Tag Archive | Tin tức

“Chúng tôi đã rơi nước mắt khi nghe kể về Bác”

“Ngày ngày Mặt trời đi qua trên Lăng. Thấy một Mặt trời trong Lăng rất đỏ…”, có lẽ nhà thơ Viễn Phương cũng không thể nghĩ rằng những câu thơ đầy cảm xúc ông viết trong một chuyến ra Bắc thăm Lăng Bác lại được một người dân Lào khe khẽ ngâm trong một sáng mùa hè giữa Thủ đô Hà Nội…

Doan dai bieu Lao 1Đoàn đại biểu Lào vào Lăng viếng Bác. Ảnh: Tuấn Việt

Trong khuôn khổ Liên hoan hữu nghị nhân dân Việt Nam – Lào, sáng ngày 17/7, Đoàn đại biểu Lào tham dự Liên hoan đã vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh, thăm nơi ở và nơi làm việc của Người. Nắng sớm Hà Nội không gắt, khẽ khàng phủ từng tia sáng lên đoàn người đang bước chầm chậm vào Lăng. Sau nghi thức đặt vòng hoa và viếng Bác, những đại biểu đến từ đất nước Triệu Voi đã tới Khu Di tích Nhà sàn, nơi Bác từng sống và làm việc. Tại đây, những người con xứ Lào đã không kìm được xúc động khi tận mắt chứng kiến sự đơn sơ, giản dị trong nếp sống mà sinh thời vị lãnh tụ kính yêu của nhân dân Việt Nam vẫn duy trì.

Đầu giờ sáng, sương ở những bụi cây xung quanh Khu Di tích vẫn chưa tan hết, không gian chợt thanh thoát một cách kỳ lạ. Đoàn người đứng quanh chiếc bàn Bác Hồ từng làm việc, nghe hướng dẫn viên kể những câu chuyện về Bác. Dường như, trong một khoảnh khắc nào đó, thời gian như dừng lại nơi đây. Một vài mế Lào lén chấm nước mắt; một vài mế khác để mặc sự xúc động cứ thế tuôn trào.

Mế Chanhthep Bounthilath đến từ thành phố Viêng Chăn, một trong những người đã từng che chở và giúp đỡ chuyên gia, quân tình nguyên Việt Nam đã vô cùng xúc động khi nghe kể về cuốn sách nhỏ nằm trên bàn làm việc của Bác. Giữa những chồng sách được sắp xếp một cách cẩn thận, cuốn sách nhỏ nằm khiêm tốn trên bàn. Nhưng đó lại là một trong những cuốn sách mà Bác Hồ quý nhất và luôn mang theo bên người. Cuốn sách là những ghi chép về gương người tốt, việc tốt mà lúc sinh thời Bác vẫn thường đọc và kể cho mọi người nghe. Nghẹn ngào, mế Chanhthep kể rằng, khi còn trẻ, mế đã được nghe rất nhiều câu chuyện về Bác Hồ, có những câu chuyện về sự vĩ đại, cũng có câu chuyện rất đời thường, nhưng chưa bao giờ mế được gặp Bác. Đó là một tâm nguyện mà mế nghĩ mình mãi không bao giờ đạt được. Lúc này đây, được tới thăm Lăng Bác, tận mắt thấy nếp sống và những kỷ vật giản dị của Người, hiểu được thế nào là tinh thần Hồ Chí Minh, mế nói mình đã thỏa được tâm nguyện.

Doan dai bieu Lao 2JPGNghe hướng dẫn viên kể những câu chuyện về Bác ở Khu Di tích Nhà sàn. Ảnh: Tuấn Việt

Trong số những đại biểu Lào ở đây, không phải ai cũng như mế Chanhthep lần đầu thăm Lăng Bác. Có người đã thăm vài lần, cũng có người không nhớ nổi số lần vào Lăng viếng Bác, nhưng họ đều gặp nhau ở một khoảng không gian riêng, nơi đó có sự xúc động, nghẹn ngào cùng niềm cảm phục khôn nguôi. Ông Bounxu Nammachak, Giám đốc Sở Công an thành phố Viêng Chăn, Chủ tịch Hội Hữu nghị Lào – Việt thành phố Viêng Chăn đã có nhiều năm tháng gắn bó với Việt Nam. Học trung học, đại học, thạc sĩ rồi làm tiến sĩ ở Việt Nam, ông Nammachak nói rằng, quãng thời gian đẹp nhất thời hoa niên của ông gắn liền với đất nước anh em bạn bè này. Trong những năm về sau này, ngoài các chuyến công tác đến Việt Nam, năm nào ông Nammachak cũng dành thời gian trở lại Việt Nam.

Trong âm thanh trầm trầm của hướng dẫn viên, ông Nammachak khẽ khàng chia sẻ những cảm nghĩ về lãnh tụ của nhân dân Việt Nam: “Đồng chi Cay-xỏn Phôm-vi-hản của chúng tôi đã từng nói: Bác Hồ là người vĩ đại trong vĩ đại, giản dị trong giản di, khiêm tốn trong khiếm tốn. Đó là đức tính mà không phải lãnh tụ nào cũng có được. Nói về Bác Hồ, ai cũng cảm phục. Thời học sinh chúng tôi, mỗi khi nghe những câu chuyện về Bác Hồ, về quá trình Bác tìm đường cứu nước Việt Nam, hầu như ai cũng rơi nước mắt, thương và cảm phục Bác. Lúc nãy chúng tôi cũng vậy, khi nghe hướng dẫn viên kể về những năm tháng Bác sống và làm việc ở Khu Di tích Nhà sàn này, nhiều người trong đoàn đã rơi nước mắt”, ông Nammachak xúc động nói. Chủ tịch Hội Hữu nghị Lào – Việt thành phố Viêng Chăn nói rằng, ông và những đồng chí trong đoàn đều tâm niệm rằng phải phấn đấu học theo đức tính giản dị và hy sinh của Bác, noi gương Bác. “Không chỉ là tâm niệm cho cá nhân chúng tôi, mà khi về nước, chúng tôi sẽ phát động những phong trào và khuyến khích thanh niên trẻ Lào học tập theo tấm gương Bác”, ông Nammachak cho hay.

Doan dai bieu Lao 3Cho cá ăn ở Ao cá Bác Hồ. Ảnh: Tuấn Việt

Ông Kongkeo Xaysongkham, Chủ tịch Hội Hữu nghị Lào – Việt tỉnh Bô-ly-khăm-xay không thể nhớ nổi mình đã vào thăm Lăng Bác bao nhiêu lần. Không phải bởi ông vô tâm, mà bởi vì một năm ông đến Việt Nam không dưới ba lần và hầu như lần nào ông cũng dẫn con đến thăm Lăng Bác. Từng học tại Việt Nam, mối duyên của ông Xaysongkham với đất nước Việt Nam trở nên sâu đậm hơn khi ông cưới một cô gái Việt Nam. Xaysongkham nói ông nghĩ mối quan hệ giữa Việt Nam và Lào là mối quan hệ hiếm có. “Vì sao? Hiếm có một dân tộc nào lại động viên và tiễn con mình, em mình đi chiến đấu và hy sinh vì xương máu cho một đất nước khác. Chủ tịch Cay-xỏn Phôm-vi-hản đã từng nói: Ở nơi nào có một giọt máu của người dân Lào đổ xuống, nơi đó cũng có một giọt máu của quân tình nguyện Việt Nam. Chỉ câu nói đó thôi đã đủ thay cho ngàn vạn lời hoa mỹ”, ông Xaysongkham bồi hồi nhớ lại.

Thời gian không có nhiều, dù rất lưu luyến, nhưng các bạn Lào vẫn phải kết thúc chuyến thăm Lăng Bác để tham gia nhiều chương trình khác của Liên hoan. Có một điều thú vị là khi đang trên đường sang Khu Di tích Nhà sàn thì Đoàn đại biểu Lào gặp các cháu thiếu nhi Việt Nam cùng các du khách nước ngoài cũng vào Lăng viếng Bác. Một cách tình cờ, họ đã nhập thành một đoàn. Và, chỉ trong một đoạn hành trình ngắn ngủi, một đại biểu Lào (biết tiếng Việt) đã kịp trao đổi với một bé gái Việt Nam về câu chuyện Bác Hồ chia kẹo cho các cháu thiếu nhi và tình thương của Bác với các cháu.

Theo Thu Trang/Báo Quân đội nhân dân
Tâm Trang (st)
bqllang.gov.vn

Thực hiện hai tiếng cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Thuc hien 2 tieng cach mang theo TTHCM

Hai tiếng cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là trong “Di chúc” của Người, ít nhất có 3 nội dung cơ bản, quan trọng mà chúng ta, đặc biệt và trước hết là những cán bộ, đảng viên có trình độ trung – cao cấp đang lãnh đạo, quản lý ở các cấp cần nhận thức rõ, đúng để làm theo

Rất nhiều nhà lãnh đạo và nhà khoa học đã chẳng ít lần nhắc tới và phân tích về những tiếng thật trong Di chúc của Bác Hồ: “Mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của nhân dân”(1). Tư tưởng bất hủ đó của Bác Hồ rất đúng và hay. Tôi nhận thức thêm rằng, xét về mặt triết học, Bác Hồ nói đến bản chất, thực chất của các vấn đề đó cần thể hiện đúng trong thực tiễn. Xét về mặt tình cảm thì đó là lòng mong muốn của Người đối với mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng và đối với toàn Đảng ta.

