo còn viết:

“Hơn nữa, chúng ta còn phạm nhiều sai lầm; nói dài dòng về những sai lầm này cũng vô ích, bây giờ không phải lúc ngồi hối tiếc một cách vô bổ về quá khứ, phải chuẩn bị cho một tương lai tốt đẹp hơn. Hành động của chúng ta ở châu Phi xích đạo đã bị tê liệt hay chệch hướng ngay từ đầu, vì những sai lầm về nguyên tắc… đến nay cũng vẫn còn tác hại một cách ghê gớm; ngoài ra, hoạt động của chúng ta còn mang hậu quả tai hại của những sai lầm về phương pháp cần phải gấp rút sửa chữa”.

Những sai lầm và khuyết điểm mà tờ Le Tempsthan phiền về những hậu quả tai hại mà không nêu ra những sự việc, là những sai lầm và những khuyết điểm nào? Đó là việc tước đoạt những người bản xứ, đó là việc bắt phu khuân vác, là chế độ lao dịch, đó là thuế khoá nặng nề, là việc tuyển mộ công chức và binh lính, là việc bắt con tin, là những sự tàn ác đối với nhân dân, đó là tất cả cái chế độ cướp bóc, giết chóc đáng ghê tởm đã làm cho thuộc địa này đi đến tình trạng thê thảm hiện nay.

Cách đây hơn 20 nǎm, ông Ôguyxtơ Sơvaliê, sau khi mô tả sự dã man của chế độ thực dân, tiên đoán như sau:

“Nếu người ta cứ tiếp tục làm như thế mãi, nếu người ta không ngừng việc đốt phá các làng mạc thì chẳng bao lâu… hai bờ sông Cônggô cũng như những vùng Ubanghi và Xanga sẽ hoàn toàn không cònmột bóng người… Nếu chính sách ấy cứ tiếp tục như thế mãi thì sau đây nửa thế kỷ, tất những giống người cần cù đó sẽ tiêu diệt hết (Morel)”.

Những cuộc tranh cãi trong nghị viện nǎm 1906 đã để lộ ra rằng một tờ thông tri của một công ty khai khẩn đồn điền đã viết: “Không được quên rằng các nhân viên của chúng ta phải đóng vai trò như là những tên kẻ cướp”. Và một viên toàn quyền đã viết cho các công chức dưới quyền y như sau: “Tôi không giấu các ông rằng, khi đề nghị thǎng thưởng, tôi đặc biệt cǎn cứ vào số thuế thu được của người bản xứ, điều mà các ông phải luôn luôn chú ý”.

Những dòng sau đây trích trong một quyển sổ chứng tỏ rằng những lệnh đó đã được chấp hành từng ly từng tý:

“Hành quân cànquét làng Côlôvô.

Càn quét dân Phǎng vùng thượng Cunô: đốt làng, phá vườn trại.

Càn qnét dân Bêcami: lại đốt làng, phá huỷ 3.000cây chuối (thức ǎn dự trữ duy nhất).

Càn quét làng Cuya: đốt làng, phá trụivườn trại.

Càn quét Ancoong: ném bom xuống làng, rồi phá trụi vườn trại.

Càn quét dân Examphami: phá sạch làng mạc.

Vùng Bôma đốt phá và giết người.

Hợp pháp hoá việc cướp bóc, tiêu diệt có hệ thống dân cư, phá trụi một cách có tổ chức những làng mạc, phương pháp là như thế đó.

Mười sáu nǎm sau, những hành động bỉ ổi như thế lại được người ta nêu ra trước nghị viện Pháp.

Tháng 12 nǎm 1921, nghị sĩ da đen Boanớp đã nói trong một bài diễn vǎn cảm động như sau:

“Dân số bị lụi đi vì bệnh tật, và nhất là vì chế độ mà họ phải chịu đựng từ khi bị chiếm đóng… Chế độ bắt phu khuân vác, sự bóc lột nặng nề của các công ty khai khẩn đồn điền đã giết những người bản xứ…”.

Ngày 22 tháng 10 nǎm 1921, quyền Bộ trưởng thuộc địa đã ra một sắc lệnh quy định rằng một công nhân bản xứ đã được trả công để làm một công việc nào đó mà không làm tròn thì có thể bị bắt giam và truy tố về tội lừa đảo.

Ông Anbe Xarô – Bộ trưởng Bộ thuộc địa – đã phải thú nhận rằng dân cư khốn khổ của thuộc địa đã sắp diệt vong. Ông đã ra sức gán cho tình trạng dân cư bị diệt vong dần đi đó, là do thiếu vệ sinh, và ông viết:

“Việc sǎn sóc vụng vềvà bẩn thỉu đối với phụ nữ khi sinh nở… làm cho họ không sinh đẻ nữa; còntrẻ con lúc sơ sinh không được chǎm nom chu đáo nên đã chết nhiều… Trong số dân cư bản xứ đã bị bệnh ngủ làm cho chết mòn dần đi, thì bệnh cúm lại còn sát hại thêm hàng vạn người nữa”.

Để sửa chữa tình trạng đó, người ta đã làm được những gì? Người ta đã xây dựng được một nhà thương độc nhất, với 79 giường ở Bradavin, thủ đô của thuộc địa! Thế mà với các dân cư đang đi đến chỗ diệt vong đó, trong chiến tranh, người ta lại còn tìm được cách lấy đi 18.000 người – tất nhiên là những người lành mạnh nhất và vạm vỡ nhất – để làm mồi cho đại bác, 313.000 phrǎng tiền cưỡng bức lạc quyên để cứu giúp các miền bị tàn phá ở Pháp, 7.323.000 phrǎng tiền công trái cưỡng bức, 53.000 tấn hàng hoá, đấy là chưa kể không biết bao nhiêu là ngày đi phu để chuyên chở những đồ đã trưng thu.

Đó là những “sai lầm về nguyên tắc” đã biến thuộc địa trước kia thịnh vượng và dân cư đông đúc thành bãi sa mạc. Tuy những tài liệu này là những tài liệu chính thức, nhưng chúng tôi không tin rằng nó đã làm cho những bạn đọc dễ tính của Le Temps thấy rõ được sự thật.

Chú thích

Châu Phi xích đạo thuộc Pháp (Bradavin, Librơvin, Bǎngghi, Pho Lǎngnuy) rộng bằng bốn lần nước Phápvà chạy dài từ cửa sông Cônggô đến xứ Tơripôli. Dân số (theo điều tra nǎm 1921) là 2.850.868 người, trong số đó có 1.932 người Âu. Ngót hai nghìn kẻ bóc lột để bòn rút một nước gần 3 triệu người da đen và có nhiều của cải thiên nhiên. Sản xuất chủ yếu: cao su, gỗ, ngà voi, dầu thốt nốt, nhân thốt nốt, dừa, cà phê. Nǎm 1921, chỉ riêng xuất khẩu cao su không thôi cũng được gần 14 triệu phrǎng. Để trao đổi lại số của cải ấy, cũng nǎm đó, nước Pháp đã nhập khẩu sang thuộc địa đó 1.698.787 phrǎng lương thực, 1.732.336 phrǎng rượu vang và rượu mạnh, 1.394.500 phrǎng vải vóc, 826.000 phrǎng vật liệu và thiết bị. Độc giả hãy thử so sánh những của cải mà nước người da đen dân số đang thưa dần đi đó đã xuất khẩu, với nhữmg cái mà nước đó ngược lạiđã nhận được: rượu thì hai lần nhiều hơn thiết bị, còn kể về số lượng buôn bán thì rượu vang và rượu mạnh chiếm hàng đầu! Dân số bị làm mồi cho công cuộc khai hoá nhất là bằng rượu mạnhđang bị diệt vong. Ngược lại cao su và gỗ xuất khẩu thì cứ làm giàu cho một vài người kinh doanh ở chính quốc; nhưng để bù vào chỗ hụt trong ngân sách của cái chính phủ thuộc địa vừa siêng nǎng vừa tội lỗi ấy, nhân dân Pháp hằng nǎm đã phải nai lưng ra đóng thuế. Nǎm 1923, Chính phủ Pháp phải phụ cấp 8 triệu phrǎng cho châu Phi xích đạo thuộc Pháp, ngoài ra lại còn phải lấy ở quỹ dự trữ ra 2.905.866 phrǎng để phụ cấp thêm.

Trong cái thuộc địa rộng bao la gần 3 triệu dân đó, chỉ có ngót 8.000 trẻ em được học ở trường thế tục hay trường của Nhà chung.

NGUYỄN ÁI QUỐC

Tập san Inprekorr, tiếng Pháp, số 73, ngày 28-l0-1924.
cpv.org.vn

Những thảm hoạ của nền vǎn minh

Bất lực không đánh nổi ông Đề Thám, không sao giết được ông bằng thuốc độc cũng không trừ được ông bằng cốt mìn, người ta bèn đào mả cha mẹ ông, đem hài cốt vứt xuống sông.

Sau những cuộc biểu tình ở miền Nam Trung Kỳ, nhiều nhà vǎn thân đã bị xử tử và bị đầy biệt xứ. Trong số đó có ông Nghè Trần Quý Cáp, một nhà nho thanh cao ai cũng mến phục. ông Cáp bị bắt trong khi còn dạy học; không xét hỏi gì cả, người ta đem chém ông hai mươi bốn giờ sau khi bị bắt. Chính phủ giết chết ông chưa đủ, còn hành hạ mãi, không chịu giao trả thi hài ông cho gia đình.

