Thư viện

Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa

Trong xu thế toàn cầu hóa như hiện nay, quan điểm và ý đồ đồng nhất hóa các giá trị văn hóa, các chuẩn mực xã hội theo một mô hình nào đó tự cho là kiểu mẫu đối với toàn bộ thế giới đang tồn tại và trở thành vấn đề tập trung chú ý của nhiều quốc gia, với những phản ứng khác nhau.

Tại hội nghị của Đại hội đồng UNESCO lần thứ 31 diễn ra từ ngày 13-10 đến 3-11-2001 tại Pari, vấn đề tôn trọng sự đa dạng văn hóa với lòng khoan dung, tránh tư tưởng áp đặt do UNESCO đề xuất đã thu hút sự quan tâm của toàn thể đại hội đồng. Điều này cho thấy tất cả các dân tộc đều ý thức khá sâu sắc rằng tôn trọng bản sắc của từng nền văn hóa là vấn đề cần thiết và có ý nghĩa quan trọng trong khi phấn đấu vì một thế giới chung sống hòa bình. Tuy nhiên, cũng từ đây lại đặt ra vấn đề có ý nghĩa không kém phần quan trọng nữa là, để thực hiện tốt quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa, tạo cơ sở cho việc xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, thì trước hết nền văn hóa của mỗi dân tộc phải mang dấu ấn và sức sống riêng, vì thực tế “sự linh hoạt chỉ mang lại hiệu quả khi nó được tiến hành trên cái ổn định”.

Hồ Chí Minh với tư cách là một nhà nhân văn chân chính, nhà văn hóa kiệt xuất ngay từ rất sớm đã nắm bắt được quy luật hình thành, vận động và phát triển của một nền văn hóa. Trong nhận thức của Người, “Văn hóa Việt Nam chứa đựng sự kỳ diệu giữa cái ổn định và cái linh hoạt” bởi lẽ nền văn hóa này có sợi dây liên hệ bền chặt với cuộc sống. Và, một trong những nội dung cơ bản trong tư tưởng của Người về văn hóa đó là “Văn hóa phải gắn liền với cuộc sống”. Tư tưởng cốt lõi này trở thành nội dung xuyên suốt được quán triệt sâu sắc góp phần mang lại nét độc đáo riêng có trong hầu hết các giá trị văn hóa mà Hồ Chí Minh để lại.

Qua nghiên cứu nhận thức của Hồ Chí Minh về văn hóa, chúng ta nhận thấy Người đã xuất phát từ phạm trù “sinh tồn” để kiến giải phạm trù văn hóa.

Người coi văn hóa là kết quả tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt của loài người thích ứng với những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, văn hóa là một bộ phận hợp thành toàn bộ đời sống xã hội. Từ sự nhận thức đó, Hồ Chí Minh chỉ ra: kiến thiết xã hội phải có bốn lĩnh vực (kinh tế – chính trị – văn hóa – xã hội) cùng được coi trọng. Trong đó, văn hóa ở vào vị trí trung tâm, có vai trò điều tiết xã hội. Theo Người muốn xác định vai trò đó, mọi hoạt động văn hóa phải thực sự hòa quyện, thâm nhập vào cuộc sống muôn màu, muôn vẻ của đông đảo quần chúng nhân dân với đầy đủ những mảng tối sáng đầy góc cạnh của nó làm đối tượng phản ánh và phục vụ. Quan trọng hơn, văn hóa phải “thiết thực phục vụ nhân dân, góp phần vào việc nâng cao đời sống vui tươi lành mạnh của quần chúng” (Hồ Chí Minh toàn tập, Tr. 10, Tr. 59) góp phần “soi đường cho quốc dân đi”, tạo sức mạnh dời non lấp bể như gốc của cây, nguồn của sông. Theo lôgíc của lập luận này, Hồ Chí Minh khẳng định chính đời sống hiện thực là “kho tài nguyên vô tận” để khơi đậy những mạch nguồn sáng tạo. Nếu người cán bộ văn hóa xa rời cuộc sống, đứng ngoài cuộc sống, không theo kịp mạch đập của cuộc sống tất sẽ phải đối diện với sự khô héo, cằn cỗi, nghèo nàn và nhàm chán trong chính sáng tạo của mình. Ngược lại, nếu biết bắt nhịp với cuộc sống đời thường vốn trần trụi, gai góc và đang hối hả trào tuôn thì khi đó văn hóa sẽ được sống bằng nguồn năng lượng vô cùng mà đời sống trao cho.

Gắn văn hóa với đời sống, Hồ Chí Minh xác định cơ chế vận hành của nền văn hóa trên trục trung tâm là các hoạt động của con người. Từ chỗ đặt các vấn đề văn hóa của con người vào vị trí những dự kiến quan trọng nhất, Người cho rằng con người với tư cách là chủ thể sáng tạo văn hóa – chủ thể cuộc sống, chủ thể của quá trình lao động sản xuất phải được bồi dưỡng, vun đắp.

Thực chất của những tư tưởng này là, Hồ Chí Minh không chỉ coi trình độ, các giá trị nhân bản là “chất liệu”, là “sự nghiệp trăm năm của văn hóa”, mà văn hóa phải là động lực cho sự phát triển. Vì vậy quan điểm này không chỉ có ý nghĩa định hướng cho việc xây dựng một nền văn hóa thuộc về con người, quan trọng hơn còn chỉ ra cơ sở mang lại sức sống mãnh liệt cho văn hóa.

Công cuộc đổi mới, xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay thực sự là cuộc hành trình đến những giá trị văn hóa đích thực nhất. Bởi lẽ, CNXH chính là biểu trưng giá trị cao đẹp nhất, sáng tạo nhất mà dân tộc Việt Nam có thể xem là một chủ thể xứng đáng. Tuy nhiên, hành trình đến CNXH không là con đường bằng phẳng trơn tru. Thực tiễn đang có nhiều vấn đề mới nảy sinh, trong đó xu hướng toàn cầu hóa với việc mở cửa, hội nhập đang đòi hỏi mỗi dân tộc cần thiết phải khẳng định bản lĩnh của mình. Trong tất cả những sức mạnh cần khẳng định, sức mạnh văn hóa cần thiết phải đặt vào vị trí hàng đầu, vì “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là tầm cao, chiều sâu về trình độ phát triển của dân tộc, kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất trong quan hệ giữa người với người, người với xã hội, với thiên nhiên. Văn hóa là động lực, mục tiêu của sự nghiệp cách mạng”.

Nói như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, “Văn hóa là đổi mới, đổi mới là văn hóa”. Vì vậy trong sự nghiệp đổi mới đầy khó khăn, văn hóa phải đóng vai trò là nguồn động lực quan trọng. Nguồn động lực ấy sẽ trở nên dồi dào nếu nền văn hóa được xây dựng, giữ gìn và phát huy đúng hướng. Muốn thế, phương châm của mọi hoạt động văn hóa phải xuất phát từ cuộc sống, đi sâu phản ánh những cơ tầng đa diện, sâu sắc của cuộc sống và hướng đến phục vụ cuộc sống.

THI AN
baobinhdinh.com.vn

Thư khen đồng bào, bộ đội và cán bộ Nghệ An bắn rơi 100 máy bay Mỹ (12-8-1965)

Thân ái gửi đồng bào, bộ đội và cán bộ Nghệ An,

Bác rất vui lòng quân và dân tỉnh ta đã bắn rơi 100 máy bay Mỹ.

Thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác gửi lời khen ngợi đồng bào, bộ đội và cán bộ tỉnh ta đã chiến đấu dũng cảm, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Bộ đội, cán bộ và đồng bào Nghệ An đã phát huy thắng lợi, nêu cao truyền thống anh hùng của quân và dân ta, đoàn kết chặt chẽ, luôn luôn cảnh giác, thi đua chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi, quyết giành nhiều thành tích to lớn hơn nữa.

Chào thân ái và quyết thắng

Bác Hồ

————————–

Báo Nhân dân,số 4148, ngày 12-8-1965.
cpv.org.vn

Mấy quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa và thực tế hiện nay

Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa và xây dựng con người là một chủ đề rộng lớn.

1. Về vai trò của văn hóaĐã có hàng trăm định nghĩa về văn hóa. Dù không có điều kiện và thời gian để đi sâu tìm hiểu các định nghĩa “hàn lâm” đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã tự tìm ra một định nghĩa về văn hóa rất gần với cách hiểu văn hóa mà hàng chục năm sau, năm 1982, tại Mexico, UNESCO mới nêu lên.

Trong mục Đọc sách ở phần cuối tập Nhật ký trong tù (1942-1943), Hồ Chí Minh đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra những ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó, mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.

Chính văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng như vậy mới có thể đóng góp được vai trò “là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội”.

Vị trí rất cao của văn hóa trong đời sống xã hội, vai trò tối quan trọng của văn hóa trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra một cách rành rẽ ngay từ những ngày đầu của chính quyền nhân dân non trẻ.

Ngay đầu tháng 9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định thành lập Ủy ban Văn hóa lâm thời Bắc Bộ. Ngày 7/9/1945, khi tiếp các đại biểu của ủy ban đó, Hồ Chủ tịch đã nói: “Tôi mong rằng các ngài trong giới văn hóa nhận thấy rõ nhiệm vụ của các ngài trong lúc này là củng cố nền độc lập của Việt Nam, sửa soạn gây dựng cho đất nước một nền văn hóa mới…Bổn phận của các ngài là lãnh đạo tư tưởng của quốc dân, đấu tranh cho nền độc lập và kiến thiết một nền văn hóa mới” (Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử, tập 3, tr.13). Thật quả là một kỳ vọng to lớn mà Người đã trông đợi ở các nhà văn hóa!

Hơn một năm sau, khi tiếng súng kháng chiến đã nổ ở Nam Bộ, ở Hải Phòng, tình hình đất nước hết sức nguy cấp, ngày 24/11/1946, Hồ Chủ tịch vẫn dành thì giờ tới đọc diễn văn khai mạc Hội nghị Văn hóa toàn quốc với lời lẽ đã đi vào lịch sử như một hàng chữ vàng: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”.

Sau này, Hồ Chủ tịch còn nhiều lần nhắc lại vai trò, vị trí của văn hóa trong sự nghiệp chung. Đáng tiếc là nơi này, nơi khác, lúc này, lúc khác một số cán bộ, cấp ủy còn chưa đặt đúng văn hóa vào vị trí của nó, thậm chí còn coi nó như một lĩnh vực “ăn theo” kinh tế, một “cái đuôi” của sự phát triển. Để đáp ứng được những yêu cầu, kỳ vọng của Người đối với văn hóa, chúng ta còn phải nỗ lực tìm ra những chính sách, những giải pháp hiệu quả sao cho vai trò to lớn của văn hóa được khẳng định trong hiện thực.

2. Về một khía cạnh quan trọng trong văn hóa chính trị

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ rõ rằng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước ta bốn lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa gắn bó mật thiết với nhau, cần được coi trọng như nhau.

Ở đây cần đặc biệt lưu ý tới kiến giải của Người về sự tác động qua lại giữa các lĩnh vực đó và văn hóa không đứng ngoài, đứng trên mà phải hiện diện ở mọi lĩnh vực của đời sống.

Từ thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra luận điểm “Văn hóa nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”.

Chúng tôi xin điểm lại một ứng xử của Người thể hiện rõ nét văn hóa đã lồng ghép, đã thấm sâu như thế nào vào hoạt động chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

“Cả cuộc đời vì nước, vì dân…” – câu hát quen thuộc đã nói lên mục tiêu chính trị của Người là vì độc lập, tự do của đất nước, vì hạnh phúc của nhân dân. Và để đạt được mục tiêu ấy phải lấy dân làm gốc, người cán bộ phải thực sự là đầy tớ của nhân dân, không thể là một thứ “quan cách mạng” như Người đã nhiều lần nhắc nhở.

Trên thực tế, không ít cán bộ của chúng ta chỉ mới nói mà chưa làm được như mình nói, còn để dân sợ, dân ghét, dân không tin. Nguyên nhân là từ trong nhận thức, tình cảm đến biểu hiện công việc hàng ngày của họ chưa thực sự kính trọng dân, chưa thực coi dân là gốc.

Một việc tưởng như là nhỏ, như là chuyện hình thức – việc cán bộ tiếp dân thế nào trong thực tiễn hàng ngày, tiếc thay còn gây bao phiền toái, bực bội cho người dân! (Đấy là còn chưa nói đến thái độ không hiếm gặp “bịt tai, làm ngơ” coi như “không nghe, không thấy, không biết” trước bao điều thắc mắc, thỉnh cầu của người dân !…).

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu một tấm gương sáng trong công việc này. Ngay sau ngày đọc bản Tuyên ngôn Độc lập (2/9/1945), Người đã cho thông báo Về việc tiếp chuyện các đoàn thể. Ở cương vị cao nhất đất nước, bận trăm công ngàn việc, giữa thời điểm nước sôi lửa bỏng, vô cùng phức tạp ở trong nước và thế giới khi nhà nước non trẻ mới ra đời được tính bằng giờ, Người đã nghĩ ngay đến việc tiếp dân. Người thông báo rành rẽ:

1. Gửi thư nói trước để tôi sắp thì giờ, rồi trả lời cho bà con, như vậy thì khỏi phải chờ đợi mất công.

2. Mỗi đoàn đại biểu, xin chớ quá 10 vị.

3. Mỗi lần tiếp chuyện, xin chớ quá 1 tiếng đồng hồ”.

(Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử, tập 3, tr.11)

Từ thái độ ân cần, chu đáo, lời nói bình dị, khiêm nhường, việc tiếp dân đối với Người đã là một hành xử văn hóa mang đậm tư tưởng chính trị chủ đạo (“lấy dân làm gốc”), hay cũng có thể nói là một động thái chính trị thấm nhuần sâu sắc tinh thần văn hóa – yêu dân, tôn trọng từng người dân, nghe và thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của mỗi người dân để có thể làm được một việc tối thiểu là trả lời kịp thời những câu hỏi chính đáng của họ.