Suy ngẫm về những tiếng cách mạng trong Di chúc và nhiều bài viết của Người, chúng ta càng thêm vững tin vào sự nghiệp cách mạng mà Bác đã lựa chọn. Thiết nghĩ, trong tình hình “suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên…” như Nghị quyết Trung ương lần thứ 4 (khóa XI) của Đảng ta vừa nhấn mạnh với vị trí là vấn đề cấp bách số một… thì những tiếng cách mạng mà Bác Hồ để lại cho chúng ta càng cần được lưu ý, phân tích một cách khoa học và thực tiễn sâu sắc, có sức thuyết phục hơn. Làm được như vậy sẽ góp phần để chúng ta cùng nhau làm theo tấm gương, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, nhất là đối với các cán bộ, đảng viên có trình độ trung – cao cấp, đang làm công tác lãnh đạo, quản lý.

Dưới đây, là một số luận điểm tiêu biểu nhất của Bác Hồ để lại cho chúng ta, khi Người nhấn mạnh hai tiếng cách mạng, giúp chúng ta cùng suy ngẫm và vận dụng để thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương lần thứ 4 (khóa XI): “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.

– “Đạo đức cách mạng”. Bác Hồ viết bài này năm 1958, khi miền Bắc nước ta bắt đầu vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Bác Hồ đã lường trước và cảnh báo nguy cơ “đạn bọc đường” sẽ có thể bắn gục không ít cán bộ, đảng viên trong điều kiện Đảng Cộng sản cầm quyền.

– “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Bác Hồ viết bài này năm 1969, khi cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống đế quốc Mỹ xâm lược rất khốc liệt, và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đang đầy khó khăn, phức tạp…; và khi Người đã lâm bệnh rất trầm trọng…

– “Di chúc”. Bác Hồ bắt đầu viết tác phẩm này từ năm 1965; công bố chính thức năm 1969, khi Người “… từ biệt thế giới này…”.

Trong nhiều tác phẩm, nhất là “Di chúc”, Bác Hồ luôn luôn nhấn mạnh hai tiếng cách mạng (chính Người đã gạch dưới; do đó trong “Hồ Chí Minh toàn tập” đã in nghiêng là chính xác theo tư tưởng Bác Hồ và theo quy định của xuất bản phẩm).

Chỉ riêng trong “Di chúc”, Bác Hồ đã nhấn mạnh nhất hai vấn đề mà ngày nay chúng ta rất cần lưu tâm nhận thức đúng để làm theo. Đó là: “Đạo đức cách mạng” (2) và “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”(3).

Về đạo đức cách mạng

Nhìn chung, hai tiếng đạo đức mà nước ta và nhân loại thường dùng thì đã hàm nghĩa tốt đẹp của con người. Do vậy Đảng ta, Bác Hồ và dân tộc ta đều rất trân trọng mọi đạo đức vốn có của các dân tộc, của nhân loại, thể hiện qua mỗi con người chân chính trong lịch sử lâu đời được lưu giữ, phát huy cho đến ngày nay và mai sau.

Nhưng, nếu Bác Hồ và chúng ta chỉ nói đạo đức theo nghĩa chung nhất như trên thì chẳng có giá trị mới so với những gì mà dân tộc ta và nhân loại đã có trước Thời đại Hồ Chí Minh. Giá trị mới to lớn là: Bác Hồ – người Việt Nam đầu tiên nói về đạo đức cách mạng. Vậy những nội dung cơ bản nhất của giá trị mới đó là gì so với những giá trị đạo đức truyền thống lịch sử trước đó? Giá trị mới đó ít nhất bao gồm các nội dung cơ bản sau đây: 1) Gắn đạo đức truyền thống với chủ nghĩa xã hội. Đó là “đạo đức xã hội chủ nghĩa”(4). 2) Gắn đạo đức truyền thống với quan điểm về đạo đức trong học thuyết Mác – Lênin; 3) Gắn đạo đức truyền thống với sự lãnh đạo – giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản.

Về “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”.

Trong “Di chúc” Bác Hồ viết: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”(5). Tương tự phân tích như trên thì chúng ta cũng rõ sự kế thừa và phát triển mới: Vừa gắn liền, vừa phân biệt được sự khác nhau giữa “Bồi dưỡng thế hệ cho đời sau”, nói chung (là điều lịch sử lâu đời đã phổ biến, đương nhiên) với “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”… cũng có thêm các nội dung cơ bản và mới đã nêu ở trên, khi nói về đạo đức cách mạng.

Với cách tiếp cận đó thì việc chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau luôn được Bác Hồ và Đảng ta đặc biệt quan tâm. Và nếu thế hệ các đời sau của chúng ta mà xa rời chủ nghĩa xã hội, học thuyết Mác – Lênin, vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua Đảng ta, thì thế hệ đó không còn là “thế hệ cách mạng cho đời sau” như Bác Hồ căn dặn!.

Tóm lại, hai tiếng cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là trong “Di chúc” của Người, ít nhất có 3 nội dung cơ bản, quan trọng mà chúng ta, đặc biệt và trước hết là những cán bộ, đảng viên có trình độ trung – cao cấp đang lãnh đạo, quản lý ở các cấp cần nhận thức rõ, đúng để làm theo là:

– “Đạo đức cách mạng”, “Thế hệ cách mạng” phải thể hiện lập trường, niềm tin – yêu, và luôn phấn đấu vì chủ nghĩa xã hội (theo mục tiêu – con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội – cũng là vì mục tiêu cao nhất của dân tộc ta).

– “Đạo đức cách mạng”, “Thế hệ cách mạng” phải thể hiện có nhận thức – lập trường tư tưởng chính trị theo học thuyết Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

– “Đạo đức cách mạng”, “Thế hệ cách mạng” phải thể hiện sự trung thành và thực hiện quan điểm, đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam – đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc.

Xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát triển Đảng hiện nay cần nhận thức đúng và thực thi những nội dung đó, cũng là thực hiện tốt đường lối của Đảng ta; pháp luật, chính sách…của Nhà nước ta trong giai đoạn cách mạng hiện nay: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mở rộng hội nhập quốc tế, tiếp tục xây dựng và bảo vệ quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng và của Dân tộc ta phát triển nhanh, bền vững…, vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./

——————-

(1), (3), (5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 1995, t.12, tr.510, 510, 510.

(2), (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.238, 456.

Theo PGS. TS. Nguyễn Đức Bách
Tạp chí Tuyên giáo
Tâm Trang (st)

Công an thành phố Hải Phòng báo công dâng Bác tại Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh

CA hai phong 1Đoàn đại biểu Công an thành phố Hải Phòng báo công dâng Bác

Sáng 17 tháng 7 năm 2012, 150 đại biểu xuất sắc Công an thành phố Hải Phòng rất vinh dự, tự hào, xúc động được thay mặt trên 5000 cán bộ, chiến sỹ  Công an Hải Phòng về hội tụ trên Quảng trường Ba Đình lịch sử, trước anh linh của Người để báo cáo với Bác về kết quả, thành tích của các lực lượng Công an Hải Phòng trong phong trào thi đua chào mừng kỷ niệm 50 năm Ngày truyền thống lực lượng Cảnh sát nhân dân (20/7/1962-20/7/2012).

Trước khi Đoàn tổ chức Lễ báo công và vào Lăng viếng Bác, đồng chí Đại tá Nguyễn Văn Thanh, Phó Chánh Văn phòng Ban Quản lý Lăng đã thân mật đón tiếp và chúc mừng Đoàn nhân dịp kỷ niệm 50 năm Ngày truyền thống lực lượng Cảnh sát nhân dân.

CAHP 2Đại tá Nguyễn Văn Thanh, Phó Chánh Văn phòng
Ban Quản lý Lăng đón tiếp Đoàn tại nhà khách số 8 Hùng Vương

Cách đây 50 năm, vào ngày 20/7/1962, Bác Hồ đã ký Lệnh công bố Pháp lệnh về lực lượng Cảnh sát nhân dân. Đây là sự kiện quan trọng trong quá trình xây dựng và trưởng thành của lực lượng Cảnh sát nhân dân về tổ chức, đồng thời thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng, của Bác trong việc xây dựng lực lượng Cảnh sát nhân dân nói riêng và lực lượng Công an nhân dân nói chung cách mạng, chính quy – xứng đáng là công cụ chuyên chính, sắc bén của Đảng trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Năm 2011, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Đảng uỷ Công an Trung ương, lãnh đạo Bộ Công an và Thành uỷ Hải Phòng, sự phối hợp của cấp ủy, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể, lực lượng vũ trang, sự đồng tình ủng hộ của nhân dân, các lực lượng Công an Hải Phòng  đã nỗ lực phấn đấu hoàn thành xuất sắc các mặt công tác, 3 năm liên tiếp được Chính phủ tặng Cờ thi đua xuất sắc.

