Thư viện

Kỷ niệm ngày báo chí cách mạng Việt Nam: Bác Hồ – Người thầy, người đồng nghiệp lớn

(ĐCSVN) – Nền Báo chí cách mạng của chúng ta do Bác Hồ sáng lập, ra đời từ năm 1925 với tờ Thanh niên mở đầu cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa.

Báo chí cách mạng nước ta trước năm 1945 phần lớn là báo viết tay, in thạch, in đá. Nhưng ảnh hưởng hiệu quả của những tờ báo thô sơ ấy thì vô cùng lớn, đã thức tỉnh hàng triệu nguời tìm đến Đảng, ủng hộ đường lối của Đảng, giúp Đảng tổ chức các lực lượng cách mạng chuẩn bị cho cuộc Cách mạng Tháng 8 năm 1945.

Bác Hồ ở rừng Việt Bắc (Ảnh tư liệu)

Ngược dòng lịch sử đầu năm 1925 tại Quảng Châu (Trung Quốc), đồng chí Nguyễn Ái Quốc thành lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, biên soạn tài liệu mở lớp đào tạo thanh niên, đồng chí đã cho ra đời báo Thanh niên, tờ báo đặc biệt đầu tiên của báo chí cách mạng Việt Nam.

Trải qua 88 năm Báo chí cách mạng, lúc bí mật, lúc công khai và kể cả khi đã giành được chính quyền, biết bao nhà báo đã ngã xuống, góp phần giành độc lập tự do cho dân tộc. Chúng tôi là người có vinh dự có thời gian được sống gần Bác, luôn nhớ về tấm gương của Bác là bài học lớn cho lớp phóng viên chúng tôi thuở ấy.

Bác dạy người làm báo cần quý trọng tiếng Việt

Những ngày đầu kháng chiến, phim dùng để quay rất hiếm nên việc ghi lại hình ảnh Bác Hồ không được nhiều. Năm 1951 cần dựng một bộ phim có hình ảnh Bác, các đồng chí làm điện ảnh Phạm Văn Khoa, Mai Lộc xin phép Bác cho quay bổ sung, Bác đồng ý.

Trước khi quay, anh Mai Lộc người miền Nam kéo ngay cái thước dây để đo từ ống kính đến gần chỗ Bác đang đứng xem bao xa cho độ nét ống kính thật chính xác. Anh gọi: Khoa ơi Khoa, “quinze yard”! (tức là 15 thước). Anh Phạm Văn Khoa gạt thước ống kính. Không ngờ, Bác nói: Không nói được Tiếng Việt sao mà chú phải nói tiếng Tây?. Bị bác la, anh Mai Lộc khóc. Bác bảo: Bác mắng oan lắm sao mà khóc! Anh Mai Lộc vẫn tiếp tục quay cảnh Bác đọc báo và làm việc với Tổng Bí thư Trường Chinh. Khi quay phim Bác xong, anh Mai Lộc vẫn còn buồn. Lúc này Bác lại nói vui: “Payer les artistes tout de suitr”. (Trả thù lao cho diễn viên đi!) Không khí vỡ òa, mấy Bác cháu lại cười vang, Bác tặng mỗi người một điếu thuốc. Bác thủ thỉ:  Bác biết nhiều thứ tiếng hơn các chú, nhưng phải luôn luôn quý trọng tiếng mẹ đẻ.

Bác dạy người làm báo chí, văn nghệ phải trọng văn hóa dân tộc

Đọc Chinh phụ ngâm, yêu thơ…và tự hào về văn hóa dân tộc mình, Bác thường giới thiệu với khách quốc tế hiểu hơn về văn hóa dân tộc Việt Nam.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp và tác giả ( Nhà quay phim Việt Tùng -bên trái ảnh)

Hôm đó có đoàn đại biểu Đảng, chính phủ Tiệp Khắc sang thăm Việt Nam Bác chọn đoàn Văn công Tổng cục Chính trị giới thiệu và biểu diễn. Trước giờ mở màn gần 1 tiếng, Bác đến sớm xem chuẩn bị ra sao. Trong lúc diễn viên đang hóa trang, bất ngờ thấy Bác xuất hiện. Anh em mừng rỡ: Bác đến! Mọi người vội chạy đến với Bác. Bác hỏi: Hôm nay các cô, các chú có bài tủ gì nào? (Bài tủ là bài hay nhất, đi đâu cũng được giới thiệu). Các anh chị trong đoàn thưa với Bác, chúng cháu có nhiều bài hay, trong đó có cả bài hát Tiệp Khắc hát bằng tiếng Tiệp và tiếng Việt nữa ạ!! Bác vui nhưng căn dặn khéo: Các cô chú chuẩn bị như thế thì tốt. Nhưng, các cô chú phải cẩn thận, kẻo khi hát các cô chú hát tiếng Tiệp Khắc cho bạn nghe, họ tưởng các cô chú đang hát tiếng Việt, mà các cô chú hát tiếng Việt cho Bác nghe, Bác lại nghĩ các cô chú hát tiếng Tiệp Khắc!… Nghĩ lại mới hiểu ý nghĩa Bác căn dặn: Hát phải hát to, rõ lời, tiếng của ca sĩ phải tròn vành vạnh…

Bác thường nhắc với NSƯT ngâm thơ Trần Thị Tuyết: “Bác thích giọng ngâm của cháu, cháu có giọng quý như vậy nhưng đừng tự mãn đấy!  Đầu năm 1968, Bác viết bài thơ Mừng xuân 68. Trước khi chị Tuyết ngâm, Bác vào phòng Bá Âm của Đài Tiếng nói Việt Nam đọc thử. Bác hỏi mọi người: Có được không? Mọi người khen. Bác bảo:  Hay thì vỗ tay đi! Khiến không khí thật vui, đúng là ngày sắp tết. Bác là một chủ tịch trăm công ngàn việc, mà quan tâm đến anh em văn nghệ, báo chí rất cụ thể.

Có lần anh em đi phục vụ Bác, cơ quan chuẩn bị cơm nắm mang theo, khi đến giờ ăn, Bác cháu cùng mang ra ăn. Bác thấy anh em quay phim trong suất ăn không có giò, mà suất của Bác lại có. Bác không đồng ý, và lấy đũa chia ra mỗi người một tí. Bác nói: Làm việc thì chức năng khác nhau, nhưng ăn thì công bằng…

Về những thước phim Bác Hồ đi cấy

Ngày đó miền Bắc thời tiết giáp tết lạnh, thường mưa phùn, những người nông dân phải cấy xong mới có thể ăn tết. Bác Hồ đi trên đường đê, nhìn xuống cánh đồng, xa xa đoàn người mắc áo tơi đang lom khom cấy lúa. Bác tần ngần nói: “Cúi lom khom lâu thế kia, thì đêm về nằm chắc đau mình khó ngủ”. Sau đó Bác đi công tác Trung Quốc, thấy bạn đã chế được máy cấy thay được sức người, Bác mừng lắm bèn cho mời anh Nguyễn Lam, Bí thư đoàn Thanh niên Lao động đến gặp Bác. Bác nói: Chú tìm cho Bác hai người thanh niên nhanh nhẹn để sang Trung Quốc học cách sáng chế chiếc máy cấy để tăng năng suất mà giảm sức lao động. Bác nhấn mạnh: Chú cứ cử người thanh niên nhanh nhẹn nhưng lại phải là thanh niên nông dân, họ mới thông cảm cái khó khăn của nông dân thì mới có kết quả… Nhiều năm đã trôi qua, giờ xem lại những thước phim Bác Hồ đi cấy  thấy tình Bác vẫn còn đây…

Đức tính liêm khiết của Bác

Bác sĩ thấy Bác đọc báo mà đẩy xa tờ báo mới đọc được. Với kinh nghiệm của nghề, ông biết Bác bị tăng số kính. Nhân sang Đức có loại kính tốt, Bác sĩ bèn mua một chiếc, bảo anh An Sơn quay phim đêm khuya  vào đổi kính của Bác. Bác giật mình thức giấc. Bị phát hiện,  An Sơn lúng túng: “Thưa Bác cháu muốn đổi kính để Bác đọc tốt hơn”. Bác nói: “Bác cháu mình đi công tác hay đi mua kính cho Bác? Thôi cất đi, cháu phải nhớ rằng Bác không đưa tiền nhờ cháu mua, và tiền chắc hẳn không phải của cháu, như vậy là phải lấy tiền của dân. Thôi cất đi…” .

Những đức tính của người thầy, người đồng nghiệp lớn ấy, mãi mãi là những bài học cao quý cho những người làm báo chúng ta sau này./.

NSƯT, Đạo diễn Phạm Việt Tùng

Theo dangcongsan.vn
Vkyno (st)

Chủ tịch Hồ Chí Minh và báo chí

ba ho doc bao nd

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh xem báo chí là vũ khí, là tiền đồn của mặt trận tư tưởng mà những người cách mạng cần phải nắm giữ và sử dụng có hiệu quả trong hoạt động đấu tranh cách mạng.