3. Cốt cách văn hóa trong con người Chủ tịch Hồ Chí Minh

Chúng ta đều biết Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất thân trong một gia đình Nho học uyên thâm của một vùng đất học truyền thống – vùng xứ Nghệ. Những tinh hoa trong tư tưởng, tình cảm của các hiền triết đời xưa – từ Khổng Tử, Lão Tử, Mạnh Tử, Trang Tử… đến Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Ngô Thì Nhậm… đã thấm sâu vào tâm hồn, trí tuệ của chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành qua sự truyền thụ của người cha, cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, của người thầy khả kính Vương Thúc Quý và từ những cuốn sách vỡ lòng như Sơ học vấn tân, Ấu học ngữ ngôn, Minh tâm bảo giám đến những tác phẩm đã trở thành “khuôn vàng thước ngọc” của Nho giáo như Tứ thư, Ngũ kinh.

Sau này, khi bước chân xuống tàu để sang châu Âu, có thể nói Nguyễn Tất Thành đã là một người phụ bếp khác thường – một trí thức Nho giáo với khát vọng tiếp cận với thế giới phương Tây, tìm đường cứu dân, cứu nước.

Nguyễn Tất Thành đã trở thành Nguyễn Ái Quốc rồi là Hồ Chí Minh với bao kiến thức phong phú, sâu sắc thu nhận được từ cuộc dấn thân của Người vào đời sống chính trị – xã hội thế giới, nhưng tựu trung, ở chính cội nguồn của mình, Người vẫn mang đậm cốt cách văn hóa phương Đông, văn hóa dân tộc Việt Nam với sự bổ sung sáng tạo của Người và sự hòa hợp với tinh hoa của văn hóa phương Tây.

Khát vọng cao đẹp, dù không tưởng, của các bậc hiền triết cổ đại phương Đông về một thế giới đại đồng, khi mọi người được sống trong tình thương yêu, trong hạnh phúc, có thể nói đã chiếm một vị trí quan trọng trong suy nghĩ, tình cảm của Người. Từ năm 1921, trên tạp chí Cộng sản, cơ quan của Quốc tế thứ III, Hồ Chí Minh đã viết: “Khổng Tử vĩ đại từng đề xướng chủ nghĩa quốc tế và từng hô hào quyền bình đẳng về của cải. Ngài nói tóm tắt là: Nền hòa bình trên thế giới chỉ nảy nở từ một nền đại đồng thiên hạ… Người ta không sợ thiếu mà chỉ sợ không công bằng…”. Ít năm sau, trong cuốn sách nổi tiếng Đường kách mệnh (1927), Người lại viết: “Làm cho thiên hạ đại đồng, ấy là thế giới cách mạng”.

Cũng giống như trong Nho giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nêu cao vai trò của đạo đức như là yếu tố quan trọng bậc nhất của văn hóa dân tộc, văn hóa từng cá nhân. Người nhắc nhở: “Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo… Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” (Sửa đổi lối làm việc, 1947). Con người có đạo đức trong quan niệm của văn hóa phương Đông mà Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tâm đắc nhấn mạnh nhiều lần là con người “chí công vô tư”, “cần kiệm liêm chính”, con người “giàu sang không thể chuyển lay, uy lực không thể khuất phục” (Lời bế mạc Lễ ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam, 1951). Đó là con người “trung với Tổ quốc, hiếu với nhân dân”, đầy đủ những phẩm chất “trí, dũng, nhân, tín, liêm, trung”.

Chăm lo xây dựng con người có đủ đức tài là mối quan tâm suốt đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Câu nói nổi tiếng của vị tể tướng nước Tề thời Chiến quốc Quản Di Ngô “Thập niên thụ mộc, bách niên thụ nhân” đã được Người diễn giải nôm na: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”.

Có thể thấy tư tưởng văn hóa của các hiền triết phương Đông xưa được ghi nhận và phát triển trong các phát biểu của Người. Điều đặc biệt đáng lưu ý là tinh hoa văn hóa phương Đông không chỉ dừng lại ở lời nói của Người, mà đã toát ra từ cốt cách con người, từ cuộc đời của chính vị lãnh tụ Hồ Chí Minh, một cốt cách khoan hòa, ung dung, tự tại, luôn luôn làm chủ được bản thân mình, làm chủ được mọi hoàn cảnh. Nhờ thoát khỏi – thoát khỏi một cách “tự nhiên nhi nhiên”, không cần một sự “ráng sức” nào! – mọi sự ràng buộc của danh lợi cá nhân, chỉ suốt đời theo đuổi một “ham muốn tột bậc” là làm sao cho “nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”, mà Người đã có được cái phong thái sống ung dung, tự tại đó.

Những kẻ hậu sinh chúng ta đều nhớ lời tâm sự chân thành của Người từ những ngày đầu mới ở cương vị cao nhất đất nước: ngoài “ham muốn tột bậc” nói trên, Người chỉ ao ước cho riêng mình “một căn nhà nhỏ, nơi có non xanh nước biếc, để câu cá trồng rau, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, trẻ em chăn trâu, không dính líu gì tới vòng danh lợi”. Phong thái sống tránh xa “vòng danh lợi” ấy phải chăng Người đã thừa hưởng từ tiếng suối chảy rì rào bên rừng thông, rừng trúc Côn Sơn của Nguyễn Trãi, từ “ngôi nhà nhỏ mây trắng”, “thu ăn măng trúc, đông ăn giá; xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” của Nguyễn Bỉnh Khiêm?…

Ngôi nhà sàn giữa vườn cây, bên ao cá của Người mãi mãi còn là biểu tượng sống động cho cốt cách văn hóa Hồ Chí Minh.

Khi mà không ít quan chức đủ các cấp bị rơi vào tình trạng “phai nhạt lý tưởng”, bị cầm tù bởi “vòng danh lợi”, xa rời dân, vô cảm trước những bức xúc của dân, chỉ lo “vinh thân phì gia”, hễ có dịp là bòn rút, ăn cắp của công… thì bài học về cốt cách văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn giữ nguyên tính thời sự nóng hổi.

 4. Về xây dựng đời sống văn hóa

Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) đã chỉ rõ việc phát động một cách thực chất phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa là một trong những giải pháp quan trọng nhất để thúc đẩy sự nghiệp văn hóa phát triển. Có thể nói chủ trương này đã bắt nguồn từ những suy nghĩ và việc làm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng đời sống văn hóa ngay từ những ngày đầu tiên sau khi Nhà nước dân chủ nhân dân vừa mới ra đời. Thời kỳ đó Người đã dùng khái niệm “Đời sống mới”.

Tháng 1/1946, Người phát động phong trào “Đời sống mới”. Ba tháng sau, Người cho thành lập Ủy ban Trung ương vận động “Đời sống mới”. Khi cuộc kháng chiến chống Pháp vừa bắt đầu được ít lâu, giữa lúc vận mệnh chính quyền cách mạng tưởng chừng như đang ở thế “ngàn cân treo sợi tóc”, với một tinh thần lạc quan, niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi tất yếu của cuộc kháng chiến, Người đã bình tâm viết cuốn sách Đời sống mới (3/1947) để hướng dẫn cụ thể mọi người tích cực tham gia xây dựng “Đời sống mới”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong cuốn sách của mình, đã làm rõ khái niệm “Đời sống mới” trên cơ sở xác định vị trí nền tảng của đạo đức và sự thể hiện của đạo đức đó trong lối sống, nếp sống hàng ngày.

Người viết: “Thực hành đời sống mới là cần, kiệm, liêm, chính; nếu không giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì sẽ trở thành hủ bại, biến thành sâu mọt của dân; nêu cao và thực hành cần, kiệm, liêm, chính là nhen lửa cho đời sống mới”.

Người chỉ rõ việc xây dựng đời sống mới phải bắt đầu từ việc “sửa đổi những việc rất cần thiết, rất phổ thông trong đời sống của mọi người, tức là sửa đổi cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm việc”. Năm cách đó chính là cái mà hôm nay chúng ta thường gọi là lối sống.

Người viết thật giản dị về những gì làm nên đời sống mới: “Đời sống mới không phải những gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ. Thí dụ: ta phải bỏ hết tính lười biếng, tham lam. Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý. Thí dụ: đơm cúng, cưới hỏi quá xa xỉ, ta phải giảm bớt đi”…

Khái niệm thường gặp hiện nay về “làng văn hóa” đã được Người nêu lên với chữ dùng là “làng phong thuần tục mỹ”: “Về phong tục, phải cấm hẳn say sưa, cờ bạc, hút xách, bợm bãi, trộm cắp. Phải tìm cách làm cho không có đánh chửi nhau, kiện cáo nhau, làm cho làng mình thành một làng phong thuần, tục mỹ”. Người dặn dò mọi người dân phải chú ý đến những việc tưởng chừng như rất nhỏ trong đời sống hàng ngày như giữ vệ sinh trong nhà, ngoài ngõ; sao cho đường sá, ao hồ, nước ăn, nước rửa đều thật sạch sẽ; lễ hội, giỗ tết, ma chay, cưới xin, phải thật trang trọng mà giản dị, tiết kiệm…

Để xây dựng được đời sống mới, Người chỉ ra sự cần thiết phải bắt đầu từ mỗi con người, mỗi gia đình. Người viết: “Do nhiều người nhóm lại thành làng. Do nhiều làng nhóm lại thành nước. Nếu người này xấu, người kia cũng xấu thì thành làng xấu, nước hèn. Nếu mọi người đều tốt thì thành làng tốt, nước mạnh. Nếu mọi người đều cố gắng làm đúng đời sống mới thì dân tộc ta nhất định sẽ phú cường”. “Ai cũng làm như thế thì tự nhiên nước Việt Nam ta trở thành một nước mới, một nước văn minh”.

Sự nghiệp xây dựng đời sống mới, đời sống văn hóa có thành công hay không một phần quan trọng là phụ thuộc vào vai trò gương mẫu của các cán bộ. Người viết: “Đời sống mới cũng cần có những người làm gương, những nhà làm gương. Khi trông thấy có hiệu quả tốt tươi thì chắc những nơi khác cũng hăng hái làm theo. Nếu miệng thì tuyên truyền bảo người ta siêng làm, mà tự mình thì ăn trưa, ngủ trễ; bảo người ta tiết kiệm, mà tự mình thì xa xỉ, lung tung, thì tuyên truyền một trăm năm cũng vô ích!”.

Đối chiếu với những mặt sa sút, yếu kém hiện nay trong đời sống văn hóa ở nước ta (mê tín dị đoan, cúng bái tùm lum, cán bộ thiếu gương mẫu, ma chay cưới hỏi linh đình, cờ bạc, số đề, nghiện hút, trộm cắp của công và của riêng, văng tục, chửi bậy, va chạm một chút là gây gổ đánh nhau…), chúng ta càng thấy việc đọc lại, suy ngẫm về những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng đời sống mới là một việc làm cần thiết, cấp bách.

5. Về vấn đề xây dựng con người

Có thể nói xây dựng con người đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp phát triển đất nước là mối quan tâm hàng đầu trong suốt cuộc đời hoạt động lâu dài của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Từ bài giảng đầu tiên cho lớp huấn luyện những người được kết nạp vào Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội (1925), Người đã nhấn mạnh đến nhiệm vụ thường xuyên trau dồi “Tư cách một người cách mệnh”. Trên báo Thanh Niên tháng 9/1926, một lần nữa Người lại đề ra những yêu cầu cụ thể của “một người cách mệnh mẫu mực”. Đó chính là những con người tiên tiến, đi đầu dẫn dắt quần chúng nhân dân cùng phấn đấu thực hiện mục tiêu cao cả giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội.

Sau ngày cách mạng thành công, Người đã phát triển, mở rộng vấn đề nêu trên thành vấn đề xây dựng con người mới như một phạm trù của lĩnh vực văn hóa.

Tháng 2/1951, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, trong Báo cáo chính trị, Người đã lần đầu tiên chỉ ra sự cần thiết phải “xúc tiến công tác văn hóa để đào tạo con người mới và cán bộ mới cho công cuộc kháng chiến kiến quốc”.

Để xây dựng được con người mới, một nguyên tắc hết sức quan trọng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh đó là vừa phải tu dưỡng đạo đức thường xuyên, vừa phải kiên quyết chống những biểu hiện thoái hóa đạo đức.

Phải nói rằng Người không chỉ quan tâm đề cao những gương sáng đạo đức, những “người tốt, việc tốt” mà còn vạch ra một cách sắc sảo từ rất sớm những căn bệnh tệ hại của sự suy thoái đạo đức, trước tiên là trong hàng ngũ cán bộ. Chỉ hai tháng sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, trong Thư gửi Ủy ban Nhân dân các cấp, Người đã nhìn thấy rõ các khuyết điểm nghiêm trọng của các cán bộ đảng viên: trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo.

Những điều xấu xa đó, hơn một năm sau, trong Thư gửi các đồng chí Bắc Bộ (3/1947) lại được Người nhận dạng kỹ càng hơn: Người nêu đúng bản chất của các thói xấu đó là “địa phương chủ nghĩa, bè phái, quân phiệt, quan liêu, hách dịch, hoạnh họe với dân, coi thường cấp trên, lấn át cấp dưới, hẹp hòi, ham chuộng hình thức, làm việc lối bàn giấy, vô kỷ luật, ích kỷ, hủ hóa, tranh giành địa vị, chỉ chăm lo ăn ngon mặc đẹp, chiếm của công làm của tư, lợi dụng địa vị để buôn bán phát tài v.v…”.