*

*     *

Khi hành hình những người lính khố đỏ ở Hà Nội(57), Chính phủ cho bắt giải cha mẹ, vợ con họ đến và bắt họ mục kích cuộc tàn sát rùng rợn những người thân yêu ruột thịt của mình. Để gây một ấn tượng lâu dài và để “dạy dân chúng”, người ta làm lại cái việc đã làm ở Anh hồi thế kỷ thứ XVIII tức là xóc đầu lâu những người Giacôbanh (1)bại trận lên mũi giáo rồi đem cắm dọc phố Xiti và dọc cầu Luân Đôn. Hàng tuần lễ người ta còn thấy đầu lâu những người lính, nạn nhân của nền vǎn minh Pháp, cau mày nhǎn mặt trên các cọc tre trên các đường phố chính ở Hà Nội.

Bây giờ nước An Nam đã “được bình định”, người ta ra sức sǎn bắt những “tên cướp” An Nam. Những tên cướp ấy là ai? Một viên sĩ quan giải thích:

Cũng có một óc tưởng tượng như nhau – ông ta nói – người Anh xem những người Bôe quyết tâm chống lại họ như là phiến loạn ngoài vòng pháp luật thì người Pháp chúng ta cũng coi những người An Nam yêu nước như kẻ cướp.

Một người Pháp khác nói: Bị cướp hết của cải, dân chúng nhiều làng đã trở thành “kẻ cướp” tất cả; nhưng họ chỉ là những người nổi dậy chống sự cướp đoạt bất công mà thôi.

Tìm ra những tên “cướp” ấy không phải khi nào cũng dễ dàng, bắt được họ càng khó hơn. Những viên chức phái đi lùng bắt họ, đã chém giết người vô tội để khỏi trở về tay không. Đây là một bằng chứng lấy của một người Pháp mà tôi đã trích dẫn nhiều chuyện:

Bảy người An Nam xấu số đang bơi một chiếc xuồng dài và mỏng manh. Đi xuôi dòng nước, lại có bảy tay chèo, xuồng đi vùn vụt như một chiếc xuồng máy. Thuyền của nhân viên nhà đoan khuất sau đám cây đước, có quốc kỳ Pháp phấp phới sau lái, vừa ở trong lạch bơi ra. Một thuỷ thủ gọi xuồng dừng lại. Người trên xuồng không hiểu cứ việc bơi đi. Thuyền nhà đoan bơi không kịp. Tên tây đoan cầm lấy súng bắn. Họ bơi lại càng nhanh. Tên đoan bắn vào họ. Một người đang chèo thét lên một tiếng rồi ngã gục xuống. Xuồng dừng lại, các bạn trong xuồng bèn ôm lấy người ngã. Có tiếng hô to: Dừng lại? Họ nhảy tới nắm lấy tay chèo vút đi. Đoàng! Một người nữa ngã. Một ít khói bay lên, một tiếng thét. Một người Pháp đi thuyền lảng vảng qua đó nghe thấy bèn lẩn chờ “những tên cướp” ở một chỗ ngoặt. Đoàng! Đoàng! Đoàng! Quả là một tay súng cừ. Ba viên đạn, ba người ngã theo. Chiếc xuồng chỉ còn hai người bơi đi chậm chạp và chìm lỉm trong con lạch.

Một viên chức nhà đoan khác, đi với sáu tên lính có đầy đủ vũ khí, bắt gặp một người đang trốn dưới ao. Anh này dấn mình dưới bùn, thở bằng một cái ống, ngậm vào miệng; lá sen kéo che kín mặt nước thật khéo léo. Tên đoan bèn chặt đầu “tên cướp” đem về toà sứ. Thật ra anh ta chỉ là một người nhà quê bình thường phải ẩn trốn vì quá sợ hãi thấy có nhiều người lạ vào làng, ai cũng mặt mũi hung tợn, mình đeo đầy súng lục, túi đạn và lǎm lǎm một khẩu súng trong tay.

cpv.org.vn

Tâm địa thực dân

Một nghị sĩ Pháp đã nói về Angiêri: “ở trên thế giới, không có dân tộc chiến bại nào bị kẻ chiến thắng ngược đãi hành hạ bằng dân tộc thuộc địa !”. Điều ấy đúng với người “Bicô” (1) ở Angiêri và cũng đúng với người “Nhà quê” (2) ở Đông Dương. Một người Pháp khác viết: “Chúng ta trở nên đáng ghét không chịu được … Hình như chúng ta chỉ làm cho người bản xứ không ai chịu nổi sự có mặt của ta. ở châu Âu, người ta coi giống người da vàng như là chứa đựng tất cả những thói lừa lọc xảo trá. ấy thế mà chính chúng ta cũng rất ít chú ý tỏ ra là mình ngay thẳng thành thật”.

Đời sống ở thuộc địa chỉ làm những tật xấu của con người phát triển: những kẻ đã quen mùi chiến tranh lại càng không còn gì là ý thức đạo đức, càng truỵ lạc, bất lương và độc ác; bọn con buôn và những tay lưu manh khác càng thích thú cướp bóc và trộm cắp. ở bên Pháp, họ ít có dịp để làm những việc đó, và họ sợ cảnh sát hơn! ở Đông Dương nhiều khi bọn này chỉ có một mình với vài người An Nam trên một con thuyền hay trong một làng hẻo lánh nào đó, nên họ càng cướp bóc tàn bạo hơn tên cướp châu Âu ở giữa chợ búa đông người, và họ càng tàn nhẫn hơn với những người dân quê dám kháng cự lại họ.

*

*     *

Tất cả những người Pháp sang Đông Dương đều nghĩ rằng người An Nam là hạng người hèn hạ hơn họ và phải làm nô lệ cho họ. Họ coi người An Nam như những súc vật phải điều khiển bằng roi vọt.

Phần đông người Pháp ở đây đã quen tự cho mình là thuộc một tầng lớp quý tộc mới, có đặc quyền.

Nhà du lịch xa lạ chưa am hiểu xứ này sẽ rất đỗi ngạc nhiên thấy người Âu, dù là binh sĩ hay thực dân, họ thường chẳng có cách đối xử nào khác với người bản xứ hơn là cách đối xử với tôi tớ của họ. Đối với họ, hình như người bồi là đại biểu cho cả chủng tộc da vàng. Phải được tai nghe người Pháp ở Đông Dương nói về người “da vàng” thì mới biết được họ khinh bỉ người ta đến thế nào. Phải được mắt thấy cách đối xử của người Pháp khi họ gặp người bản xứ, ngay cả ở những nơi người này được có quyền như họ, thì mới biết họ thô bạo đến đâu!

Người Âu nào cũng rất quan tâm đến thái độ phục tùng và cung kính của người bản xứ. Người An Nam ở thành thị cũng như ở thôn quê đều bắt buộc phải ngả nón trước mặt họ. Quá quắt hơn, người ta dùng cả đến gậy hay bắt bỏ tù người bản xứ nào sơ suất không tỏ lòng cung kính đối với họ!

Dù có kính cẩn và ngoan ngoãn đến đâu chǎng nữa, người An Nam cũng chẳng làm vừa lòng chủ mình được. Nếu phạm lỗi hay chỉ sai lầm đôi chút, họ làm sao mà giảng giải, mà phân trần nổi lòng thành thật của mình ? Nhưng nếu người Pháp nói nǎng khó hiểu thì chẳng lẽ một người da trắng lại phải tự nhận lỗi ư? Có một cách dễ hiểu nhau đơn giản hơn: đó là cái batoong. Và lúc nào người ta cũng dùng đến nó.

*

*     *

Một nhân viên quân sự viết rằng: Người An Nam rất hiền lành, rất ngoan ngoãn; tuy thế, người ta chỉ nói chuyện với họ bằng những cái đá đít. Anh ta lại nói thêm: Suốt ngày người ta vác gậy và dùng sống gươm để nện người An Nam bắt họ làm việc.

Người ta đã trông thấy các viên sĩ quan hành hạ các cụ già hiền lành và túm râu thầy cúng mà kéo trong khi họ đang hành lễ.

*

*     *

Ông Cuốctelơmǎng kể chuyện một cách mỉa mai: Tôi có quen một Ngài có một lối khai hoá thật đáng học tập. Khi Ngài ta ra khỏi cửa, các xe kéo, theo một thói quen như những người đánh xe ngựa ở bên Pháp, xô đến mời Ngài. Bực mình quá, Ngài nắm chắc batoong trong tay, quật vào những người culi, và thừa biết rằng những người culi khốn khổ này chẳng thể ǎn miếng trả miếng với Ngài, Ngài ta càng ra tay quật. Buổi chiều Ngài muốn đi chơi, nhưng culi xe đã biết tính Ngài, không dám lại gần Ngài nữa. Thế là Ngài lại với họ, rồi cầm cái gậy quý hoá của Ngài, quật lên lưng họ để dạy dỗ cho họ biết phải đến hầu Ngài. Ngài ấy bảo: “Vả lại, biết làm thế nào được với cái hạng người ấy, dù chúng đã gần gũi chúng mình bấy lâu nay mà vẫn chưa dám ǎn thịt quay!”. Người ta nghe thấy vô số người Pháp, và không phải là hạng kém cỏi gì đâu- lý luận như thế đấy.