Trong hoạt động đấu tranh để giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dùng báo chí như một công cụ sắc bén chống lại những âm mưu của chủ nghĩa thực dân đối với các dân tộc thuộc địa, lấy báo chí làm điểm gắn kết các dân tộc cần lao lại với nhau nhằm tạo sức mạnh to lớn làm nên thắng lợi, đồng thời với quá trình đó Hồ Chí Minh cũng trở thành một nhà báo xuất sắc của nền báo chí cách mạng Việt Nam nói riêng và báo chí vô sản nói chung. Trong hoạt động sáng tạo báo chí của mình, Hồ Chí Minh cũng đồng thời đã hình thành những quan điểm sâu sắc về vị trí, vai trò, bản chất và đặc trưng của báo chí và đặc biệt là quan điểm về xây dựng đạo đức của đội ngũ nhà báo.

Báo chí Việt Nam ra đời muộn, lại phát triển trong hoàn cảnh đặc biệt khi bị sự áp bức của chế độ thực dân nửa phong kiến. Báo chí giai đoạn này chia làm hai chiến tuyến. Một bên là nền báo chí phản động được sự ủng hộ của thực dân đã dùng ngòi bút phản động để “ru ngủ”, “nhồi sọ” nhân dân và chống phá các tư tưởng cách mạng. Chính phủ Pháp cũng giành luôn lấy “Cái quyền hạn bỉ ổi chỉ cho phép xuất bản những loại nào ca ngợi mình và sau khi đã có kiểm duyệt. Chính phủ lợi dụng cái độc quyền ấy để lập ra những tờ báo tiếng Việt theo ý mình, được hưởng trợ cấp bí mật của Nhà nước và chuyên việc làm quảng cáo tuyên truyền cho chính phủ và thường kỳ viết những bài phỉnh nịnh các quan trên có thế lực ở thuộc địa”[1].

Ở phía bên kia chiến tuyến là những tờ báo cách mạng (mặc dù rất ít) nhưng cũng đã bước đầu khuyến khích được những tư tưởng yêu nước, thương dân, truyền bá những giá trị mới từ bên ngoài vào và tích cực đấu tranh chống lại chủ nghĩa thực dân và phong kiến, những tờ báo này là ngọn cờ đấu tranh với kẻ địch trên lĩnh vực chính trị tư tưởng, thức tỉnh lòng yêu nước và chí khí tự hào của dân tộc. Tuy nhiên phải hoạt động trong điều kiện vô cùng khó khăn, bị cấm đoán, đình bản, đóng cửa và những người làm báo lúc nào cũng có thể đeo vào cổ án tù…

Trong quá trình tìm đường cứu nước, nghiên cứu về những giá trị của phương Tây, Hồ Chí Minh đã nhận thấy sức mạnh to lớn của báo chí trên mặt trận văn hóa tư tưởng. Hồ Chí Minh là một trong những người Việt Nam đầu tiên viết báo trên đất Pháp. Việc viết báo của Người là cả một quá trình rèn luyện, từ chỗ chỉ bắt đầu bằng những mẩu tin năm ba dòng, với những việc rất nhỏ rồi dần dần viết dài ra, đến khi đã viết được dài rồi, người ta lại yêu cầu Bác phải thu ngắn lại, càng cô đọng, càng súc tích càng tốt, dùng được càng nhiều những từ “đắt” nghĩa càng tốt, đó là một việc làm rất khó khăn khi mà trình độ ngoại ngữ của Người lúc đó vẫn còn nhiều hạn chế.

Tài năng viết báo của Hồ Chí Minh đồng hành với quá trình đấu tranh cho cách mạng Việt Nam, Người đã lấy báo chí làm vũ khí lý luận của mình và coi báo chí là một mặt trận vô cùng quan trọng, mặt trận văn hóa tư tưởng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trên mặt trận đó, Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng, cây bút trang giấy là vũ khí sắc bén của họ”[2]. Trách nhiệm của nhà báo là định hướng và bảo vệ tư tưởng của đảng trong cán bộ và quần chúng nhân dân. Hồ Chí Minh cho rằng “một tờ báo có ảnh hưởng trong dân chúng rất mạnh, có thể giúp chính phủ rất nhiều”[3].

Trong sự nghiệp chấn hưng dân tộc, báo chí cũng là một mặt trận đấu tranh để “phò chính trừ tà”, tuyên truyền những giá trị tốt đẹp của chế độ mới, giáo dục đạo đức trong quần chúng nhân dân, đồng thời đi đôi với đấu tranh chống lại những tật bệnh trong xã hội như tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu mà nguồn gốc sâu xa chính là do chủ nghĩa cá nhân sinh ra. Đi đôi với đấu tranh chống cái xấu, báo chí phải tuyên truyền những tấm gương người tốt, việc tốt trong xã hội để mọi người học hỏi, Hồ Chí Minh cho rằng: “Báo chí phải khuyến khích những người tốt, việc tốt và thẳng thắn phê bình những điều xấu như: Lười biếng, tham ô, lãng phí, quan liêu. Đó là một việc làm rất cần thiết”[4], thắng lợi trên mặt trận này sẽ góp phần to lớn vào sự nghiệp cách mạng chung của cả dân tộc trên con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

● Hồ Chí Minh – Người khai sinh nền báo chí cách mạng Việt Nam

Với vai trò là người sáng lập, Hồ Chí Minh đã trực tiếp cho ra đời 9 tờ báo cách mạng, đó là: Người Cùng Khổ (1922); Quốc Tế Nông Dân (1924); Thanh Niên (1925); Công Nông (1925); Lính Kách Mệnh (1927); Việt Nam Tiền Phong (1927); Thân Ái (1928); Đỏ (1929); Việt Nam Độc Lập (1941); Cứu Quốc (1942). Ngoài ra Người còn đóng góp hàng nghìn bài viết trên các tờ báo của Việt Nam cũng như quốc tế. Từ bài báo đầu tiên cho đến những tác phẩm cuối cùng, với vai trò là người sáng lập cũng như quản lý báo chí, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều thực hiện đúng như tôn chỉ cầm bút của mình mà Người từng chia sẻ đó là đấu tranh cho độc lập dân tộc, cho tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân.

Theo thống kê, Chủ tịch Hồ Chí Minh có hơn 170 tên gọi, bút danh và bí danh[5] thì 2/3 những tên gọi trong số đó được người sử dụng trong các tác phẩm báo chí của mình. Từ tác phẩm đầu tay Vấn đề dân bản xứ (đúng với tính cách một bài báo)[6] được đăng trên Báo Nhân Đạo (L’Humanité) ngày 2.8.1919 nhằm đòi những quyền dân tộc cơ bản cho dân tộc Việt Nam và lên án những chính sách cai trị, những thủ đoạn áp bức bóc lột cực kỳ dã man, tàn bạo của thực dân Pháp cho đến tác phẩm cuối cùng Thư trả lời Tổng thống Mỹ Risớt M. Níchxơn được Người đề ngày 25.8.1969 và đăng trên Báo Nhân Dân số 5684, ngày 7.11.1969 thì chúng ta thấy rằng, Hồ Chí Minh đã làm báo cả cuộc đời và đã để lại hơn 2.000 bài báo các loại, gần 300 bài thơ và gần 500 trang truyện và ký.

Hồ Chí Minh – Tấm gương đạo đức báo chí

Chủ tịch Hồ Chí Minh ví đạo đức giống như gốc của cây và ngọn nguồn của sông suối “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”[7]. Đạo đức của người làm báo phải thể hiện trước hết ở bản lĩnh chính trị vững vàng, lập trường tư tưởng kiên định. Theo Người, báo chí phản ánh đời sống nhân dân, phản ánh sự nghiệp cách mạng của dân tộc vì vậy, không lúc nào người làm báo được quên trách nhiệm của mình với Đảng, với dân. Nhà báo chính là những chiến sĩ cách mạng trên mặt trận văn hóa tư tưởng, cho nên phải không ngừng “trau dồi tư tưởng nghiệp vụ và văn hóa; chú trọng học tập chính trị để nắm vững chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ; đi sâu vào thực tế, đi sâu vào quần chúng lao động”[8].

Đạo đức của nhà báo phải được thể hiện thông qua những tác phẩm báo chí của mình. Đó phải là những tác phẩm có hình thức đẹp, nội dung phong phú, giá trị chân thật. Mà để làm được điều đó theo Hồ Chí Minh nhà báo phải trả lời được những câu hỏi: Tác phẩm của của mình viết ra để cho ai xem? Tác phẩm viết để làm gì? Tác phẩm viết cái gì? Tác phẩm viết như thế nào? Câu trả lời theo Hồ Chí Minh đó chính là vì nhân dân, vì sự nghiệp chung của toàn dân tộc Việt Nam, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, chỉ khi hướng đến cái đích đó báo chí mới khẳng định được vị thế của mình trong nhân dân, được nhân dân truyền tụng và ca ngợi.

Báo chí cũng phải là tấm gương của tự phê bình và phê bình, bản thân báo chí là cơ quan phản ánh, có trách nhiệm phê bình những những thói hư, tật xấu trong xã hội, Người căn dặn: “Viết để nêu những cái hay, cái tốt của dân ta, của bộ đội ta, của cán bộ ta, của bạn ta. Đồng thời để phê bình những khuyết điểm của chúng ta, của cán bộ, của nhân dân, của bộ đội. Không nên chỉ viết cái tốt mà giấu cái xấu”[9], nhưng muốn làm được điều đó thì trước tiên nhà báo phải tự phê bình bản thân mình đã, mình có hay, có tốt, có đẹp mới đi nói và viết về người khác được, nếu tự bản thân mình đã “hủ hóa, xấu xa” thì còn ai tin vào bài viết, tin vào tác phẩm của mình nữa. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu: “Các báo cũng cần khuyến khích quần chúng giúp ý kiến và phê bình báo mình để tiến bộ mãi”[10].

