Thư viện

Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ cơ sở

Bác Hồ nói chuyện với nông dân và xã viên HTX - NN Lai Sơn - Vĩnh Phúc ngày 30.3.1958Bác Hồ nói chuyện với nông dân và xã viên
Hợp tác xã nông nghiệp Lai Sơn – Vĩnh Phúc ngày 30/3/1958

Nhận thức rõ bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa ngay từ những ngày đầu chính quyền nhân dân mới được thành lập. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng: Quyền lực của nhà nước là của nhân dân, Nhà nước là của dân, do dân, vì dân. Trong tổ chức bộ máy Nhà nước có thang, bậc, quyền hạn khác nhau nhưng đều là một công cụ thể hiện quyền lực nhân dân. Cán bộ từ trên xuống dưới làm đầy tớ cho nhân dân, phải xứng đáng là người công bộc trung thành của nhân dân. Người đặc biệt chú ý tới việc thực hiện quyền lực của nhân dân ở cơ sở. Điều đó được thể hiện ở nhiều bài viết, bài nói của Người với cán bộ và nhân dân ta. Chỉ bằng những mệnh đề đơn giản, hàm xúc, ngắn gọn mà đầy đủ ý nghĩa Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát bằng cách riêng của mình những giá trị văn hóa dân chủ của nhân loại từ cổ đại đến hiện đại mà lại rất Việt Nam, cụ thể và thực tế, nên ai đọc cũng có thể cảm nhận được ngay.

Từ quan niệm “mọi lực lượng đều ở nơi dân”, nhìn thấy và tin tưởng ở sức mạnh của nhân dân, nên Người yêu cầu phải “vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho”(1). Để nhân dân có điều kiện tham gia trực tiếp vào việc thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước với tư cách là người chủ thực sự, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu cán bộ, đảng viên phải luôn luôn: Vì nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Người luôn ý thức rằng: Dân là quý nhất, là quan trọng hơn hết. Dân là gốc của nước. Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân. Trong cuốn Đường Kách mệnh (1927), Người đã khẳng định: Kách mệnh là việc chung của dân chúng chứ không phải việc môt hai người. Đó là tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất phát từ cơ sở nhận thức khoa học: Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân. Vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề đoàn kết tập hợp được đông đảo nhân dân. Đảng dù vĩ đại đến mấy cũng chỉ là một bộ phận của nhân dân, một bộ phận tiên phong, tiên tiến nhất.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ rằng: Dân chủ là vì dân, tất cả vì lợi ích của nhân dân. Người thường nói: “Ngoài lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, Đảng ta không có lợi ích nào khác. Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân ta hết sức tránh”. Đó cũng chính là mục đích của Người: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc, và hạnh phúc của nhân dân”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Dân chủ là tư tưởng cơ bản xuyên suốt quá trình cách mạng. Cái cốt lõi trong tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh là lấy dân làm gốc. Bản chất dân chủ là quyền làm người. Người nói: “ Lãnh đạo một nước mà để cho nước mình lạc hậu, bị thiệt thòi trong hưởng hạnh phúc con người cũng là mất dân chủ. Nhân dân có quyền lợi làm chủ thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân. Người đánh giá rất cao về dân chủ: Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân. Thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc chúng ta: Nước lấy dân làm gốc, dân lấy cuộc sống làm đầu, chế độ ta là chế độ của dân, do dân. Dân theo Đảng đứng lên đánh đuổi kẻ thù giành lấy chính quyền mà có được. Các cấp chính quyền và đoàn thể từ trung ương đến địa phương, cơ sở là do nhân dân bầu cử ra. Do vậy, mỗi cán bộ phải vì dân, hết lòng phục vụ mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Theo người phương thức cơ bản của dân chủ cơ sở là “dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra”.