Tự hào và kế thừa bản chất, truyền thống tốt đẹp hơn nửa thế kỷ chiến đấu, xây dựng và trưởng thành của lực lượng Công an nhân dân; phát huy những kết quả, thành tích đã đạt được và để thiết thực chào mừng kỷ niệm 66 năm Ngày truyền thống lực lượng An ninh nhân dân, 67 năm Ngày truyền thống Công an nhân dân Việt Nam, kỷ niệm 65 năm Ngày Thương binh – Liệt sỹ, đặc biệt chào mừng kỷ niệm 50 năm Ngày truyền thống lực lượng Cảnh sát nhân dân và hướng tới 65 năm thực hiện 6 điều Bác dạy Công an nhân dân, trong thời gian qua, các lực lượng Công an nhân dân Hải Phòng đã đẩy mạnh các phong trào thi đua với nhiều nội dung, hình thức phong phú, hiệu quả, tạo nên không khí vui tươi, phấn khởi trong toàn lực lượng và tạo được ấn tượng tốt đẹp trong nhân dân thành phố.

Các hoạt động xã hội, tình nghĩa được các đơn vị, đoàn thể tích cực hưởng ứng, tham gia: Hàng chục ngôi nhà tình nghĩa, nhà mái ấm tình thương được xây tặng cho các gia đình thương binh, liệt sỹ, gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; hàng trăm phần quà được trao tặng cho các gia đình chính sách, trẻ em nghèo học giỏi, vượt khó cùng nhiều họat động đền ơn, đáp nghĩa đã và đang được tiếp tục triển khai thực hiện.

Trong các phong trào thi đua đã xuất hiện ngày càng nhiều gương “Người tốt, việc tốt” trong công tác, chiến đấu và phục vụ nhân dân được các cấp khen thưởng, nhiều đồng chí vinh dự được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Đặc biệt là tấm gương hy sinh anh dũng của Trung sỹ Đỗ Đăng Long đã góp phần tô thắm thêm hình ảnh cao đẹp của người chiến sỹ Công an Hải Phòng trong lòng nhân dân.

Những kết quả, thành tích đạt được trong thời gian qua đã khẳng định: Lực lượng Công an Hải Phòng luôn trung thành với Đảng, tận tụy với dân – Vì nước quên thân, vì dân phục vụ.

Tại buổi Lễ báo công, Đảng uỷ và toàn thể cán bộ, chiến sỹ Công an Thành phố Hải Phòng xin hứa với Bác: Nguyện kế tục và phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp của lực lượng Công an nhân dân, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân; luôn nêu cao ý chí cách mạng tiến công, sẵn sàng xả thân vì độc lập, tự do, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, vì an ninh Tổ quốc, vì hạnh phúc nhân dân. Trước mắt là tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa các phong trào thi đua, thực hiện có hiệu quả các nội dung, chỉ tiêu, nhiệm vụ công tác đã đề ra, phấn đấu hoàn thành thắng lợi toàn diện nhiệm vụ, chương trình công tác năm 2012; lập được nhiều chiến công, thành tích thiết thực hướng tới chào mừng kỷ niệm 65 năm học tập, thực hiện 6 điều Bác dạy Công an nhân dân.

Trần Tiên
bqllang.gov.vn

Hội thảo khoa học “Xác lập Khu rừng bảo vệ cảnh quan di tích lịch sử đặc biệt về Chủ tịch Hồ Chí Minh tại K9”

Bia sach di tichKhu Di tích K9 là địa danh có ý nghĩa lịch sử đặc biệt, nơi gắn liền với các hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời (1957-1969); nơi giữ gìn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những năm tháng chiến tranh (1969-1975); hiện nay là nơi các tập thể, cá nhân đến tham quan, tổ chức sinh hoạt chính trị, giáo dục truyền thống…

Di tích lịch sử K9 còn là khu rừng có nhiều nét đặc biệt về cảnh quan thiên nhiên, trong rừng có những phiến đá mọc lên như mũi chông nên còn có tên gọi là khu Đá Chông. Với diện tích 234 ha, Khu Di tích K9 bao gồm một số hệ sinh thái đặc trưng của hồ nước ngọt, sông và rừng trồng trên cạn. Đây là kho tài nguyên vô giá chứa đựng nguồn gen của nhiều loài và hệ sinh thái, có vai trò và ý nghĩa quan trọng cả về kinh tế – xã hội và môi trường. Rừng K9 được các nhà khoa học đánh giá là có đa dạng sinh học rất cao. Về thực vật: Đã ghi nhận được 711 loài thuộc 159 họ 5 ngành thực vật bậc cao có mạch; có tới 24 loài thực vật quý hiếm, trong đó có 17 loài được ghi trong Sách đỏ Việt Nam và 13 loài được ghi trong Sách đỏ Thế giới (IUCN, 2007). Về động vật: Có 131 loài động vật có xương sống trên cạn thuộc 20 bộ (21 loài thú, 73 loài chim, 37 loài bò sát và ếch nhái). Trong đó có 18 loài động vật quý hiếm (11 loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam 2007 và 13 loài nằm trong danh mục động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm theo Nghị định 32/2006/NĐ-CP về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm).

Hoi thao K9.1Thiếu tướng Nguyễn Văn Cương – Trưởng ban Ban Quản lý Lăng chủ trì Hội thảo

Trong những năm qua, Ban Quản lý Lăng đã cố gắng chăm sóc, bảo vệ và phát triển rừng, làm cho Khu Di tích có môi trường, cảnh quan xanh đẹp. Song, hiện nay, rừng thông già đã nhiều tuổi, thân rỗng, bị gãy đổ nhiều trong mùa mưa bão, rừng keo, bạch đàn trồng đã quá tuổinhưng chưa được thu hoạch và thay thế; một số loài cây trồng mới sinh trưởng kém do không phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng khu vực. Để thực hiện Đề án “Giữ gìn lâu dài, bảo vệ tuyệt đối an toàn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh và phát huy ý nghĩa chính trị, văn hoá của Công trình Lăng trong giai đoạn mới” theo Kết luận của Bộ Chính trị tại Thông báo số 328-TB/TM ngày 19/4/2010 và Quyết định số 2341/QĐ-TTg ngày 22/12/2010 của Thủ tướng Chính phủ. Việc xáclập khu rừng K9 là Khu rừng Di tích lịch sử đặc biệt về Chủ tịch Hồ Chí Minh để có điều kiện duy trì, chăm sóc, tu bổ, bảo vệ và phát triển bền vững các giá trị của khu rừng K9, xứng tầm với Di tích lịch sử đặc biệt về Chủ tịch Hồ Chí Minh, tạo điều kiện phục vụ tốt nhất nhiệm vụ mở rộng tham quan, học tập cho đồng bào trong nước và khách quốc tế (dự kiến thực hiện vào năm 2014) là rất cấp thiết.

 anh k9TS. Trần Ngọc Hải – Trưởng bộ môn Thực vật rừng, Trường Đại học Lâm nghiệp báo cáo tham luận

Chính vì vậy, trong thời gian qua, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Ban Quản lý Lăng đã có sự hợp tác, trao đổi thông tin, chuẩn bị cho dự thảo đề án ”Xác lập Khu rừng bảo vệ cảnh quan di tích lịch sử đặc biệt về Chủ tịch Hồ Chí Minh tại K9” để trình Thủ tướng Chính phủ.

Ngày 11/7/2012, Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổ chức Hội thảo khoa học “Xác lập Khu rừng bảo vệ cảnh quan di tích lịch sử đặc biệt về Chủ tịch Hồ Chí Minh tại K9”. Thiếu tướng Nguyễn Văn Cương – Trưởng ban Ban Quản lý Lăng chủ trì Hội thảo. Tham dự Hội thảo có lãnh đạo Ban Quản lý Lăng; Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng và các cơ quan thuộc Ban Quản lý Lăng. Đại biểu tham dự có đại diện Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; các nhà khoa học thuộc Trường Đại học Lâm nghiệp, Tổng cục Lâm nghiệp, Viện Điều tra Quy hoạch rừng.

Hội thảo tập trung vào các nội dung chính như sau: Đánh giá đặc điểm, hiện trạng của rừng K9; tính cấp thiết cần phải xác lập Khu rừng bảo vệ cảnh quan Di tích lịch sử đặc biệt về Chủ tịch Hồ Chí Minh tại K9; hoàn chỉnh dự thảo Đề án “Xác lập Khu rừng bảo vệ cảnh quan di tích lịch sử đặc biệt về Chủ tịch Hồ Chí Minh tại K9” trình Thủ tướng Chính phủ. Dự thảo Đề án đã đề xuất thiết lập 4 phân khu chức năng phù hợp với tiêu chí của khu rừng bảo vệ cảnh quan.Đồng thời, dự thảo cũng đưa ra 7 chương trình hoạt động nhằm bảo tồn, phát triển khu rừng K9 theo hướng bền vững: Chương trình bảo vệ; chương trình phát triển rừng và cây xanh; chương trình bảo tồn và phát triển động vật khu rừng K9; chương trình tuyên truyền giáo dục; chương trình nghiên cứu khoa học và đào tạo; chương trình tham quan học tập và du lịch sinh thái và chương trình xây dựng cơ sở hạ tầng và trang thiết bị.