Đối với hoạt động sáng tạo báo chí, Người đặc biệt lưu ý các nhà báo phải có sự chân thật, khách quan đối với từng con người, từng sự việc trong tác phẩm của mình, phải tránh tư tưởng ba hoa, nói không có sách, mách không có chứng, những gì không biết, không được nghe hoặc nhìn thấy cụ thể thì “chớ nói, chớ viết”.

Hiện nay, chúng ta đang thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, báo chí phải thấy rõ trách nhiệm của mình trong cuộc vận động này, đó là phải tuyên truyền những giá trị đạo đức tốt đẹp mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta, báo chí phải trở thành kênh thông tin để không những giáo dục cho nhân dân học tập mà còn phải giúp nhân dân làm theo, phải khuyến khích những tấm gương người tốt, việc tốt, những điển hình tiên tiến trong nhân dân. Phải tuyên truyền phê phán, lên án những thói hư, tật xấu, những tật bệnh trong xã hội… cùng với đó tự bản thân các nhà báo và những người hoạt động báo chí hãy trở thành một tấm gương về đạo đức.

Đào Anh Tuấn

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 1, tr. 19
[2]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 13, tr. 466
[3] Trần Đương: Chủ tịch Hồ Chí Minh với báo chí cách mạng Việt Nam, Nxb Thông Tấn, Hà Nội, 2004, tr.114
[4]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 13, tr.391-392
[5] Theo Bảo tàng Hồ Chí Minh: Những tên gọi, bút danh, bí danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 2007
[6] Trước khi bài vấn đề dân bản xứ được đăng trên báo cũng đã có 1 số tác phẩm khác của Nguyễn Ái Quốc như: Quyền của các dân tộc thuộc địa, Tâm địa thực dân được đăng nhưng với tư cách một bài báo thực sự thì đây có thể coi là tác phẩm đầu tay của Nguyễn Ái Quốc
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 2011, tập 5, tr. 292
[8]Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 2011, tập 13, tr. 466
[9]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 8, tr. 206
[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 13, tr. 464

Theo nguoilambao.vn
Vkyno (st)

Bác Hồ với báo chí cách mạng Việt Nam (Bài 5)

Từ ngày Báo Thanh niên ra số đầu tiên đến tháng 8-1945, trong vòng 20 năm, hoạt động báo chí nước ta luôn gắn liền với cuộc vận động cách mạng của nhân dân. Sau bao năm bôn ba ở nước ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh trở về nước và sáng lập tờ Việt Nam độc lập, nhằm kêu gọi nhân dân đoàn kết đứng lên đánh đuổi thực dân Pháp.

Hàng loạt tờ báo, tạp chí khác cũng được thành lập như Cứu quốc, Cờ giải phóng, Tạp chí Cộng sản và nhiều tờ báo ở các địa phương đã góp phần tuyên truyền đường lối cứu nước trong cán bộ, nhân dân.

Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, báo chí cách mạng được Đảng trao cho sứ mệnh là người tiên phong trong việc tuyên truyền, giáo dục về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, phản ánh thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với quan điểm xuyên suốt: độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Đây cũng là mục tiêu, là tiêu chí quy định chức năng, nhiệm vụ; đồng thời cũng là môi trường phát triển của nền báo chí nước nhà.

Với Bác Hồ, mặc dù bận rất nhiều công việc của một vị Chủ tịch nước, nhưng Người vẫn luôn quan tâm đến sự phát triển của nền báo chí cách mạng. Nói về mục tiêu của báo chí cách mạng, trong phát biểu tại Đại hội Hội Nhà báo Việt Nam lần thứ II (4-1959), Người chỉ rõ: “Về nội dung viết, mà các cô các chú gọi là đề tài thì tất cả những bài Bác viết chỉ có một đề tài là chống thực dân, đế quốc, chống phong kiến, địa chủ, tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Duyên nợ của Bác đối với báo chí là như vậy đó”.

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Bác Hồ đã viết khoảng 2000 bài báo, tác phẩm với nhiều thể loại, và được ký bằng 174 tên gọi, bí danh và bút danh khác nhau. Đó là những tác phẩm lý luận quan trọng, là cẩm nang chỉ đường cho Đảng và nhân dân ta trong các giai đoạn cách mạng.

Ảnh tư liệu

Theo Người, giữa cách mạng và báo chí có sự thống nhất hữu cơ, bởi vì “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Đối với một vấn đề, mọi người bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó, quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý. Chân lýlà cái gìcó lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức là không phải chân lý”. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, chân lý là Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó cũng là đích phấn đấu của báo chí cách mạng Việt Nam trong suốt 80 năm qua.

Để thực hiện được chân lý đó, Người khẳng định: “Phải có lập trường chính trị vững chắc. Chính trị phải làm chủ. Đường lối chính trị đúng thì những việc khác mới đúng được. Cho nên, các báo chí của ta đều phải có đường lối chính trị đúng”. Tính tư tưởng cao của báo chí suy cho cùng chính là điều này.

Xuất phát từ mục đích hoạt động của nền báo chí cách mạng là vì dân và từ vai trò to lớn của báo chí đối với xã hội, Người nhắc nhở những người làm báo: “Không biết rõ, hiểu rõ, chớ nói, chớ viết. Khi không có gì cần nói, không có gì cần viết, chớ nói, chớ viết càn”. Để báo chí luôn là diễn đàn của nhân dân, Người khẳng định: “Một tờ báo không được đại đa số (dân chúng) ham muốn thì không xứng đáng là một tờ báo”, và “không riêng gì viết sách, viết báo, mà công tác gì muốn làm tốt đều phải coi trọng ý kiến của nhân dân”.

Cũng là để bảo vệ quyền lợi của nhân dân, nên với Hồ Chí Minh, báo chí không chỉ là người tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể, tổ chức tập thể; mà còn là vũ khí sắc bén chống lại mọi biểu hiện phản động, tiêu cực đi ngược lại quyền lợi của nhân dân, của đất nước; báo chí là công cụ đấu tranh xã hội, đấu tranhdân tộc và đấu tranh giai cấp. Trong bức điện gửi Hội Nhà báo Á Phi (ngày 24-4-1965), Người viết: “Đối với những người viết báo chúng ta, cái bút là vũ khí sắc bén, bài báo là tờ hịch cách mạng”. Với đội ngũ các nhà báo nước ta Người nhắc nhở: “Cán bộ báo chí cũng là chiến sỹ cách mạng, cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén”, “ngòi bút của các bạn cũng là những vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính trừ tà”, “cho nên phải có tính chất quần chúng và tinh thần chiến đấu”.

Trong cách thể hiện, Người cho rằng, để báo chí hoàn thành sứ mệnh là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và quần chúng; là cầu nối giữa các quốc gia,là phương tiện để các cộng đồng hiểu biết nhau hơn, “cho nên, làm báo phải hết sức cẩn thận về hình thức, về nội dung, về cách viết”. Theo tư tưởng đó, Đảng ta khẳng định: báo chí, một mặt phải chủ động, sáng tạo “làm tốt công tác thông tin đối ngoại, giúp cho cộng đồng quốc tế, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài có thông tin kịp thời, đúng đắn về tình hình đất nước, tranh thủ sự đồng tình của nhân dân ta”. Mặt khác “không ngừng nâng cao chất lượng chính trị, văn hóa, khoa học công nghệ, nghề nghiệp, từng bước hiện đại hóa”.

Có thể nói, với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt là vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hơn 80 năm qua báo chí cách mạng Việt Nam đã trưởng thành vượt bậc cả về số lượng và chất lượng, nội dung và hình thức; cũng như sự lớn mạnh chưa từng có của đội ngũ những người làm báo. Đặc biệt, trong gần 20 năm đổi mới, báo chí nước ta đã đi đầu trong việc định hướng tư tưởng, góp phần giữ vững ổn định chính trị – xã hội, tích cực đấu tranh chống tham nhũng và các hiện tượng tiêu cực trong xã hội, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước; là một trong những động lực trực tiếp tham gia và thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.

Theo Hà Nội Mới
Vkyno (st)


Tin bài liên quan

Bác Hồ với báo chí cách mạng Việt Nam
Bác Hồ với Báo chí cách mạng Việt Nam (Bài 2)
Bác Hồ với báo chí cách mạng Việt Nam (Bài 3)
Bác Hồ với báo chí cách mạng Việt Nam (Bài 4)

Học phong cách viết báo của Bác Hồ

13/06/2008

Tôi rất hoan nghênh Báo NĐBND tổ chức Tọa đàm “Báo NĐBND thực hành theo phong cách viết báo của Chủ tịch Hồ Chí Minh”.

Để thiết thực tham gia cuộc Tọa đàm, tôi muốn nói lên một vài suy nghĩ của mình.

Năm nay, chúng ta kỷ niệm 83 năm, ngày Bác Hồ lập ra Tờ báo Thanh niên và cũng là Kỷ niệm 83 năm ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam (1925- 2008).