… Khi “những người từng ở Bắc Kỳ” vui đùa trên tàu thì dưới mạn tàu phía bên phải có vài chiếc thuyền bán hoa quả, ốc hến. Để đưa hàng đến tận tay chúng tôi, những người An Nam buộc giỏ đựng hàng vào đầu ngọn sào rồi giơ lên. Chúng tôi chỉ việc chọn mà thôi. Nhưng đáng lẽ phải trả tiền, thì người ta lại có nhã ý bỏ vào giỏ đủ thứ như sau: những ống tẩu thuốc lá, khuy quần, mẩu thuốc lá. (Có lẽ họ làm như thế để dạy cho người bản xứ tính ngay thật trong việc mua bán chǎng!). Đôi khi, để mua vui, một anh sốp phơ nào đó hắt cả một thùng nước sôi xuống lưng những người bán hàng khốn khổ. Lập tức có những tiếng rú lên vì đau đớn, những mái chèo vung lên loạn xạ để bơi tránh, làm cho những chiếc thuyền va sầm vào nhau.

Ngay phía dưới tôi, một người An Nam bị bỏng từ đầu đến chân, phát điên lên, muốn lao xuống biển. Người anh của anh ta, quên cả nguy hiểm, buông tay chèo ôm lấy anh ta và ra sức đè anh ta xuống lòng thuyền. Cuộc vật lộn chưa đầy hai giây vừa kết thúc thì một thùng nước sôi nữa được hắt bởi một bàn tay chuẩn xác lại dội xuống kẻ bất hạnh. Tôi thấy anh ta lǎn lộn trong thuyền, vết thương trơ cả thịt với những tiếng kêu không còn gì là của con người nữa! Và cảnh đó khiến chúng tôi cười; với chúng tôi, điều đó có vẻ cực kỳ ngộ nghĩnh. Quả thật chúng tôi đã có tâm hồn thực dân!…

*

*     *

Một người lính khác kể: “Trong thời kỳ tôi ở đó (Bắc Kỳ) không có tuần nào là không có vài cái đầu rơi.

Trong tất cả những cảnh tượng đó, tôi chỉ còn nhớ được một điều, là chúng ta còn tàn bạo, còn dã man hơn cả những tên cướp biển. Tại sao lại có những hành vi quái ác đến thế đối với một kẻ bị kết án sắp phải chết? Tại sao lại có những cuộc hành hạ thể xác, tại sao phải giải những đoàn tù đi bêu khắp các làng mạc?”.

cpv.org.vn

(1) Ngay sau khi Nguyễn Ái Quốc gửi bản Yêu sách của nhân dân An Nam tới trưởng đoàn các nước dự Hội nghị Vécxây, bọn bồi bút thực dân lồng lộn. Trên tờ Courrier Colonial ra ngày 27-6 có một bài nhan đề Giờ phút nghiêm trọng chỉ trích bản yêu sách : “Làm sao một người dân thuộc địa lại có thể dùng bản yêu sách của nhân dân để công kích Chính phủ Pháp. Thật là quá quắt. Cứ theo đà này thì bọn dân thuộc địa sẽ lên ngang hàng với người Pháp chúng ta và sớm trở thành ông chủ của chúng ta. Không được, phải kìm giữ chúng mãi mãi trong vòng nô lệ”. Nguyễn ái Quốc viết bài này là để trả lời bài báo sặc mùi thực dân trên. Tr. 1.

(2) Bản Yêu sách của nhân dân An Nam: Năm 1918, Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc. Ngày 18-1-1919, đại biểu các nước đế quốc tham gia chiến tranh họp hội nghị ở Vécxây (Pháp). Hội nghị này (còn gọi là Hội nghị hoà bình Pari) nhằm xác định sự thất bại của Đức và các nước đồng minh của Đức, chia lại thị trường thế giới cho các nước đế quốc thắng trận, chủ yếu là Mỹ, Anh, Pháp.

Nhân danh nhóm người yêu nước Việt Nam, Nguyễn ái Quốc đã gửi đến Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam. Nguyễn ái Quốc còn thuê in thành truyền đơn, đăng trên các báo, gửi đến các nhà hoạt động chính trị có tên tuổi, phân phát trong các buổi hội họp, mít tinh, gửi cho Việt kiều ở Pháp và gửi về nước. Tr.1.

Ǎn bám và hỗn độn

Ông Vinhê Đốctông, nguyên nghị sĩ Pháp nói: “Nếu đem so sánh với bọn viên chức thuộc địa, thì những quân cướp đường còn là những người lương thiện!”. Ông ấy nói chí lý đấy.

Người nông dân An Nam đóng được một trǎm đồng bạc thuế, thì đến bảy mươi đồng bị ngốn ngay vào việc trả lương và kinh phí thuyên chuyển cho viên chức, ấy là chưa kể các khoản trợ cấp cho quỹ hưu bổng làm cho người dân càng bị hút máu tàn nhẫn thêm nữa.

Người ta cấp học bổng cho các cậu ấm hay cô chiêu – con các quan cai trị tại chức lương khoảng từ 20 đến 25 ngàn phrǎng – về Pháp học khỏi phải mất tiền, trong khi trẻ con An Nam không sao kiếm được chỗ học trong nhà trường Pháp – Nam hiếm có ở An Nam, nên phải chịu dốt nát.

Ngân sách hàng tỉnh bị cướp giật một cách vô liêm sỉ cho việc chi tiêu riêng của những kẻ có quyền định đoạt cách sử dụng.

ở các nước khác, cử tri hay đại diện của họ được quyết định về ngân sách do chính họ đóng góp vào; ở đây người ta để cho vài trǎm người Âu sống ở thuộc địa, có quyền cao hơn và bất chấp cả Nhà nước, tuỳ ý sử dụng công quỹ do hàng triệu người bản xứ đóng góp.

Nhiều phiên họp của hội đồng thuộc địa chỉ là để bàn cách cướp giật công quỹ một cách khôn khéo. Riêng một ông chủ tịch hội đồng đã được lĩnh thầu những công việc trị giá hơn hai triệu phrǎng. Một ông đổng lý sự vụ, làm đại diện của Chính phủ trong hội đồng đã xin tǎng lương mình lên gấp đôi và đã được chấp thuận.

Nếu két bạc thấy hơi vơi đi thì cũng chẳng khó khǎn gì mà các quan cai trị không làm cho nó đầy lại được. Tự quyền các ngài đó báo cho dân bản xứ biết là Nhà nước cần một khoản tiền nhất định, rồi các ngài bổ cho các làng phải đóng góp. Làng xã phải vội vàng tuân lệnh để khỏi bị trừng phạt ngay lập tức.

*

* *

Cần tiền ư? Các ngài công sứ cố gắng tìm phương lập kế, và vì các ngài quan tâm đến việc thǎng quan tiến chức của các ngài hơn là túi tiền của dân bị trị, nên các ngài sốt sắng bày đặt ra các thứ phải đánh thuế, nâng hạng một số ruộng để nã tiền thuế nhiều hơn. Người ta kể có một tỉnh nào đó ở Bắc Kỳ đã bị kiệt quệ hẳn đi vì tinh thần sốt sắng của một quan công sứ vào loại ấy.

*

* *

ở khắp Đông Dương, những người được cử vào giữ những chức vụ cao nhất thường được lựa chọn trong số những kẻ mưu mô xảo quyệt làm giàu bằng những cách chẳng lương thiện chút nào. Đồng tiền trước hết, dù trong sạch hay dơ dáy, là cái quyết định việc tuyển lựa, cho nên một thằng xỏ lá ba que, coi như cái rơm cái rác ở một nơi khác, lại làm nên một “Ngài chủ tịch” đường bệ đáo để ở xứ thuộc địa này.

*

* *

Khi quan thống sứ có việc phải tiêu pha thì ngài cấp bằng sắc, phẩm hàm. Nhiều việc làm theo kiểu ấy đã vớ được từ 10.000 đến 15.000 phrǎng. Mà những việc như thế không phải là hiếm đâu.

*

* *

ở đường giao thông Vĩnh Long, có một nhân viên làm kế toán một thời gian đã tìm ra một cách đặc biệt tài tình để tǎng lương của mình: mỗi lần có người bản xứ hỏi vay trước ít tiền lương, anh ta bằng lòng ngay, và rồi đến kỳ lương sau anh ta trừ đi, nhưng anh ta giữ món tiền trừ lại cho mình, và cứ như thế, anh ta đã xoáy được số tiền nhỏ mọn là 200 ngàn phrǎng.

Một quan thống sứ đã chi tiêu hết kinh phí về chiếc sàlúp trước thời hạn mấy tháng. Ngài bèn lấy cớ có một cuộc hội hè nào đó mà nhà vua sẽ được mời đến ngự trên sàlúp và quyết định ông ta sẽ phải góp phần vào việc chi phí, và người ta dự đoán rằng phần đóng góp của vị khách sẽ nhiều đấy.

*

* *

Ông Đờ Lanétxǎng, nguyên toàn quyền Đông Dương và Bộ trưởng Bộ Thuộc địa (1) , thú thật rằng Đông Dương tràn ngập những viên chức Pháp quá đông và thường thường là không được tích sự gì cả.

Phần đông người Pháp đã sống ở thuộc địa đều nói rằng quá nửa số quan đầu tỉnh không có đủ tư cách cần thiết đáng để giao phó những quyền hạn rộng rãi và ghê gớm đến thế.