Trên cơ sở nhận thức sâu sắc dân là chủ và phương pháp làm việc là phương pháp dân chủ chứ không phải là những thủ thuật chính trị. Người đã đưa ra một quy định làm việc khoa học như sau: Trước hết phải làm cho dân biết: “Phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi người dân hiểu rõ rằng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được” (2). Hiểu rõ tâm tư nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm khơi dậy sức mạnh của nhân dân bằng cách giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích và trách nhiệm, quyền hạn và bổn phận. Xuất phát từ lợi ích, coi lợi ích là động lực trực tiếp thúc đẩy mọi hành động chính trị của quần chúng, Người yêu cầu: “Phải đặt lợi ích dân chúng lên trên hết, trước hết”(3)  và “việc gì có lợi cho dân thì phải làm cho kỳ được. Việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh” (4). Lợi ích của mỗi người dân được đảm bảo ngày càng đầy đủ hơn và nhờ vào vị thế của họ đã giành được trong quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ, hi sinh, mất mát để giành lấy Độc lập, Tự do, để trở thành người chủ và làm chủ xã hội. Người nói: Dân chủ có nghĩa dân là chủ và dân làm chủ. Vì vậy, trong nội hàm của khái niệm “dân hiểu”, Chủ tịch Hồ Chí Minh như muốn làm cho mọi người thấy rõ, hiểu thấu ý nghĩa lớn lao của vị thế “là chủ” đó, nhất là với nông dân là những người có trình độ học vấn thấp nhưng lại chiếm số đông trong xã hội “làm sao cho bà con hiểu mình là người chủ tập thể, làm chủ hợp tác xã, làm chủ Nhà nước” (5). Thấy rõ được vai trò, vị trí của nông dân, nông nghiệp, nông thôn đối với sự phát triển của nền dân chủ trong một nước nông nghiệp lạc hậu như ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Bao giờ nông thôn, nông dân thực sự nắm chính quyền, nông dân được giải phóng thì mới dân chủ thực sự” (6). Sau những diễn biến phức tạp của xã hội nông thôn Việt Nam xuất hiện những điểm nóng chính trị – xã hội ở nông thôn như năm 1998, 1999, 2011, 2012, chúng ta càng thấy ý nghĩa lớn lao trong chỉ dẫn đó của Người.

Thứ hai, khi dân đã được biết, được hiểu thì phải tạo điều kiện cho dân được bàn bạc thực sự, bàn tất cả mọi vấn đề và mọi người đều được tham gia bàn bạc: “Bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt ra kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương” (7).

Cần hiểu rõ nguyện vọng của dân. Họ muốn được tôn trọng, được bày tỏ ý kiến. Họ rất tốt, rất khôn khéo, họ biết rất nhiều điều mà chúng ta không biết. Hơn nữa: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do… Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý” và từ đó họ “tự do phục tùng chân lý” (8). Phải chăng năng suất, chất lượng, hiệu quả của mọi công việc đều có nguồn gốc từ đây bởi ở đây, nhân dân đã phát huy được quyền dân chủ bằng năng lực và sức sáng tạo của mình.

Thứ ba, sau khi dân được biết, được hiểu, được bàn bạc và được xây dựng kế hoạch của địa phương mình, cơ sở mình, họ sẽ dùng chính sức lao động của họ vào những việc làm, hành vi, nhiệm vụ cụ thể một cách tự giác… Lúc này nhiệm vụ của lãnh đạo là “động viên và tổ chức cho toàn dân ta thi hành, phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân”, phải biết “đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân” có như vậy mới động viên được đông đảo nhân dân tích cực tham gia và thực hiện mọi kế hoạch của địa phương cơ sở.

Thứ tư, “Khi thi hành xong phải cùng với nhân dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng” (9). Đây là công đoạn cuối cùng của quy trình tiến hành thực hiện dân chủ của mỗi tổ chức, đơn vị, địa phương, cơ sở. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng việc kiểm tra, rút kinh nghiệm là vô cùng quan trọng và cần thiết giúp chúng ta thực hiện tốt những nhiệm vụ khác. Dân kiểm tra cán bộ, cán bộ kiểm tra dân, dân và cán bộ cùng kiểm tra mọi hoạt động và lề lối làm việc sao cho dân chủ , cấp trên phải thường xuyên kiểm tra cấp dưới, cấp dưới phải phê bình cấp trên, nhất là phê bình từ dưới lên. Kiểm tra chỉ có hiệu lực nếu được thực hiện một cách nghiêm túc, được đánh giá một cách khách quan, được tiến hành bằng những giải pháp khéo léo, tinh tế mà Người gọi là “phải kín đáo”. Thanh tra chỉ có hiệu lực nếu được tiến hành một cách đột xuất hiện và bất ngờ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm kiểu mẫu cho phương pháp kiểm tra, thanh tra khoa học và có hiệu quả ấy. Đồng thời với mong muốn của Chính phủ: “đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để cán bộ làm tròn nhiệm vụ… người đầy tớ trung thành, tận tụy của nhân dân” (10), Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên kêu gọi nhân dân giám sát công việc của Chính phủ từ Trung ương. Bằng tình cảm chân thành nhất, Người nói: “Từ ngày thành lập Chính phủ, trong nhân viên có nhiều khuyết điểm. Có người làm quan cách mạng, chợ đỏ, chợ đen, khinh dân, mưu vinh thân, phì gia… Xin đồng bào hãy phê bình giúp đỡ giám sát công việc Chính phủ” (11).