Bác Hồ dạy: Báo chí là vũ khí, nhà báo là chiến sỹ. Người là lãnh tụ tối cao của cách mạng Việt

Nam, đồng thời cũng là nhà báo với ngòi bút sắc sảo. Những năm tháng trước đây của thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thông qua các bài báo của Bác, nhân dân cả nước hiểu rõ tình hình, quán triệt tư tưởng chỉ đạo, quyết tâm phấn đấu không ngừng để thực hiện các nhiệm vụ, cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Nghiên cứu phong cách viết báo của Bác Hồ, chúng ta thấy thể hiện rõ ở các nội dung sau:

1. Trước hết, Bác Hồ quan niệm, tiếng Việt là tài sản vô cùng quý báu của dân tộc. Trải qua hàng ngàn năm, ông cha ta đã nâng niu, chắt lọc và phát triển ngôn ngữ Việt phong phú như ngày hôm nay. Bác luôn nhắc nhở: Mọi người có trách nhiệm quý trọng, giữ gìn và phát triển tiếng Việt để ngày càng hoàn thiện hơn.

2. Qua những bài báo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta thấy Người rất coi trọng cách diễn đạt. Muốn viết một bài báo, trước hết phải xác định rõ: Chủ đề, đối tượng và mục đích. Bác thường nhấn mạnh: Viết cái gì? Viết như thế nào?

3. Nắm vững đối tượng của bài viết và hiểu thấu đáo bài báo đó được thể hiện trong một văn cảnh cụ thể. Có vậy mới tìm ra cách viết phù hợp.

Trong từng bài viết, chúng ta đều thấy rõ Người viết cho ai?

Với đối tượng là nhân dân lao động thì ngôn từ ngắn gọn và giản dị. Nhiều khi Bác dùng những câu có vần hoặc ca dao, tục ngữ rất quen thuộc mà nhiều người đã thấm vào trong máu thịt.

Nếu đối tượng là những người có trình độ học vấn cao, hiểu biết nhiều thì Người lại có cách nói uyên bác, nói ít hiểu nhiều. Người thường mang những lời răn dạy của các bậc tiên hiền ra để phân tích, giúp cho các nhà khoa học, các văn nghệ sỹ hiểu được nhiều điều sâu sắc.

4. Luôn tìm tòi và bổ sung làm cho tiếng Việt thêm phong phú. Đấy là sự sáng tạo. Hai yếu tố quan trọng trong phong cách viết của Bác Hồ là chân thực và ngắn gọn.

Chân thực có nghĩa là các thông tin phải bắt nguồn từ thực tế cuộc sống. Những con số, sự kiện phải mạch lạc, rõ ràng; Đương nhiên phải được xem xét, kiểm tra kỹ lưỡng. Bác nhắc nhở: “Viết phải đúng sự thật, không được bịa ra”.

Ngắn gọn là viết phải rõ ràng, có đầu có đuôi, nội dung thiết thực. Làm được thế sẽ đạt tới sự cô đọng mà lại hàm súc, lời ít ý nhiều, không thừa chữ.
Văn phong của Bác luôn luôn trong sáng, giản dị và dễ hiểu.

5. Quan điểm xuyên suốt của Bác Hồ: Văn không chỉ là văn. Văn cũng chính là người. Vì thế, phải luôn luôn gần gũi, gắn bó với nhân dân. Thông qua hoạt động thực tiễn, mỗi người phải học hỏi tinh hoa đạo đức của nhân dân, học cách nói của nhân dân. Theo Người, học nói, học viết cũng là từng bước hoàn thiện những phẩm giá của chính mình.

Nhân dịp Ngày Báo chí Việt Nam và Kỷ niệm 83 năm ra đời của Báo Thanh niên do Bác Hồ sáng lập, tôi viết mấy vần thơ để tặng các nhà báo.

            Hồn bút thiêng

Hơn tám mươi năm gắng tảo tần
Nghiệp đời báo chí nghĩa tình dân
Thị thành làng bản đời sương gió
Cách mạng kiên trung khúc tráng ngân

Đổi mới – Con đường, nguyện cách tân
Tâm thành tích đức tuyết tinh thần
Kiên trì tôi luyện hun truyền thống
Chiến sỹ tiên phong quyết dấn thân

Sức trẻ dặm trường xây nhân cách
Trùng khơi thế sự vượt gian truân
Điểm tô non nước ngời văn hiến
Ngọn bút hồn thiêng vẹn đức nhân

Khát vọng lòng son nuôi chí lớn
“Thanh niên” hùng tiến bước phong trần
Bác Hồ – Ngọn đuốc trời hừng sáng
Tổ quốc hào quang tràn sắc xuân.

Vũ Mão

Vũ Mão
daibieunhandan.vn

Về một câu nói của Bác Hồ với báo chí

Trong một bức thư gửi trí thức Nam bộ, trong đó có các nhà báo, (thư đề ngày 25/5/1947) Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Ngòi bút của các bạn cũng là những vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính, trừ tà, mà anh em văn hóa trí thức phải làm cũng như là những chiến sĩ anh dũng trong công cuộc kháng chiến để tranh lại quyền thống nhất và độc lập cho Tổ quốc”.

Trong cả hai cuộc kháng chiến giành độc lập và thống nhất cho Tổ quốc, các nhà báo Việt Nam đã làm được những gì mà Bác Hồ kỳ vọng vào họ qua những dòng thư tâm huyết trên. Nhưng câu nói của Bác Hồ còn vượt ra ngoài phạm vi của nhiệm vụ “kháng chiến chống ngoại xâm” mà các nhà báo yêu nước Việt Nam cần thực hiện.

4.ve mot cau noi cua Bac HoBác Hồ với các phóng viên báo đài. Ảnh tư liệu

Trong câu nói của Bác Hồ:  “Ngòi bút của các bạn cũng là những vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính, trừ tà”, thì ý nghĩa cập nhật của nó là rất cao, và nhiệm vụ của các nhà báo chân chính đương đại cũng đã được nhấn mạnh: Một là “phò chính”, tức bảo vệ chính nghĩa, nói lên sự thật, đồng hành với lẽ phải, và hai là “trừ tà”, tức lên án cái xấu cái ác, chống lại sự phi nghĩa. Muốn phân biệt được đâu là “chính” đâu là “tà” phải dựa vào dân, phụng sự nhân dân, phải dựa vào lợi ích quốc gia, phụng sự Tổ quốc.

65 năm đã qua từ khi Bác Hồ viết bức thư này gửi các nhà báo Nam bộ, cũng là gửi chung cho các nhà báo Việt Nam, đất nước ta giờ đã được độc lập, Tổ quốc ta đã thống nhất. Nhưng không phải vì thế mà các nhà báo Việt Nam hết việc để làm, vì hai nhiệm vụ “phò chính” và “trừ tà” vẫn còn phải được các nhà báo coi là phần quan trọng trong sự nghiệp làm báo của mình.

Khi không còn kẻ thù xâm lược, hoặc kẻ thù xâm lược chưa thực sự xâm lăng đất nước ta, thì nhiệm vụ “trừ tà” ở đây phải hiểu là trừ diệt những gì phương hại tới nhân dân và Tổ quốc. “Tà” ấy có thể là “ngoại tà”, nhưng nhiều hơn là “nội tà”, kể cả “nội tà” trong chính lương tâm nhà báo.

“Danh mục” của những cái “tà” ấy khá dài, và không liệt kê ra thì ai cũng biết chúng là những gì rồi. Với tất cả những cái gì và những ai làm hại dân hại nước, thì đều phải coi là tà. Và nhiệm vụ, hay cao hơn, sứ mệnh của nhà báo, là phải đấu tranh chống lại chúng, tiến tới cùng nhân dân trừ diệt chúng. Đây là cuộc đấu tranh vô cùng cam go và dai dẳng, nhiều khi nó diễn ra ngay trong lòng một số nhà báo.

Viết thế nào cho trung thực và dám chấp nhận trả giá cho sự trung thực của ngòi bút mình, điều đó thực sự khó khăn, vì nó đụng chạm tới mọi mặt của đời sống nhà báo, những được và mất rất hiện thực của cuộc đời nhà báo.

Chuyện nhà báo bị hành hung khi trực tiếp tới hiện trường những “điểm nóng” để đưa tin hay viết bài, nghĩ cho cùng, cũng chỉ là một phần nhỏ của những sự trả giá mà nhà báo phải chấp nhận khi muốn mình là một nhà báo trung thực và có lương tâm.

“Phò chính, trừ tà”, Bác Hồ chỉ đề ra cái sứ mệnh gồm 4 chữ cho các nhà báo, nhưng nó gần như bao quát cả sự nghiệp của những nhà báo chân chính. Bây giờ, chúng ta đều biết, ngay “phò chính” cũng không hề dễ, chứ đừng nói tới “trừ tà”.

Bởi phải biết đâu là “chính” thì mới “phò” đúng được, vì nhiều khi giữa “chính” với “tà” không đơn giản chỉ là “trắng” và “đen”, mà còn có những điểm đan xen, những vùng “xôi đậu” trộn lộn buộc nhà báo phải tinh tường và có lương tâm mới phân biệt ra được.

Trước một vụ việc phải phân định được đúng, sai, phải cân đong đo đếm được những mức độ của phải và trái, thì mới viết được bài báo đúng với tiêu chí của Bác Hồ đặt ra là “phò chính” và “trừ tà”. Nếu nhà báo lẫn lộn ngay từ khâu phân định, thì không mong gì họ có được những bài báo trung thực và tích cực.