Một quan cai trị mới đến thay chân một viên quan cai trị cũ, nhất định thấy quan cai trị cũ là một tên dốt đặc hay tệ hơn thế nữa. Thế rồi, đường sá đang làm dở, công trình đang thực hiện, kế hoạch đã nghiên cứu, mọi việc đều quẳng đi, xếp xó cả.

*

* *

Sang Đông Dương, các quan toàn quyền chỉ nhằm có một mục đích: kiếm việc bổ dụng bè bạn, con cái, họ hàng, những kẻ vận động tuyển cử cho những người họ có thể nhờ vả được; thường thường là một tên nợ như chúa chổm, bị chủ nợ sǎn đón, và hắn cần tiền.

*

* *

Nǎm 19.., người ta trả hết 36.300 đồng bạc tiền lương cho viên chức ngồi ǎn không chẳng phải làm gì cả, và nǎm sau nữa hết 300.000.

Nǎm 1909 kinh phí về việc thuyên chuyển viên chức trong nội địa Đông Dương hết 155.000 phrǎng. Việc thuyên chuyển ra ngoài nước chi tiêu hết l.500.000 phrǎng.

Riêng bộ máy cai trị ở phủ toàn quyền đã dùng hết 1.000.000 phrǎng kể cả 50 ngàn phrǎng trả công những người ở và làm vườn.

Viên toàn quyền và hai mươi mốt tên tuỳ thuộc mỗi nǎm lĩnh hơn một triệu phrǎng, chưa kể những món phụ cấp kếch sù chiếm mất 2.500.000 đồng phrǎng của công quỹ.

Người ta bố trí cả một chiến hạm cho viên toàn quyền di chuyển. Việc sắp xếp tốn mất 300.000 phrǎng, ấy là chưa kể những khoản phụ cấp linh tinh lên tới l00.000 phrǎng cho mỗi chuyến.

Ngài toàn quyền chưa vừa ý với những lâu đài nguy nga lộng lẫy của ngài ở Sài Gòn và Hà Nội, Ngài còn muốn có những nhà nghỉ mát và biệt thự ở bãi biển nữa; thế là dân An Nam khốn khổ lại phải nộp hàng trǎm ngàn phrǎng cho hành động ngông cuồng ấy.

Nǎm 19.., ông hoàng V. đơ. Đ. đi viễn chinh ghé qua Sài Gòn. Quan thống đốc nghênh tiếp ông hoàng một cách đế vương. Bốn ngày tiếp đón là bốn ngày lu bù yến tiệc. Và dân Nam Kỳ đáng thương đã phải trả hết 80.000 phrǎng.

Cũng nǎm ấy, trong lúc dân An Nam đang chết đói và dân Nam Kỳ bị nạn lụt, chẳng có chỗ nương thân, thì người ta lại mở yến tiệc linh đình để nghênh tiếp một cách đế vương một hạm đội Anh trong tám ngày và tám đêm liền. Dĩ nhiên là những người nông dân nghèo khổ An Nam phải gánh những phí tổn đó, cũng như mọi lần.

*

* *

Một viên thống sứ lập cả một đội kỵ binh và không bao giờ đi đâu mà không có đội ấy đi hộ tống, và như thế, theo như ngài nói, là để nâng cao uy tín của ngài với xứ bảo hộ.

Theo truyền thống, các viên cai trị là những ông vua con muốn cái gì quanh mình cũng xa hoa tráng lệ. Họ nói có thế mới nâng cao được uy tín của họ đối với dân bản xứ.

Đã có sẵn nhà cửa và đồ đạc không mất tiền, các ngài viên chức Nhà nước lại được công quỹ hàng tỉnh trả cả tiền đèn cho nữa. Có lần, một viên quan cai trị đã không ngần ngại tự ý chi tiêu hẳn một số tiền 50.000 phrǎng để bắc đèn điện ở nhà riêng.

Không những người trông nom quét dọn nhà cửa mà cả người đánh xe ngựa, người giữ ngựa và tất cả những người hầu kẻ hạ, đều do ngân sách địa phương trả tiền công cả. Cả sách báo giải trí cũng được cung cấp không cho những con người tốt số ấy.

ở cả các toà sứ đều có từ 6 đến 9 con ngựa và 5, 6 cỗ xe sang trọng đủ các loại. Ngoài những phương tiện giao thông đã quá thừa ấy, người ta còn sắm thêm những xe hơi làm tốn cho công quỹ hàng chục vạn đồng.

Có những viên nuôi cả một chuồng ngựa đua.

Có những công sứ ở một vài tỉnh đã kê các khoản sắm sửa áo, đồ dùng vệ sinh, đàn dương cầm và các thức ǎn uống vào sổ sách kế toán thành những món mua vật tư cần thiết để tu bổ toà sứ, hay thành một khoản gì tương tự như thế để bắt ngân sách địa phương phải gánh.

Ngoài lương chính đã đế vương lắm rồi, viên chưởng lý còn lĩnh thêm khoản phụ cấp 30.000 phrǎng, viên giám đốc thương chính lĩnh 40.000 phrǎng, viên giám đốc tài chính 20.000 phrǎng, viên giám đốc công chính 30.000 phrǎng, v.v., v.v..

Trong một vài vùng, việc mua đồ đạc cho toà sứ nuốt hết hơn một phần nǎm số thu, còn ngân sách cho việc giáo dục chỉ vẻn vẹn được một phần nǎm mươi.

Có viên giám binh dùng đến 5, 6 người lính khố xanh chǎn dê cho mình; có viên giám binh khác bắt những người lính biết chạm trổ làm cho mình những tượng Phật xinh xắn hay đóng những cái hòm rất đẹp bằng gỗ long não.

Theo nguyên tắc thì một viên giám binh chỉ được lấy một người lính làm lính hầu, thế mà người ta đã kể lại rằng có một ông giám binh nọ đã dùng:

1 người đội làm quản gia

1 đầu bếp

3 bồi

2 bếp

3 người làm vườn

1 hầu phòng

1 người đánh xe

1 người chǎn ngựa

Bà lớn dùng riêng:

1 người thợ may

2 người thợ giặt

1 người thợ thêu

1 người thợ đan đồ dùng bằng tre

Dĩ nhiên là cậu ấm cũng có một người bồi riêng, không lúc nào rời cậu nửa bước. Cộng tất cả là 19 người lính khố xanh. Và những trường hợp như thế không phải là hiếm đâu.

Một người mắt được chứng kiến đã kể lại rằng trong một bữa cơm ở nhà một quan cai trị nọ, – một bữa cơm thường thôi chứ không phải một yến tiệc gì lớn đâu, – sau lưng mỗi người ngồi ǎn đều có một anh lính đứng hầu để chờ thay đĩa và đưa các thứ cần dùng. Và tất cả những người hầu trong phòng ǎn ấy đều do một viên đội nhất chỉ huy.

Một viên chủ tỉnh chơi ngông kỳ quái đến nỗi cho phá cả một cái trường chuyên nghiệp xây mất 50.000 phrǎng; vì cái trường đã phạm đại tội che khuất mất phong cảnh trước dinh quan sứ.

Những chuyện tương tự như thế này, tôi có thể kể hết giờ này sang giờ khác. Nhưng tôi tưởng thế cũng đã đủ để các bạn thấy rõ đồng bào chúng tôi phải sống đoạ đầy dưới một chế độ ǎn bám và lãng phí như thế nào rồi. Trước khi sang chương khác, xin các bạn cho phép tôi gọi là để kết luận, lấy một câu của ông Anbe đơ Puvuốcvin, một nhà cựu thực dân ở Đông Dương, như sau: Chúng ta đã thấy đấy, các quan cai trị của ta ǎn ở ra sao…, anh thì chỉ nghĩ đến việc cho xây nhà nghỉ mát vui chơi thích thú, và ngồi tính toán xem mình được đi bao nhiêu lọng; có anh đã nhiễm ý nghĩ rằng người An Nam nào cũng là kẻ thù cả vì họ có màu da khác anh nên anh ta đốt phá cả một vùng.

cpv.org.vn

Các quan cai trị

Tôi đã nói chuyện về các ông nghị thanh liêm. Bây giờ, tôi phải nói đến các quan cai trị có đạo đức. Như các bạn biết đấy, để bảo vệ cho một chế độ cướp bóc, phải có quân ǎn cướp. Hoạ hoằn có một viên quan cai trị nào lại thật thà và hiểu biết hơn, lập tức viên ấy bị đàn lang sói quan thầy hay bè bạn xua đuổi đi ngay. Thành thử ra 99% quan cai trị là quân trộm cắp, chỉ nghĩ đến bóc lột dân bản xứ để làm giàu, chẳng kiêng nể gì tài sản, quyền lợi, tự do, đời sống của những người bị cai trị cả.

Một viên quan cai trị ở Bắc Kỳ đã tước đoạt của một làng mấy hécta trồng mía để cho một làng công giáo. Rồi lão ta lại bắt bỏ tù những kẻ bị tước đoạt khổ sở vì những người này dám đi kiện. Chưa đủ, ngài còn bắt họ trả thuế mãi đến nǎm 1910 cho những đất mà ngài đã cướp của họ từ nǎm 1895 và nǎm 1900.

*

* *

Một viên công sứ ở Lào buộc 25 người An Nam vào tội hội họp làm biểu tình. Thế mà chính ông ta, viên công sứ, đã bày ra một âm mưu tưởng tượng, cho tiền kẻ tố cáo, rồi hành hạ tra tấn bắt những người bị cáo phải nhận những lời thú tội giả mạo. Việc hèn mạt ấy, chính viên công sứ cũng đã thừa nhận. Nhưng ông ta chẳng phải lo lắng gì về việc ấy cả; và ông cứ tiếp tục những việc gian ác của mình.