Những bệnh trầm kha trên còn có dịp được Người nhắc lại trong cuốn Sửa đổi lối làm việc (10/1947), trong rất nhiều phát biểu sau này của Người, khi Người gọi đó là “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng”, nguy hiểm không kém gì “Việt gian, mật thám”!… Thật là chí lý!

Một trong những bài viết cuối cùng của Người là bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân (công bố vào dịp kỷ niệm 39 năm thành lập Đảng, 3/2/1969). Người chân thành dặn dò: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không còn trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân. Cho nên trong khi ta kiên trì và đẩy mạnh cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước, làm cho văn minh chiến thắng tàn bạo thì đồng thời phải loại trừ những cái xấu xa do chế độ cũ để lại trong xã hội và trong mỗi con người”.

Trong thực tiễn cuộc sống hôm nay, bên cạnh bao điều tốt đẹp, vẫn còn tồn tại nhức nhối những “điều xấu xa” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã “chỉ mặt đặt tên” từ hàng chục năm về trước. Những điều xấu xa ấy không còn chỉ là của “xã hội cũ để lại” mà nó nảy sinh, đâm thêm nhành ngọn chính là từ trong những kẽ hở, những lỗ hổng, những yếu kém của cơ chế quản lý và vận hành xã hội hôm nay.

Từ những bất cập về cơ chế sở hữu, chính sách tài chính, những biểu hiện mất dân chủ, thiếu công khai , minh bạch trong việc thực hiện các quyền cơ bản của người dân… đến tình trạng thủ tục hành chính nhiêu khê, sự thiếu hụt các chế định luật pháp và thực thi luật pháp không nghiêm… tất cả những khiếm khuyết có tính hệ thống đó là môi trường hoàn toàn không thuận lợi cho việc xây dựng con người mới, nếu không nói là mảnh đất màu mỡ cho đủ các thói hư tật xấu phát triển, làm sa ngã không ít cán bộ vốn trước đây là tốt…

Một câu hỏi nhức nhối đặt ra là: Vì sao những lời hay, ý đẹp, mong muốn cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng con người sau mấy chục năm, sau bao cuộc vận động sống và làm theo gương Bác vẫn chưa thành hiện thực, nếu không nói là có lúc, có nơi cái xấu xa còn trầm trọng hơn thêm, ngang nhiên thách thức sự kiên nhẫn của đông đảo những người dân lương thiện đang ngày ngày nhọc nhằn mưu sinh trên ruộng đồng, trong nhà máy?…

Hiệu quả từ cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh” chỉ có thể đạt tới một cách rõ ràng và thực chất nếu chúng ta, song song với việc tuyên truyền, cổ vũ, phải cương quyết đẩy nhanh những thay đổi mạnh mẽ, rộng lớn và sâu sắc để có thể hoàn thiện trên thực tế theo hướng dân chủ hóa, minh bạch hóa cơ chế quản lý xã hội, quản lý kinh tế, văn hóa, coi đó như một điều kiện tiên quyết để xuất hiện ngày càng nhiều hơn những con người tử tế, trung thực, giỏi giang đáp ứng được yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước trong nỗ lực đồng hành cùng nhân loại.

Theo Honviet.

Created by lethithutrang
archives.gov.vn

Di sản Hồ Chí Minh về Đạo đức, Văn hóa

(GD&TĐ) – “Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người Anh hùng dân tộc vĩ đại và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta”. Chân lý đó đã làm rung động con tim mỗi người dân Việt Nam khi nhắc đến tên Người, Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta!

bìa sách

Bìa sách

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm tới tất cả các lĩnh vực của đời sống từ kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học, giáo dục, tôn giáo, tín ngưỡng…, song lĩnh vực mà Người đề cập nhiều nhất chính là tư tưởng, đạo đức, lối sống. Hiếm có một lãnh tụ nào mà cả cuộc đời lại là tấm gương sáng về tư tưởng, đạo đức và lối sống như Bác của chúng ta. Đó chính là một di sản tinh thần vô giá của dân tộc trong hành trình đấu tranh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ở Hồ Chí Minh, văn hóa và đạo đức có sự gắn quyện, hài hòa, đã đạt tới sự thống nhất cao độ giữa công và tư, giữa đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường. Chính vì thế, Người đã trở thành “tinh hoa và khí phách, lương tâm và vinh dự”, thành biểu tượng của đạo đức, văn minh, không chỉ của Đảng ta, dân tộc ta, mà còn là biểu tượng của đạo đức, văn minh nhân loại. Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một tấm gương đạo đức của một vĩ nhân, một lãnh tụ cách mạng vĩ đại, một người cộng sản chân chính và cũng là tấm gương đạo đức bình dị cho mọi người, để ai cũng có thể học tập và làm theo.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hiến dâng cả cuộc đời và sự nghiệp để cứu nước, cứu dân, cho ước vọng cao cả là đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, mọi người sống chan hòa, nhân ái và hạnh phúc. Nặng lòng vì dân, tin ở dân, lo hạnh phúc cho muôn dân, đó là tư tưởng nhân văn cao cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đó, giai cấp, dân tộc và nhân loại, cá nhân và xã hội, xã hội và tự nhiên luôn thống nhất trên lập trường của Chủ nghĩa Mác – Lênin. Đến khi trái tim lớn ngừng đập, tư tưởng cao đẹp đó vẫn tỏa sáng cho muôn thế hệ mai sau.

Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đã được toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta tham gia và hưởng ứng rộng rãi. Việc cùng nhau học lại những giá trị tư tưởng và đạo đức của Người có ý nghĩa vô cùng to lớn, sâu sắc trong việc tự hoàn thiện của mỗi chúng ta.

Hà Châu (St)
gdtd.vn

HỒ CHÍ MINH – Danh nhân văn hóa kiệt xuất

(GD&TĐ) – Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất. Sự tôn vinh này của UNESCO khẳng định những đóng góp to lớn của Hồ Chí Minh cho dân tộc Việt Nam cũng như cho nhân loại. Tìm hiểu về Hồ Chí Minh với tư cách là danh nhân văn hóa kiệt xuất, có thể thấy rất rõvăn hóa Hồ Chí Minh là sự kết tinh tinh hoa văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, đồng thời Người cũng là nhà sáng tạo văn hóa lớn.

Chủ tịch Hồ Chí Minh

Văn hóa Hồ Chí Minh được hình thành trong cái nôi văn hóa dân tộc và nhất là trong quá trình Người tìm đường cứu nước và lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Quá trình này nằm trong bối cảnh văn hóa Việt Nam có sự giao lưu và tiếp biến văn hóa mạnh mẽ với văn hóa nhân loại. Có thể nói văn hóa Hồ Chí Minh đã được hình thành từ quá trình Hồ Chí Minh, với tư cách là chủ thể văn hóa, tiếp nhận tinh hoa văn hóa dân tộc Việt Nam và tinh hoa văn hóa nhân loại.

Văn hóa Hồ Chí Minh đã kết tinh được những gì tinh túy nhất của văn hóa Việt Nam, trong đó nổi bật nhất là chủ nghĩa yêu nước và lòng nhân ái. Hồ Chí Minh đã viết những dòng đầy tâm huyết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn. Nó lướt qua mọi nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Yêu nước gắn liền với thương dân là đạo lý truyền thống của dân tộc. Đạo lý này đã được Hồ Chí Minh kế thừa và phát huy. Trước cảnh nước mất, người dân lầm than nô lệ, Hồ Chí Minh đã quyết tâm đi theo con đường cứu nước và trở thành nhà ái quốc vĩ đại với “một sự ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Ra đi tìm đường cứu nước, Người đã lấy tên là Nguyễn Ái Quốc. Khi nước nhà giành được độc lập, đứng trên Lễ đài đọc Tuyên ngôn Độc lập, Người đã ân cần, thân thiết hỏi quốc dân đồng bào: “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?”. Yêu nước, thương dân đã thành điều tâm niệm thiêng liêng nằm sâu trong tâm thức và tâm cảm của nhà cách mạng – nhà văn hóa lớn Hồ Chí Minh.

Hồ Chí Minh luôn coi trọng tìm tòi, chắt lọc những tinh hoa, những yếu tố tích cực của văn hóa Phương Đông, nhất là của Nho giáo, Phật giáo. Trong các tác phẩm của mình, Người nhiều lần vận dụng các khái niệm, phạm trù, luận điểm của Nho giáo nhưng gắn vào đấy những nội dung cách mạng của thời đại. Chẳng hạn Người vận dụng các khái niệm “trung”, “hiếu” của Nho giáo và phát triển thành “trung với nước, hiếu với dân”. Hồ Chí Minh tiếp thu tư tưởng đại từ, đại bi, cứu khổ cứu nạn của Phật giáo và hướng cho mọi người “làm theo lòng đại từ đại bi của Đức Phật Thích Ca, kháng chiến để đưa giống nòi ra khỏi cái khổ ải của nô lệ”. Hồ Chí Minh đã được tiếp xúc với văn hóa phương Tây ngay từ thuở thiếu thời khi theo học lớp dự bị trường tiểu học Pháp. Những tư tưởng của văn hóa phương Tây như tự do, bình đẳng, bác ái đã sớm có ảnh hưởng lớn đến việc hình thành văn hóa Hồ Chí Minh. Sau này, khi bôn ba qua Pháp và nhiều nước khác, Hồ Chí Minh còn được tiếp cận với các giá trị văn hóa nổi bật khác của phương Tây như chủ nghĩa nhân văn, tinh thần duy lý và văn hóa dân chủ. Những giá trị văn hóa như vậy đã được hợp dung trong văn hóa Hồ Chí Minh và được Người vận dụng sáng tạo vào việc lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc cũng như công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa sau này.

Trong quá trình hình thành văn hóa Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác – Lênin có một vị trí đặc biệt quan trọng. Chủ nghĩa Mác – Lênin như ngọn hải đăng soi đường chỉ lối cho cách mạng Việt Nam. Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin cũng có nghĩa là Hồ Chí Minh đã tìm được con đường cứu nước đúng đắn nhất. Người đã khẳng định dứt khoát chủ nghĩa Mác – Lênin là “Chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất”. Chủ nghĩa Mác – Lênin đã được Hồ Chí Minh tiếp thu và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Những giá trị của nó đã trở thành một nền tảng cơ bản của văn hóa Hồ Chí Minh.

Như vậy, có thể thấy văn hóa Hồ Chí Minh là sự kết tinh tinh hoa văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, từ đó hình thành một văn hóa tiên tiến, cách mạng, có tính nhân văn sâu sắc. Có được điều này bởi Hồ Chí Minh đã không ngừng học hỏi. Những điểm đặc sắc của văn hóa nhân loại đã ghi dấu ấn sâu đậm trong tư tưởng Hồ Chí Minh, hòa quyện nhuần nhị trong văn hóa Hồ Chí Minh để từ đó tỏa sáng thông qua lăng kính tư duy sắc sảo và minh triết của Người. Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng:

“Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân.

– Tôn giáo của Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả.

– Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng.

– Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta”.

Và Người nhấn mạnh:” Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội… Tôi cố gắng làm học trò nhỏ của các vị ấy”. Cũng cần nói thêm rằng tinh thần học tập suốt đời cũng là một nét đặc sắc trong văn hóa Hồ Chí Minh. Không chỉ ở giai đoạn đầu mà ở cả những giai đoạn sau cho đến cuối đời, Hồ Chí Minh đều không ngừng học tập để làm giàu vốn văn hóa của mình. Người đã nêu tấm gương sáng về học tập.

Khi tìm hiểu Hồ Chí Minh – nhà văn hóa kiệt xuất, cùng với việc khẳng định văn hóa Hồ Chí Minh là sự kết tinh những tinh túy của văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại, cũng cần thấy rõ Hồ Chí Minh là mộtnhà sáng tạo văn hóa lớn.

Có thể thấy Hồ Chí Minh là một nhà văn hóa đa tài. Người là nhà thơ, nhà báo, nghệ sĩ nhiếp ảnh, nhà điêu khắc vv… Nhưng sự nghiệp văn hóa lớn nhất, quan trọng nhất của Hồ Chí Minh là đã tìm được con đường cứu nước đúng đắn và lãnh đạo thành công sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho đất nước, hạnh phúc cho nhân dân. Sự nghiệp giải phóng dân tộc do Hồ Chí Minh lãnh đạo đã đem lại địa vị xứng đáng cho văn hóa dân tộc Việt Nam. Không chỉ vậy, sự nghiệp này còn có ý nghĩa to lớn đối với nền văn hóa thế giới, chỉ ra cho nhân dân các nước thuộc địa con đường đứng lên đập tan xích xiềng nô lệ, giành độc lập tự do cho đất nước của mình, từ đó góp phần vào việc xóa bỏ chế độ thuộc địa trên thế giới. Có thể nói Hồ Chí Minh với tư cách là nhà văn hóa kiệt xuất đã góp phần không chỉ tạo ra một chế độ mới, một thời đại mới mà còn tạo ra một nền văn hóa mới trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng góp phần to lớn vào sự phát triển của nhân loại nói chung và sự phát triển văn hóa nhân loại nói riêng. Không phải là ngẫu nhiên mà bằng sự linh cảm và khả năng trực giác, ngay từ năm 1923, khi tiếp xúc với Người, nhà thơ Xô – Viết Ôxip Mandextam đã tiên đoán: “Từ Nguyễn Ái Quốc tỏa ra một nền văn hóa, không phải văn hóa châu Âu, mà có lẽ là một nền văn hóa của tương lai… Qua cử chỉ cao thượng, tiếng nói trầm lắng của Nguyễn Ái Quốc, tôi như thấy được ngày mai, như thấy được viễn cảnh trời yên bể lặng của tình hữu ái toàn thế giới bao la như đại dương”.