Trong sự nghiệp làm báo của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ bài báo đầu tiên đã cố gắng để viết ngắn nhất và nói rõ nhất điều mình muốn nói cho đông đảo người đọc có thể chia sẻ được. Chính vì rèn luyện được phong cách viết báo cô đọng và giản dị như thế mà trong nhiều trường hợp, những câu chữ ngắn gọn, dễ hiểu của Bác Hồ lại phải được người đọc suy ngẫm để cảm thấu được những biên độ cả trong và ngoài chữ nghĩa của Bác. “Phò chính, trừ tà” là một câu nói cực ngắn gọn như vậy, nhưng nội hàm của nó là cực sâu, và biên độ của nó lại cực rộng./.

Theo baoquangngai.com.vn
Huyền Trang (st)

bqllang.gov.vn

Hồ Chí Minh “xung phong phê bình các báo”

– Ngày 8/9/1962, Bác đến dự và nói chuyện tại Đại hội lần thứ III Hội Nhà báo Việt Nam. “Bây giờ Bác lấy tư cách một đồng chí có ít nhiều kinh nghiệm về báo chí nêu ra vài kinh nghiệm sau đây… Sẵn đây, nếu các cô, các chú đồng ý, thì Bác xung phong phê bình các báo:

Bài báo thường quá dài, “dây cà ra dây muống” không hợp với trình độ và thời giờ của quần chúng. Thường nói một chiều và đôi khi thổi phồng thành tích mà ít hoặc không nói đúng mức đến khó khăn và khuyết điểm của ta. Đưa tin hấp tấp nhiều khi thiếu thận trọng. Thiếu cân đối, tin nên dài thì viết ngắn, nên ngắn lại viết dài; nên để sau lại để trước, nên trước lại để sau. Lộ bí mật. Có khi quá lố bịch. Khuyết điểm nặng nhất là dùng chữ nước ngoài quá nhiều và nhiều khi dùng không đúng… Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp. Của mình có mà không dùng, lại đi mượn của nước ngoài, đó chẳng phải là đầu óc quen ỷ lại hay sao.

dNgày 8/9/1962, Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại hội III những người viết báo VN.

Báo chí cần khéo lợi dụng vũ khi phê bình và tự phê bình. Nhưng phê bình phải nghiêm chỉnh, chắc chắn, phụ trách, nói có sách mách có chứng. Phải phê bình với tinh thần thành khẩn, xây dựng “trị bệnh cứu người”. Chớ phê bình lung tung không chịu trách nhiệm. Mặt khác, cần khuyến khích quần chúng góp ý kiến và phê bình báo”.

“Kinh nghiệm của tôi là thế này: Mỗi khi viết một bài báo, thì tự đặt câu hỏi: Viết cho ai xem? Viết để làm gì? Viết thế nào cho phổ thông dễ hiểu, ngắn gọn dễ đọc. Khi viết xong thì nhờ anh em xem và sửa giùm. Chớ tự ái, tự cho bài của mình là “tuyệt” rồi. Tự ái tức là tự phụ là kẻ địch dữ tợn nó ngăn chặn con đường tiến bộ của chúng ta… Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ. Để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của mình, cán bộ báo chí cần tu dưỡng đạo đức cách mạng…”. Đó là những nội dung trong bài nói của Bác tại Đại hội lần thứ III Hội Nhà báo Việt Nam, ngày 8/9/1962, họp tại Hà Nội.

X&N
bee.net.vn

Bác Hồ, tấm gương sáng về đạo đức báo chí

Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng dân tộc, Danh nhân văn hóa, là nhà báo lỗi lạc. Với sự thành lập Báo Thanh niên, cơ quan của Hội Việt Nam cách mạng đồng chí, số đầu ra ngày 21-6-1925, Người đã khai sinh nền Báo chí Cách mạng Việt Nam. Từ năm 1985, theo quyết định của Ban Bí thư Trung ương Đảng, ngày 21-6 được coi là Ngày Báo chí Việt Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh – Người sáng lập nền Báo chí Cách mạng Việt Nam.

Bác Hồ là nhà báo lớn, là tấm gương sáng về đạo đức báo chí, là nhà báo với ý nghĩa cao cả, chân chính, tốt đẹp nhất của hai từ ấy.

Tư duy, phong cách, đạo đức báo chí Hồ Chí Minh là một kho tàng quý báu Người để lại cho các thế hệ người làm báo ngày nay và mai sau.

Tư duy báo chí Hồ Chí Minh cụ thể hóa tư tưởng của Người về văn hóa: “Văn hóa là một mặt cơ bản của xã hội”, “Văn hóa là một mặt trận”, “(Nền) văn hóa mới kết hợp hài hòa, đúng đắn truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế”… Báo chí vừa là một bộ phận cấu thành văn hóa vừa là phương tiện xây dựng, truyền bá và thực thi văn hóa. Báo chí là đội quân đi đầu trong công tác tư tưởng, là vũ khí cách mạng. Bác Hồ nói: “Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ”. Nhiều lần, Người nhấn mạnh ý tưởng này: “Cây bút là vũ khí sắc bén, bài báo là tờ hịch cách mạng động viên quần chúng đoàn kết, đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới…”, “Ngòi bút là vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính trừ tà…” (1).

Bác Hồ sớm nhận ra vai trò và tác động to lớn của báo chí trong đấu tranh xã hội. Trong quá trình tìm đường giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, tiếp cận tác phẩm của Lênin, Người tâm đắc câu nói vị lãnh tụ lỗi lạc phát biểu từ đầu thế kỷ XX, khá lâu trước khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công: “Cái mà chúng ta nhất thiết phải có lúc này là một tờ báo chính trị. Trong thời đại ngày nay, không có tờ báo chính trị thì không thể có phong trào gọi là chính trị… Không có tờ báo thì không thể tiến hành hệ thống cuộc tuyên truyền, cổ động có nguyên tắc và toàn diện…” (2).

Chỉ 4 năm sau ngày đặt chân lên đất Pháp, được sự ủng hộ của các chí sĩ Việt Nam tại Pháp và sự hợp tác của một số bạn bè quốc tế, Người xuất bản Báo Le Paria (Người cùng khổ). Người là cây bút chính, sắc sảo nhất của tờ báo ấy. Jean Lacouture, một trong số những nhà văn, nhà sử học nổi tiếng Pháp, nhận định: “Sự đóng góp của Nguyễn Ái Quốc cho tờ Le Paria rất to lớn. Ngày nay đọc lại các bài báo của ông vẫn thấy vô cùng hứng thú… Văn phong của Nguyễn là văn phong của một nhà luận chiến tài ba” (3). Song song với việc chủ trương tờ Le Paria, Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị xuất bản tờ báo bằng tiếng Việt, Việt Nam hồn dành cho kiều bào.

Người cộng tác với nhiều tờ báo có thanh thế nhất tại Pháp thời bấy giờ: Nhân đạo, Đời sống thợ thuyền, Người bình dân… Sang Nga, Người viết báo tiếng Nga. Về Trung Quốc, Người cộng tác với tờ Cứu vong nhật báo cùng một vài tờ báo tiếng Anh. Tại đấy, Người sáng lập tờ báo tiếng Việt Thanh niên, mà sự cống hiến vô giá của nó là chuẩn bị về lý luận, chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1943, trở về Tổ quốc sau nhiều năm bôn ba ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc sáng lập Báo Việt Nam độc lập, nhằm mục đích: “Kêu gọi nhân dân trẻ với già/ Đoàn kết một lòng như khối sắt/ Để cùng nhau cứu nước Nam ta”. Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Người quyết định lập Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam…

Hồ Chí Minh là nhà báo uyên thâm, đa dạng, sắc bén và tài hoa với hàng loạt tác phẩm đúng đắn về nội dung, hùng hồn về lý luận, mẫu mực về ngôn ngữ, có sức đi sâu vào quần chúng, thức tỉnh lòng người, khiến quân thù khiếp sợ. Bác Hồ không viết sách dạy lý luận báo chí, song những phát biểu của Người là một hệ thống quan điểm mang tính kinh điển về báo chí cách mạng.

Tư duy của Bác Hồ về vai trò của báo chí trùng hợp ý kiến các nhà tư tưởng lớn, những người sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin: Các Mác, F. Ăngghen, V.I. Lênin. Trong nhiều trường hợp Hồ Chí Minh gọi báo chí là “vũ khí sắc bén của cách mạng”. Chức năng, nhiệm vụ của báo chí, theo Bác Hồ, là “tuyên truyền, huấn luyện, giáo dục, tổ chức dân chúng…” bằng phương tiện thông tin và các thủ pháp nghề nghiệp khác. Tôn chỉ, mục đích của báo chí Việt Nam không gì ngoài phục vụ “kháng chiến và kiến quốc, đoàn kết toàn dân, thi đua yêu nước; xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà, bảo vệ hòa bình thế giới…”. Hồ Chí Minh nhấn mạnh, báo chí phải ra sức “đấu tranh cho tự do, chân lý, cho tương lai tươi sáng của loài người…”.

Trong tư duy của Người, đối tượng của báo chí không chỉ dành riêng cho một số tầng lớp nào đó, mà nhất thiết báo chí phải hướng về “đại đa số dân chúng”, phải dành cho đông đảo nhân dân. Tính chất báo chí, theo Bác Hồ, trước hết là “tính quần chúng và tinh thần chiến đấu…”. Ngay từ thời ngày nay chúng ta hay gọi là “bao cấp”, báo chí hầu như được Đảng và Nhà nước chăm lo cho hầu hết, nếu không phải là toàn bộ, nhu cầu về tài chính, Người đã dạy: “Báo chí cũng là một ngành kinh tế”. Báo chí không chỉ có trách nhiệm phục vụ các nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế, mà báo chí cần phải lo cả hoạt động kinh tế của chính mình.