Lấy cớ là phải giữ gìn trật tự an ninh trong địa hạt, ông ta đã hạ lệnh bắt tất cả những người An Nam không phải là người cư trú trong vùng mà hay lai vãng tới đó, và cứ việc bắn những kẻ toan chạy trốn. Trong một tuần, hai người An Nam bị giết, và một người bị trọng thương, đều do bị bắn gần.

Tất cả những người An Nam bị bắt đều bị coi như phiến loạn cả.

*

* *

Một quan cai trị khác nghe tin một người An Nam đã bị toà án do ông ta làm chủ toạ kết án 6 nǎm khổ sai, nay được toà thượng thẩm cho trắng án. Cáu tiết lên, ông ta cho bắt người bản xứ đó tống cổ vào tù. Làm xong, ông xuống tàu về Pháp, để lại người bản xứ ở trong tù, trong ngục kín, chẳng thèm hỏi han gì cả.

*

* *

Một viên khâm sứ, can tội ǎn hối lộ, hành hung, biển thủ, làm và sử dụng giấy tờ giả mạo, lại được tặng đệ tam đẳng bắc đẩu bội tinh và thǎng lên chức quyền toàn quyền.

*

* *

Một viên công sứ khác nắm trong tay cả quyền hành của tổng đốc, thẩm phán, mõ tòa và đội trưởng thúc thuế. ông ta lợi dụng quyền hành của mình chẳng một ai giám sát để bắt bớ, bỏ tù hay kết án một cách võ đoán người An Nam đặng bóp nặn họ. Ông ta đấm đá, lấy gậy đập những thanh niên An Nam “tình nguyện” không hiểu những câu ông ta nói. Ông ta hành hạ lính, đập đầu họ vào tường, túm tóc họ mà kéo. ông ta lấy thanh kiếm lệnh của mình đâm nát đùi những người tù để lấy khẩu cung.

Dưới trời nắng chang chang, đoàn tù khốn khổ, gầy gò, rách rưới, dậy làm việc từ tờ mờ sáng đến tận đêm khuya, cổ đeo gông, chân xiềng xích, tay còng người nọ vào với người kia, đang ì ạch kéo một quả lǎn to tướng trên lớp đá sỏi dày. Quan cai trị tới, vô cớ lấy chiếc batoong to tướng của ngài đập thẳng tay, chửi mắng họ là lười biếng.

Một hôm, vừa mới cự một nhân viên người Pháp xong, chẳng biết trút cơn thịnh nộ lên đầu ai, ngài vớ ngay lấy một cái thước kẻ bằng sắt đập gãy ngón tay một viên thư ký khốn khổ người An Nam.

Những lính khố xanh làm chẳng vừa lòng ngài, ngài cho đem chôn đứng đến tận cổ, hay cho đem trói chặt vào cột đánh cho đến gần chết.

Ngài đã phạm không biết bao nhiêu tội ác đến nỗi người An Nam ở tỉnh ngài cai trị phải nổi dậy. Hàng trǎm người Pháp và An Nam đã phải hy sinh, và thiệt hại có đến hàng triệu bạc.

Các bạn có biết nước Cộng hoà Pháp đã cho tên sát nhân ấy làm gì không ? Sau cuộc nổi dậy, nước Cộng hoà Pháp đã cho hắn làm chánh chủ khảo các trường học lớn ở Bắc Kỳ, rồi thì làm đổng lý vǎn phòng của quan thống đốc, nghị viên hội đồng thuộc địa ở Nam Kỳ kiêm giám đốc uỷ nhiệm các nhà máy rượu.

*

* *

Một chuyện khác… Thôi, kể thế đủ rồi. Chúng ta hãy ngừng lại đây và sang chương khác, để thay đổi món đi một chút.

cpv.org.vn

Sự nhượng quyền và những kẻ được nhượng quyền

Sau khi bị binh lính bắn phá và chém giết, Đông Dương lại bị bọn cá mập thực dân cướp bóc đến tận xương tuỷ. Việc cướp bóc đê tiện ấy gọi theo tiếng thực dân là đồn điền.

Trong cuộc chiến tranh xâm lược lâu dài, dân chúng phải bỏ đất đai đi lánh nạn, chờ cho qua ngày khói lửa. Trước hết, người ta mang đất đai của họ nhượng cho kẻ khác. Khi đã yên ổn rồi, những chủ cũ về làng thì thấy ruộng đất của mình đã bị chiếm mất; muốn về lại chỗ cũ làm ǎn, họ phải nhận những điều kiện của người mới đến: cày cấy chính đồng ruộng của mình cho một anh chủ người ngoại quốc.

Nhiều khi người ta nhượng cả những đất đai đã có người ở và cày cấy với cả làng mạc ở đó.

Nhiều nơi, cả làng bị tước đoạt hết đất đai như vậy, phải trở thành những người mà người ta gọi là “kẻ cướp”; thật ra họ chỉ là những người nổi dậy chống việc cướp đoạt bất công.

Những tên cướp bất công ấy lại được Chính phủ thuộc địa nâng đỡ.

Một tên toàn quyền đã nhượng một đồn điền lớn cho một công ty trồng chè ở Đà Nẵng – nhưng công ty chẳng phát đạt gì lắm -, đã mang đất đai của nhà vua An Nam nhượng cho kẻ khác, người ta cũng chưa lấy làm vừa lòng, người ta còn bắt cả nhà vua phải cho công ty vay 30 vạn bạc nữa. Ngoài ra công ty còn được thầu cung cấp chè cho binh lính. Nhưng người An Nam không thích uống thứ chè xấu ấy, nên chè cung cấp để mốc trong kho.

*

*     *

ở ngoại thành, nhiều người Âu không phải đóng thuế điền thổ, vì Nhà nước cho rằng bắt chủ đồn điền phải đóng thuế điền thổ là làm hại cho sự phát triển của nền nông nghiệp.

Giảm nhẹ thuế cho người Âu, dù là người Âu giàu có, là việc thường; đặc biệt ở Cao Miên, nhiều người được giảm thuế, và thường thường họ là những viên chức người Âu.

*

*     *

Người An Nam, dù có sẵn tiền cần thiết, cũng không xin được nhượng đến nǎm hécta, nhưng đối với thực dân thì diện tích xin không bị hạn chế. Nhiều người Âu có đồn điền rộng trên 25.000 hécta.

Người ta đã nhượng những đồn điền rộng từ 10 đến 20 ngàn hécta cho những kẻ chẳng hiểu biết chút gì về nông nghiệp; bọn này chỉ có một ý nghĩ: lập lại ở Đông Dương một chế độ phong kiến có lợi cho họ bằng cách coi người bản xứ như những nông nô thực sự.

Có hai viên công chức đã được nhượng làm đồn điền 30 ngàn hécta rừng với giá 5 phrǎng một hécta. Hơn nữa họ còn ghi rõ rằng 30 ngàn hécta ấy được miễn thuế trong suốt thời kỳ công ty kinh doanh, nghĩa là suốt 80 nǎm.

Một lần khác, khi vào sổ trước bạ cái vǎn tự bán 30 ngàn hécta đất với giá 150 ngàn phrǎng, viên chủ sự trước bạ ghi dưới vǎn tự như sau: “đã thu 10 phrǎng thuế theo lệnh của quan toàn quyền”. Chỉ 10 phrǎng thuế để chiếm làm của riêng được 30 ngàn hécta đất!

Vừa rồi, người ta cho bọn đầu cơ 8 ngàn, 10 ngàn và 20 ngàn hécta rừng công và ruộng đất của người An Nam ở thượng du. Bị cướp đoạt như thế, những người này tỏ ra bất bình. Thế là, Chính phủ đưa ngay máy bay chở bom lên, làm cho họ yên đi.

Bây giờ chúng ta xét sang bọn ǎn cướp một kiểu khác đã trổ hết tài khéo léo lừa cả Nhà nước lẫn dân bản xứ. Quân cướp này gọi là người cho thầu, người bỏ thầu hay thầu khoán.

Hãy kể vài ví dụ:

Người ta cho bỏ thầu công việc vận tải đường thuỷ làm hai lô, một lô vận tải đường sông và một lô vận tải đường biển. Bản hợp đồng định rằng khi cả hai lô đã cho bỏ thầu xong, thì một trong số người bỏ thầu có thể nhận thầu chung cả hai lô.

Lô thứ nhất được đem ra đấu giá. Ông R. xin 6 phrǎng rưỡi một hải lý. Vì không hợp lệ, ông R. bị loại ra ngoài. Lô thứ nhất được thầu 9 phrǎng một hải lý và lô thứ hai 18 phrǎng.

Xong rồi người ta đem cho đấu giá chung cả hai lô gộp lại. Chỉ những người đã đấu giá trúng riêng từng lô mới được đấu giá chung cả hai lô. Ông R. đã bị loại lần đầu, đáng lẽ không được tham gia lần đấu giá chung này. Tuy vậy, trong thời gian từ lần đầu đến lần này, họ đã thông đồng với nhau. Hai nhà trúng thầu lần trước không chịu đấu giá cả hai lô gộp lại. Vậy ông R. lại được phép bỏ thầu, và ông R. trước xin có 6 phrǎng rưỡi, nay lại đòi 9 phrǎng kia.