Dân kiểm tra là một nội dung về quyền dân chủ nhằm dựa vào dân mà xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nuớc và các tổ chức đoàn thể nhân dân thật sự vững mạnh, trong sạch nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Việc đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu, cậy thế, trái phép… chỉ có thể thực hiện hiệu quả nếu biết dựa vào sự kiểm tra, giám sát của quần chúng nhân dân.

Trong quá trình mở rộng và thực hiện quyền làm chủ nhân dân ở nước ta hiện nay. Đảng ta coi dân chủ cơ sở là khâu quan trọng nhất. Quan điểm đó được xây dựng trên cơ sở nền tảng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dân chủ nói chung, dân chủ cơ sở nói riêng và yêu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam hiện nay. Cở sở (xã, phường, cơ quan, trường học, bệnh viện, doanh nghiệp…) là nơi trực tiếp thực hiện mọi đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, là địa bàn nhân dân sinh sống, lao động, sản xuất, công tác và học tập. Cơ sở là nơi diễn ra sự tiếp xúc , mối quan hệ nhiều mặt giữa các tầng lớp nhân dân với Đảng bộ và chính quyền, với cán bộ công chức điều hành xử lý công việc hàng ngày.

Cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp kéo dài trước thời kỳ đổi mới đã hạn chế dân chủ, làm cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội có nguy cơ chệch hướng. Ngày nay, đông đảo nhân dân ở cơ sở có những yêu cầu bức xúc về dân chủ, có những nguyện vọng và lợi ích thiết thân trong cuộc sống hàng ngày. Họ đòi hỏi được biết, được bàn, được tham gia giải quyết những vấn đề đặt ra ở cơ sở, đồng thời có yêu cầu kiểm tra, giám sát những việc làm hàng ngày của cán bộ lãnh đạo. Lê-nin đã chỉ ra rằng: Không chỉ tuyên truyền về dân chủ, tuyên bố và ra sắc lệnh về dân chủ là đủ, không phải chỉ giao trách nhiệm thực hiện chế độ dân chủ cho “những người đại diện” nhân dân trong những cơ quan đại biểu là đủ. Cần phải xây dựng chế độ dân chủ, bắt đầu từ cơ sở, dựa vào sáng kiến của bản thân quần chúng, sự tham gia thực sự của quần chúng vào mọi công việc của Nhà nước.

Thực tế cho thấy, ở đâu và lúc nào thực hiện tốt dân chủ cơ sở thì ở đó đoàn kết, tập hợp được quần chúng nhân dân, tích cực tham gia và đạt kết quả toàn diện, vững chắc. Ngược lại, nơi nào xem nhẹ dân chủ, để mất dân chủ, cán bộ xa rời quần chúng nhân dân, quan liêu, cửa quyền, thiếu trách nhiệm, thiếu đạo đức, không lắng nghe, tôn trọng và không quan tâm đến tâm tư, nguyện vọng, lợi ích của quần chúng nhân dân… thì nơi ấy sẽ rất khó thực hiện đúng và đưa ra chủ trương, đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước đến với người dân, sẽ không thể nào có kết quả cao.

Dân chủ cơ sở cũng là một trong những tư tưởng cơ bản xuyên suốt trong tư tưởng dân chủ của chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng dân chủ của Người luôn xoay quanh cái cốt lõi: Dân là gốc. Dân là gốc thì dân phải là chủ và dân phải làm chủ. Nhân dân có quyền lợi làm chủ thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân. Người đánh giá rất cao về dân chủ: Dân chủ là thứ quý báu nhất của nhân dân. Thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn. Điều đáng mừng là, hiện nay, chúng ta đang thực hiện dân chủ ở cơ sở, thông qua việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đã và đang thực hiện tốt hơn chức năng và nhiệm vụ của mình theo đúng đường lối của Đảng và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh với nhiều nội dung và hình thức phong phú, đạt được nhũng kết quả tốt.