N. D. B
gdtd.vn

Tinh thần “Học tập để phụng sự Tổ quốc và Nhân dân” trong tư tưởng và nhân cách văn hóa Hồ Chí Minh

1. Dân tộc Việt Nam được ngợi ca là một dân tộc hiếu học. Tinh thần hiếu học (ham học hỏi và hiểu biết) thể hiện xuyên suốt trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, ta thấy Người đã trực tiếp hoặc gián tiếp nhiều lần bàn đến giáo dục, học tập…

Trong những hoàn cảnh khác nhau, Hồ Chí Minh có những đề cập thiết thực, cụ thể về sự học. Song bao trùm lên tất cả vẫn là tinh thần mới mẻ, nhân văn: học để phụng sự Tổ quốc và nhân dân. Tinh thần đó được thể hiện trên mấy nét sau.

Một là, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi trọng việc học tập giáo dục, xem đó là phương cách để kiến thiết Tổ quốc, mang lại đời sống tốt đẹp cho nhân dân.

Trong thư gửi các học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên vai trò quan trọng của sự học và thế hệ trẻ đối với tiền đồ đất nước: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em(1). Trong hoàn cảnh nước nhà đang thực hiện phong trào xóa nạn mù chữ (chống giặc dốt), Người đã viết bài Chống nạn thất học, trong đó đề cao vai trò của sự hiểu biết ở mọi người đối với việc xây dựng đất nước: “Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ” (2). Sự học, trình độ học vấn liên quan đến vận mệnh dân tộc, thể hiện sự mạnh, yếu của một dân tộc: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” (3). Nói chuyện tại lớp học chính trị của các giáo viên cấp II, cấp III toàn miền Bắc, Người đã nhấn mạnh lợi ích của việc đào tạo con người trên tinh thần một câu nói của người xưa “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Trồng cây là một việc làm rất cụ thể, dễ dàng, còn trồng người là một sự nghiệp vinh quang và rất đỗi gian nan, có liên quan đến sự tồn vong và tương lai dân tộc.

Thấy được vai trò của giáo dục, đào tạo, của nhân tố con người, ngay trong buổi đầu mới giành được độc lập, một trong sáu vấn đề cấp bách cần làm ngay, thì vấn đề quan trọng thứ hai, Người đã đề cập là diệt giặc dốt. Người cho rằng, giặc dốt và giặc ngoại xâm đi liền với nhau, dựa vào nhau để nô dịch dân ta. Coi trọng sự học, giáo dục và đào tạo, trọn đời mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn trăn trở vì sự nghiệp đào tạo thanh niên, đào tạo, bồi dưỡng con người. Trong Di chúc cuối đời, Người tha thiết dặn dò:“Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”.

Hai là, mục đích của sự học theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

Từ việc coi trọng tầm quan trọng của sự học đối với tiền đồ quốc gia, dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi đến coi mục đích của sự học là để phụng sự Tổ quốc và nhân dân. Trong lịch sử, mỗi một chế độ xã hội khác nhau tùy thuộc vào trình độ phát triển và nhận thức, con người đề cao sự học không giống nhau. Dân tộc Việt Nam trong thời đại phong kiến đã từng bị ảnh hưởng bởi quan niệm “học nhi ưu tắc sĩ” (học để làm quan), cái học đó đã đào tạo ra một tầng lớp quan lại bằng con đường khoa bảng; xã hội nông nghiệp đề cao cái học để “vinh thân phì gia”, một người làm quan cả họ được nhờ. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức được lợi ích của việc học lớn hơn nhiều. Học để “phụng sự” tức là làm việc, là lãnh nhận sứ mệnh trước quốc dân, đồng bào, là cống hiến, đặt cái lợi nhân quần của Tổ quốc, nhân dân lên hết thảy. Đó là ý nghĩa đích thực của sự học theo quan điểm khoa học và cách mạng, tiến bộ và nhân văn. Ở cương vị Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước, đi nhiều, hễ có dịp là Chủ tịch Hồ Chí Minh lại nói với nhân dân về lợi ích của sự học mới, về ý nghĩa của sự học cao cả ấy.

Trong lời ghi ở trang đầu Quyển sổ vàng của trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương, Người viết: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”…(4). Phát biểu trong Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất về công tác huấn luyện và học tập, năm 1950, Hồ Chí Minh đặt câu hỏi: học để làm gì? và Người đã nói nhiều về mục đích của sự học, song đúc kết lại vẫn là để làm việc, để phụng sự Tổ quốc và nhân dân. Nói chuyện tại Đại hội giáo dục phổ thông toàn quốc (1956), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Dạy và học phải theo nhu cầu của dân tộc, của Nhà nước. Thầy dạy tốt, trò học tốt, cung cấp đủ cán bộ cho nông nghiệp, công nghiệp, cho các ngành kinh tế và văn hóa. Đó là nhiệm vụ vẻ vang của các thầy giáo, cô giáo(5). Trong thư gửi các học sinh Trường Sư phạm miền núi Trung ương nhân dịp khai giảng (1955), Người viết: “Nhiệm vụ của các cháu là thi đua học tập để sau này góp phần vào việc mở mang quê hương của mình và việc xây dựng nước Việt Nam yêu quý của chúng ta(6). Trong thư gửi các cháu lưu học sinh Việt Nam học ở Mát-xcơ-va, Người căn dặn: “Các cháu học kỹ thuật và học tiếng Nga cần nhận rõ mình học cốt để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Học ngành nào cũng cần phải căn cứ vào nhu cầu của Tổ quốc, của nhân dân mà định, không thể tùy theo sở thích của riêng mình” (7). Trong một lần khác, nói chuyện tại Lớp đào tạo hướng dẫn viên các trại hè cấp I, ngày 12/6/1956, Người nói: “Mục đích của giáo dục bây giờ là phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc…” (7). Có thể thấy, xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh không có cái học nào hơn sự học để làm người, giúp đời, phụng sự Tổ quốc và nhân dân. Đó cũng chính là cái học của người cách mạng, của đạo đức xã hội chủ nghĩa, của những con người thấm đẫm trong mình lý tưởng cộng sản.

Vậy là, tiếp thu tinh thần hiếu học của cha, ông, song đến lượt mình, ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, cái học của dân tộc Việt Nam, của người Việt Nam đã mang nội dung ý nghĩa mới, học không phải vì cái cá nhân chật hẹp “vinh thân phì gia”, mũ cao áo dài, cân đai võng lọng, mà học có một mục đích, ý nghĩa cao đẹp, tràn đầy lý tưởng nhân văn cao cả, để làm người, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm lợi cho dân, cho nước. Chính thấm nhuần lý tưởng học đó mà hàng vạn thanh niên trí thức dưới chế độ mới, kể cả những trí thức được đào tạo ở Pháp (chế độ thực dân cũ) đã ra sức phấn đấu học hỏi, nắm bắt khoa học, kỹ thuật phục vụ sự nghiệp kháng chiến và xây dựng xã hội chủ nghĩa. Nhiều người đã từ bỏ trời Tây hoa lệ, trở về sống đồng cam cộng khổ, cùng nhân dân phục vụ kháng chiến, kiến quốc, tiêu biểu như: bác sĩ Đặng Văn Ngữ, kỹ sư Phạm Quang Lễ (anh hùng Trần Đại Nghĩa) và nhiều trí thức dưới chế độ cũ đã sẵn sàng ra gánh vác việc nước, như: Tiến sĩ Nho học Huỳnh Thúc Kháng, nhân sĩ Vũ Đình Hòe…

Ba là, bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng ngời về tự học, học để đạt được tri thức đúng đắn phụng sự công cuộc đấu tranh cách mạng, vì sự vẻ vang của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước từ buổi nhân dân, đất nước còn đắm chìm trong đêm đen nô lệ, Người không có điều kiện để được học hành trong các trường lớp chính thống. Người sớm dấn thân vào lao động và tranh đấu, nhưng bản thân đã có ý thức học tập từ rất sớm. Người đã từng kể lại: “…Vào trạc 13 tuổi, lần đầu tiên tôi đã được nghe những từ Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái. Thế là tôi muốn làm quen với văn minh Pháp, tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy”. Đó cũng là nguyên nhân Người đi về phía trời Tây để học hỏi, tìm con đường khả dĩ cứu nước, cứu dân.

Trong hoàn cảnh lao động kham khổ, thiếu thốn, có những lúc bị tù đày, Người luôn có ý thực tự học, tự bồi dưỡng, từ ngoại ngữ, đến các tri thức văn hóa, khoa học. Đi đến đâu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều học và sử dụng được ngoại ngữ, thông hiểu văn hóa để hòa nhập và hoạt động. Không được đào tạo một cách bài bản, chính thống qua trường lớp, cấp học, nhưng những tri thức Người có được hết sức sâu sắc và toàn diện. Người còn căn dặn cán bộ phải học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học ở nhân dân. Chính nhờ học qua sách báo, qua bè bạn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp cận với chủ nghĩa Mác – Lênin. Đó là vào năm 1920, ở Pari, Nguyễn Ái Quốc, được một người bạn cho xem Luận cương Lê-nin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đăng trên báo Nhân đạo, đã giác ngộ: “Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Từ đó, Người tin theo Lê-nin, tin theo Quốc tế thứ Ba, vì đã chỉ ra cho Người con đường tranh đấu cho độc lập tự do của dân tộc mình.

Tinh hoa sự học của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thẩm thấu và tỏa ra ở cốt cách văn hóa thanh cao, lịch thiệp, trong trí thông minh xuất chúng, ở lối ứng xử tinh tế, hấp dẫn. Tất cả nhờ Người luôn ý thức tự học và hành. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tâm đắc câu nói của Lê-nin: Học, học nữa, học mãi và chính Người cho rằng, học để tiến bộ mãi!

Nhờ học thấu đáo, năng lực tự học xuất chúng, Chủ tịch Hồ Chí Minh hội tụ được những tinh túy văn hóa Đông, Tây, đem hết tài học, lực học, kiến thức phục vụ sự nghiệp cách mạng của dân tộc, của nhân dân. Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục của Liên Hợpquốc đã tôn vinh Người là: Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn kiệt xuất của Việt Nam. Người là biểu tượng đỉnh cao của đạo đức và trí tuệ Việt Nam ngời sáng.

2. Tinh thần học để phụng sự Tổ quốc và nhân dân của Hồ Chí Minh trong trong giai đoạn cách mạng mới

Việt Nam có khoảng 86 triệu người, có hàng triệu trí thức và hàng vạn học sinh, sinh viên. Đó là một lực lượng đông đảo đang đi tiên phong trong học tập và nghiên cứu khoa học và công nghệ, là một nguồn sức mạnh cho đất nước phát triển, vươn xa. Tuy nhiên, trong thực tế, theo nhiều nhà nghiên cứu khoa học xã hội, nhân văn, sự học hôm nay dưới ảnh hưởng mặt trái của kinh tế thị trường, đang bộc lộ nhiều vấn đề đáng quan ngại như việc học thực dụng, học chỉ để du học, để tìm việc tốt, kiếm tiền nhiều, vị trí nhiều lợi ích…; sự học coi nhẹ về đạo đức, nhân văn (biểu hiện ở kết quả học và thi các môn: văn học, lịch sử, địa lý…); về lý luận, phương pháp luận… Không ít người có tư tưởng lệch lạc về sự học: Nạn chạy bằng, mua điểm, những biểu hiện coi nhẹ đạo đức học đường, thiếu tôn sư, trọng đạo… đang gây nên những bức xúc trong nhân dân. Những biểu hiện đó ít nhiều làm băng hoại giá trị của sự học, đang bị cộng đồng xã hội lên án và dư luận đòi hỏi phải có những chấn chỉnh về mục đích, chương trình, phương pháp dạy và học.

Nghiên cứu và ngẫm lại tư tưởng Hồ Chí Minh về sự học, về mục đích học tập trong bối cảnh hôm nay, nhiều quan điểm, luận điểm của Người vẫn giữ nguyên ý nghĩa thời sự và khoa học mới mẻ, có thể giúp ích cho chúng ta xây dựng một xã hội học tập lành mạnh và tiến bộ. Trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước ta, việc học là một phương thức quan trọng để hội nhập, bởi chỉ có giáo dục, đào tạo có chất lượng mới tạo ra con người, đội ngũ có năng lực phục vụ sự hội nhập ấy. Nhiều chuyên gia giáo dục của thế giới khuyến cáo Việt Nam phải đầu tư và cải cách mạnh mẽ hơn nữa trong giáo dục, chỉ có thắng trong giáo dục mới có thể thắng trong kinh tế. Tinh thần học để phụng sự Tổ quốc và nhân dân chính là học để xây dựng đất nước, chiến thắng đói nghèo, lạc hậu, vươn lên văn minh hiện đại. Tinh thần đó cần được phát huy, khơi gợi trong cán bộ, học sinh và nhân dân sao cho biến xã hội ta thành một xã hội thực sự học tập, một cộng đồng luôn ham học hỏi và hiểu biết, có trí tuệ, tài năng và nhân cách.