Về tiến độ thực hiện: Trong giai đoạn đầu, 2013 – 2015, sẽ ưu tiên thực hiện các nội dung: Xây dựng vườn ươm, thực hiện các chương trình phát triển rừng và cây xanh; bước đầu thực hiện các chương trình tuyên truyền giáo dục, nghiên cứu và đào tạo; phục hồi thử nghiệm một số loài động vật. Giai đoạn 2016 – 2020 sẽ tiếp tục thực hiện các chương trình còn lại.

Kết luận Hội thảo, Trưởng ban Ban Quản lý Lăng chân thành cảm ơn các báo cáo, tham luận và những ý kiến phát biểu tâm huyết của các đại biểu, các nhà khoa học đối với dự thảo Đề án. Đồng chí đánh giá cao sự đồng thuận của các đại biểu, các nhà khoa học về tính cấp thiết phải xác lập khu rừng bảo vệ cảnh quan di tích lịch sử đặc biệt về Chủ tịch Hồ Chí Minh tại K9. Trên cơ sở ý kiến đóng góp của các đại biểu đại diện cho các Bộ, ngành, các nhà khoa học trong lĩnh vực nông lâm nghiệp, Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh giao cho Trung tâm Nghiên cứu, Ứng dụng Khoa học, Công nghệ và Môi trường phối hợp với Viện Điều tra Quy hoạch rừng tiếp thu, hoàn chỉnh Đề án để sớm trình Thủ tướng Chính phủ quyết định, để Đề án có thể sơm được triển khai từ năm 2013./.

Thu Hiền
bqllang.gov.vn

Những hình ảnh xúc động về Chủ tịch Hồ Chí Minh đi bầu cử

Chỉ 4 tháng sau ngày đất nước giành được độc lập, thành lập nước Việt Nam Dân chủCộng hòa – năm 1946, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính quyền cách mạng đã quyết định tổ chức cuộc Tổng tuyển cử trong cả nước. Người đã thực hiện quyền và nghĩa vụ của một công dân Việt Nam, tận tay tham gia bỏ phiếu bầu cử tại các kỳ Tổng tuyển cử trong cả nước.

bau cu a5
Bài viết “Tìm người tài đức” của Bác năm 1946 đăng trên Báo Cứu quốc số 411 ngày 20/11/1946.

bau cu a6

Giấy chứng minh Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chứng nhận cụ Hồ Chí Minh là đại biểu tỉnh Hà Nội tại Đại hội đại biểu toàn quốc năm 1946.

 bau cu

Nhân dân lao động Thủ đô Hà Nội cổ động cho ngày Tổng tuyển cử Quốc hội đầu tiên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 6/1/1946

 bau cu a8

Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa sau cuộc Tổng tuyển cử trong cả nước năm 1946, Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch nước.

 bau cu a9
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đại biểu Quốc hội đầu tiên của Hà Nội ra mắt cử tri tháng 2/1946

 bau cu a1
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận lá phiếu bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân khóa II ngày 8/5/1960

bau cu a2

Tận tay Bác bỏ lá phiếu bầu cử tại Hà Nội năm 1960

 bau cu a3

Bác Hồ tham gia bầu cử Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội và khu phố Ba Đình ngày 25/4/1965

 bau cu a4

Thẻ cử tri của Chủ tịch Hồ Chí Minh cấp ngày 15/4/1965

 bau cu a7

Chủ tịch Hồ Chí Minh hỏi chuyện một cử tri cao tuổi
sau khi bỏ phiếu bầu cử Quốc hội khóa II

 bau cu a11

Bác thăm khu vực bầu cử A.10, Khu Ba Đình, Hà Nội tháng 4 năm 1964

bau cu a12

Bác Hồ tham gia bầu cử Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội ngày 27/4/1969 
– Năm cuối cùng Bác bầu cử trước khi qua đời

Kim Yến (Tổng hợp)
bqllang.gov.vn

Thương binh Trung tâm Điều dưỡng thương binh Duy Tiên, Hà Nam báo công dâng Bác

Trong không khí cả nước đang sôi nổi hướng tới kỷ niệm 65 năm Ngày Thương binh – Liệt sỹ (27/7/1947 – 27/7/2012) và tích cực thực hiện công tác “Đền ơn đáp nghĩa”, Trung tâm Điều dưỡng Thương binh Duy Tiên, Hà Nam đã tổ chức cho Đoàn đại biểu gồm 139 người về thăm Thủ đô Hà Nội và tổ chức lễ báo công dâng Bác tại Quảng trường Ba Đình lịch sử. Đoàn gồm các thương bệnh binh nặng, vợ con thương bệnh binh và các cán bộ, nhân viên của Trung tâm.

Thuong binh Duy tienĐoàn Thương binh Trung tâm Điều dưỡng thương binh
Duy Tiên, Hà Nam báo công dâng Bác

 Đón và tiếp Đoàn tại Nhà khách số 8 Hùng Vương, đồng chí Đại tá Nguyễn Văn Thanh – Phó Chánh Văn phòng Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giới thiệu với Đoàn về nhiệm vụ của đơn vị và quá trình giữ gìn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh và tặng Huy hiệu Bác Hồ cho các đại biểu. Đồng chí bày tỏ sự cảm phục trước những chiến công, sự đóng góp to lớn của thương binh, bệnh binh, những người đã hy sinh một phần xương máu  vì độc lập tự do của Tổ quốc. Đồng chí thân tình hỏi thăm sức khoẻ, động viên các thương binh, bệnh binh luôn vượt lên khó khăn, chiến thắng bệnh tật, sống vui, sống khoẻ và tiếp tục cống hiến, động viên lớp con cháu tiếp tục giữ vững truyền thống anh hùng của cha ông.

Thay mặt Đoàn đại biểu, đồng chí Nguyễn Sĩ Lương – Giám đốc Trung tâm trân trọng cảm ơn đơn vị đã nhiệt tình đón tiếp và khẳng định Trung tâm sẽ luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị là chăm sóc phụng dưỡng các thương bệnh binh.

Trung tâm điều dưỡng thương binh Duy Tiên, Hà Nam được thành lập tháng 6 năm 1957. Hiện nay, Trung tâm đang chăm sóc các thương bệnh binh đến từ 18 tỉnh, thành phố từ Quảng Trị trở ra. Trong đoàn đi thăm Lăng Bác lần này có 61 thương binh nặng (tỷ lệ thương tật 81% trở lên), có 3 đồng chí đã từng tham gia kháng chiến chống Pháp, còn lại là tham gia kháng chiến chống Mỹ và chiến tranh Biên giới phía Bắc. Một nửa trong số họ phải ngồi trên xe lăn do bị  thương cột sống, do teo cơ… Đi cạnh các anh là những người vợ đã hết lòng thương yêu, tận tụy chăm sóc các anh và những người con hiếu thảo, chịu thương, chịu khó, luôn biết vâng lời cha mẹ.

Trong những năm qua, đội ngũ cán bộ, nhân viên của Trung tâm đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị, chuyên môn được giao. Đội ngũ y, bác sĩ luôn vượt qua mọi khó khăn vất vả để chăm lo chu đáo từng bữa ăn, giấc ngủ cho các anh chị em thương bệnh binh, đảm bảo cuộc sống vật chất và tinh thần ngày càng đầy đủ hơn cho họ. Những cán bộ, nhân viên làm việc ở Trung tâm mỗi người một quê, với những công việc khác nhau, cuộc sống còn nhiều thiếu thốn, vất vả nhưng họ đều rất tự hào được phục vụ, công tác trong môi trường đầy tính nhân văn.

Những thương bệnh binh ở Trung tâm luôn đoàn kết, yêu thương, cảm thông chia sẻ với nhau. Họ coi nhau như người thân và coi Trung tâm như một gia đình lớn của mình. Kẻ thù đã cướp đi phần thân thể, song thấm nhuần lời dạy của Bác “Thương binh tàn nhưng không phế”, các anh luôn là tấm gương sáng về nghị lực và đức hy sinh.

Trước anh linh của Bác, các anh nguyện hứa: “Tự hào có Bác, học tập và làm theo tấm gương của Bác, chúng con nguyện đoàn kết một lòng, yêu thương, đùm bọc, vượt lên khó khăn để xứng đáng với lời dạy của Bác”./.

Hải Yến
bqllang.gov.vn

Phái đoàn Ngoại giao Costa Rica vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh

corPhái đoàn Ngoại giao Costa Rica vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh
(Ảnh: Vũ Chiến Thắng, Cơ quan đại diện Unesco tại Việt Nam)

Nhân dịp tham dự Diễn đàn cấp Bộ trưởng Việt Nam – Mỹ Latinh về thương mại và đầu tư, ký kết Hiệp định về miễn thị thực cho công dân mang hộ chiếu ngoại giao và công vụ của hai nước, sáng ngày 07/7/2012, Thứ trưởng Ngoại giao Costa Rica, Ngài Carlos Roverssi và các đại diện cùng đi đã đến viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cùng đi với Đoàn có Bà Katherine Muller-Marin, Trưởng Đại diện UNESCO tại Việt Nam – đồng thời cũng là công dân Costa Rica.Vòng hoa của Đoàn mang dòng chữ: “Nhân dân Costa Rica kính viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh”.