Chú thích:

(1.2). Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, HN.2000 Tập. 5, tr.698.
(3.4). Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hn. 2000 T.6, Tr90,88
(5). Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hn. 2000 T.10, tr.404.
(6). Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hn. 2000 T.7, tr25.
(7). Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hn. 2000 T.5, tr.698-699.
(8). Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hn. 2000 T.8, tr.216.
(9). Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hn. 2000 T.5, tr.699.
(10). Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hn. 2000 T.7, tr361-362.
(11). Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hn. 2000 T.5, tr61.

Theo Nguyễn Văn Công
PGĐ Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch
Kim Yến

bqllang.gov.vn

Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá, văn nghệ

Bác Hồ tiếp đại biểu Hội Văn nghệ giải phóng miền Nam Việt Nam, năm 1966, tại Phủ Chủ tịch.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến vai trò của nghệ sĩ. Theo Người, trên mặt trận này, những người làm công tác văn hóa, văn nghệ phải thấm nhuần quan điểm: Nghệ thuật – vũ khí, nghệ sĩ – chiến sĩ. Muốn nghệ thuật trở thành vũ khí và người nghệ sĩ đồng thời là chiến sĩ thì người nghệ sĩ phải đi thực tế, phải “ba cùng” với nhân dân.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá, nghệ thuật được coi là một di sản phi vật thể quý báu của dân tộc Việt Nam. Thế giới suy tôn Người là danh nhân văn hóa bởi Người là một nhà văn hóa hành động theo đúng nghĩa “nếu văn hoá là nhu cầu của sự sinh tồn của loài người thì văn hoá ấy phải phục vụ cho chính con người”. Trong tư tưởng của Người, văn hoá được đề cập đến hết sức bình dị mà sâu sắc, bao hàm cả văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người sản sinh ra nhằm thích ứng nhu cầu của đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, văn học, nghệ thuật là một trong những cách thể hiện đặc biệt và hiệu quả trên mặt trận văn hoá mà Người đề cập đến. Mặt trận văn hóa cũng như các mặt trận chính trị, quân sự, kinh tế… Xem văn hóa, nghệ thuật là một mặt trận nhằm nhấn mạnh đến tính chất quyết liệt của cuộc đấu tranh trên mặt trận này. Tuy không có tiếng súng, kẻ thù không trực tiếp, nhưng tính chất phức tạp và quyết liệt của mặt trận này đã được thực tiễn lịch sử chứng minh. Quan điểm này từng được Người phát biểu từ thời kỳ trước cách mạng và những năm đầu của cuộc kháng chiến.

Ngược dòng lịch sử, chúng ta thấy văn học, nghệ thuật là một thứ vũ khí đấu tranh có hiệu quả. Từ những câu ca dao, tục ngữ mang nội dung phản phong châm biếm, đả kích giai cấp thống trị đến các loại truyện cổ tích, truyện cười có nội dung đấu tranh xã hội cao. Những áng văn chương lớn trong văn học như “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, “Truyền Kiều” của Nguyễn Du, thơ Hồ Xuân Hương, thơ Đồ Chiểu đều có giá trị về tư tưởng và có tinh thần đấu tranh mạnh mẽ. Nguyễn Đình Chiểu đã từng đề xướng quan điểm tiến bộ về văn học nghệ thuật: “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm/ Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”. Á Nam Trần Tuấn Khải cũng xem văn chương thực sự có khí phách và linh hồn khi gắn với hồn thiêng đất nước: “Đời không duyên nợ thà không sống/ Văn có non sông mới có hồn”. Năm Đinh Mão 1927, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết cuốn “Đường cách mệnh”. Thông qua tác phẩm, Người muốn thay đổi quan niệm phong kiến trước đây bằng cách tạo ra một thế giới quan mới cho thế hệ thanh niên yêu nước. Đó là thế giới quan hiện thực về người chiến sĩ cách mạng có tư cách, dũng khí, có phẩm chất đạo đức cần thiết với mình, với người và với công việc, có tinh thần quốc tế trong sáng. Bác viết tác phẩm này với mục đích thiết thực: Sách này chỉ ước ao sao đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh rồi thì đứng lên đoàn kết với nhau mà làm cách mệnh. Còn trong bài thơ “Cảm tưởng đọc Thiên gia thi”, Người cũng khẳng định: “Nay ở trong thơ nên có thép/ Nhà thơ cũng phải biết xung phong”. Chất thép là tính chiến đấu, là nội dung đấu tranh xã hội của thơ ca. Đây có thể được coi là tuyên ngôn nghệ thuật của Người và đó cũng là đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng. Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 cũng nhấn mạnh tính chiến đấu của văn hóa, văn nghệ trên lập trường giai cấp vô sản theo phương châm “dân tộc, khoa học và đại chúng”.