Tinh thần học để phụng sự Tổ quốc và nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh có nhiều điểm trùng khớp với tinh thần của Unesco (Tổ chức Văn hóa, Khoa học, Giáo dục của Liên Hợp quốc), khi Liên Hợpquốc đề ra mục tiêu của học tập là học để hiểu biết, để chung sống, để làm việc và làm người. Tinh thần đó của Người đã bắt nhịp với thời đại và có dịp tỏa sáng cùng thời đại. Tư tưởng cao đẹp của Chủ tịch Hồ Chí Minh về học tập để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân như vậy dẫn đến hệ quả tất yếu là, phải học thường xuyên, học suốt đời. Điều đó hoàn toàn thích ứng với một xã hội năng động và phát triển nhanh trong thế giới hôm nay. Tư tưởng Hồ Chí Minh về học tập để phụng sự Tổ quốc và nhân dân hoàn toàn có khả năng khuyến khích sự học tiến bộ, đáp ứng yêu cầu của nền “kinh tế tri thức” đang phát triển, đòi hỏi thực học, trí tuệ, mà Việt Nam là một đất nước đang chuyển đổi và bước đầu tiếp cận với nền kinh tế ấy. Học để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân theo tinh thần Hồ Chí Minh chỉ có thể phát huy trên cơ sở một thái độ học tập tích cực và sáng tạo, có phương pháp, tự nỗ lực không ngừng. Cái học đó khác xa với cái học nệ cổ của phong kiến, cái học siêu hình, không thực tế của lối học kinh viện; cái học đó cũng khác xa với cái học cá nhân, tự kiêu, tự mãn, tự phụ; cái học đó đối lập với cái học cá nhân chủ nghĩa không biết đến nhân quần xã hội.

Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, chúng ta có thể học tập vô số điều, nhưng trong bối cảnh, vận hội mới của đất nước, cần phải học và thực hành tinh thần học để phụng sự Tổ quốc và nhân dân. Chỉ với một thái độ học tập tích cực, đúng đắn và nhân văn như vậy, mỗi người Việt Nam mới có thể góp sức học và sức làm việc của mình để dân tộc có thể sánh vai các quốc gia, dân tộc khác, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

 (1) Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2000, t.4, tr.33.

(2)(3) Sđd, t.4, tr.36; tr.8.

(4) Sđd, t.5, tr.684.

(5)(7)(8) Sđd, t.8, tr.138; tr.25-26; tr.183.

(6) Sđd, t.7, tr.496.

Theo danchinhdang.hue.gov.vn
Thúy Hằng (st)

bqllang.gov.vn

Văn hóa “Vì nhân dân phục vụ”

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa có ý nghĩa vô cùng to lớn và giữ vị trí đặc biệt quan trọng, “văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Theo Người, xã hội thế nào thì văn hóa thế ấy, văn hóa là động lực của sự phát triển xã hội, phát triển kinh tế.

Trong rất nhiều bài nói và bài viết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến việc phải giữ gìn và phát huy những truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc. Đó là những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng dân tộc Việt Nam được hun đúc nên qua hàng ngàn năm lịch sử. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, lòng nhân ái khoan dung, trọng đạo lý, đức tính cần cù sáng tạo trong lao động, dũng cảm trong chiến đấu… Bên cạnh việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc phải biết tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, biết gạn đục khơi trong, nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân, biết chọn lọc, sáng tạo cho phù hợp với hoàn cảnh và đặc tính của dân tộc mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là tấm gương cho mọi thế hệ Việt Nam, trong đó có tuổi trẻ noi theo.

Với nhận thức là văn hóa có nhiệm vụ phụng sự Tổ quốc và nhân dân, xuất phát từ quan điểm “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, “nước ta là một nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân” chúng ta phải xây dựng nền văn hóa thấm nhuần sâu sắc quan điểm “Vì nhân dân phục vụ” và phát huy sứ mạng của toàn dân làm văn hóa. Làm cho văn hóa thấm sâu vào đời sống và hoạt động xã hội, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người là yêu cầu rất cấp bách cho cả trước mắt và lâu dài. Để làm được điều đó, mọi tầng lớp nhân dân, mọi tổ chức chính trị, xã hội, các đoàn thể, tôn giáo, nhà trường và gia đình… phải tham gia tích cực, thường xuyên, liên tục, bền bỉ nhằm xây dựng nền văn hóa mới trong xã hội ta.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa đã và đang là định hướng lớn cho việc xây dựng và phát triển nền văn hóa nước ta. Nó mãi là ánh sáng soi đường cho công cuộc xây dựng và phát triển nền văn hóa nước ta với mục tiêu “tất cả vì nhân dân phục vụ”. Đây không chỉ là phương châm hành động mà còn là phẩm chất đạo đức của mỗi cán bộ, đảng viên.

Văn hóa được xây dựng và bồi đắp nên trong suốt chiều dài lịch sử, nó làm nên nền tảng tinh thần của một xã hội, giữ vai trò quan trọng vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội. Với tinh thần học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, chúng ta quyết tâm học tập và noi theo tư tưởng văn hóa của Người để làm tốt công việc của người cán bộ, đảng viên theo đúng phương châm “tất cả vì nhân dân phục vụ”.

  • Thảo Trần

baobinhdinh.com.vn

Chiều sâu tư tưởng và văn hóa qua các ẩn dụ trong ngôn ngữ của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Tìm hiểu ẩn dụ trong ngôn ngữ của Bác, chúng ta có thể học được cách mà Bác dùng biện pháp ngôn từ này để làm rõ cấu trúc của các quan niệm trừu tượng, bằng lời lẽ dễ hiểu và cụ thể hơn. Ẩn dụ trong ngôn ngữ của Bác còn bao hàm cả một tầm sâu rộng về tư tưởng và văn hóa.

CHỈ LÀ NÉT VIỀN QUANH

Từ ngày 31/5 đến ngày 18/9/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách là thượng khách của nước Pháp đến Paris để cứu vãn hòa bình, tránh một cuộc chiến tranh tàn khốc cho cả hai dân tộc. Trong phần ba của cuốn Cuộc gặp gỡ định mệnh, những gì Vũ Đình Huỳnh – thư ký của Bác kể, nhà văn Sơn Tùng ghi chép, được trích lại dưới đây. Đó là một câu chuyện với lời lẽ thân mật, tự nhiên, cho phép người đọc cảm nhận về một không khí chân tình, đầm ấm giữa những người bạn thâm giao, lâu ngày gặp lại nhau:

“Tôi thay bộ đồ sĩ quan, mặc com-lê. Lúc lên xe đi được một quãng sang địa giới quận 8 gần Khải Hoàn Môn, Bác mới nói:

– Hôm nay chúng mình đến thăm nhà danh họa Picasso.

Tôi ngạc nhiên:

– Bác cũng quen họa sĩ Picasso ạ?

– Giả sử không quen biết từ trước, thì đến thủ đô Paris chúng ta cũng phải đến chào một con người sáng tạo hội họa khó hiểu, mà nghệ thuật tranh của ông lại làm say đắm lòng người.

Bác Hồ đến không báo trước, lúc người giúp việc của Picasso đón Bác vào gần cửa, Picasso đã nhận ra Bác, ông chạy vội tới:

– Chào anh Nguyễn – Hai người ôm chầm lấy nhau. Picasso lùi ra một bước, ngắm Bác:

– Anh già chóng quá. Đôi mắt anh vẫn trẻ và sáng hơn thời chúng ta gặp nhau ở Clắcfê.

Picasso đưa Bác đi xem xưởng họa của ông. Bác đi và ngắm từng bức tranh, im lặng tuyệt đối. Tôi thấy sự xúc động hiện rõ trên gương mặt trầm tư của Người. Lúc trở vào phòng trà. Picasso hỏi Bác:

– Anh cho tôi một lời khuyên.

Bác đứng dậy nói:

– Chúng tôi đến chiêm ngưỡng nghệ thuật của anh. Mọi lời bình về Picasso chỉ là nét viền quanh cái khung của bức tranh. Anh miễn cho tôi, một người hiểu về hội họa quá ít…

Picasso cười thoải mái, giọng vui hẳn lên:

– Tôi còn nhớ bức tranh anh vẽ trên báo Le Paria, anh ký Nguyễn Ái Quốc bằng chữ Trung Quốc và lời chú thích bức tranh: “Xe xích sắt một ngày kia sẽ thay những con lạc đà, nhưng chúng vẫn còn khá nhiều. Bằng chứng ư?”. Ngày ấy tôi nói với anh Henri Barbusse: “Chỉ mấy nét vẽ này ta đã thấy một tư tưởng lớn, một tâm hồn lớn tàng ẩn bên trong. Nếu như anh tiếp tục con đường hội họa thì cũng có thể là một danh họa. Như hôm nay anh Nguyễn đã là Hồ Chủ tịch, tác giả tập tranh Việt Nam đi đầu trong cuộc đấu tranh cho độc lập tự do của các dân tộc”.

Ông mời Bác uống nước, ông phác mấy nét chân dung Hồ Chủ tịch. Nhưng ông cất vào cặp giấy vẽ đến lúc tiễn Bác ra cửa, ông mới trao tay Bác. Sau đó, Bác giao cho tôi. Tôi ngắm bức chân dung mà sững sờ. Chỉ mấy nét họa đơn sơ đã biểu hiện gương mặt Bác mênh mông với hai con mắt là hai ngôi sao.


Tranh của Đồng chí Nguyễn Ái Quốc in trên báo Người cùng khổ (1922).
Chú thích của tác giả: “Xe xích sắt một ngày kia sẽ thay những con lạc đà,
Nhưng chúng vẫn còn khá nhiều. Bằng chứng ư?”

Về nước sau 4 tháng đi xa, Bác tập trung vào việc lãnh đạo chính phủ và nhân dân, một mặt tiếp tục xây dựng và củng cố chính quyền còn non trẻ, tăng cường khối đoàn kết toàn dân; một mặt tiếp tục cuộc đấu tranh trên mặt trận ngoại giao chống thế lực thực dân phản tiến bộ, âm mưu tái lập chế độ thuộc địa, chia cắt đất nước ta. Những bài viết, lời phát biểu của Người vào giai đoạn này về đối ngoại hoặc đối nội phần lớn đều tập trung vào các chủ đề ấy.

SÔNG VÀ NÚI

Sông và núi là hình ảnh thường trực của đất nước trong tâm thức của mỗi người Việt Nam. Và theo sự trải nghiệm thông thường của mỗi người về lẽ đổi thay của các sự vật tưởng như bền vững ấy, thì sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng có một trải nghiệm khác bất tương hợp với trải nghiệm thông thường ấy. Đó là sự bền vững của chân lý.

Trong Thư gửi đồng bào Nam Bộ, Người viết: “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi!”.

Ở đây Bác đã vận dụng cách so sánh không tương hợp “để cấu trúc nên một trải nghiệm dựa vào một trải nghiệm khác” (G.Lakoff, 1980) (1). Và nhờ đó, chân lý “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam” đã có sức mạnh thuyết phục không gì sánh nổi. Bởi vì, chân lý mà Bác nhấn mạnh ở đây tuy không phải là chân lý trong triết học hay một khoa học nào khác, nhưng lại là chân lý dựa vào thực tế cuộc sống.

CÁ VÀ NƯỚC

 và nước được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập lần đầu tiên sau ngày độc lập 2/9/1945, trong dịp Người nói chuyện tại lễ tốt nghiệp khóa V, Trường huấn luyện cán bộ Việt Nam.

Về quan hệ giữa cán bộ với nhân dân, Người nhấn mạnh: “Phải làm sao cho dân yêu mến. Phải nhớ rằng dân là chủ. Dân như nước, mình (tức là cán bộ – BKT) như cá. Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết”.

Dùng ẩn dụ nước, Bác đã gợi nhớ một truyền thống dùng ẩn dụ trong ngôn ngữ đã có từ Nguyễn Trãi (2) để chỉ sức mạnh của nhân dân. Ở Nguyễn Trãi, ẩn dụ nước đặt trong mối quan hệ với ẩn dụ thuyền, còn ở Bác, nước được đặt trong quan hệ với .

Sự gắn bó giữa hai ẩn dụ cá – nước không chỉ cho ta thấy quan hệ hữu cơ giữa hai ẩn dụ, mà còn hàm ý làm nổi bật vai trò quyết định của nước – không chỉ là môi trường sống, mà còn là nguồn tạo sức mạnh – đối với , tức là người chiến sĩ cách mạng.

CHỦ NHÂN VÀ CÔNG BỘC

Ngày 19/9/1945, trên báo Cứu Quốc, số 46, dùng bút danh Chiến Thắng, trong bài báo có tên gọi Chính phủ là công bộc của dân, Bác đặt hai vế so sánh:“Trước cuộc khởi nghĩa ngày 19/8/1945 nói tới hai chữ chính phủ người ta nghĩ ngay tới một bọn đầu đảng cướp nguy hiểm, xảo quyệt. Trái lại, ai ai đối với chính phủ nhân dân hiện nay cũng đều có một mối cảm tình thân mật xen lẫn với một tôn kính sâu xa… Người xưa nói: quan là công bộc của dân, ta cũng có thể nói chính phủ là công bộc của dân vậy”. Nói chuyện với các đại biểu báo chí ngày 6/10/1945 khi đề cập đến vấn đề nội trị, Người nhấn mạnh: “Chính phủ Dân chủ cộng hòa lâm thời là công bộc của dân”.


Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc trên tầng 2 nhà sàn. Ảnh TL.

Trong thư chúc Tết đồng bào và chiến sĩ Nam Bộ, nói về những đại biểu dân cử, Người nhấn mạnh: “Những người chức trách đều do dân cử ra. Dân tin cậy ai thì người ấy trúng cử và bổn phận những người trúng cử là làm đầy tớ công cộng cho dân, chứ không phải làm quan phát tài”.

Qua việc tìm hiểu cách Bác dùng ẩn dụ người chủ – người đầy tớ ta thấy Bác đã vận dụng một mối quan hệ vốn phổ biến trong đời thường để phát biểu và làm cho dễ hiểu một quan điểm cách mạng về mối quan hệ giữa chính quyền, người trong bộ máy công quyền và nhân dân.

