Sự nhượng quyền và những kẻ được nhượng quyền

Sau khi bị binh lính bắn phá và chém giết, Đông Dương lại bị bọn cá mập thực dân cướp bóc đến tận xương tuỷ. Việc cướp bóc đê tiện ấy gọi theo tiếng thực dân là đồn điền.

Trong cuộc chiến tranh xâm lược lâu dài, dân chúng phải bỏ đất đai đi lánh nạn, chờ cho qua ngày khói lửa. Trước hết, người ta mang đất đai của họ nhượng cho kẻ khác. Khi đã yên ổn rồi, những chủ cũ về làng thì thấy ruộng đất của mình đã bị chiếm mất; muốn về lại chỗ cũ làm ǎn, họ phải nhận những điều kiện của người mới đến: cày cấy chính đồng ruộng của mình cho một anh chủ người ngoại quốc.

Nhiều khi người ta nhượng cả những đất đai đã có người ở và cày cấy với cả làng mạc ở đó.

Nhiều nơi, cả làng bị tước đoạt hết đất đai như vậy, phải trở thành những người mà người ta gọi là “kẻ cướp”; thật ra họ chỉ là những người nổi dậy chống việc cướp đoạt bất công.

Những tên cướp bất công ấy lại được Chính phủ thuộc địa nâng đỡ.

Một tên toàn quyền đã nhượng một đồn điền lớn cho một công ty trồng chè ở Đà Nẵng – nhưng công ty chẳng phát đạt gì lắm -, đã mang đất đai của nhà vua An Nam nhượng cho kẻ khác, người ta cũng chưa lấy làm vừa lòng, người ta còn bắt cả nhà vua phải cho công ty vay 30 vạn bạc nữa. Ngoài ra công ty còn được thầu cung cấp chè cho binh lính. Nhưng người An Nam không thích uống thứ chè xấu ấy, nên chè cung cấp để mốc trong kho.

*

*     *

ở ngoại thành, nhiều người Âu không phải đóng thuế điền thổ, vì Nhà nước cho rằng bắt chủ đồn điền phải đóng thuế điền thổ là làm hại cho sự phát triển của nền nông nghiệp.

Giảm nhẹ thuế cho người Âu, dù là người Âu giàu có, là việc thường; đặc biệt ở Cao Miên, nhiều người được giảm thuế, và thường thường họ là những viên chức người Âu.

*

*     *

Người An Nam, dù có sẵn tiền cần thiết, cũng không xin được nhượng đến nǎm hécta, nhưng đối với thực dân thì diện tích xin không bị hạn chế. Nhiều người Âu có đồn điền rộng trên 25.000 hécta.

Người ta đã nhượng những đồn điền rộng từ 10 đến 20 ngàn hécta cho những kẻ chẳng hiểu biết chút gì về nông nghiệp; bọn này chỉ có một ý nghĩ: lập lại ở Đông Dương một chế độ phong kiến có lợi cho họ bằng cách coi người bản xứ như những nông nô thực sự.

Có hai viên công chức đã được nhượng làm đồn điền 30 ngàn hécta rừng với giá 5 phrǎng một hécta. Hơn nữa họ còn ghi rõ rằng 30 ngàn hécta ấy được miễn thuế trong suốt thời kỳ công ty kinh doanh, nghĩa là suốt 80 nǎm.

Một lần khác, khi vào sổ trước bạ cái vǎn tự bán 30 ngàn hécta đất với giá 150 ngàn phrǎng, viên chủ sự trước bạ ghi dưới vǎn tự như sau: “đã thu 10 phrǎng thuế theo lệnh của quan toàn quyền”. Chỉ 10 phrǎng thuế để chiếm làm của riêng được 30 ngàn hécta đất!

Vừa rồi, người ta cho bọn đầu cơ 8 ngàn, 10 ngàn và 20 ngàn hécta rừng công và ruộng đất của người An Nam ở thượng du. Bị cướp đoạt như thế, những người này tỏ ra bất bình. Thế là, Chính phủ đưa ngay máy bay chở bom lên, làm cho họ yên đi.

Bây giờ chúng ta xét sang bọn ǎn cướp một kiểu khác đã trổ hết tài khéo léo lừa cả Nhà nước lẫn dân bản xứ. Quân cướp này gọi là người cho thầu, người bỏ thầu hay thầu khoán.

Hãy kể vài ví dụ:

Người ta cho bỏ thầu công việc vận tải đường thuỷ làm hai lô, một lô vận tải đường sông và một lô vận tải đường biển. Bản hợp đồng định rằng khi cả hai lô đã cho bỏ thầu xong, thì một trong số người bỏ thầu có thể nhận thầu chung cả hai lô.