Với lòng kính trọng đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong bài phát biểu tại diễn đàn, Ngài Roverssi bày tỏ rằng Người là một vĩ nhân có tầm nhìn sâu rộng, Người có thể nhìn thấy trước tầm vóc phát triển của quốc gia và góp phần phát triển một hình thức ngoại giao mới, nâng cao vị thế của Việt Nam như một hình mẫu về hợp tác hòa bình và hiểu biết lẫn nhau, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là người đã nỗ lực ủng hộ việc kết hợp hòa bình vào mô hình ngoại giao của Việt Nam. Costa Rica, một quốc gia dân chủ không có quân đội, chia sẻ lời kêu gọi này.

Lan Hương
bqllang.gov.vn

Kỷ vật kể chuyện

Mấy tấm hình đã ngả màu vàng ố, cuốn sổ tay bằng giấy loại xấu ra đời từ những năm còn chiến tranh… – mỗi đồ vật trong Bảo tàng Hồ Chí Minh chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh cất giữ một mẩu chuyện về Bác Hồ để chờ kể cho du khách, ấp ủ cả những câu chuyện chưa được kể bao giờ.

ky vat ke chuyenNghệ sĩ ngâm thơ Trần Thị Tuyết và tập thơ về Bác Hồ – Ảnh: Mai Lâm

Giữa dòng xe tấp nập ở Sài Gòn, một chiếc môtô bấm còi bí bo. Xe đặc biệt: Sơn màu xanh kiểu xe nhà binh, có ba bánh, bốn chỗ, trước xe phấp phới lá cờ đỏ sao vàng. Lái xe cũng đặc biệt: Đội nón bảo hiểm kiểu nón cối bộ đội, trên nón gắn ngôi sao vàng, chỉ có một chân, một tay rưỡi, một nụ cười tươi và đôi mắt vui. Trên những con đường mà chiếc xe đi qua, người đi đường vẫy tay chào.

Áo ấm ngày đông

Cũng với chiếc môtô đó, cách đây ít ngày, ông Lê Thống Nhứt, 81 tuổi, thương binh đặc biệt với tỉ lệ thương tật 91%, đã tìm tới Bảo tàng Hồ Chí Minh chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minhđể làm một chuyện hệ trọng. Dựng xe cẩn thận, tự tay ông chống nạng đi vào, trao tặng một bọc đồ được gói ghém cẩn thận. Bên trong là chiếc áo trấn thủ cũ sờn được Bác Hồ tặng vào mùa đông năm 1955. Tổng cộng, chiếc áo đã ở với ông 57 năm.

Nhắc tới kỷ niệm về Bác Hồ, giọng ông bỗng rưng rưng: “Năm 1953, tôi bị thương trong một trận càn, chân phải bị cắt bỏ, chân trái bị gãy, tay phải bị giập nặng. Đang trong thời gian điều trị thì Ty Thương binh cấp cho một chiếc áo ấm, dạng áo trấn thủ, nói là của Bác Hồ gửi tặng cho thương binh nặng. Cầm cái áo mà tôi xúc động, biết ơn Bác Hồ. Phần lớn anh em trong Nam ra Bắc không chịu được cái lạnh mùa đông. Đằng này lại đang bị thương nặng thì càng khốn khổ với giá rét”. Nhận áo rồi, ông Nhứt không mặc, sợ áo cũ nên ông lồng áo trong bao áo gối để gối đầu hằng đêm.

Thời gian sống tại miền Bắc, có một lần ông Nhứt sang thăm người anh điều trị tại trại thương binh hỏng mắt. Buổi sáng hôm ấy, ông dậy sớm tản bộ ra cổng trại thì thấy có nhiều công an mặc sắc phục. Hỏi ra mới biết hôm ấy có Đoàn đại biểu đến thăm. Ông nhớ lại: “Qua khe cửa sổ, tôi nhìn mãi, nhìn mãi mà không thấy Bác đâu. Chỉ thấy một ông bác sĩ cùng đi với vài người nữa. Phái đoàn tỏa ra nhiều hướng. Tốp của ông bác sĩ đi thẳng xuống nhà bếp, vào xem cả phòng vệ sinh. Đi qua bậc thềm, ông bác sĩ chỉ xuống, có ý như bảo phải cọ rửa cẩn thận kẻo thương binh té ngã. Tiếp đó, bác sĩ vào phòng thương binh.

Anh em thương binh thì thầm với nhau: “Đoàn đến vậy mà không biết có Bác Hồ không?”. Lúc này vị bác sĩ mới cởi nón, tháo khẩu trang rồi lên tiếng: “Thế này không biết có phải là Bác Hồ không nhỉ?”. Nghe giọng nói trầm ấm thân thương, anh em thương binh hô to: “Bác Hồ, Bác Hồ” rồi chạy tới ôm Bác. Buồn cười ở chỗ thương binh toàn là người hỏng mắt nên chỉ vài anh ôm trúng Bác Hồ, còn lại toàn là anh em ôm nhau. Thấy vậy, Bác bảo mỗi anh trở về giường của mình rồi Bác lần lượt đến từng giường nắm tay từng người một”. Anh thương binh cụt chân, cụt tay Lê Thống Nhứt đứng nhìn, rớt nước mắt vì xúc động.

Tặng đi báu vật

Gần đến ngày 19 tháng 5, tận tay mang kỷ vật đến Bảo tàng Hồ Chí Minh chi nhánhThành phố Hồ Chí Minh, khi biên bản giao nhận đã được làm xong cũng là lúc nghệ sĩ ngâm thơ Trần Thị Tuyết bật khóc. Khóc rồi, bà lại cầm lên, đặt xuống từng món đồ: Quyển sổ tay có lời đề tặng được Bác Hồ tặng năm 1969, quyển Truyện Kiều, quyển Chinh phụ ngâm được Bác tặng, mấy tấm ảnh gốc bà được chụp với Bác, một tập thơ chép tay những bài thơ viết về Bác mà bà đã cặm cụi chép sau ngày Bác mất.

“Ở nhà đã quyết đem tặng mà khi tặng rồi lại buồn. Chắc thấy tôi khóc lóc thương quá, mấy cô ở bảo tàng hứa sẽ chụp lại cho tôi bản sao của mấy tấm hình, photo lại quyển sổ chép thơ. Các cô ấy bảo làm xong hết rồi, chắc mấy hôm nữa là được nhận. Nhận lại dù là bản sao cũng thấy ấm lòng”, bà Tuyết thổ lộ.

Là nghệ sĩ ngâm thơ của Đài Tiếng nói Việt Nam, nhiều lần bà Trần Thị Tuyết được vào Phủ Chủ tịch ngâm thơ cho Bác nghe. Mỗi lần được gặp Bác, ấn tượng lớn nhất của bà về Bác là tình thương bao la. Bà kể: “Biết đứa con trai đầu của tôi bị bại liệt, Bác vẫn luôn hỏi thăm, động viên rồi khuyên: “Dù thế nào cháu cũng phải cho bé đi học để sau này còn làm người có ích, tàn nhưng không phế!”. Nghe lời Bác, tôi đã cho cháu học đến hết lớp 10. Mấy năm tôi đi học bổ túc văn hóa ở Hưng Yên, biết tôi học xa nhà, ăn uống thiếu thốn nên mỗi lần vào ngâm thơ cho Bác nghe, Bác bảo tôi ở lại ăn cơm. Một lần, bữa cơm có cá rất ngon. Thấy tôi không dám ăn vì đó là tiêu chuẩn dành riêng cho Bác, Bác nói: “Cháu ăn đi, hôm nay Bác tiếp khách, phải nhịn miệng đãi khách chứ!”. Lúc ấy tôi thấy Bác Hồ giống như một người cha, người ông của mình”.

Đầu năm 1969, bà Tuyết được Bác tặng quyển sổ tay, trang đầu có lời đề tặng viết tay: “Học tập tốt, phấn đấu tốt. Chú ý nên luyện thanh. Góp sức đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược”. Bà bồi hồi: “Năm đó cũng là năm tôi ít được gặp Bác nhất vì sức khỏe Bác đã yếu. Khi bác Vũ Kỳ đưa tôi vào thăm thì Bác đã yếu, nằm trên giường, không còn bảo tôi đọc báo hay ngâm thơ như mọi lần. Tuy rất mệt nhưng Bác vẫn hỏi thăm, dặn tôi phải giữ sức khỏe, chăm chỉ luyện thanh”. Đó cũng là lần cuối cùng bà được gặp Bác.

Báu vật thiêng liêng

Là người trực tiếp tham gia những chuyến sưu tầm kỷ vật về Bác Hồ, chị Nguyễn Thị Hoa Xinh, Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh , tâm sự: “Mỗi lần tiếp nhận một kỷ vật, chúng tôi vừa mừng lại vừa thấy như mình có lỗi vì đã lấy đi một báu vật thiêng liêng, thân thương mà chủ nhân của nó vô cùng yêu quý. Có bác tặng xong thì buồn quá, bị bệnh phải nhập viện. Có người tặng rồi, về nhà nhớ quá, lại lên năn nỉ Bảo tàng cho xin lại. Nghe các cô, các bác nói tha thiết quá, dù đã nhập vào hồ sơ lưu, có trường hợp chúng tôi vẫn phải trả lại. Để rồi đến khi cô, bác ấy mất, họ vẫn không quên nhắc con cháu mang trở lại giao cho Bảo tàng. Có gia đình có nhiều kỷ vật nhưng lại tặng làm nhiều lần, mỗi lần tặng là một lần đắn đo, lưu luyến”.