Về quan điểm báo chí, Hồ Chí Minh rất coi trọng “tự do tư tưởng”. Người viết: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do… Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý…”. Nhưng tự do gắn với trách nhiệm, tự do với tinh thần phục thiện: “Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm ra chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền phục tùng chân lý. Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân”.

Nói về phong cách báo chí, Bác Hồ mong muốn báo chí ta phải luôn luôn “gần gũi quần chúng”. Nhà báo suốt đời tâm niệm: “Vì ai mình viết? Viết cho ai, viết để làm gì?”. Văn phong báo chí phải “giản đơn, dễ hiểu, phổ thông, hoạt bát…”. Yêu cầu ấy tuyệt nhiên không bao hàm ý thông tục. Bác Hồ căn dặn các nhà báo cố gắng “viết cho văn chương, cho người đọc thấy hay, thấy văn chương mới thích đọc…”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh với các nhà báo (năm 1960). Ảnh: Tư liệu

Báo chí bất kỳ trường hợp nào cũng là diễn đàn của nhân dân. Sản phẩm báo chí mang dấu ấn cá nhân, song tờ báo lúc nào cũng là công lao của một tập thể. Tính tập thể của nghề báo trong tư duy Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện trước hết và chủ yếu ở nội dung mà còn ở lối làm việc: “Người viết, người in, người sửa bài, người phát hành… ăn khớp với nhau…”. Đi đôi với đề cao tính tập thể, Người khuyến khích tài năng cá nhân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ những người làm báo và tổ chức chính trị, nghề nghiệp của họ: Hội Nhà báo Việt Nam. Người khẳng định: “Nói đến báo chí trước hết phải nói đến những người làm báo”. Người nhấn mạnh vai trò “chiến sĩ” của người làm báo, đòi hỏi nhà báo kiên định lập trường, giữ vững quan điểm báo chí cách mạng, không ngừng nâng cao trình độ mọi mặt. Hơn ai hết, nhà báo phải là người chí công vô tư, có hiểu biết rộng và nhất là có cái tâm trong sáng. Đạo đức báo chí trước hết thể hiện ở những mặt ấy. Người hết sức coi trọng trau dồi đạo đức, hễ có dịp gặp các nhà báo là Người đề cập vấn đề này.

Bản thân Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về đạo đức báo chí. Khi cầm bút, Người không hề quan tâm đến tên tuổi và lợi ích riêng, Người viết không phải để “lưu danh thiên cổ”. Suốt đời, Người chỉ hướng về cái đích thiêng liêng là mang trí tuệ và ngòi bút của mình phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân.

Để đạt đến đỉnh cao trong sáng ấy, để trở thành một nhà báo lớn, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh kiên trì học tập, khổ luyện suốt đời. Khi mới đặt chân đến Pháp, do nhu cầu đấu tranh vì độc lập, tự do của đất nước, nhận thấy sự cần thiết trở thành một người viết báo tiếng Pháp giỏi, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu sự nghiệp bằng những mẩu tin ngắn, “mỗi tin chỉ có năm ba dòng”. Mỗi lần tin hoặc bài được đăng, Người so sánh bản thảo với bản in trên báo, để học tập xem các nhà báo đàn anh đã biên tập, sữa chữa ở những điểm nào. Nhờ thế chỉ vài, ba năm sau, cụ thể từ năm 1919, Nguyễn Ái Quốc đã là tác giả nhiều bài chính luận, tiểu phẩm, điều tra… có giá trị cao cả về nội dung và văn chương, làm kinh ngạc giới trí thức Pháp. Mặc dù Bác Hồ coi mình chỉ là “người có duyên nợ với báo chí”, cả cuộc đời của Người, từ những ngày phải trốn tránh kẻ thù cho đến khi đảm đương nhiều trọng trách quốc gia, thời giờ hết sức eo hẹp, Người vẫn không rời cây bút. Hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu rõ vai trò và tầm quan trọng của báo chí đối với cuộc đấu tranh cách mạng và đời sống xã hội.

Các thế hệ những người làm báo Việt Nam đời đời hướng về học tập Người, với lòng thành kính và biết ơn sâu sắc.

(1) Tất cả những câu trong ngoặc kép đều trích dẫn từ Hồ Chí Minh toàn tập.
(2) Trích từ cuốn Làm gì? của Lênin.
(3) Trích từ cuốn Hồ Chí Minh, tác giả Jean Lacouture, Paris 1967.

Phan Quang

hanoimoi.com.vn

Hai bài viết của Bác Hồ trên báo Đảng đúng Ngày Quốc khánh: “Tẩy sạch bệnh quan liêu”

Thường thường những ngày kỷ niệm trọng đại, báo chí ta bao giờ cũng in những bài nêu lên những thành tích lớn mà Đảng và nhân dân ta đã thực hiện được. Đó là một điều cần thiết.

Tuy nhiên, với Chủ tịch Hồ Chí Minh, bên cạnh những bài viết nêu lên những thành tựu lớn, Bác thường có những bài viết nêu lên cả những khuyết điểm còn tồn tại của cán bộ và đảng viên ta.

Ngày 2 tháng 9 năm 1950, cả nước vui mừng kỷ niệm lần thứ 5 Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, Bác Hồ đã viết bài “Phải tẩy sạch bệnh quan liêu”, in trên Báo Sự thật số 140 với bút danh XYZ (Hồ Chí Minh toàn tập – tập 6 trang 88).

Sang năm sau, cũng ngày 2 tháng 9 năm 1951, Bác lại viết tiếp bài “Cần tẩy sạch bệnh quan liêu mệnh lệnh” in trên Báo Nhân Dân số 23 (Hồ Chí Minh toàn tập – tập 6 trang 292). Bài này Bác ghi bút danh CB.

Hai năm liền trong Ngày Quốc khánh, Bác Hồ viết bài “Tẩy sạch bệnh quan liêu”. Điều đó chứng tỏ quan liêu là một thứ bệnh nguy hiểm, có hại lớn cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.

anh chu tich ho chi minhChủ tịch Hồ Chí Minh – Người thầy vĩ đại của báo chí cách mạng Việt Nam. Ảnh: Tư liệu

Trong hai bài báo này, Bác chỉ rõ: Bệnh quan liêu là thế nào?

“Nguyên nhân của nó vì xa cách quần chúng, không hiểu biết dân chúng, không học hỏi dân chúng, sợ dân chúng phê bình… Các cán bộ ấy, người thì cả đời chỉ loanh quanh trong trụ sở. Có người thì bao giờ “Sấm ra đá kêu” mới gặp dân chúng một lần. Khi gặp dân chúng thì đút tay vào túi quần mà “huấn thoại”, nói hàng giờ, nói bao la thiên địa. Song, những việc thiết thực cần kíp của địa phương, những điều dân chúng cần biết thì không nói đến”.

Chứng bệnh ấy thể hiện ra như sau:

Đối với người: Cấp trên đối với cấp dưới, cán bộ đối với nhân dân… chỉ biết dùng mệnh lệnh. Không biết giải thích, tuyên truyền. Không biết làm cho dân chúng tự giác và tự động.

Đối với việc: Chỉ biết khai hội nghị, viết nghị quyết, ra chỉ thị. Chứ không biết điều tra, nghiên cứu, đôn đốc, giúp đỡ, khuyến khích, kiểm tra.

Đối với mình: Việc gì cũng kềnh càng, chậm rãi, làm cho qua chuyện. Nói một đằng làm một nẻo. Chỉ biết lo cho mình, không quan tâm đến nhân dân, đến đồng chí… Chỉ biết ăn cho sang, diện cho kẻng, chẳng những không lo phụng sự nhân dân, mà còn muốn nhân dân phụng sự mình. Tham ô, hủ hoá. Trước mặt dân chúng thì lên mặt “quan cách mạng”.

Và Bác Hồ nói: “Đó là mấy vẻ chính của bệnh quan liêu và nếu không lo chữa thì bệnh quan liêu sẽ đưa bệnh nhân đến chỗ hoàn toàn bị đào thải!”.

Trong bài “Cần tẩy sạch bệnh quan liêu mệnh lệnh” (2-9-1951) Bác viết:

“Ai cũng biết bệnh quan liêu mệnh lệnh là nguy hiểm. Nhưng trong công tác thực tế, nhiều cán bộ ta còn mắc bệnh ấy. Miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối “quan” chủ. Miệng thì nói “phụng sự quần chúng” nhưng họ làm trái ngược với lợi ích của quần chúng, trái ngược với phương châm và chính sách của Đảng và Chính phủ”.

Bác cũng chỉ rõ nguyên nhân của bệnh quan liêu là:

– Xa nhân dân: Do đó không hiểu tâm lý, nguyện vọng của nhân dân.

– Khinh nhân dân: Cho là “dân ngu khu đen” bảo sao làm vậy, không hiểu được chính trị, lý luận cao xa như mình.

– Sợ nhân dân: Khi có sai lầm, khuyết điểm, thì sợ nhân dân phê bình, sợ mất thể diện, sợ phải sửa chữa.

– Không tin cậy nhân dân: Họ quên rằng không có lực lượng nhân dân thì việc nhỏ mấy, dễ mấy làm cũng không xong, có lực lượng nhân dân thì việc khó mấy, to mấy, cũng làm được.