ẨN DỤ VỀ CÁI GỐC

Trong tác phẩm Sửa đổi lề lối làm việc, để làm rõ quy luật “cán bộ quyết định mọi việc”, Bác viết: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc… Huấn luyện là công việc gốc của Đảng”. Xuất phát từ quan điểm truyền thống “lấy dân làm gốc”, Bác căn dặn “tất cả anh chị em bộ đội, cơ quan chính phủ và các đoàn thể” trong quan hệ với nhân dân “6 điều không nên và 6 điều nên làm”, và dùng một đoạn thơ ngắn đặt ở cuối bài viết với hai câu kết:

“Gốc có vững, cây mới bền
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”

Bác dùng ẩn dụ cái gốc trong lời khẳng định: “Đạo đức là cái gốc của người cách mạng”. Và đọc Sửa đổi lề lối làm việc chúng ta lại gián tiếp gặp ẩn dụ này trong những trang sách Người viết tóm tắt về năm đức tính mà người cách mạng chân chính cần noi theo để rèn luyện đạo đức là nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm.

Tiếp theo đó, Người dẫn giải: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Lời dẫn giải cho thấy Bác xác định đạo đức có tầm quan trọng như thế nào ở người cán bộ cách mạng, và vì sao Người dùng ẩn dụcái gốc để ngầm chỉ về đạo đức cách mạng.

NGHỆ THUẬT ẨN DỤ TRONG NGÔN TỪ

Còn được thể hiện những khi đấu lý, đấu trí với kẻ địch, có thể dẫn ra một trường hợp rất tiêu biểu.

Sau thời gian làm việc ở Pháp và rời đất nước này trên chiến hạm Dumont d’Urville, Chủ tịch Hồ Chí Minh về đến vịnh Cam Ranh ngày 18 tháng 9. Thủy sư Đô đốc D’Argenlieu đưa chiến hạm Suffren nghênh đón Hồ Chủ tịch và cố ý bố trí đội lính danh dự gồm Thủy quân, Lục quân trên chiến hạm ấy thành hình vuông. Lúc Hồ Chủ tịch vào tới tâm điểm cái hình vuông Thủy, Lục quân Pháp, D’Argenlieu với giọng đắc thắng nói: “Monsieur le Président, vous voilà bien encadré entre l’Armée et la Marine”.

Hồ Chủ tịch mỉm cười:

– “Mais, vous savez, Monsieur l’Admiral, c’est le tableau qui fait la valeur du cadre”.

Ta nhớ lại ẩn dụ “nét viền quanh” Bác nói với Picasso khi họa sĩ này đề nghị với Bác sau khi đưa Người đi xem xưởng họa của mình: “Anh cho tôi một lời khuyên!”. “Nét viền quanh” trong câu chuyện với Picasso là ẩn dụ thể hiện đức tính khiêm tốn của Bác trước người bạn – nhà danh họa có tầm vóc thế giới. Còn ẩn dụ cái khung và bức họa là những ẩn dụ thể hiện trước hết tài ứng đối của Người trong việc đấu lý và đấu trí với đối phương.

ẨN DỤ TRONG NGÔN TỪ CỦA BÁC VÀ MỐI LIÊN HỆ VỚI VĂN HÓA

Về chủ nghĩa tư bản và bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản hẳn không phải ai cũng hiểu rõ, nhưng khi dùng ẩn dụ con đỉa bám hai đầu để hút máu thì chắc rằng người dân của một xứ nông nghiệp trồng lúa nước không ai còn thấy xa lạ. Có ẩn dụ Bác dùng, bắt nguồn từ thành ngữ có ý nghĩa triết lý thông thường trong dân gian (sông cạn, núi mòn); nhưng khi được Người đưa vào kết cấu câu để vận dụng phương thức ẩn dụ thì thành ngữ ấy được cải biên – thêm từcó thể vào thành ngữ và dùng từ nhưng ở vế đối ứng – để phục vụ cho nội dung tư tưởng cần diễn đạt.


Chủ tịch Hồ Chí Minh và thư ký Vũ Đình Huỳnh tại Paris năm 1946.
Ảnh TL.

Tìm về cội nguồn xa hơn ta còn biết thêm quan hệ nước và thuyền của Nguyễn Trãi được dựa vào sách Gia ngữ. Sách ấy chép: Khổng Tử thưa với Ai Công rằng: “Vua là thuyền, thứ dân là nước. Nước có thể chở thuyền, cũng có thể lật thuyền”.

Trong câu chuyện ẩn dụ “đóng khung” (bien encadré) của Đô đốc Hải quân Pháp Georges Thierry d’Argenlieu cũng như ẩn dụ cái khung (cadre) và bức họa(le tableau) qua lời đối đáp của Bác, chúng ta lại càng khâm phục Người về sự am hiểu sâu sắc văn hóa Pháp và tài năng ứng đối nhạy bén trong các tình huống giao tiếp ngôn từ.

Để chia sẻ sự cảm nhận về điều này, trước tiên tôi xin nêu cách hiểu của mình về một số từ ngữ Pháp trong câu chuyện. Encadrer là một động từ được cấu tạo theo phương thức phái sinh (dérivation) từ danh từ cadre có nghĩa là cái khung (ảnh), khuôn khổkhung cảnhEncadrer có nghĩa đóng khunglồng khung(ảnh), viền quanh; mà cũng có thể hiểu là bao quanh, vây xung quanh.

Từ đó, câu nói của D’Argenlieu có thể được tạm hiểu theo ý tốt là: “Thưa Chủ tịch, Ngài được đội hải quân và lục quân viền quanh (vây quanh)”, mà cũng có thể được hiểu theo ẩn ý thiếu thiện chí: “Thưa Chủ tịch, các ông hoàn toàn đang ở trong vòng vây của Lục quân và Hải quân (chúng tôi)”.

Biết rõ ẩn ý đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chuyển sang thế tấn công bằng cách dùng lối chơi chữ (jeu de mots) rất tinh tế trong văn hóa Pháp. “Nhưng, thưa Đô đốc, chính bức tranh mới làm tôn giá trị cho cái khung”.

Để kết lại một cách ngắn gọn cho tiểu mục này, tôi xin mượn lời nhận xét dưới đây của cố giáo sư Phạm Huy Thông nói về phong cách ngôn ngữ Pháp của Bác: “Dùng tiếng Pháp, Người nắm ngôn ngữ Pháp vững vàng, sử dụng ngôn ngữ Pháp tế nhị… Năng lực về ngôn ngữ Pháp của Người được thể hiện trước tiên trong việc Người đã nhận thức được đầy đủ về các loại văn Pháp, và đã lựa được xác đáng loại nào là hợp, là có hiệu quả cao ở từng trường hợp” (Phạm Huy Thông, 1988).

Nhiều ẩn dụ được Bác dùng cho thấy Người vận dụng linh hoạt các triết lý nhân văn trong truyền thống phương Đông (về vai trò của nhân dân, về đạo đức, về nghĩa vụ của người được trao cho quyền quản lý xã hội…), đồng thời Người còn thấm nhuần và huy động vốn văn hóa dân tộc hết sức thích hợp trong mọi hoàn cảnh giao tiếp (cá và nước, châu chấu và xe hoặc voi).

Bác cũng sử dụng hết sức sinh động vốn hiểu biết sâu sắc của mình về ngôn ngữ, về văn hóa phương Tây trong hơn 20 năm sống, học hỏi và hoạt động trong lòng nước Pháp, đồng thời trải nghiệm cuộc sống đa dạng ở nhiều nơi trên thế giới.

Chúng ta đã có thể thấy một biện pháp tu từ trong ngôn ngữ của Bác có thể biểu lộ cả chiều sâu rộng về tư tưởng và văn hóa ẩn chứa trong sản phẩm ngôn từ của Người như thế nào. Đó chính là một trong những thành tố làm nền tảng của tinh chất “Minh triết Hồ Chí Minh”.

GS-TS BÙI KHÁNH THẾ

honvietquochoc.com.vn

Nhân cách Hồ Chí Minh và cái nhìn thời đại về văn hóa trong Đảng

Văn hóa Đảng:

Văn hóa Đảng là một phạm trù của văn hóa chính trị, hơn nữa đó là một bộ phận quan trọng chi phối khuynh hướng, tính chất của văn hóa chính trị. Theo nghĩa rộng, “Văn hoá Đảng là toàn bộ tình cảm, ý chí và hành động chính trị tích cực nhằm hình thành một Đảng có đủ sức lãnh đạo, xây dựng một xã hội mới phù hợp với mục đích nhân văn cao cả của văn hoá và khát vọng dân chủ cao đẹp của thời đại”(1). Khi đề cập đến văn hoá Đảng thì phải nói đến cả những phạm trù chính trị, tư tưởng, tổ chức và cả phương thức lãnh đạo của Đảng; xây dựng văn hoá Đảng là đổi mới, chỉnh đốn Đảng theo nguyên tắc khoa học. Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”(2), do đó cũng cần phải khẳng định Đảng ta là một Đảng có văn hóa cao ngay từ khi mới ra đời. Trải qua các thời kỳ cách mạng, các giá trị văn hóa của Đảng ta như một ánh hào quang sáng ngời, dẫn dắt xã hội Việt Nam đi đến con đường tiến bộ, văn minh của chủ nghĩa cộng sản. Mặt khác, tính văn hóa của Đảng không chỉ biểu hiện ở sự đúng đắn, sáng suốt của những đường lối, chủ trương, mà còn biểu hiện ở sự gương mẫu, tiên phong, lối sống, phẩm chất trong sáng, đạo đức cách mạng của từng cán bộ, đảng viên cụ thể. Thực tế, trong chất nhân văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì văn hóa với tư cách là một khái niệm tổng thể nhằm chỉ những giá trị tốt đẹp toát ra từ toàn bộ cuộc đời và nhân cách vĩ đại của Người, đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều người, đồng thời đó là những giá trị quý báu để nhân loại noi theo. Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là bộ phận quan trọng hình thành nên nền tảng tinh thần của xã hội. Chính tài sản tinh thần vô giá đó là bộ phận cấu thành của văn hóa Đảng. Vì vậy, văn hóa Đảng có những giá trị bền vững và cao qúy, đó là “sự cộng sinh của bản sắc tốt đẹp của văn hóa dân tộc và văn hóa Hồ Chí Minh, cùng với những giá trị mới được xây đắp và phát triển trong thời kỳ hiện đại của cách mạng Việt Nam”(3). Có thể nói rằng, nhân cách và tư tưởng Hồ Chí Minh đã đóng vai trò to lớn vào việc củng cố, bồi đắp nền tảng tinh thần xã hội và là động lực của cách mạng… Trong mối quan hệ biện chứng, văn hóa Đảng là một bộ phận của văn hóa dân tộc, văn hóa Đảng trước hết xuất phát từ nền văn hóa dân tộc, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, kết hợp với tiếp thu kịp thời tinh hoa văn hóa nhân loại và xu hướng phát triển mới, tiến bộ của thời đại.

* Để nâng cao văn hóa trong Đảng:

Về lý luận, đạo đức là cốt lõi của văn hóa, mỗi thành viên trong xã hội phải rèn luyện đạo đức và lối sống. Đối với cán bộ, đảng viên phải biết phát triển và hoàn thiện văn hóa của Đảng để làm nòng cốt cho việc xây dựng những chuẩn mực đạo đức và giá trị văn hóa trong xã hội. Muốn hệ thống chuẩn mực đạo đức mới trở thành ý thức, thành tình cảm, thói quen của mỗi thành viên xã hội, phải thông qua hoạt động giáo dục đạo đức. Chỉ có thông qua hoạt động giáo dục mới có thể xác lập được quan điểm nhận thức đạo đức, hình thành năng lực ứng xử đạo đức và tính cách đạo đức theo hệ thống chuẩn mực đạo đức mới. Và cũng chỉ có thông qua hoạt động giáo dục đạo đức thường xuyên, sâu rộng mới có thể xác lập được văn hóa đạo đức xã hội chủ nghĩa cho mỗi thành viên cũng như trong toàn xã hội. Đối với người đảng viên cần đề cao giá trị đạo đức, đề cao sự tự rèn luyện, tu dưỡng trong việc chuyển văn hóa đạo đức xã hội, các giá trị xã hội tiến bộ thành văn hóa đạo đức cá nhân… Nói cách khác, có đạo đức không chỉ phụ thuộc vào tri thức đạo đức mà còn phụ thuộc vào sự lựa chọn giá trị ở mỗi cán bộ, đảng viên.

Có một thực tế đáng lo ngại hiện nay là “nhiệm vụ xây dựng văn hóa Đảng, trong bộ máy nhà nước chưa được triển khai tích cực, có nơi còn bị xem nhẹ; không ít cán bộ, đảng viên chưa được nêu tấm gương văn hóa cho quần chúng”(5). Trước sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên thời gian gần đây là biểu hiện của sự suy đồi về chính trị, là một dạng thái phản giá trị, phản văn hóa. Để tránh rơi vào thái cực đó, người cán bộ, đảng viên phải có văn hoá chính trị, tức là vững vàng về chính trị tư tưởng, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ và năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân, phải thực hiện đúng nguyên tắc Đảng lãnh đạo. Mặt khác, phải thường xuyên, tự giác học tập rèn luyện chủ trương, đường lối của Đảng; phải nâng cao sự lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng, đặc biệt cơ sở Đảng và đảng viên như lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn “Mỗi đảng viên và cán bộ phải phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch”(6). Cốt lõi các nhân tố cấu kết thành văn hóa Đảng ở người đảng viên không chỉ là sự thấm nhuần lý tưởng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng, lối sống giản dị; mà còn phải có lề lối làm việc, phương pháp công tác khoa học, sâu sát nhân dân, thái độ giao tiếp văn minh, lịch sự. Do đó, vấn đề văn hóa Đảng đã trở thành cốt cách của người cộng sản Hồ Chí Minh.