Trong Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa năm 1951, Người căn dặn: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy. Cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định, tức là phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, trước hết là công, nông, binh… Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”.

Quan điểm “văn học, nghệ thuật cũng là một mặt trận” thấm sâu trong nhận thức của các nhà văn, nhà thơ đi theo Đảng suốt những năm tháng kháng chiến cũng như những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà thơ Sóng Hồng đã lên tiếng khẳng định: “Dùng bút làm đòn chuyển xoay chế độ/ Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền”. Nhà thơ Tố Hữu bộc lộ quan điểm nhân sinh và nghệ thuật của mình qua bài thơ “Từ ấy”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến vai trò của nghệ sĩ. Theo Người, trên mặt trận này, những người làm công tác văn hóa văn nghệ phải thấm nhuần quan điểm: Nghệ thuật – vũ khí, nghệ sĩ – chiến sĩ. Muốn nghệ thuật trở thành vũ khí và người nghệ sĩ đồng thời là chiến sĩ thì người nghệ sĩ phải đi thực tế, phải “ba cùng” với nhân dân. Đây cũng chính là quan điểm của Người trong thư gửi các họa sĩ trong năm Tân Mão 1951: “Về sáng tác, thì cần hiểu thấu, liên hệ và đi sâu vào đời sống của nhân dân. Như thế mới bày tỏ được tinh thần anh dũng và kiên quyết của quân và dân ta, đồng thời để giúp phát triển và nâng cao cho tinh thần ấy”. Có thể thấy, Bác quan tâm đến hầu hết các vấn đề của văn nghệ: từ chức năng, tính chất của nghệ thuật đến vai trò của văn nghệ, từ nguồn gốc của nghệ thuật đến đối tượng phục vụ, phạm vi phản ánh; mối quan hệ giữa nghệ sĩ, tác phẩm và công chúng; sự thống nhất giữa nội dung và hình thức của tác phẩm; mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế, chính trị và văn học, tư tưởng và nghệ thuật, tự do sáng tạo và những nguyên tắc cần tôn trọng; từ mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển, phổ cập và nâng cao đến làm thế nào cho tác phẩm có tính hấp dẫn, có sức cuốn hút thông qua cách viết, cách thể hiện…

Trong bài phát biểu tai Hội nghị cán bộ văn hóa năm 1958, Người thân mật căn dặn anh chị em rằng: “Cơ quan trong Bộ Văn hoá, các cơ quan các ngành, các ty văn hoá thì cần xuống nông thôn, vào nhà máy, vào bộ đội nhiều hơn nữa, mà đi vào như thế thì phải cùng làm, cùng ăn, cùng ở với nhân dân. Chứ nếu đi xuống nông thôn mà lại lao động phất phơ, ở riêng thì cảm thông sao cho được, gần gũi sao cho được với công nông, với bộ đội. Muốn thật sự gần gũi quần chúng thì phải cùng ăn, cùng ở, cùng làm, mới biết sinh hoạt của quần chúng như thế nào, mới biết khó khăn, biết chí khí của quần chúng như thế nào, mới biết nguyện vọng của quần chúng như thế nào”.