Theo Mai Lâm/ tuoitre.vn
Kim Yến
(st)
bqllang.gov.vn

Bác vẫn vào miền Nam đấy chứ

Trong tuần tổ chức tang lễ Hồ Chủ tịch khi bài thơ “Chúng cháu canh giấc Bác ngủ – Bác Hồ ơi” đăng trên Báo Nhân Dân, tác giả Hải Như nhận được điện và thư từ mọi miền đất nước yêu cầu tác giả cần có một bài thơ viết về miền Nam với Bác. 50 ngày sau khi Bác Hồ qua đời, nhà thơ Hải Như công bố bài thơ “Tưởng tượng ra ngày đầu tiên thống nhất đất nước Bác Hồ có mặt giữa Sài Gòn”. Gần sáu năm sau bài thơ dự báo đã trở thành hiện thực. Ngày 30-4-1975 cả miền Nam rước ảnh Bác Hồ…

Bác Hồ vẫn vào miền Nam đấy chứ
Phút ra đi là phút Bác Hồ vào
Suốt hăm bốn năm qua, hỏi có đêm nào
Bác thao thức miền Nam không hiện đến?

Buổi sáng ấy, trời trong xanh – đúng hẹn
Cả miền Nam tim muốn vỡ lệ nhòa
Ôm lấy Bác Hồ, xúm xít quanh Cha
Mặt tươi ngẩng hướng theo Người vẫy gọi
Đi với Bác có anh Đang, anh Trỗi
Và vui chưa? Lý Tự Trọng đang cười
Ồ nữa kìa, chị Sáu, chị Minh Khai
Thay nhau quạt cho Bác Hồ đứng nói
Ôi xúc động, câu đầu tiên Người hỏi:
Ai nhiều nhất đau thương, bên Bác, đứng gần…
Cả miền Nam khi thấy Bác rút khăn
Lau nước mắt – đều oà lên nức nở…

Buổi sáng ấy, cờ ta bay rực đỏ
Khắp miền Nam đi đón Bác Hồ vào
Phút bàng hoàng mừng tủi, nói làm sao
Ai cũng muốn ngắm Bác Hồ bằng được
Bác Hồ tới, lệ thường không báo trước
Nhưng miền Nam đã đoán được Bác vào
Dựng thành đồng để Bác đứng thật cao
Cho xa khắp đồng bào đều thấy rõ…
Ôi sung sướng được thét vang chữ “có!”
Đáp lời Người “Nhìn thấy rõ Bác không”?
Trời miền Nam sáng ấy dệt mây hồng

Sáng đẹp ấy, Bác mang vào giấc ngủ…
Bác Hồ vẫn vào miền Nam đấy chứ
Phút ra đi là phút Bác Hồ vào
Suốt hăm bốn năm qua, hỏi có đêm nào
Bác thao thức miền Nam không hiện đến…?

Buổi sáng ấy, miền Nam ơi – cổ nghẹn
Ai nhiều nhất đau thương, bên Bác, đứng gần
Câu đầu tiên Bác Hồ hỏi nhân dân:
Khiến cháu nhỏ, khiến cụ già khóc nấc
Và một phút cả vòng người đứng chặt
Bỗng giãn ra để lấy lối Bác vào…
Ôi Bác Hồ không thích đứng trên cao.
Người thích lẫn giữa dòng đời dưới thấp.
Bác dừng lại cho cụ già muốn gặp
Bác cúi người cho cháu nhỏ đòi thơm
Vào miền Nam. Bác hằng nghĩ tới luôn
Thăm viếng trước các cụ già, cháu nhỏ…

Buổi sáng ấy vui bao nhiêu cho bõ
Những tháng năm thầm lặng nhớ Bác Hồ
Da Bác hồng hào, tóc Bác bạc phơ
Bác hiện đến như trong mơ vẫn gặp:
Không ngăn nổi niềm vui ai cũng khóc
Nước mắt vui rửa hờn tủi sạch làu
Đến với Bác Hồ không phải quỳ đâu
Cho dẫu chót ngàn ngày phạm tội
Nhưng một phút nhận ra, đòi hối lỗi
Người bao dung vẫn cho đứng bên Người
Trời miền Nam sáng ấy nắng vàng tươi
Sáng đẹp ấy Bác mang vào giấc ngủ.

Bác Hồ vẫn vào miền Nam đấy chứ
Phút ra đi là phút Bác Hồ vào:
Suốt hăm bốn năm qua, hỏi có đêm nào
Bác thao thức, miền Nam không hiện đến?

Từ những buổi quân thù lê máy chém
Ơi miền Nam, những buổi vẫn còn đêm
Không phút nào không có Bác ở bên
Bác Hồ đến từ những ngày tối nhất
Khi anh Trỗi cười khinh viên đạn giặc
Gọi Bác Hồ là lúc nhất đời vui
Bác dạy ta không chỉ biết làm người
Bác còn dạy biết giã từ cuộc sống.
Trong chuồng cọp vẫn thấy đời rất rộng
Cánh chim bằng bị buộc vẫn bay xa
Cả miền Nam ngày đen tối bên Cha
Nên khi đón Bác Hồ, vui hết nói…

Sáng đẹp ấy miền Nam ơi, đang tới
Đừng một phút quên làm đẹp ý Người!
Vào miền Nam, Bác ao ước trọn đời
Miền Nam cũng ước ao ngày đón Bác
Sáng đẹp ấy, trời miền Nam mây bạc
Với mây hồng ngưng tụ lại không bay,
Bác Hồ cười hồn hậu đứng trong mây
Như Tổ quốc – Người muôn đời bất tử!
Bác Hồ vẫn vào miền Nam đấy chứ
Bởi mỗi chúng ta rước Bác Hồ vào
Hai bốn triệu trái tim, Bác truyền máu hồng hào
Xin đập tiếp trái tim Người vĩ đại…

(50 ngày Bác qua đời 22-10-1969)
Theo Hải Như/ nhandan.com.vn
Huyền Trang (st)
cpv.org.vn

Kỷ niệm lần được đón Bác từ Fontainebleau về nước

Sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, Bác Hồ sang Pháp dự Hội nghị Fontainebleau. Người về nước tại cảng Hải Phòng tháng 10 năm 1946. Thiếu tá Cao Phong – người nhận nhiệm vụ đón Bác Hồ – không bao giờ quên giây phút lịch sử ấy.

Bài viết dưới đây được ghi lại theo tư liệu của ông Nguyễn Thế Vinh, con trai của cố Thiếu tá Cao Phong, nguyên Trưởng ty Liên kiểm Việt – Pháp miền Duyên hải Bắc bộ năm 1946.

“Trong những năm hoạt động cách mạng, có biết bao nhiêu sự kiện đến với tôi. Song được đón Bác Hồ từ Fontainebleau trở về là một kỷ niệm mà cho đến nay tôi vẫn không sao quên được.

Sau khi tham gia trận đánh lớn tiễu phỉ ngày 08 tháng 12 năm 1945 giải phóng thành Hà Giang, tôi được Bộ Quốc phòng điều về Trường Cán bộ Việt Nam Trần Quốc Tuấn do đồng chí Trần Tử Bình làm Giám đốc.

Fontainebleau 2 Từ trái sang: Hoàng Hữu Nam – Trưởng ban Liên kiểm Trung ương; Chủ tịch Hồ Chí Minh; Thiếu tá Cao Phong; Bác sĩ Nguyễn Xuân Nguyên – Chủ tịch uỷ ban hành chính Hải Phòng (Ảnh do ông Nguyễn Thế Vinh, con trai Thiếu tá Cao Phong cung cấp)

Đến ngày 15 tháng 3 năm 1946, tôi lại được Bộ giao nhiệm vụ Trưởng ty Liên kiểm Việt – Pháp Hải Phòng với quân hàm Thiếu tá. Trước khi đi nhận nhiệm vụ, đồng chí Hoàng Văn Thái có gọi tôi lên căn dặn nhiêm vụ quan trọng của Liên kiểm trong tình hình đang có Sư đoàn Thuỷ quân lục chiến Pháp ở Hải Phòng. Trước khi trao cho tôi quyết định nhận nhiệm vụ, đồng chí Hoàng Văn Thái mở ngăn kéo lấy ra năm mét vải kaki đưa cho tôi và bảo: “Liên kiểm hàng ngày phải giáp mặt với quân Pháp, nên phải ăn mặc cho đàng hoàng. Anh cầm vải đi may ngay một bộ quân phục và phải có mặt ở Hải Phòng đúng ngày 15 tháng 3 năm 1946 để nhận nhiệm vụ”.

Ở Hải Phòng đến ngày 12 tháng 8 năm 1946 tôi lại nhận được quyết định của cấp trên giao cho chức vụ Trưởng ty Liên kiểm Việt – Pháp miền Duyên hải Bắc Bộ, quản lý một vùng đất từ Hải Phòng đến Móng Cái.