Sáu phrǎng rưỡi xin không đạt, mà nay lại được những chín phrǎng!

Công ty được thầu có lãi rất nhiều, thiệt hại cho xứ thuộc địa. Khi mới thành lập, công ty chỉ có 500.000 phrǎng làm vốn. Trong 30 nǎm, số vốn ấy đã thành 11.000.000 phrǎng.

Một thành phố ở Nam Kỳ mở một nhà máy điện. Công việc kinh doanh phát đạt lắm. Viên công sứ bắt hàng tỉnh phải nhượng không nhà máy cho một người bạn của ông ta. ít lâu sau, vì nhà máy không phát tài được nhưng đã là của tư nhân, nên hàng tỉnh bị cướp đoạt trước kia lại phải mua lại rất đắt cái mà họ đã phải cho không.

Để loè đời, người ta đã bỏ ra hàng ngàn bạc để đặt một đài vô tuyến điện ở Sài Gòn. Công việc vừa hoàn thành thì cả nhà cửa lẫn máy móc đã lọt vào tay một công ty của tư nhân. Nhưng việc kinh doanh lỗ mỗi ngày mất một ngàn bạc, công ty dàn xếp để chính xứ thuộc địa, nghĩa là những người dân đóng thuế, phải gánh sự thua lỗ ấy.

Một công ty khách sạn được thành lập với số vốn là 25.000 đồng. Lấy cớ để khuyến khích việc du lịch, Chính phủ góp phần vào 1.200.000 đồng để xây dựng nhà cửa. Ngoài ra, họ còn định rõ rằng nếu cho thầu không hết số tiền ấy thì số tiền tiết kiệm được sẽ chia cho công ty và Nhà nước. Khách sạn sẽ có tất cả 12 buồng. Thế là dân An Nam phải trả 100.000 đồng hay 1.000.000 phrǎng mỗi buồng để một ngày kia vài ông da trắng ǎn bám và lười biếng đến nghỉ tay chân rỗi rãi của các ông!

Một anh chủ thầu cống rãnh nào đó giao ống nước làm bằng vôi thay cho ống ximǎng, ống không đầy một mét lại khai là dài ba mét, rồi chia nhau với các ông hội đồng thành phố người Âu 1.600.000 phrǎng. Một ông kỹ sư khác, đồng thời kiêm cả nhiệm vụ phó đốc lý, biển thủ 300.000 phrǎng trong việc xây cống rãnh và sửa sang lại có một đường phố. Một ông kỹ sư địa chính và hội đồng thuộc địa nào đó đút túi hơn 900.000 phrǎng tiền công đo đạc để lập bản đồ đất đai ở ba tổng. Và, vì thấy ngài “thanh liêm” lắm và có chân trong công ty độc quyền hải cảng Sài Gòn, nên Chính phủ vừa mới giao cho ngài làm luôn cả các công việc đạc điền ở nhiều tỉnh khác.

Đại bợm nhất trong số kẻ cướp ấy là “Tổng công ty thuộc địa” vừa mới được nhượng hải cảng Sài Gòn – Chợ Lớn (Nam Kỳ). Cho hưởng độc quyền tức là cho công ty ấy hải cảng với cả đất đai nhà cửa, dụng cụ máy móc cần thiết để kinh doanh, cho quyền thu thuế và độc quyền vận tải để xuất cảng.

Như thế là, nông dân, tiểu thương, công nhân khuân vác ở cảng, chủ thuyền ở Nam Kỳ, tất cả mọi người đều bị phó mặc trong tay một công ty độc quyền ǎn cướp muốn làm gì thì làm, mà đại biểu là một tên kỹ sư và … là nghị viên hội đồng thuộc địa.

cpv.org.vn

Công chính

Thực dân Pháp đánh giá công ơn khai hoá của họ ở Đông Dương bằng những kilômét đường cái mà họ đã đắp bằng tiền và công sức của người An Nam. Song người Pháp cũng chỉ đặt đường xe lửa ở những nơi họ cần dùng để chuyên chở hàng hoá hay quân đội để đàn áp dân chúng; và đường sá đắp không phải để cho người bản xứ đi, vì những người này không có quyền tự do đi lại ngay cả đi từ tỉnh này sang tỉnh khác, mà là để phục vụ cho người Âu.

Có khi họ cũng hấp tấp xây dựng những công trình xa hoa lộng lẫy, nhưng không phải để cho những người đã bỏ tiền ra, không phải để cho người An Nam được hưởng.

Tai vạ là ở chỗ phần lớn những món tiền sẵn có lại thường đem dùng vào những việc phù phiếm (các quan sứ đi chơi, đi thanh tra, v.v.) còn đường sá cần thiết cho việc khai khẩn và thông thương trong xứ thì chỉ là những vũng nước đọng lầy lội, lún sụt, không thể đi được, dù cho trâu rừng cũng chịu. Đường cái, chỉ đẹp đẽ ở xung quanh tỉnh và các toà sứ còn ngoài ra thì ít ỏi, lại đắp và rải đá rất tồi. Không có lấy một con đường đi xe được vào các vùng đồng ruộng cày cấy.

Một con đường, để nối liền hai tỉnh Nam Kỳ, dài có 34 kilômét, nhưng đã ba mươi nǎm nay, họ mới đổ được ít đất và cát mà đã ngốn hết một số tiền khá lớn, đủ để lát được suốt con đường đó, từ đầu đến cuối, một lớp bạc dày.

ở Huế, người ta có đắp một đại lộ rộng 20 mét – thật ra là vô ích – chạy thẳng từ thành đến đàn Nam giao. Con đường ấy mở qua hai làng và một nghĩa trang, khi làm phải phá hay di chuyển mất sáu ngàn ngôi mộ. Người ta chẳng chịu bồi thường hay giúp đỡ gì cho các gia đình có nhà phải phá, có cây phải chặt, có mồ mả phải khai quật lên.

ở Bắc Kỳ, việc sửa sang tô điểm thành phố làm chẳng hết mấy đồng tiền, nhưng thiệt hại lớn cho người An Nam.

Một viên đốc lý người Pháp chỉ đơn giản ra một nghị định, bắt đắp một đường phố cho dài thêm, làm cho nhà cửa thẳng hàng, phá những lều tranh và phải làm lại bằng gạch. Những người nghèo khổ không có đủ tiền để tuân lệnh phải bỏ thành phố ra đi.

Người An Nam ở gần doanh trại bị đuổi đi. Họ được bồi thường bằng những miếng đất ở phố khác để dựng lại những túp lều tranh của họ.

ít lâu sau, người ta hạ lệnh cho họ phải xây nhà gạch. Nhiều người không có giấy chứng nhận quyền sở hữu vì trước kia sơ suất không xin nên phải bỏ nhà cửa. Thế là thành phố lấy lại đất và bán lấy tiền bỏ quỹ.

Trong phần nhiều các thành phố lớn, một hội đồng thành phố gồm toàn những người Âu, tuỳ ý sử dụng công quỹ do người bản xứ đóng góp mà chẳng đếm xỉa gì đến nguyện vọng và nhu cầu của những người An Nam khốn khổ này.

*

*     *

Một người Pháp tự hỏi: Có nước nào trên thế giới dám khoe như Đông Dương có nguyên liệu và nhân công rẻ mạt mà làm một đường xe lửa phải tốn phí từ 16 đến 20 phrǎng một xǎngtimét không ?

Khi làm đường hầm ở đèo Hải Vân, muốn cho công việc mau chóng, người ta đục cả hai đầu vào một lúc. Hai đoạn đục ở hai đầu vào không ǎn khớp với nhau, thành thử ra mỗi đoạn đã thành riêng biệt một đường hầm hoàn toàn. Hầm đục ngay giữa núi đá, thế mà người ta cứ phải xây thêm một lớp đá nữa ở ngoài, trát thật kỹ lưỡng làm hao tốn bao nhiêu của.

Đường Lạng Sơn, đắp để dùng vào việc bình định vùng ấy, dự trù hết có 4 triệu, nhưng làm xong tốn đến 38 triệu.

Chưa cắm được một cái mốc nào trên đoạn đường dự định làm, người ta đã cho trưng thầu cung cấp rất nhiều đường ray và nhiều vật liệu khác. Khi viên thanh tra gần tới, người ta đem chôn biến những đường ray đáng lẽ còn lâu lắm mới phải mua ấy, xuống những hố dài mấy kilômét.

Kỹ sư trù tính hết 94 triệu, nhưng khi chi tiêu lại mất đến 165 triệu.

Ông Combane, nhà thám hiểm kể trên, còn nói thêm rằng: Chỉ việc nghiên cứu để đặt đường xe lửa ở Đông Dương cũng đã tốn hết số tiền lớn có thể đủ để làm cả quãng đường ấy.

cpv.org.vn

Tạp dịch hay là khổ sai

 

Hằng nǎm, người An Nam phải làm một số ngày không công cho Nhà nước “bảo hộ”. Theo lệ, số ngày ấy định từ 10 đến 30 ngày. Nhưng khi có việc nhiều, chẳng hạn đắp một con đường, hoặc đào một cái lạch, người ta không tuân theo giới hạn quy định đó. Khi không có việc thì người bản xứ lại phải chuộc những ngày tạp dịch của mình, nghĩa là phải trả tiền cho Nhà nước thay cho những ngày không phải đi làm khổ sai không công ấy. Ngoài việc tạp dịch, còn có việc khuân vác. Mỗi lần có một người Pháp qua làng mình là người An Nam phải đi khiêng võng, khiêng đồ đạc cho ông ta, và khiêng cả võng và đồ đạc của những người tuỳ tùng của ông ta nữa. Nhiều khi, cả làng bị động viên đi làm cái việc không công ấy.