Học tập và làm theo lời Bác dạy, trong đời sống văn nghệ đã hình thành lớp lớp nhà văn chiến sĩ, những nhà văn hăng hái tham gia vào sự nghiệp cách mạng, dùng ngòi bút của mình phục vụ cho cách mạng một cách tận tụy, hết mình. Nhiều nhà văn trong kháng chiến chống Pháp đã lăn lộn ở chiến trường, tham gia các chiến dịch Thu đông, Việt Bắc, Biên giới, Điện Biên Phủ… Trong số đó có nhiều người đã hi sinh anh dũng như các nhà văn – chiến sĩ Nam Cao, Trần Đăng, Trần Mai Ninh… Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, hàng chục ngàn văn nghệ sĩ đã “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” đến với tiền tuyến lớn và có những đóng góp quan trọng cho sự nghiệp thống nhất nước nhà, như các nhà văn Anh Đức, Nguyễn Thi, Nguyễn Sáng, Phan Tứ, Nguyễn Trung Thành, Trần Hiếu Minh, Lê Anh Xuân, Dương Thị Xuân Quý v.v. trong số họ có nhiều người đã ngã xuống trong cuộc chiến dành lại độc lập, tự do cho non sông, đất nước.

Lời dạy văn nghệ sỹ của Bác Hồ nhằm nâng cao tinh thần cảnh giác, mài sắc ý chí chiến đấu cho những người cầm bút bởi kẻ thù luôn tìm cách tiến công trên mặt trận văn hóa, gieo rắc nọc độc tư tưởng, làm lung lay tinh thần chúng ta trên mặt trận không có tiếng súng này. Với tư cách là người đặt nền móng cho nền văn nghệ cách mạng, Bác Hồ kính yêu đã có công gây dựng một nền văn nghệ mới, đồng thời có những lời chỉ bảo tận tình, cần thiết cho đội ngũ những người làm công tác văn hóa văn nghệ, đặc biệt là các anh chị em nghệ sĩ. Tư tưởng đó của Người chính là ánh sáng soi đường cho sự phát triển của nền văn hóa nghệ thuật của nước ta. Hơn 60 năm trôi qua, nhưng đội ngũ văn nghệ sĩ chúng ta vẫn luôn khắc nhớ, đinh ninh lời Bắc căn dặn ngày nào: “Văn hóa, văn nghệ cũng như mọi hoạt động khác, không thể ở ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”; “Văn hóa, nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”…

Nguyễn Thị Thọ
Trường CĐSP, 123 Nguyễn Huệ, TP. Huế.
qdnd.vn

————————

Tài liệu tham khảo:
1. Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, NXB Sự thật, H.1970
2. Danh nhân Hồ Chí Minh, NXB Lao động, H.2000.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nêu gương

Gương mẫu là một mệnh lệnh không lời. Sức mạnh của nêu gương đạo đức vô cùng to lớn. Thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự nêu gương về đạo đức, tạo sức mạnh tổng hợp thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng đầy gian khổ, hy sinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là một tấm gương đạo đức mẫu mực cho mọi người học tập và noi theo. Tấm gương đạo đức của Người đã đạt tới sự thống nhất chặt chẽ giữa nói và làm, giữa giáo dục đạo đức và nêu gương đạo đức, đạt tới sự nhất quán giữa công việc và đời tư, giữa đạo đức vĩ nhân và đạo đức đời thường. Người nhận thức rằng: Đối với các dân tộc phương Đông thì “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”(1). Do vậy, khi địa vị càng cao, uy tín càng lớn, Hồ Chí Minh càng ra sức tự hoàn thiện để trở thành tấm gương đạo đức trọn vẹn.

Sinh thời, khi nước nhà vừa giành được độc lập năm 1945, đứng trước nạn đói đang đến gần, Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân diệt “giặc đói” bằng một hành động cụ thể, mười ngày nhịn ăn một bữa để lấy số gạo đó cứu những người bị đói và chính Người đã làm gương thực hiện trước. Hồ Chí Minh đã tiếp thu truyền thống “thương người như thể thương” của dân tộc, nâng lên thành triết lý hành động cách mạng vì dân, vì nước trong mỗi con người.