Bác Hồ trở về nước là một sự kiện quan trọng. Với tư cách là chỉ huy Liên kiểm miền duyên hải Bắc Bộ, tôi cũng được cấp trên cho biết trước. Phía Pháp, Đại tá Đép, Tổng chỉ huy Sư đoàn Thuỷ quân lục chiến ở Hải Phòng, gặp tôi, đề nghị cho binh sỹ Pháp được tham gia lễ đón Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tôi báo cáo ngay với đồng chí Hoàng Văn Thái về yêu cầu của phía Pháp và nhận được sự đồng ý với điều kiện phía Pháp phải đón Bác Hồ theo nghi lễ trọng thể nhất của nước Pháp.

Tôi trở lại làm việc với Đại tá Đép. Lần này tôi nói rõ từng chi tiết phía Pháp phải làm trong nghi lễ đón rước Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mọi yêu cầu của ta phía Pháp đều đồng ý. Riêng phần Quân kỳ danh dự của nước Pháp chào Hồ Chủ tịch như thế nào thì cứ bàn đi bàn lại mãi. Cuối cùng phía Pháp phải đồng ý cử hành nghi lễ như đón chào Tổng thống của chính nước họ. Nghĩa là khi Hồ Chủ tịch đi qua Quân kỳ của nước Pháp thì Quân kỳ danh dự của nước Pháp phải hạ xuống chấm đất để chào Người. Đó là nghi lễ trọng thể nhất của nước Pháp.

Fontainebleau 1Chân dung Thiếu tá Cao Phong

 Ngày 21 tháng 10 năm 1946, thông báo tàu Đuy-mông Đuyếc-vin-lơ của hải quân Pháp đưa Bác cập bến Ngự, Hải Phòng. Hàng quân danh dự đứng đón Bác, một bên là Vệ quốc đoàn của ta, còn một bên là hàng quân danh dự của Sư đoàn Thuỷ quân lục chiến Pháp, có quân kỳ Trung đoàn, có cả quân nhạc.

Nhân dân Hải Phòng đứng đón Bác chật ních cả hai bên đường. Vì có quân đội Pháp tham gia nghi lễ đón Bác và phải chịu sự chỉ huy chung của tôi nên khẩu lệnh tôi sẽ phải hô bằng tiếng Pháp. Hôm ấy, đứng ngay dưới cầu tàu đón Bác, tôi thấy có đông đảo quan khách trong đó có cụ Nguyễn Văn Tố; đồng chí Võ Nguyên Giáp – Bộ trưởng Quốc phòng kiêm Tổng chỉ huy quân đội Việt Nam; ông Nghiêm Kế Tố; ông Trần Huy Liệu; ông Phạm Văn Bạch. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp gọi tôi lại gần, chỉ thị: “Anh là chỉ huy cuộc duyệt binh, anh phải lên tàu rước mời Bác xuống duyệt đội danh dự”.

Nhận lệnh của Bộ trưởng, tôi bước lên tàu Đuy-mông Đuyếc-vin-lơ trong bộ quân phục chỉnh tề, bên mình đeo kiếm chỉ huy danh dự. Khi tới nơi, tôi thấy Bác Hồ chỉ có một mình, hai tay chắp ra phía sau, đi đi lại lại trên sàn tàu như Người đang suy nghĩ điều gì. Tôi mừng quá sững người lại trong tư thế đứng nghiêm, đưa tay lên vành mũ kính cẩn chào Bác và thưa: “Kính thưa Bác, Quân uỷ Trung ương uỷ nhiệm cháu lên đón Bác, kính mời Bác xuống duyệt đội danh dự ạ”.

Là chỉ huy cuộc duyệt binh, tôi hiểu trọng trách và vinh dự lớn của mình. Tôi đi chếch về phía bên phải Bác, theo đúng nghi thức một sỹ quan cận vệ bên cạnh một Nguyên thủ quốc gia. Khi còn cách hàng quân danh dự chừng mười thước, tôi hô to khẩu lệnh để nghi lễ đón Bác được bắt đầu.

Sau lời hô của tôi, hai bên hàng quân danh dự nghiêm lệnh bồng súng chào. Quân nhạc phía Pháp long trọng cử Quốc ca. Khi Bác qua hàng quân danh dự, Quân kỳ danh dự của nước Pháp đã hạ xuống chấm đất để chào Người theo đúng nghi thức trọng thể nhất. Lúc ấy, tôi thấy một nhà quay phim nước ngoài đã quỳ xuống sát đất rất lâu để quay cảnh ấy. Lòng tôi bỗng rộn lên một niềm vui sướng.

Đi qua hàng quân, Bác tiếp cận đông đảo nhân dân Hải Phòng đứng chật hai bên đường. Bác giơ tay vẫy chào đồng bào rồi lên xe về nhà khách của Ủy ban thành phố. Còn tôi, cả cuộc đời đi theo cách mạng, đã có biết bao nhiêu kỷ niệm. Song lần được đón Bác là kỷ niệm sâu sắc nhất của một người lính đã đi suốt hai cuộc trường chinh.

Theo Quốc Cường (trích ghi) http://dantri.com.vn
Thu Hiền
(st)
bqllang.gov.vn

Lộc bất tận hưởng

Đó là câu tục ngữ, câu răn dạy, khuyên bảo con người, có nghĩa là “có lộc không nên hưởng hết một mình” mà nên chia sẻ cho người khác.

Tháng 8 năm 1945, trên đường từ chiến khu về Hà Nội, dừng chân ở một căn nhà làng Gạ, ngoại thành Hà Nội. Khi gia đình dọn cơm, Bác đã sẻ phần thịt gà ngon, mềm vào bát cụ chủ nhà.

Trong những tháng năm kháng chiến chống Pháp, trên Việt Bắc, ăn cơm cùng với các chiến sĩ bảo vệ, anh nuôi, bao giờ Bác cũng chia đều thức ăn cho cả mâm. Chị Minh Phương giúp việc chăm sóc sức khỏe Bác bày ra cái mẹo ninh gà nhừ, ít nước đặc để riêng cho Bác. Bác biết ý, nói vui: “Thế là khôn ăn cái, dại ăn nước”. Rồi Bác cũng lấy thìa san cho đủ người trong bữa ăn.

Một lần, Văn phòng Chủ tịch nước nhận được một miếng cao đặc mật ong của các vị lãnh đạo Đảng Trung Quốc tặng. Anh em đưa lên Bác để “Bác dùng cho khỏe”.

Bác cho gọi đồng chí cấp dưỡng lên, nói:

– Chú đem miếng cao này xuống bếp, bỏ vào nồi, đong đủ 24 bát nước, có ít gạo tẻ, gạo nếp càng tốt, đun lên, chia đều cho 24 người của Văn phòng.

Bác cũng chỉ là một trong 24 suất ấy. Đồng chí cấp dưỡng tần ngần chưa chịu đi. Bác cười nói:

– Làm đi chứ. “Lộc bất tận hưởng” mà chú!

“Trích trong “120 chuyện kể về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
Theo baclieu.gov.vn
Phương Thúy
(st).
bqllang.gov.vn

Những kỷ niệm về Bác Hồ của một cựu giảng viên đại học

Nhà giáo Lê Văn Đàm sinh năm 1926 tại Trung Lễ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Cụ đã có 47 năm đứng trên bục giảng từ bậc tiểu học đến đại học, có hơn 20 năm giảng dạy tại Khoa Tâm lí – Giáo dục Trường Đại học Sư phạm Vinh và 10 năm là chuyên gia giáo dục ở Châu Phi. Là nhà giáo mẫu mực, cụ đã đào tạo hàng nghìn học trò thuộc nhiều thế hệ. Năm 2009, cụ được tỉnh Hà Tĩnh tôn vinh “Nhà giáo lão thành có nhiều cống hiến”.

Gần 90 tuổi đời và có nửa thế kỷ đứng trên bục giảng, nhà giáo Lê Văn Đàm, nguyên giảng viên Trường Đại học Sư phạm Vinh vẫn nhớ như in những kỷ niệm xúc động về Bác Hồ kính yêu.

Lần đầu gặp Bác Hồ

Nhà giáo Lê Văn Đàm sinh năm 1926 tại Trung Lễ, một làng quê nổi tiếng về truyền thống văn hóa của huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.

Lúc nhỏ, tuy nhà nghèo nhưng Lê Văn Đàm đã quyết noi theo truyền thống gia đình họ tộc, quyết tâm học hành và luôn luôn đứng đầu lớp. Năm 1944, vừa mới bước vào tuổi 18, Lê Văn Đàm đã vinh dự đứng vào hàng ngũ những người làm giáo dục với chức trách là một giáo viên tiểu học.

Sau thời gian học tập ở Trung Quốc 3 năm (1953-1956), Lê Văn Đàm về nước, được bổ nhiệm chức vụ Hiệu trưởng Trường cấp II Trần Phú (Đức Thọ, Hà Tĩnh). Mùa hè năm đó, Lê Văn Đàm được triệu tập tham gia lớp chỉnh huấn dành cho các cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên cốt cán toàn miền Bắc tại Hà Nội. Lần này, Lê Văn Đàm vinh dự được gặp Bác Hồ.