* Tài liệu tham khảo:

(1) Tạp chí Cộng sản số 18, tháng 9/2004, trang 17.
(2) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, 1995, tập 12, trang 557 – 558.
(3) Tạp chí Cộng sản số 24, 12/2006, trang 47.
(4) Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia, 2001, trang 83.
(5) Các Nghị quyết của TW Đảng, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2004, trang 241.
(6) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 1995, tập 5, trang 252 – 253.
(7) Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh và con người Việt Nam trên con đường dân giàu nước mạnh, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 1993, trang 130.

Báo Lâm Đồng

dalat.gov.vn

Nhân văn Hồ Chí Minh

Nhân văn được hiểu là: Chăm lo cho con người, cho sự tiến bộ của con người, hướng tới con người, giải phóng con người.

Trong nhiều hội thảo về Chủ tịch Hồ Chí Minh, đông đảo nhà khoa học khẳng định, cái bao trùm, cái cốt lõi, cái xuyên suốt tư Tưởng Hồ Chí Minh là nhân văn, là chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh. Cốt lõi của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là nhân văn. Cốt lõi của đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư Hồ Chí Minh là nhân văn… Con người luôn hướng tới nhân văn. Hành trình của nhân loại là hành trình hướng tới nhân văn, tìm kiếm và hiện thực hoá nhân văn. Nhân văn Hồ Chí Minh là một điểm nổi bật trong hành trình nhân văn của nhân loại trong thời đại ngày nay bởi giá trị hiện thực cụ thể, mạnh mẽ.

Nhân văn Hồ Chí Minh là sự kế thừa có chọn lọc những tinh hoa nhân văn của dân tộc và nhân loại, hay có thể nói tinh hoa nhân văn của dân tộc và nhân loại kết tinh trong Người. Chủ nghĩa nhân văn Việt Nam kết tinh trong Người, đó là chủ nghĩa yêu nước, ý chí bất khuất đấu tranh cho độc lập, tự do; đó là truyền thống nhân ái “thương người như thể thương thân”, “lá lành đùm lá rách”, “một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Nhân văn Hồ Chí Minh có tinh hoa nhân văn của Nho giáo, của học tập, của rèn luyện, hướng tới con người: “Kỉ sở bất dục, vật thi ư nhân; kỉ dục lập nhi, lập nhân; kỉ dục đạt nhi đạt nhân” (điều gì mình không muốn, đừng đem điều đó làm cho người khác; mình muốn lập thân, hãy giúp cho người khác lập thân; mình muốn thành đạt, hãy giúp cho người khác thành đạt). Nhân văn Hồ Chí Minh có tinh hoa của Phật giáo, của tư tưởng vị tha, từ bi, cứu khổ, cứu nạn, của tình yêu bao la, của lòng nhân từ, bác ái mênh mông, yêu thương từ cây cỏ, chim muông… Nhân văn Hồ Chí Minh có tinh hoa nhân văn của Đức chúa Giê-su; có tinh hoa nhân văn của tinh thần tự do dân chủ tư sản tiến bộ; có tinh hoa nhân văn của chủ nghĩa nhân văn trong chủ nghĩa nhân văn của nền văn hoá “ánh sáng”, “Phục hưng”; của chủ nghĩa xã hội không tưởng và đặc biệt là nhân văn Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học.

Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng ngời, suốt đời cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại, giải phóng con người. Tấm gương nhân văn Hồ Chí Minh thể hiện bởi chính những hành động nhân văn. Hai mươi mốt tuổi ra đi tìm con đường giải phóng cho dân tộc, cho nhân loại. Năm 1913, dưới chân tượng Thần Tự do ở Niu Oóc (Mỹ), Người đặt câu hỏi: “Đến bao giờ người da đen mới được bình đẳng? Đến bao giờ người phụ nữ mới được giải phóng? Nếu phụ nữ chưa được giải phóng thì xã hội chưa được giải phóng cả”(1). Đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, Người tìm thấy “con đường giải phóng” cho chúng ta. Người tin theo và coi đó là “cái bàn chỉ nam”, vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể Việt Nam. Là lãnh tụ cao nhất của dân tộc, lúc còn cơ hàn “cháo bẹ, rau măng”, rồi trên cương vị đứng đầu nhà nước, đứng đầu một Đảng cầm quyền vẫn dép lốp, áo ka ki bạc màu. Lúc đồng bào còn đói, Bác kêu gọi cứu đói, đồng thời “tôi xin thực hiện trước”(2). Cả cuộc đời của Người, mỗi hành vi của Người đều lấp lánh hào quang nhân văn, là “sữa để em thơ, lụa tặng già”, là “yêu từng ngọn lúa mỗi cành hoa”, là “tự do cho mỗi đời nê lệ”(thơ Tố Hữu). Người nói: “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh, phú quý chút nào… Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”(3). “Cả đời tôi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân”(4). Trước khi qua đời, điều nuối tiếc của Người cũng là sự nuối tiếc “Không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa” và còn dặn lại: “Chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình để khỏi làm lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân”(5).

ở Hồ Chí Minh, tư tưởng nhân văn và hành động nhân văn là thống nhất. Người căm ghét những hành vi phi nhân văn của chủ nghĩa đế quốc, của bọn xâm lược và bè lũ tay sai. Người vạch trần cái gọi là “khai hóa văn minh” của chủ nghĩa thực dân bằng các bản án đanh thép ngay tại sào huyệt của chúng và kêu gọi dân tộc ta, thanh niên ta và các dân tộc bị áp bức “đem sức ta mà giải phóng cho ta”, “công việc giải phóng cho ta phải do ta tự làm lấy, không ỉ lại, không trông chờ”.

Đối với những người lầm đường lạc lối đã lỡ theo giặc chống lại cách mạng, đi ngược lại quyền lợi của dân tộc, Người dạy: “Năm ngón tay cũng có ngón vắn, ngón dài. Nhưng vắn, dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này, thế khác, nhưng thế này hay thế khác, đều dòng dõi của Tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng, đại độ… Ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ”(6). Bác còn dặn, đối với những người lầm đường, lạc lối, “không được báo thù, báo oán” mà phải lấy lời khôn, lẽ phải mà bày cho họ.

Trong kháng chiến, Người đứt từng đoạn ruột khi nghe tin các chiến sĩ ta hy sinh, nhưng Người cũng ngậm ngùi, thương xót cho những người Pháp đã tử vong. “Trước bác ái, thì máu Pháp hay máu Việt cũng đều là máu, người Pháp hay người Việt cũng đều là người”(7). Người không muốn chiến tranh. Nhưng để bảo vệ quyền sống, quyền độc lập tự do thì phải hành động chống lại sự xâm lược, sự tàn bạo phi nhân văn.

Con đường Bác chọn cho Đảng, cho dân tộc là con đường nhân văn, con đường tự giải phóng: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”(8). Người đòi hỏi Đảng phải thật sự là một Đảng nhân văn: “Ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc thì Đảng không có lợi ích gì khác”(9). Nhiệm vụ của Đảng là giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng. Và muốn làm được điều đó, người cán bộ đảng viên phải là người có đức, có nhân, có trí, có dũng, có liêm, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Và muốn xứng đáng là người lãnh đạo thì đảng viên và Đảng phải luôn tự rèn luyện, tự củng cố, tự chỉ trích, tự nâng cao không ngừng về trí tuệ, bản lĩnh, phong cách. Chỉ có một Đảng biết cống hiến cho dân, cho nước thì mới được nhân dân yêu mến, ca ngợi và tin theo.

Trong điều kiện Đảng cầm quyền, bản thân Đảng và đảng viên phải chống lại những hành động và tư tưởng phi nhân văn ngay trong tổ chức và con người mình, đó là chủ nghĩa cá nhân, đó là “vác mặt làm quan cách mạng”, quan liêu, hủ hoá, thoái hoá, tham ô, vụ lợi, lười biếng, thiếu tu dưỡng, rèn luyện… Những căn bệnh đó Bác coi là kẻ thù của cách mạng, của nhân dân, là “thứ giặc” ở trong lòng, phải không ngừng đấu tranh loại bỏ nó.

Trong điều kiện xây dựng đất nước, Đảng và dân tộc phải không ngừng nâng cao tri thức, trí tuệ. Bởi vì: Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, Bác coi dốt nát cũng là một thứ giặc. Diệt giặc dốt là một bộ phận của sự nghiệp giải phóng, sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.

Năm 1923, Nhà thơ Xô-viết O-xíp Man đen-stam khi gặp Bác đã viết: “Từ Nguyễn ái Quốc toả ra một nền văn hoá, không phải văn hoá châu Âu, mà có lẽ là nền văn hóa của tương lai”(10). Nền văn hoá của tương lai đó có lẽ là chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Thật tự hào là chúng ta có Bác. Thật vinh quang khi đi theo con đường Người chọn – Con đường của nhân loại tiến bộ, của quy luật tất yếu của lịch sử, con đường sáng ngời nhân văn Hồ Chí Minh.

Ths. NGƯT Nguyễn Thế Cường

xaydungdang.org.vn

Văn hóa ẩm thực của Bác Hồ

Bà con Làng Sen, xã Kim Liên đón Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm lại quê nhà sau 50 năm xa cách - Ảnh: Tư liệu

Văn hóa ẩm thực của Bác Hồ – đó là một nét bình dị trong nhân cách và phong cách của Người, càng làm đậm thêm sự vĩ đại của một lãnh tụ có phong cách gần dân hiếm có.

Từ năm 1923, nhà văn Xô viết Oxip Mendenxtam, sau khi tiếp xúc với Nguyễn Ái Quốc để viết một bài phỏng vấn, đã nhận xét: “Từ Nguyễn Ái Quốc tỏa ra một nền văn hóa, không phải văn hóa Châu Âu mà có lẽ là một nền văn hóa của tương lai” (đã được các nhà nghiên cứu Hồ Chí Minh trích dẫn nhiều lần). Cũng qua người cộng sản trẻ tuổi mới đến từ phương Đông, nhà văn đã cảm nhận được: “Dân An Nam là một dân tộc giản dị và lịch thiệp”.

Cậu bé Nguyễn Sinh Cung sinh ra, lớn lên giữa một vùng quê nghèo nhưng đậm văn hóa truyền thống. Nam Đàn có món tương ngon nổi tiếng (nhút Thanh Chương, tương Nam Đàn), có giống cà pháo (thường gọi là cà Nghệ) dày cùi, ít hạt, muối giòn tan. Hương vị ẩm thực quê hương thấm đậm tâm hồn cậu bé Cung từ thuở ấu thơ và không phai nhạt trong vị lãnh tụ Hồ Chí Minh sau này trên những chặng đường cách mạng. Cả khi đã đảm nhiệm cương vị Chủ tịch nước, dù đã đi nhiều nơi trên thế giới, nếm hương vị bữa ăn của nhiều miền, nhiều dân tộc nhưng Hồ Chí Minh vẫn không quên tương, quên nhút, quên cà xứ Nghệ…

Những năm Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở Pa-ri, vợ và mẹ ông Maurice Thorez (sau này là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Pháp) đã rất ngạc nhiên và cảm động khi thấy sau bữa ăn Nguyễn Ái Quốc cẩn thận nhặt từng mẩu vụn bánh mì rơi trên bàn để dành cho chim. Sau tháng 9/1945, đã là Chủ tịch nước nhưng Bác Hồ vẫn dùng cơm với anh em phục vụ, bảo vệ. Bữa ăn nhiều khi chỉ có rau muống xào, đậu phụ kho và một bát canh. Người phát động nhân dân chống giặc đói và gương mẫu thực hiện mười ngày nhịn ăn một bữa. Nhân dân còn phải ăn độn ngô, khoai, Bác yêu cầu cơ quan (trong đó có Bác) cùng ăn độn ngô với nhân dân… Bữa cơm đơn sơ bởi Người vẫn tâm niệm: Nước ta còn nghèo, không thể sống khác đồng bào.

Những chuyện về phong cách ẩm thực Hồ Chí Minh cho đến nay chúng ta cũng chỉ được nghe kể lại một cách tản mạn. Nhưng chỉ chừng đó thôi cũng đã đủ hiện lên hình ảnh một con người vĩ đại có cách ăn uống giản dị nhưng có sự nhận và nét cảm rất Việt Nam.

Trong những ngày gian nan: “Sáng ra bờ suối tối vào hang/Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”, hay khi ở cương vị lãnh đạo đất nước, Bác Hồ vẫn giữ phong cách ăn uống giản dị, tiết kiệm. Người đặc biệt yêu quý và yêu thích những món ăn quen thuộc của dân tộc: mắm, cà dầm tương, canh cua ăn với rau chuối thái ghém… Bữa ăn của Người thường chỉ có một món canh, một hoặc hai món mặn, một chút dưa hoặc cà cùng nước chấm. Khi có khách thì làm thêm một vài món theo khẩu vị của khách. Món ăn hằng ngày Bác thích là cá kho khô, cá trê hoặc cá bống. Bác cũng rất thích những món ăn của đồng bào miền Nam: cá rô kho tộ, canh chua cá lóc, mắm cá…

Thủ tướng Phạm Văn Đồng, người rất gần gũi và đã dùng cơm với Bác Hồ nhiều lần, viết: “Điều làm tôi xúc động hơn cả là trong mỗi bữa ăn, Bác thường lưu ý mọi người ăn món nào thì ăn cho hết, món nào ăn không hết, để lại thì để cho tươm tất. Ở gần Bác trong nhiều năm, tôi kể lại chuyện này để nói lên tấm lòng cao đẹp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lòng kính trọng của Người đối với những người chế biến ra món ăn và sâu xa hơn nữa là đối với những người sản xuất ra bữa ăn”.