Theo Hồ Chí Minh, nêu gương thì trước hết phải làm gương trong mọi công việc từ nhỏ đến lớn, thể hiện thường xuyên, về mọi mặt, phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, nói phải đi đôi với làm. Trong đó chủ yếu trên ba mối quan hệ đối với mình, đối với người, đối với việc. Đối với mình phải không tự cao tự đại, tự mãn, kiêu ngạo mà luôn học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân, phải tự phê bình mình như rửa mặt hàng ngày; đối với người, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc, khoan dung, độ lượng; đối với việc, dù trong hoàn cảnh nào phải giữ nguyên tắc “dĩ công vi thượng” (để việc công lên trên, lên trước việc tư), đã phụ trách việc gì thì phải tận tâm, tận lực làm cho kỳ được, không sợ khó khăn, gian khổ, việc gì có lợi cho dân thì phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh.

Để giáo dục bằng nêu gương đạt kết quả cao, Người chủ trương: “Lấy gương người tốt việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”(2). Trong gia đình, cha mẹ có thể là tấm gương cho các con, anh chị là tấm gương đối với các em; trong nhà trường, thầy, cô giáo là tấm gương cho học trò; trong cơ quan, tổ chức thì cán bộ lãnh đạo là tấm gương cho cấp dưới, người này có thể nêu gương cho người khác. Trong cuộc sống hàng ngày, người cán bộ, đảng viên chẳng những phải có trách nhiệm tự tu dưỡng tốt để trở thành con người có đời tư trong sáng mà còn phải là tấm gương giúp nhân dân nhìn vào đó làm những điều đúng, điều thiện, chống lại thói hư, tật xấu.

Xây phải đi đôi với chống. Hồ Chí Minh đã sớm khởi xướng và kiên trì cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân trong mọi thời điểm cách mạng. Người chỉ rõ: “Muốn xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải chiến thắng kẻ thù bên trong của mỗi chúng ta là chủ nghĩa cá nhân”(3). Vì chủ nghĩa cá nhân là căn bệnh chính, đẻ ra trăm thứ bệnh và nhiều thói hư tật xấu trong cán bộ, đảng viên. Nguy hiểm hơn, “những người mắc bệnh này thì đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của Đảng, của dân tộc, do đó mà “tự tư tự lợi”. Dùng của công làm việc tư. Dựa vào thế lực của Đảng để theo đuổi mục đích riêng của mình”. Người đã tiên lượng, thấy trước tính nguy hiểm, độc hại của chủ nghĩa cá nhân khi nước ta hòa bình, thống nhất: “Việc đấu tranh với kẻ địch ở tiền tuyến còn dễ, nhưng việc đấu tranh với kẻ địch trong người, trong nội bộ, trong tinh thần là một khó khăn, đau xót”(4). Những dự cảm, tiên lượng đó của Người đã được thực tiễn chứng minh, làm rõ.

Không lâu trước khi qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”(5). Bởi vì “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”(6).

Đảng ta đang triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, khách quan, không nể nang, né tránh”. Nghị quyết thẳng thắn chỉ ra rằng: Hiện nay, “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc…”(7).

Thực hiện Nghị quyết, Đảng nêu 4 nhóm giải pháp, trong đó chú trọng nhất, tiên quyết là “nhóm giải pháp về tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của cấp trên”. Như vậy, để tiếp tục thực hiện các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, các quy định về xây dựng Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4, Đảng ta một lần nữa yêu cầu phải “phát huy vai trò tiên phong gương mẫu trong công tác, học tập, lối sống” của mỗi đảng viên ở nơi công tác, trong tổ chức đảng và ở nơi cư trú.

Bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế, nước ta đang đối mặt với nhiều thách thức. Thách thức lớn nhất vẫn là một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thoái hóa biến chất về đạo đức, lối sống sẽ làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Mất lòng tin của dân là mất tất cả. Bởi vì, một khi quần chúng nhân dân đã mất niềm tin vào đạo đức của người cầm quyền, người lãnh đạo thì niềm tin chính trị của họ cũng không còn. Người lãnh đạo có được dân “tâm phục khẩu phục” hay không là ở chỗ đó. Sau khi Lênin qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng viết những dòng xúc động về tấm gương đạo đức vĩ đại của V.I.Lênin: “Không phải chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người không gì ngăn cản nổi”(8). Đến lượt mình, Hồ Chí Minh đã để lại một tấm gương đạo đức cao đẹp trong sáng, trở thành một trong những người có ảnh hưởng sâu rộng nhất đối với nhân dân các nước trên thế giới trong thế kỷ XX. Gương mẫu là một mệnh lệnh không lời. Sức mạnh của nêu gương đạo đức vô cùng to lớn.