Lô thứ nhất được đem ra đấu giá. Ông R. xin 6 phrǎng rưỡi một hải lý. Vì không hợp lệ, ông R. bị loại ra ngoài. Lô thứ nhất được thầu 9 phrǎng một hải lý và lô thứ hai 18 phrǎng.

Xong rồi người ta đem cho đấu giá chung cả hai lô gộp lại. Chỉ những người đã đấu giá trúng riêng từng lô mới được đấu giá chung cả hai lô. Ông R. đã bị loại lần đầu, đáng lẽ không được tham gia lần đấu giá chung này. Tuy vậy, trong thời gian từ lần đầu đến lần này, họ đã thông đồng với nhau. Hai nhà trúng thầu lần trước không chịu đấu giá cả hai lô gộp lại. Vậy ông R. lại được phép bỏ thầu, và ông R. trước xin có 6 phrǎng rưỡi, nay lại đòi 9 phrǎng kia.

Sáu phrǎng rưỡi xin không đạt, mà nay lại được những chín phrǎng!

Công ty được thầu có lãi rất nhiều, thiệt hại cho xứ thuộc địa. Khi mới thành lập, công ty chỉ có 500.000 phrǎng làm vốn. Trong 30 nǎm, số vốn ấy đã thành 11.000.000 phrǎng.

Một thành phố ở Nam Kỳ mở một nhà máy điện. Công việc kinh doanh phát đạt lắm. Viên công sứ bắt hàng tỉnh phải nhượng không nhà máy cho một người bạn của ông ta. ít lâu sau, vì nhà máy không phát tài được nhưng đã là của tư nhân, nên hàng tỉnh bị cướp đoạt trước kia lại phải mua lại rất đắt cái mà họ đã phải cho không.

Để loè đời, người ta đã bỏ ra hàng ngàn bạc để đặt một đài vô tuyến điện ở Sài Gòn. Công việc vừa hoàn thành thì cả nhà cửa lẫn máy móc đã lọt vào tay một công ty của tư nhân. Nhưng việc kinh doanh lỗ mỗi ngày mất một ngàn bạc, công ty dàn xếp để chính xứ thuộc địa, nghĩa là những người dân đóng thuế, phải gánh sự thua lỗ ấy.

Một công ty khách sạn được thành lập với số vốn là 25.000 đồng. Lấy cớ để khuyến khích việc du lịch, Chính phủ góp phần vào 1.200.000 đồng để xây dựng nhà cửa. Ngoài ra, họ còn định rõ rằng nếu cho thầu không hết số tiền ấy thì số tiền tiết kiệm được sẽ chia cho công ty và Nhà nước. Khách sạn sẽ có tất cả 12 buồng. Thế là dân An Nam phải trả 100.000 đồng hay 1.000.000 phrǎng mỗi buồng để một ngày kia vài ông da trắng ǎn bám và lười biếng đến nghỉ tay chân rỗi rãi của các ông!

Một anh chủ thầu cống rãnh nào đó giao ống nước làm bằng vôi thay cho ống ximǎng, ống không đầy một mét lại khai là dài ba mét, rồi chia nhau với các ông hội đồng thành phố người Âu 1.600.000 phrǎng. Một ông kỹ sư khác, đồng thời kiêm cả nhiệm vụ phó đốc lý, biển thủ 300.000 phrǎng trong việc xây cống rãnh và sửa sang lại có một đường phố. Một ông kỹ sư địa chính và hội đồng thuộc địa nào đó đút túi hơn 900.000 phrǎng tiền công đo đạc để lập bản đồ đất đai ở ba tổng. Và, vì thấy ngài “thanh liêm” lắm và có chân trong công ty độc quyền hải cảng Sài Gòn, nên Chính phủ vừa mới giao cho ngài làm luôn cả các công việc đạc điền ở nhiều tỉnh khác.

Đại bợm nhất trong số kẻ cướp ấy là “Tổng công ty thuộc địa” vừa mới được nhượng hải cảng Sài Gòn – Chợ Lớn (Nam Kỳ). Cho hưởng độc quyền tức là cho công ty ấy hải cảng với cả đất đai nhà cửa, dụng cụ máy móc cần thiết để kinh doanh, cho quyền thu thuế và độc quyền vận tải để xuất cảng.

Như thế là, nông dân, tiểu thương, công nhân khuân vác ở cảng, chủ thuyền ở Nam Kỳ, tất cả mọi người đều bị phó mặc trong tay một công ty độc quyền ǎn cướp muốn làm gì thì làm, mà đại biểu là một tên kỹ sư và … là nghị viên hội đồng thuộc địa.

cpv.org.vn

Advertisement