Trong kháng chiến, có lần anh em bắt được con cá anh vũ – một loại cá chép rất quý vì có mép rất béo do thường xuyên phải bám vào đá để chống lại dòng nước chảy xiết trên những sông suối vùng Tuyên Quang, Yên Bái. Mọi người định làm món bồi dưỡng cho Bác. Một anh vui mồm nói: “Cá này quý lắm, ngày xưa là cá tiến vua đấy”. Bác nghe được, cười: “Bác có phải là vua đâu” và bảo nhà bếp làm cho mọi người cùng ăn. Chủ tịch Liên khu 4 Lê Viết Lượng gửi biếu Bác một lọ cà dầm mắm. Bác rất thích. Có bữa bận việc phải ăn sau, Bác dặn: “Các cô chú cứ ăn thịt cá đi, để phần Bác món cà dầm mắm”.

Ở Chiến khu Việt Bắc, nhiều khi thiếu rau. Bác bày cách cho anh em lấy mít non làm nhút. Quanh nơi ở, Bác cùng anh em tích cực tăng gia, trồng thêm rau, nuôi thêm gà để cải thiện chất lượng bữa ăn, vừa có chất tươi vừa tiết kiệm, không phải đi mua hoặc chờ cung cấp. Trong hồi ký của mình (Con đường theo Bác), ông Hoàng Quốc Việt đã kể lại việc biếu Bác mấy quả bí tăng gia được. Bác nhận bí, rồi gửi lại cho ông Hoàng Quốc Việt một bức thư, chỉ gồm hai câu:

“Ăn quả nhớ người trồng cây
Cảm ơn chú Việt. Bí này còn non” .

Chỉ vậy thôi nhưng đã làm ông Hoàng Quốc Việt (và có lẽ tất cả những người đọc những dòng đó) thấm thía rằng: Đừng vội hái quả non, mọi cái phải đạt tới “độ chín” mới có giá trị.

Lòng thương yêu nhân dân của Hồ Chí Minh còn thể hiện ở chỗ: Ngày đêm lo cho dân, lo từ việc lớn đến việc nhỏ – mà chuyện cái ăn, cái mặc là biểu hiện rõ nét, sinh động nhất: “Dân không đủ muối, Đảng phải lo. Dân không có gạo ăn đủ no, dân không có vải mặc đủ ấm, Đảng phải lo. Các cháu bé không có trường học… tất cả mọi việc Đảng phải lo… ngay đến cả tương, cà, mắm, muối của dân Đảng đều phải lo…”. Nhìn rộng hơn, xa hơn, những điều đó chính là đạo lý của một Đảng cầm quyền, của Nhà nước, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân mà chúng ta đang gắng xây dựng theo tư tưởng Hồ Chí Minh – phải chăm lo cho dân từ những điều nhỏ nhất: “Nếu dân đói là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”.

Trong cuộc sống hằng ngày, không bao giờ Hồ Chí Minh nhấn mạnh tới chuyện ăn uống, nhưng qua những chuyện tình cờ cũng có thể thấy sự cảm nhận rất tinh tế của Người. Những khi đi công tác, phương châm đầu tiên là gọn, nhẹ, thức ăn dự trữ mang theo chỉ là muối vừng, thịt kho mặn, nhưng có lần dừng chân nấu ăn bên bờ suối, Bác nhận làm món trứng rán. Trứng đã rán xong nhưng cơm chưa chín, Bác lấy que sắt nung vào bếp lửa rồi áp lên mặt lớp trứng tạo thành những đường trang trí hình quả trám rất đẹp. Bác bảo: “Khi có điều kiện làm cho ngon hơn, đẹp hơn thì ta cứ làm”.

Con người và phong cách Hồ Chí Minh đậm tính văn hóa, điều này đã được nhiều người khẳng định. Trong văn hóa ẩm thực của Hồ Chí Minh (nếu có thể gọi như vậy) kết tinh, thâu thái cả những kinh nghiệm truyền thống và khoa học. Không những thế, đó còn là cách ứng xử đầy lòng yêu thương trân trọng con người, là sự cảm thụ sâu sắc và tinh tế và nhiều điều khác nữa…

Theo Thanhnien.com.vn
Tâm Trang (st)

bqllang.gov.vn

Chủ tịch Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất

Chủ tịch Hồ Chí Minh là ngọn cờ đầu của giải phóng dân tộc. Người đã dẫn dắt triệu triệu người Việt Nam cùng hàng ngàn triệu người nô lệ hơn 100 nước trên thế giới vùng lên giành độc lập tự do, chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới. Người đã làm nên cuộc đảo lộn thế giới chưa từng có từ sau khi chủ nghĩa tư bản lật đổ đế chế La Mã cổ xưa. Người đã vẽ lại bản đồ thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh xứng đáng là Danh nhân văn hóa thế kỷ 20.

Tại Pa-ri (Pháp), trong kỳ họp lần thứ 24 từ ngày 20-10 đến ngày 20-11-1987, Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục của Liên hợp quốc (UNESCO) đã ra Nghị quyết 24C/18.65 công nhận Chủ tịch Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc và Nhà văn hoá kiệt xuất của Việt Nam, đồng thời quyết định kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Người.

Trong Từ điển “Danh nhân văn hóa thế giới” xuất bản tại Anh và Mỹ, lời nói đầu có nêu: “Thế kỷ 20 có nhiều đảo lộn lớn trong lịch sử nhân loại. Ai làm đảo lộn người đó xứng đáng làm Danh nhân văn hóa”. Trong lĩnh vực Chính trị-xã hội, Từ điển đã dành hai trang 332-333 ghi rõ: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là ngọn cờ đầu của giải phóng dân tộc. Người đã dẫn dắt triệu triệu người Việt Nam cùng hàng ngàn triệu người nô lệ hơn 100 nước trên thế giới vùng lên giành độc lập tự do, chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới. Người đã làm nên cuộc đảo lộn thế giới chưa từng có từ sau khi chủ nghĩa tư bản lật đổ đế chế La Mã cổ xưa. Người đã vẽ lại bản đồ thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh xứng đáng là Danh nhân văn hóa thế kỷ 20”.

Cống hiến vĩ đại của Người là tìm ra con đường cứu nước đúng đắn. Người xác định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(1). Đó là sự gắn liền chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế chân chính; kết hợp chặt chẽ cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng xã hội chủ nghĩa; kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh quốc tế, sức mạnh thời đại. Đây là sự phá vỡ bế tắc về đường lối cứu nước trong một thời gian khá dài trong lịch sử nước ta. Tuy nhiên, đó mới chỉ là phương hướng. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn cụ thể hóa đường lối cứu nước ấy. Từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: chủ nghĩa đế quốc là một con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc, phải đồng thời cắt bỏ cả hai cái vòi của nó đi. Tức là phải kết hợp cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Người cũng nhấn mạnh các nước thuộc địa cần tăng cường đoàn kết và ủng hộ lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chung; đồng thời phải dựa vào sức mình là chính để đấu tranh tự giải phóng mình. Đó là một luận điểm có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn rất quan trọng. Cách mạng nước ta từ những năm 20 của thế kỷ trước đã phát triển dưới ánh sáng của tư tưởng ấy. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 là thực tế sinh động chứng minh sự đúng đắn của tư tưởng đó.

Tìm được đường lối cách mạng đúng đắn, Người đã trực tiếp lãnh đạo tuyên truyền, tổ chức, đào tạo và rèn luyện cán bộ. Người viết: “Nếu hiện nay nông dân vẫn còn ở trong tình trạng tiêu cực, thì nguyên nhân là vì họ còn thiếu tổ chức, thiếu người lãnh đạo. Quốc tế Cộng sản cần phải giúp đỡ họ tổ chức lại, cần phải cung cấp cán bộ lãnh đạo cho họ và chỉ cho họ con đường đi tới cách mạng và giải phóng”(2). Từ năm 1921, bằng ngòi bút sắc sảo của mình, Người đã viết nhiều bài đăng trên một số tờ báo của nước Pháp để tố cáo tội ác của thực dân và thức tỉnh nhân dân các nước thuộc địa. Người rất quan tâm đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ nòng cốt, vì “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”(3). Ngay từ lớp cán bộ đầu tiên, Người đã chú ý bồi dưỡng “Tư cách người cách mệnh” và tri thức người cách mệnh, tức là chăm lo cả hai mặt: phẩm chất và năng lực. Về tổ chức, Người xác định: “Trước hết phải có đảng cách mệnh”(4). Tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội là hạt mầm cho sự ra đời Đảng mang bản chất giai cấp công nhân. Người dày công tập hợp lực lượng cách mạng, xây dựng các tổ chức quần chúng. Đó là những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc.

Bác Hồ đòi hỏi lãnh đạo cách mạng là phải nắm được thời cơ. Người ví: “Lạc nước hai xe đành bỏ phí. Gặp thời một tốt cũng thành công”(5). Từ năm 1940, nhất là vào tháng 10-1944, trong thư gửi đồng bào toàn quốc, Người dự báo: “Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp, ta phải làm nhanh!”(6). Tháng Tám 1945, khi thời cơ đến, Bác đã cùng với Trung ương Đảng quyết định Tổng khởi nghĩa và đã giành được thắng lợi nhanh chóng. Sau Cách mạng tháng Tám, Người lại cùng toàn Đảng, toàn dân đưa hai cuộc kháng chiến anh dũng chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đi đến thắng lợi hoàn toàn…

Đồng thời với việc công nhận Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Người anh hùng giải phóng dân tộc”, UNESCO còn công nhận Người là nhà văn hóa kiệt xuất. Sở dĩ như vậy là bởi Người có hiểu biết rất sâu rộng. Người đã nghiên cứu, học tập, đọc rất nhiều tác phẩm Đông-Tây, kim-cổ; tiếp thu những tinh hoa của văn minh nhân loại. Người tinh thông lịch sử dân tộc, am hiểu sâu sắc văn hoá dân tộc. Người viết văn, viết báo, làm thơ bằng nhiều thứ tiếng nước ngoài. Bác đã có nhiều sáng tác thuộc nhiều lĩnh vực: văn, thơ, kịch, họa… Ở Bác, nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch, nhà báo, nhà chính trị, người chiến sĩ… kết hợp bền chặt trong nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh. Có ý kiến cho rằng: “Sáng tạo văn hoá của Chủ tịch Hồ Chí Minh có mặt ở nhiều thể loại… Và ở lĩnh vực nào sự sáng tạo đó cũng đạt tới trình độ bậc thầy với tầm nhìn thời đại, vì thế luôn mang tính thời sự và giá trị thực tiễn sâu sắc. Sáng tạo văn hoá của Người thực chất là sự sáng tạo vì cuộc đời và con người, vì hạnh phúc của nhân dân; là làm sao cho mỗi người biết hướng thiện và hoàn lương; biết kết đoàn, chung lưng đẩy lùi cái xấu xa, tàn bạo, phi nhân tính, để cùng nhau xây dựng một đất nước giàu mạnh, một xã hội công bằng, văn minh – một xã hội mà trong đó: “Mọi người vì mỗi người, mỗi người vì mọi người” và “sống để cho nhau”. Sáng tạo văn hoá của Hồ Chí Minh luôn có mặt chủ thể con người với khát vọng tự do, công lý, hoà bình, ấm no, hạnh phúc… điều đó đã làm nên giá trị nhân văn của một nhân cách lớn”(7). Vâng, Người đã từng cho rằng, văn hóa là mục đích cuộc sống, giúp con người tồn tại và phát triển: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng chúng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu của đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”(8).

Đi vào từng lĩnh vực cụ thể, ta thấy Người rất quan tâm đến việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, làm cho tiếng Việt mang tính dân tộc, khoa học và đại chúng. Bác hết lòng chăm lo phát triển ngành giáo dục, chăm lo sự nghiệp mở mang dân trí, xây dựng “Đời sống mới” hình thành trong nhân dân những phong tục, tập quán mới, những sinh hoạt văn hóa mới. Chính Bác là tấm gương sáng về mối quan hệ mới, tốt đẹp giữa người với người. Ở điểm này, chúng ta nhớ đến lời của nhà thơ Osip Mandelstam viết từ năm 1923, đầu thế kỷ trước: “Từ Nguyễn Ái Quốc tỏa ra một nền văn hóa, không phải là văn hóa châu Âu mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai”(9). Đó là đức hi sinh cao cả, là nghị lực cách mạng phi thường; là tính sáng suốt, nhạy cảm đặc biệt về chính trị, là tình yêu thương sâu sắc con người; là quan hệ bình đẳng, dân chủ, là đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, là lối sống vì mọi người, là tác phong giản dị, khiêm tốn, là con người vĩ đại mà sống gần gũi với mọi người, sống trong sáng trọn vẹn suốt cuộc đời…

Chính vì lẽ đó mà Người đã để lại không chỉ cho nhân dân Việt Nam, mà còn cho nhân loại một di sản tư tưởng văn hoá vô giá, có giá trị bền vững, như Nghị quyết khoá họp lần thứ 24 của tổ chức UNESCO đã viết “… Sự đóng góp quan trọng về nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật là kết tinh của truyền thống văn hóa hàng ngàn năm của nhân dân Việt Nam và những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau…”. Với tinh thần đó Hồ Chí Minh không chỉ thuộc về dân tộc Việt Nam, mà còn là của nhân loại…

——————-

(1) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, H.2000, tập 9, tr 314.
(2) Sđd, tập 1, tr 289
(3) Sđd, tập 5, tr 269
(4) Sđd, tập 2, tr 267
(5), (6), (8) Sđd, tập 3 tr 287, 506, 431
(7) Nguyễn Thuý Đức, Hồ Chí Minh – Nhà văn hoá lớn, 2-2010, baotanghochiminh.vn.
(9) Osip Mandenstam, báo Ngọn lửa nhỏ, 1923.

Nguyễn Viết Chính

xaydungdang.org.vn