Cụ Đàm kể: “Lúc ấy lớp chỉnh huấn tập trung ở hội trường Trường Chu Văn An vào ban đêm, dù có điện nhưng không được sáng như bây giờ. Bất ngờ cả hội trường ồ lên khi được tin Bác Hồ đến thăm. Tình hình đấu tranh tư tưởng đang căng thẳng, nên được Bác Hồ đến thăm làm mọi người rất phấn khởi. Bác mặc bộ quần áo kaki trắng giản dị, người hơi gầy với chòm râu thưa. Sau khi ổn định tình hình, Bác nhìn quanh hội trường rồi hỏi: “Cán bộ nữ trong lớp chỉnh huấn của chúng ta được mấy “vắt”?

Cả hội trường hết sức bất ngờ vì cách dùng từ dí dỏm của Bác, và nhất là người cán bộ phụ trách chưa nắm được cụ thể có bao nhiêu nữ cán bộ giáo viên có mặt. Thực ra vào giai đoạn này giáo viên nữ, nhất là cán bộ quản lý rất ít. Một cán bộ đáp: “Thưa Bác, nữ được khoảng chục “vắt” ạ!”. Bác nói: “Sao ít thế?”, rồi Người nói về vai trò của phụ nữ, nhắc nhở các cán bộ quản lý giáo dục cần tuyển thêm nhiều giáo viên nữ.

Sau đó, Bác hỏi thăm về mức lương, thu nhập của đội ngũ nhà giáo. Nghe cán bộ báo cáo, Người trầm ngâm một lúc rồi nói: “Việc giáo dục hết sức quan trọng, nhà giáo có vai trò đặc biệt đối với sự nghiệp giáo dục, nhưng mức sống của đa số giáo viên còn thấp. Chính phủ phải có chính sách từng bước nâng cao đời sống cho đội ngũ giáo viên”.

nha giao14052010Nhà giáo Lê Văn Đàm nay nghỉ hưu tại Hà Tĩnh.

Thực hiện lời dạy của Bác, ngành giáo dục sau đó đã có những chính sách để thu hút các nữ sinh vào trường sư phạm. Các nhà trường sư phạm cấp học bổng cho sinh viên, tuy không dư dật song cũng đủ ăn tiêu, không phải dựa vào chu cấp của gia đình. Các sinh viên sau khi tốt nghiệp các trường sư phạm đều được phân công công tác tùy theo nhu cầu giáo dục của từng địa phương.

Lần đầu được gặp Bác, nhà giáo Lê Văn Đàm nhớ mãi phong thái giản dị, gần gũi, hài hước, sự quan tâm sâu sắc của Người đối với các nữ nhà giáo và đời sống giáo viên. Những lời dạy của Người sau đó đã được Chính phủ và ngành giáo dục áp dụng trong thực tiễn.

“Giáo cụ trực quan” là gì?

Nhà giáo Lê Văn Đàm còn có may mắn được gặp Bác Hồ lần nữa. Năm 1959, Bác Hồ đến thăm Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Lúc này nhà giáo Lê Văn Đàm đang học Khoa Tâm lí – Giáo dục. Vì Bác có nhã ý thăm lớp cán bộ quản lý được cử đi học, nên Lê Văn Đàm có cơ duyên gặp Người lần nữa.

“Lúc đó, mấy anh em chúng tôi đang lúi húi làm việc thì thấy có tiếng người xôn xao, cửa mở và đã thấy Bác Hồ đến ngay trước mặt. Đúng là như trong giấc mơ. Bác bắt tay từng người rồi hỏi: “Các chú đang làm gì thế?”. Nhà giáo Lê Văn Đàm thưa: “Thưa Bác, chúng cháu đang làm giáo cụ trực quan ạ”. Người hỏi lại: “Thế “giáo cụ trực quan” là gì? Nhà giáo Lê Văn Đàm đáp: “Thưa Bác, “giáo cụ trực quan” là đồ dùng dạy học ạ”. Bác hỏi: “Thế tại sao không nói “đồ dùng dạy học” mà lại nói “giáo cụ trực quan”?. Mọi người im lặng, lúng túng, Bác nói: “Chúng ta giáo dục cho con em nên chú ý việc dùng chữ. Những chữ đã có trong tiếng ta thì cần không vay mượn, cho học sinh dễ hiểu, dễ nhớ. Hiện nay đang có bệnh sính dùng chữ, cần phải sửa từ những cán bộ giáo dục để làm gương cho học sinh và đồng bào”.

Trong trái tim nhà giáo lão thành, những kỷ niệm về Bác Hồ kính yêu vẫn vô cùng sâu đậm.

Hơn 50 năm đã trôi qua, nhưng những lời dạy của Bác từ cuộc gặp gỡ đó mãi in sâu trong tâm trí nhà giáo Lê Văn Đàm và trở thành kim chỉ nam trong cuộc đời làm giáo dục của cụ.

Cụ Đàm tâm sự: “Thực ra lúc đó chúng ta dịch giáo trình từ Trung Quốc, Liên Xô nên có vay mượn thuật ngữ. Mặt khác, không ít cán bộ vẫn mắc “bệnh sính chữ”. Lời dạy của Bác không chỉ nói về việc dùng chữ, mà chính là vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong ngôn ngữ, và các nhà giáo phải làm gương cho xã hội”.

Sau này, trong những năm đi làm chuyên gia giáo dục quốc tế ở châu Phi (cụ Lê Văn Đàm từng làm chuyên gia giáo dục ở Ghi-nê và Ăng-gô-la hàng chục năm), cụ Đàm luôn tìm cách để giới thiệu với bạn bè quốc tế về lịch sử, văn hóa Việt Nam.

Dù xa cách ngàn trùng, đất nước và Bác Hồ vẫn rất gần

Từ năm 1965 – 1969, nhà giáo Lê Văn Đàm được Chính phủ cử đi làm chuyên gia giáo dục tại Ghi-nê. Trước khi lên đường, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tổ chức buổi gặp mặt thân mật và dặn dò nhà giáo Đàm. Thủ tướng nhấn mạnh nhiệm vụ giúp bạn phát triển giáo dục cũng quan trọng không kém việc đánh giặc bảo vệ Tổ quốc (lúc này chiến sự đang rất căng thẳng), đồng thời nhắc mỗi người cần giữ gìn tư cách, tác phong của người Việt Nam khi ở nước bạn.

Khí hậu châu Phi khắc nghiệt, cuộc sống còn gặp nhiều khó khăn, nhưng với những người đã quen gian khổ như cụ Lê Văn Đàm thì không phải là vấn đề đáng ngại. Chỉ có nỗi nhớ Tổ quốc, nhớ Bác Hồ là luôn canh cánh bên lòng. Lúc đầu, các nhà giáo xa xứ nghe tình hình Việt Nam qua bản tin quốc tế tiếng Pháp của các nước, sau một thời gian mới bắt được sóng của Đài tiếng nói Việt Nam.

Dù bận đến mấy, việc nghe đài Việt Nam luôn được ưu tiên hàng đầu. Những tin tức chiến thắng dồn dập làm cho các nhà giáo phấn khởi vô cùng. Vì các sinh viên Ghi-nê rất muốn nghe về thời sự Việt Nam, nên nhà trường đã tổ chức mời nhà giáo (họ gọi là giáo sư – Professeur) Lê Văn Đàm diễn thuyết trước sinh viên toàn trường về thời sự đánh giặc Mỹ của Việt Nam. Chương trình chỉ có ba tiếng từ 8 giờ đến 11 giờ), nhưng đến 11 giờ, sinh viên yêu cầu nói thêm, chưa ăn cơm cũng được. Thế là giáo sư Lê Văn Đàm phải nói thêm 2 tiếng nữa mới nghỉ. Cả trường lặng phắc lắng nghe, cả ông bảo vệ trường cũng say sưa nghe giáo sư Đàm diễn thuyết. Sau này vì các sinh viên muốn tìm hiểu thêm, nhà giáo Lê Văn Đàm liên hệ với Đại sứ quán Việt Nam để mượn các bộ phim về chiếu cho sinh viên xem. Làn sóng hâm mộ Việt Nam dâng cao, đến mức đại diện ngoại giao Mỹ tại Ghi-nê phản đối, cho rằng nhà trường “thiên vị” Việt Nam. Nhưng nhà trường nói vì sinh viên yêu thích nên họ không “bắt lí” được.

Sau 5 năm công tác, Lê Văn Đàm về Hà Nội vào đúng ngày 2/9/1969, được người nhà báo tin Bác ốm rất nặng. Sáng ngày 3 tháng 9, Lê Văn Đàm và người dân cả nước đau đớn khi được tin Bác Hồ đã từ trần. Lê Văn Đàm vội đến Quảng trường Ba Đình để xem tình hình nhưng không vào được, chen chúc trong cả biển người chan hòa nước mắt giữa trời mưa tầm tã. Lê Văn Đàm đã ở lại Hà Nội tham dự lễ tang Bác, 12 ngày sau mới về gặp gia đình ở Hà Tĩnh.

Bài và ảnh: Quang Đại – Văn Dũng/Theo dantri.com.vn
Kim Yến (st)
bqllang.gov.vn