Nhưng thôi, tôi nhường lời cho chính người Pháp nói:

Công việc tạp dịch đã và vẫn còn là cơ hội cho người ta lạm dụng vô kể. Thường thì phu tạp dịch chỉ dùng để đắp những đường quanh các toà sứ để vài người Âu dạo cảnh. Tuy nhiên thỉnh thoảng có viên công sứ, tỏ lòng sốt sắng, quyết định làm một công trình quan trọng, như đắp một con đê hay khơi một cái lạch cho dòng nước chảy theo hướng khác. Trong trường hợp ấy, viên công sứ chẳng cần chú ý thảo ra một kế hoạch hợp lý, phân chia công việc làm sao khỏi cản trở đến công việc đồng áng; dân chúng phải đổ sức ra làm, và ảnh hưởng thường rất tai hại cho tình hình trong tỉnh.

Mới được tin viên Bộ trưởng Bộ Thuộc địa sắp sang thǎm Đông Dương, người ta đã lấy ngay một vạn người để hoàn thành gấp con đường V.L. để mời Ngài khánh thành.

Mùa hè nǎm 19… trong lúc nạn đói đang làm cho miền Trung Kỳ phải tiêu điều khổ sở, thì một vạn người An Nam bị lý trưởng làng họ bắt đi tập trung vét một cái lạch. Số dân đông đảo ấy, người ta không dùng hết mà vẫn cứ phải lìa xa đồng ruộng của mình hàng tháng giữa lúc hết sức cần thiết họ phải có mặt ở nhà. Cần chú ý rằng người ta chưa hề tập hợp một đoàn quân đông đảo như vậy bao giờ để ngǎn chặn một thiên tai. Trong thời kỳ kể trên, người ta có thể cứu vớt được những người chết đói khốn khổ ở Trung Kỳ, nếu người ta tổ chức từ Đà Nẵng trở đi một dây chuyền vận tải để tiếp tế cho các vùng bị nạn đói hoành hành; một vạn người vét lạch có thể phân phối trong các tỉnh của họ 2.000 tấn gạo trong một tháng.

Công việc đắp đường ở Đà Nẵng, ở Trấn Ninh và ở Lào đã để lại biết bao kỷ niệm xót xa. Người ta lấy phu làm đường trong đám dân đi tạp dịch. Họ phải đi bộ hàng trǎm kilômét mới đến được công trường, bị giữ lại nhiều ngày, sống trong những điều kiện ǎn ở và vệ sinh thảm hại. Không có tổ chức y tế. Dọc đường, lúc đi cũng như khi về, không có lấy một trạm cho họ nghỉ ngơi, một nơi cho họ trú ẩn. Cơm ǎn không đủ, chỉ với một tý cá mắm, nước uống thì uống ngay nước độc kinh khủng ở rừng núi. Bệnh tật, cực nhọc hành hạ tàn tệ đã gây nên chết chóc rùng rợn.

*

*     *

Người ta thay thế chế độ tạp dịch bằng chế độ trưng tập, và giữa hai chế độ chỉ có một điều khác nhau là tạp dịch còn có số ngày hạn định, mà trưng tập thì vô cùng. Chế độ trưng tập đã thoả mãn mọi nhu cầu; nếu nhà đoan cần chuyên chở muối, họ trưng dụng thuyền bè. Cần xây một cái kho ư ? Họ bèn trưng tập thợ thuyền và trưng dụng luôn cả vật liệu xây dựng.

Chế độ trưng tập trở thành chế độ phát vãng trá hình một cách vụng về. Bất chấp việc đồng áng, bất chấp cả những ngày hội hè hay những ngày không có nghĩa vụ gì cả, người ta trưng tập cả hàng xã, đưa đến công trường, mà rồi trở về chỉ là phần ít. Không nên kết tội đất đồng bằng hay rừng nhiệt đới nước độc, mà tội là ở chỗ thiếu thốn cả những nhu cầu đơn giản. Người ta trưng tập nhân công. Người ta làm đủ thứ cần thiết để rút những người lao động rời khỏi mảnh đất của mình, đưa họ đi xa hàng trǎm ngàn kilômét, nhưng chẳng bao giờ tổ chức một tý gì để đưa họ trở về quê quán.

*

*     *

Không mấy ai chưa từng nghe chuyện những đoàn phu bị cưỡng bức phải đi Langbiang. Trên đường đi những nơi rừng thiêng nước độc, đến những nơi thần chết đợi chờ, ǎn uống khổ sở, có ngày không được lấy hột cơm vào bụng, các đoàn ấy bỏ chạy tán loạn hay nổi lên chống lại, thì họ lại bị bọn lính áp giải đàn áp ghê gớm, và xác họ rải khắp nẻo đường.

Một viên quan cai trị được lệnh của chính phủ phải bắt phu cho quân đội ở Trung Quốc. Viên quan ấy liền cho túm cổ hết mọi người bản xứ đang lao dịch hoặc bốc hàng ở tàu, người ta trói họ lại và quẳng họ xuống tàu đợi sẵn ở bến mặc cho họ kêu ca phản đối, mặc cho vợ con họ khóc than thảm thiết, uất ức chẳng bao giờ lại được thấy mặt chồng, mặt cha nữa.

cpv.org.vn

 

 

 

 

Chính sách ngu dân

Người An Nam rất hiếu học. Trong các tầng lớp xã hội, người sĩ phu chiếm địa vị hàng đầu. Có con học giỏi là một vinh hạnh cho cha mẹ. Cho nên, dù có nghèo đói đến đâu, cha mẹ cũng cố tìm cách cho con cái được học hành. “Nửa bụng chữ bằng một hũ vàng” là một câu tục ngữ biểu hiện nhiệt tình ham muốn có học thức của dân tộc An Nam. ở làng xã nào cũng có trường công và trường tư. Chữ nho rất khó học thế mà hầu hết người An Nam đều biết “ký tên bằng chữ Hán”. Nạn mù chữ hầu như không còn.

Người Pháp đến đã làm đổi thay tất cả. Đời sống càng ngày càng khó khǎn. Thuế má nặng nề, phu dịch thường xuyên. Các gia đình khá giả nay bị sa sút không còn có thể nuôi thầy đồ dạy học cho con cái mình và con cái những người láng giềng như xưa nữa. Những kẻ nghèo đói thì bị bần cùng, nên họ phải chống đói đã rồi mới có thể nghĩ đến chuyện học hành.

Càng nghèo khổ thì số người thất học càng nhiều. Mặt khác, thực dân Pháp lại cố tâm huỷ bỏ Hán học mà chúng thấy là nguy hiểm cho sự thống trị của chúng, vì chúng biết rằng Hán học có thể đưa vào An Nam những tư tưởng tiến bộ phương Tây thông qua Trung Quốc và Nhật Bản. Người ta có thể tưởng rằng bỏ Hán học đi để đẩy lùi ảnh hưởng nước ngoài, người Pháp sẽ thay thế vào đó bằng nền giáo dục của họ. Không phải thế đâu. Thâm ý của họ chỉ là đẩy người An Nam vào vòng ngu tối. Tôi xin nêu ra sau đây một vài bằng chứng của người Pháp.

Đại tá Bécna viết: Về phương diện tinh thần, người Pháp không tổ chức một nền giáo dục mới thay thế cho nền giáo dục An Nam mà họ đã bỏ đi. Họ chỉ xây dựng được một ít trường học để đào tạo ra những con vẹt, những người vong bản thiếu đạo đức và thiếu cả kiến thức phổ thông.

Trong một bản báo cáo về tình hình Đông Dương, tướng Penơcanh cũng viết: Trong 50 nǎm chiếm đóng ở Nam Kỳ và 25 nǎm chiếm đóng ở Bắc Kỳ, những trường học Pháp không đào tạo lấy được một người An Nam thật sự có học thức.

Ông Mácxơ, vǎn sĩ thuộc địa, đã viết câu sau đây lột tả được đúng tư tưởng đang thống trị trong đầu óc của các nhà cai trị của chúng ta: Chúng ta chỉ cần dạy tiếng Pháp cho người An Nam, dạy cho họ biết đọc, biết tính toán chút ít thôi; biết hơn nữa chỉ là thừa vô ích.