– Không hiểu biết nhân dân: Họ quên rằng nhân dân cần trông thấy những lợi ích thiết thực. Đối với nhân dân, không thể lý luận suông, chính trị suông.

– Không yêu thương nhân dân: Do đó họ chỉ biết đòi hỏi nhân dân, không thiết thực giúp đỡ nhân dân. Có nơi bệnh quan liêu mệnh lệnh trầm trọng đến nỗi cán bộ lừa phỉnh dân, doạ nạt dân!

Cuối cùng, Bác nêu ra cách chữa chứng bệnh quan liêu mệnh lệnh, gồm 6 điều:

1 – Đặt lợi ích nhân dân lên trên hết.

2 – Liên hệ chặt chẽ với nhân dân.

3 – Việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ.

4 – Có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước nhân dân và hoan nghênh nhân dân phê bình mình.

5 – Sẵn sàng học hỏi nhân dân.

6 – Tự mình phải làm gương mẫu cần kiệm liêm chính, để nhân dân noi theo.

Bệnh quan liêu là một nguy cơ của Đảng cầm quyền, là nguyên nhân sinh ra nhiều thứ bệnh khác. Quan liêu chính là nguồn gốc sinh ra tham nhũng, lãng phí. Bác Hồ nói: “Bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng phí, thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu” (Hồ Chí Minh toàn tập – tập 6 trang 490).

Bác khẳng định: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân. Kẻ thù này khá nguy hiểm, vì nó không mang gươm, mang súng, mà nó nằm trong các tổ chức của ta, để làm hỏng công việc của ta, phá hoại đạo đức cách mạng của ta”. Ngày thành lập Đảng (3/2/1969, Bác Hồ lại viết bài “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” thể hiện sự quan tâm lo lắng của Người. Bác chỉ rõ: Chính vì chủ nghĩa cá nhân mà sinh ra bệnh quan liêu mệnh lệnh, tham ô, lãng phí. Chủ nghĩa cá nhân là mẹ đẻ ra mọi tính hư, nết xấu. Nó là kẻ thù hung ác của đạo đức cách mạng. Bác nhắc nhở và căn dặn phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Và đó cũng chính là yêu cầu của Nghị quyết Trung ương 4 một số những vấn đề cấp về bách xây dựng Đảng hiện nay.

Trong Di chúc của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.

Đó cũng chính là nguyện vọng và mục tiêu cao cả của cách mạng Việt Nam./.

Theo Bùi Công Bính/Báo Nam Định
Tâm Trang
(st)
bqllang.gov.vn

Người thầy của báo chí cách mạng

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Bác Hồ đã viết rất nhiều bài báo với nhiều bút danh khác nhau.

Điều đặc biệt ở “nhà báo Hồ Chí Minh” là văn phong báo chí của Người luôn giản dị, ngắn gọn nhưng sinh động, dễ hiểu. Trong đó, tính đại chúng được thể hiện rất đậm nét. Bác nói: “Kinh nghiệm của tôi thế này. Mỗi khi viết một bài báo, thì tự đặt câu hỏi: Viết cho ai xem? Viết để làm gì, viết thế nào cho phổ thông dễ hiểu, ngắn gọn dễ đọc?”. Mỗi lần đi xuống cơ sở, Bác thường khai thác thông tin mọi mặt về đời sống của nhân dân rất kỹ nên những bài báo của Người luôn có “tương cà, mắm muối” và những công việc thường ngày của quần chúng nhân dân lao động. Việc sử dụng ngôn ngữ báo chí của Bác thể hiện tình cảm, thái độ của Người đối với văn hóa dân tộc. Người nói: ‘‘Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc”. Do đó trong khi viết, Bác thường dùng lối so sánh ví von hoặc ca dao, tục ngữ, thành ngữ dân gian.

Người đòi hỏi cán bộ đảng viên khi nói, viết sao cho giản dị, dễ hiểu cốt để quần chúng hiểu ngay và làm được, nắm cái thần của sự vật, đi ngay vào cái cốt lõi của vấn đề. Người cũng yêu cầu các nhà báo khi nói, khi viết: “Phải học cách nói quần chúng. Chớ nói như giảng sách. Mỗi tư tưởng, mỗi câu nói, mỗi chữ viết phải tỏ rõ cái tư tưởng và lòng ước ao của quần chúng… Khi viết, khi nói, phải luôn luôn làm thế nào cho ai cũng có thể hiểu được. Làm sao cho quần chúng đều hiểu, đều tin, đều quyết tâm theo lời kêu gọi của mình…’’. Người nói: ‘‘Một tấm gương tốt còn có tác dụng hơn một trăm bài diễn văn”.

Một điều đặc biệt nữa là, trong khi viết báo, Bác thường yêu cầu mọi người xung quanh đọc lại bản thảo xem có từ ngữ nào khó hiểu để sửa lại văn phong cho trong sáng, từ ngữ giản dị, ý tứ sâu sắc. Khi viết bài báo ‘‘Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân’’ (đăng trên báo Nhân dân số 5409 ra ngày 3.2.1969), trước khi gửi đến Tòa soạn Bác đã cho đánh máy thành nhiều bản gửi đến từng đồng chí ủy viên Bộ Chính trị đề nghị tham gia ý kiến. Hiện nay, đọc lại bài báo này của Bác, chúng ta thấy bài viết có bố cục rất chặt chẽ, câu chữ vô cùng sâu sắc, và đặc biệt là nội dung đề cập vẫn còn nguyên tính thời sự nóng hổi.

Đối với những người làm báo, phong cách, tư tưởng, quan niệm… làm báo chí cách mạng của Bác là một tài sản vô cùng quý báu. Người mãi mãi là người thầy, người đồng nghiệp của các thế hệ những người làm công tác báo chí cách mạng Việt Nam.

  • Ngọc Tuyền

baobinhdinh.com.vn

Họa sĩ trình bày báo Nguyễn Ái Quốc

Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh là lãnh tụ cách mạng thiên tài, danh nhân văn hoá thế giới, anh hùng vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Bài này chỉ đề cập một lĩnh vực nhỏ trong sự nghiệp vĩ đại của Người.

Thế hệ làm báo cách mạng Việt Nam, gần một thế kỷ được thừa hưởng những bài học, nghệ thuật sáng tạo tác phẩm báo chí xuất sắc, tiêu biểu, độc đáo của Nhà báo số một Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh không chỉ ở cách hòa nhập hiện thực đời sống, chắt lọc sự kiện, thể hiện nội dung thông tin sinh động, hấp dẫn, có sức thuyết phục mà còn tiếp nhận từ Người phương pháp trình bày mặt báo sao cho lôi cuốn bạn đọc.

Các tờ báo như: Người cùng khổ, Tạp chí Quốc tế Nông dân, Thanh niên, Việt Nam hồn, Thân ái, Lính cách mệnh, Việt Nam độc lập, Cứu quốc… do Nguyễn Ái Quốc sáng lập và tổ chức quy trình xuất bản in đậm dấu ấn phong cách trình bày độc đáo, sát hợp yêu cầu người đọc và hoàn cảnh cụ thể.

Tờ Người cùng khổ xuất bản tại Pa-ri in chữ Pháp dành cho bạn đọc có trình độ nhất định, đặc biệt là các nhà hoạt động chính trị, hoạt động xã hội, tầng lớp trí thức tiến bộ Pháp những năm 1922, 1923 nên bố cục mặt báo từ trang một đến trang bốn theo phong cách phương Tây. Những thông tin chính luận, cập nhật, có ảnh hưởng rộng đều được sắp xếp ở vị trí quan trọng, nhiều cột báo với tít in đậm hơn.

Để tạo ấn tượng mạnh, buộc người đọc quan tâm ngay khi cầm tờ báo, ngoài tên bài được in chữ to, chạy suốt trang còn có tít phụ, giúp người đọc nắm bắt nhanh “cái thần”, “cái hồn” của bài báo. Ngay trong một bài, cần thu hút bạn đọc, nhà báo Nguyễn Ái Quốc cho sắp một kiểu chữ in nghiêng. Báo Người cùng khổ in kỹ thuật ty-pô, sắp chữ chì, in khuôn đúc trên máy lăn ngang, chưa phải hiện đại nên bố trí nhiều kiểu chữ rất phức tạp, nhưng với năng lực làm báo thành thạo, nhà báo Nguyễn Ái Quốc còn bố trí in cả tranh châm biến, tranh đả kích. Từ năm 1922 đến năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đã cho in trên tờ Người cùng khổ gần 30 bức tranh đả kích, châm biếm, điển hình là các bức “Mau lên! Đi”, “Tố cáo những kẻ gây ra vụ đàn áp ở Tu-lan-ca-mon”, “Xe xích sắt một ngày kia sẽ thay những con lạc đà, nhưng chúng vẫn còn khá nhiều. Bằng chứng ư?”, “Văn minh bề trên”, “Chủ nghĩa tư bản”. Trang một Báo Người cùng khổ được bố trí đậm đặc các bài, tin quan trọng, nhiều bài chỉ trình bày tít rồi cho tiếp sang trang sau.

Cách trình bày khái quát các chủ đề tập trung của số báo nổi bật lên trang một của nhà báo Nguyễn Ái Quốc từ năm 1922 đã có ảnh hưởng quyết định tới việc chỉ đạo tổ chức xuất bản các tờ báo: Tranh đấu (1930), Cờ vô sản (1930.), Tiền phong (1937), Dân chúng (1937), Tiếng nói của chúng ta (1938), Cờ giải phóng (1942) Cứu quốc (1942), Sự thật (1945), Nhân Dân (l951). Đặc biệt là hệ thống báo Đảng sau này đều căn cứ tôn chỉ, mục đích, đối tượng bạn đọc mà có hình thức trình bày hợp lý.

Khi xuất bản Báo Thanh niên, in chữ Việt Nam tại Quảng Châu (Trung Quốc), nhà báo Nguyễn Ái Quốc không rập khuôn cách trình bày như báo Người cùng khổ. Người xác định đối tượng Báo Thanh niên là các tầng lớp yêu nước, học sinh, sinh viên, trí thức, người lao động không biết chữ nên việc sắp xếp tin, bài ngắn gọn, từng cột báo có phi-lê dọc phi-lê ngang cho người đọc dễ dàng tiếp nhận.

Điều kiện hoạt động bí mật, tài chính nghèo nàn nên Báo “Thanh niên” không thể in ty-pô (in máy). Nhà báo Nguyễn Ái Quốc đã khắc phục khó khăn bằng cách dùng bút sắt viết từng cột báo, kể cả măng-sét (tên Báo Thanh niên) trên giấy sáp để tạo khuôn rồi quay rô-nê-ô, mỗi khuôn in độ 200 bản. Để tạo cảm xúc vui cho bạn đọc, Nguyễn Ái Quốc trực tiếp vẽ tranh biếm họa, đả kích, tranh cổ động lên mặt khuôn, điển hình là bức “Lênin với vấn đề giải phóng dân tộc” in số 68 ngày 7-11- 1926 kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga. Từ ngày 21-6-1925 đến đầu tháng 5-1927, nhà báo Nguyễn Ái Quốc đã sử dụng ngòi bút sắt trình bày ma-két 88 số Báo Thanh niên để có gần 170.000 bản báo gửi về Việt Nam, sang Thái Lan, góp phần thức tỉnh, khơi dậy lòng yêu nước, ý chí giành độc lập dân tộc và là tài liệu hướng dẫn, huấn luyện cán bộ, chỉ rõ đường lối đấu tranh, phương pháp tổ chức đoàn thể quần chúng cách mạng trước lúc Đảng ta ra đời ngày 3-2-1930./.

Theo Văn Khải/ Tạp chí Xây dựng Đảng
Tâm Trang (st)
bqllang.gov.vn

Bác Hồ sử dụng tiền nhuận bút như thế nào?

Bác Hồ không những là một nhà báo mà còn là người sáng lập ra báo chí cách mạng Việt Nam. Người là tác giả của hàng chục cuốn sách, hàng nghìn bài báo với hàng trăm bút danh khác nhau.

Trước năm 1960, Nhà xuất bản Sự thật in cuốn “Sửa đổi lối làm việc” của Bác, nhưng lâu không thấy trả nhuận bút. Một hôm có chuông điện thoại, đồng chí Minh Tranh – Giám đốc Nhà xuất bản Sự thật nhấc ống nghe:

– Ai đấy ạ?

– Bác! Bác muốn gặp đồng chí Minh Tranh.

Nhận ra Bác gọi điện đến, đồng chí Minh Tranh xúc động thưa:

– Thưa Bác, cháu đây ạ!

– Bác ôn tồn nói:

– Các chú xuất bản sách của Bác đã lâu, sao không trả tiền nhuận bút cho Bác?

Đồng chí Minh Tranh nghe vậy rất lo lắng, thưa:

– Dạ!… Thưa Bác, quả thật chúng cháu có lỗi với Bác.

Bác bảo:

– Bác là Chủ tịch nước mà các chú còn quên trả nhuận bút, vậy các tác giả khác người ta sống bằng gì để viết sách cho các chú?

Hôm sau, đồng chí Minh Tranh trực tiếp đến tận Phủ Chủ tịch xin phép gặp Bác để biếu sách và gửi tiền nhuận bút cho Bác. Được biết, Bác đã dùng số tiền nhuận bút cuốn sách nói trên để tặng một nhà trẻ mồ côi ở Hà Nội.

Nhà báo Hồng Khanh, nguyên phóng viên Báo Nhân Dân, năm 2002 có dịp đến gặp cụ Lê Hữu Lập ở 26 Hàng Chuối (Hà Nội). Lúc này, cụ Lập đã ngoài 80 tuổi, cụ đã có 11 năm làm văn thư cho Bác ở Phủ Chủ tịch. Cụ kể rằng: Từ năm 1958 đến 2-9-1969 (ngày Bác qua đời), cụ Lập vinh dự đứng tên là “Lê Hữu Lập” trong sổ tiết kiệm của Bác gửi ở quầy tiết kiệm phố Hàng Gai (Hà Nội). Tiền tiết kiệm Bác gom góp, dành dụm từ tiền lương hàng tháng và tiền nhuận bút.

Mùa hè năm 1967, cuộc chiến đấu giữa quân và dân ta với không quân Mỹ đánh phá miền Bắc ác liệt, thấy Bác mặc áo may ô, quần thường. Ông Lập buột miệng nói:

– Dạ thưa Bác, hôm nay trời nóng…

Không ngờ, ông Lập vừa nói xong, đã nghe Bác nhẹ nhàng động viên:

– Càng nghĩ tới nóng thì càng nóng thêm. Mà cứ nghĩ tới lúc này bà con nông dân trên đồng ruộng, anh công nhân trên lò cao, người chiến sỹ trên mâm pháo… thì thấy đỡ nóng. Chú nhìn thấy kìa!

Nói rồi, Bác chỉ tay lên phía sân thượng Hội trường Ba Đình, nơi đang có một số bộ đội phòng không trực chiến đấu dưới ánh nắng chói chang. Hôm sau, Bác bảo ông Lập ra quầy tiết kiệm Hàng Gai rút hết số tiền trong sổ tiết kiệm của Bác gửi Bộ Quốc phòng để có thêm nước giải khát cho bộ đội phòng không, không quân.

Bác còn dùng các khoản tiền trên vào các công việc từ thiện, động viên những tấm gương người tốt, việc tốt, giúp đỡ cá nhân, đồng chí đồng bào khó khăn do thiên tai, địch họa.

Theo Báo Hải Dương online
Huyền Trang (st)
bqllang.gov.vn

Phải học suốt đời

Hôm ấy các nhà báo được nghe Bác dạy làm báo, ai cũng thấm thía: Nghề báo dễ mà khó, phải học suốt đời.

Nhà báo, nhà nhiếp ảnh Nguyễn Kim Côn có lần kể lại: Vào buổi sáng 18-1-1957 trời nắng ấm. Trên đường Hàng Trống (Hà Nội), chiếc ô tô Pô-bê-đa từ từ lăn bánh vào toà soạn Báo Nhân Dân. “Bác! Bác đến, Bác đến!”. Cùng với tiếng reo mừng, mọi người ùa ra, vây tròn lấy Bác. Và vòng vây ấy di chuyển vào hội trường. Vào hội trường rồi mà vẫn không ai chịu ngồi, vì ngồi sẽ không được đứng gần Bác. Là người chụp ảnh phục vụ Bác, hôm nay ông thấy các đồng nghiệp ở báo Nhân dân có mặt khá đông đủ. Cũng là nhiếp ảnh chuyên nghiệp, mà sao hôm nay các anh toàn đứng “trái cựa” với ống kính của ông và đèn chớp điện tử không loé sáng. Ông chợt hiểu ra là các anh muốn có hình ảnh của mình được đứng gần Bác.

Lướt nhìn “vòng vây”, Bác hỏi:

– “Ở đây, cô chú nào biết tiếng Nga thì giơ tay lên?”. Lẻ tẻ một hai cánh tay giơ lên.

– Cô chú nào biết tiếng Trung Quốc?

Lại một, hai người giơ tay.

– Những ai biết tiếng Pháp?

Nhiều cánh tay giơ lên.

– Đã làm báo thì mỗi người phải biết ít nhất là ba bốn thứ tiếng nước ngoài. Không biết tiếng nước ngoài thì thiệt lắm – thí dụ các chú yêu một cô người nước ngoài mà phải nhờ chú phiên dịch, dịch hộ là: “Tôi yêu cô” và chú phiên dịch cũng dịch đúng như vậy thì chú phiên dịch yêu mất của các chú rồi!

Xôn xao nhiều tiếng cười. Khoảng cách giữa lãnh tụ và quần chúng được xoá nhoà từ lúc nào không biết.

Bác nói tiếp:

– Hôm nọ, Bác thấy Báo Nhân Dân đăng trang nhất tin bắt gián điệp, rồi lại còn đóng khung cái tin ấy… Công an bắt được mật thám là chuyện bình thường chứ có gì là đặc biệt mà phải đóng khung, đưa lên trang nhất. Thế rồi lại còn chuyện in sai ở trang nhất, lại đính chính ở trang tư. Bác chỉ tay lên trán: Nhọ ở đây. Rồi lại rửa ở đây – Bác chỉ tay vào lưng – Thì làm sao sạch được…

Hôm ấy các nhà báo được nghe Bác dạy làm báo, ai cũng thấm thía: Nghề báo dễ mà khó, phải học suốt đời.

Theo LÊ HỒNG THIỆN/ Báo Hải Dương online
Huyền Trang (st)
bqllang.gov.vn