Nhưng ngay cả nền giáo dục sơ đẳng ấy cũng chỉ được phổ cập một cách quá bủn xỉn và nhỏ giọt. Trường học rõ ràng là còn thiếu nhiều, giáo viên thì chưa đủ tư cách để giảng dạy. Cao Miên có 2.000.000 dân mà chỉ có 60 trường học. ở Trung Kỳ chỉ có 118 trường cho 6.000.000 dân. Trường học lập ra không phải để giáo dục cho thanh niên An Nam một nền học vấn tốt đẹp và chân thực, mở mang trí tuệ và phát triển tư tưởng cho họ, mà trái lại càng làm cho họ đần độn thêm. Ngoài mục đích giáo dục để đào tạo tuỳ phái, thông ngôn và viên chức nhỏ đủ số cần thiết phục vụ cho bọn xâm lược – người ta đã gieo rắc một nền giáo dục đồi bại, xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát nữa, vì một nền giáo dục như vậy chỉ làm hư hỏng mất tính nết của người đi học, chỉ dạy cho họ một lòng “trung thực” giả dối, chỉ dạy cho họ biết sùng bái những kẻ mạnh hơn mình, dạy cho thanh niên yêu một Tổ quốc không phải là Tổ quốc của mình và đang áp bức mình. Nền giáo dục ấy dạy cho thanh thiếu niên khinh rẻ nguồn gốc dòng giống mình. Nó làm cho thanh thiếu niên trở nên ngu ngốc. Điều gì có thể rèn luyện được cho học sinh biết suy nghĩ, biết phân tích thì người ta không dạy ở nhà trường. Vấn đề nào có liên quan đến chính trị, xã hội và có thể làm cho người ta tỉnh ngộ đều bị bóp méo và xuyên tạc đi. Có học lịch sử nước Pháp đi nữa, thì người ta không hề đả động đến chương nói về cách mạng. Người ta cấm học sinh đọc tác phẩm của Huygô, Rútxô và Môngtexkiơ. Nói tóm lại, trường học thật là tương xứng với chế độ đã khai sinh ra nó.

Cách đây vài nǎm, người ta ban cho chúng tôi một trường đại học. Một trường đại học thế nào? Theo những bài diễn vǎn chính thức và những lời tuyên truyền ầm ỹ xung quanh trường này thì trường đại học của chúng tôi có thể so sánh được với các trường đại học to nhất Âu châu kia đấy. Thực ra, thì hằng nǎm trường đại học chỉ sản xuất được hai ba ông cử nhân hạng tồi. Ông bố đỡ đầu cho cái trường “Xóocbon Annammít” ấy, hiện giờ là thống đốc Nam Kỳ, trong một lúc thành thật hiếm thấy xưa nay ở ngài, ngài đã thú nhận rằng chính ngài đã “hằng chǎm lo đến sự tiến bộ của cả dân tộc An Nam; mở trường y khoa và trường đại học là cốt để sau này (lời thú nhận vào tháng 3 nǎm 1924) người An Nam có thể thay thế người Pháp trong các chức vụ thứ yếu ở các công sở”.

Bên cạnh trường đại học đáng quý ấy, lập ra cốt để loè nước ngoài, để đưa ra khoe khoang trong các bài diễn vǎn và để lấy cớ ngǎn cấm người An Nam xuất dương du học, chúng tôi còn có một trường y khoa, một trường luật, một trường công chính, ba hoặc bốn trường chuyên nghiệp nữa, cho cả 20.000.000 dân.

Nhưng kết quả thu được ở các trường ấy thì như thế nào? Một tờ báo Pháp xuất bản ở Đông Dương đã trả lời câu hỏi đó như thế này: Số thanh niên An Nam có trình độ kỹ thuật chuyên nghiệp cao còn rất ít, rất ít người dân bảo hộ có thể đảm đương được xứng đáng chức vụ của một kỹ sư công chính, của một bác sĩ y khoa hay của một thanh tra hoả xa, chẳng hạn.

Cho nên bị chính sách ngu dân triệt để kiềm chế như vậy, người An Nam muốn học lên chỉ còn có 2 cách: đi du học ở nước ngoài hay ở Pháp. Nhưng nếu có một người An Nam nào có ý định đi du học nước ngoài thì sẽ bị coi như một người nổi loạn, một người chống Pháp, có tội lớn; người ta hãm hại người đó và cả gia đình họ. Anbe Xarô, nguyên toàn quyền Đông Dương, nay là Bộ trưởng thuộc địa đã nói rõ chính sách bao vây tinh thần ấy bằng những lời lẽ sau đây: “Để cho lớp thượng lưu trí thức được đào tạo ở nước ngoài thoát khỏi vòng kiềm toả của chúng ta, chịu ảnh hưởng vǎn hoá và chính trị của nước khác, thì thật là một điều nguy hiểm vô cùng. Những người trí thức đó trở về nước đã đưa hết tài nǎng của họ để tuyên truyền vận động chống lại chúng ta là những người bảo hộ đã ngǎn cấm không cho họ học tập”.

Còn sang du học ở Pháp lại là một chuyện khác hẳn. 1) Sinh hoạt ở Pháp đắt đỏ hơn ở Trung Quốc và ở Nhật Bản, nên du học sinh phải rất giàu mới có đủ tiền đến học ở một trường chính quốc. 2) Ngoài ra, người đó phải được bảo đảm về tinh thần nghĩa là cha mẹ anh ta phải có thái độ phục tùng Chính phủ; phải có bảo đảm về vật chất tức là phải đút lót thật nhiều cho các quan cai trị. 3) Du học sinh phải làm đủ các thể thức quái gở, vô ích và nhục nhã; những thể thức này thường làm cho người xin đi học phải nản chí, vả lại Chính phủ cũng chỉ muốn như thế thôi. 4) Khi đã sang Pháp, người du học sinh phải chịu sự giám sát, theo dõi và dò la của Chính phủ Pháp.

Chính phủ Pháp cố đưa du học sinh An Nam vào học ở những trường phản động nhất. Những sách vở báo chí mà anh ta đọc, những hoạt động, giao thiệp hằng ngày của anh đều bị kiểm soát, theo dõi. Người ta giao anh cho những tên ba que thực dân già đã về hưu trông nom. Chính phủ Pháp dựng lên một bức tường ngǎn cách hẳn du học sinh với những luồng tư tưởng chính trị và xã hội ở chính quốc. Để nắm chặt lấy anh ta, người ta dùng tiền thuế của người An Nam tổ chức ra những hội quán và câu lạc bộ cho du học sinh; ở đấy muốn làm gì thì làm, trừ việc học tập. Nếu anh sinh viên tỏ vẻ tự lập thì người ta sẽ bắt ép cha mẹ phải gọi anh ta về. Nếu anh ta không nghe, thì người ta cứ việc cắt lương của anh.

Học xong và nếu đã tốt nghiệp – dù tốt nghiệp bác sĩ y khoa, luật sư hay kỹ sư bách khoa – người An Nam muốn có việc làm ở trong nước thì phải nhập quốc tịch Pháp; mà muốn được vào làng Tây thì phải luồn lọt xin xỏ thật là nhục nhã và hèn hạ.

Muốn mở trường tư thì phải xin phép Chính phủ trước. Bất cứ lúc nào Chính phủ cũng có quyền kiểm soát hoặc bắt các trường phải đóng cửa.

Sau những cuộc biểu tình nǎm 1907 (58) mà tôi đã có dịp nói đến, Chính phủ cho lính tập về phá phách các trường học và bắt bớ giáo viên. Các ông giáo bị bắt, bị ngược đãi hành hạ, tay trói giật cánh khuỷu và bị dẫn từng xâu lên tỉnh lỵ; đầu trần, chân không, nhịn đói, nhịn khát, họ bị đánh đập như trâu ngựa, rồi bị kết án khổ sai. Còn trường học thì bọn sĩ quan Pháp dùng làm chuồng ngựa.

Mới đây, ở một tỉnh Nam Kỳ người ta thuyên chuyển cả một loạt giáo viên, lấy lý do là các nhà giáo đã quyết định xin ra hội mà trước kia họ bị bắt buộc phải gia nhập. Tên công sứ chủ tỉnh làm thủ quỹ hội này đã bắt giáo viên phải đóng thêm 40 phrǎng để bù vào tiền quỹ bị hụt. Các giáo viên bị thuyên chuyển đi cũng vì một lý do khác là tên phó sứ đã chửi mắng, làm nhục họ và doạ đánh vào mõm họ (nguyên vǎn).

Để làm rõ nét thêm cái chế độ tốt đẹp ấy, tôi cần phải nói thêm rằng: Chính phủ đã biếu bà quả phụ của một viên cựu thống đốc một món tiền là 1 triệu phrǎng, và trợ cấp 800.000 phrǎng cho 66 buổi kịch giải trí cho khoảng 3 hay 4 nghìn người Âu ở Sài Gòn; nhưng Chính phủ lại thu hồi khoản trợ cấp chỉ có 2.000 đồng cho một tổ chức giáo dục bình dân vì ông hội trưởng của tổ chức này là một người làng Tây có chân trong Hội đồng thuộc địa, đã viết những bài báo phản đối việc cho trưng thầu hải cảng Sài Gòn.

cpv.org.vn

—————————

58. Những cuộc biểu tình năm 1907: Phong trào cải cách bằng con đường hoà bình diễn ra sôi nổi khắp 3 kỳ trong năm 1907. Trung tâm của phong trào là các đô thị, nhất là Hà Nội. Những người cầm đầu phong trào này đều là các sĩ phu tiến bộ. Nội dung của phong trào chủ yếu là mở trường học, truyền bá tư tưởng mới, cổ động bỏ hủ tục và lồng vào đó là tư tưởng yêu nước, chống Pháp.

Tiêu biểu cho phong trào là Đông kinh nghĩa thục (từ tháng 3 đến tháng 11-1907) đứng đầu là Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Đào Nguyên Phổ.

Phong trào đã diễn ra sôi nổi ở khắp nơi. Thông qua các cuộc diễn thuyết, bình văn thơ, các sĩ phu tuyên truyền những tư tưởng mới, đề cao tinh thần dân tộc, kích động và phát triển mạnh mẽ lòng yêu nước của nhân dân ta. Tr.402.