Thực hiện Chỉ thị số 03 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự nêu gương về đạo đức. Nêu gương sẽ có “hiệu ứng lan tỏa, lôi kéo quần chúng noi theo “đảng viên đi trước, làng nước đi sau”, tạo thành sức mạnh tổng hợp thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI “ Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.

Hoàng Ngọc Đạo
Trường Chính trị tỉnh Khánh Hòa
Số 1 Trần Hưng Đạo, TP. Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa
xaydungdang.org.vn

——————-

(1). Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, H.2002, tập 1, tr.263. (2). Sách đã dẫn, tập 12, tr.558. (3). Sđd tập 11, tr.373. (4). Sđd tập 7, tr.36. (5). Sđd tập 12, tr.557. (6). Sđd tập 9, tr.293. (7). Văn kiện: Hội nghị lần thứ 4 BCHTW khóa XI, NXBCTQG, H.2012, tr.22. (8). Sđd tập 1, tr.295.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân

CPV- Bằng đường lối chính trị đúng đắn, bằng mục tiêu chính trị đúng đắn với sự mềm dẻo, linh hoạt trong chỉ đạo, Hồ Chí Minh đã thực hiện thành công việc tập hợp toàn dân vào các hình thức mặt trận, phát huy đến cao độ khả năng của dân trong cuộc kháng chiến toàn dân toàn diện, trường kỳ để rồi bằng chính sức mạnh của mình giành thắng lợi.

Tư tưởng quốc phòng toàn dân của Hồ Chí Minh được biểu hiện trước hết là việc phát động một cuộc chiến tranh nhân dân, dùng sức mạnh của toàn dân để đánh thắng kẻ thù.

Kế thừa truyền thống “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” của dân tộc, vận dụng quan điểm “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” của chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Dân là chủ, kháng chiến kiến quốc là sự nghiệp của dân; có dân là có tất cả; khởi nghĩa toàn dân để giành lại nền độc lập cho dân tộc, kháng chiến toàn dân để giữ vững nền độc lập ấy. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp, Hồ Chí Minh viết: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”. Trong quá trình kháng chiến, Người đã nhiều lần khẳng định: 20 triệu đồng bào Việt Nam quyết đánh tan mấy vạn quân thực dân phản động. Bước vào cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Người kêu gọi toàn dân với tinh thần: mỗi làng xóm là một pháo đài, mỗi người dân là một chiến sĩ, quyết tâm “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”.

Hai là, xây dựng lực lượng quân sự bao gồm ba thứ quân, kết hợp xây dựng lực lượng chính trị rộng khắp và chặt chẽ giữa đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, sử dụng linh hoạt các phương pháp tiến công.

Ngay khi Đảng ra đời, dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh, Đảng ta đã chú ý xây dựng các hình thức mặt trận. Mặt trận chính là tổ chức nhằm tập hợp đông đảo, rộng rãi các tầng lớp nhân dân. Đây là cơ sở để xây dựng một đội quân chính trị rộng khắp.

Trong xây dựng lực lượng vũ trang, Hồ Chí Minh hết sức chú ý đến việc giáo dục tư tưởng chính trị và nhiệm vụ chính trị cho họ. Đội quân chủ lực đầu tiên của cách mạng là Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Ở Hồ Chí Minh, giữa chính trị và quân sự có mối quan hệ mật thiết. Dùng chính trị để phục vụ cho quân sự, dùng quân sự để xây dựng chính trị và kết hợp chính trị với quân sự để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc bằng tinh thần và sức mạnh của toàn dân.

Ba là, kết hợp giữa kháng chiến và kiến quốc, giữa mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Tư tưởng này được thể hiện rất rõ trong hai cuộc kháng chiến. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người chủ trương “Vừa kháng chiến vừa kiến quốc”, khẩn trương xây dựng chính quyền và Mặt trận Liên Việt, kêu gọi toàn dân thi đua ái quốc “chống giặc đói, chống giặc dốt, chống giặc ngoại xâm”, “hậu phương thi đua với tiền phương”, “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, thi đua thực hành cần, kiệm, liêm, chính, thi hành đúng chính sách của Đảng và Chính phủ, thực hiện các chính sách bồi dưỡng sức dân để kháng chiến lâu dài.

Trong kháng chiến chống Mỹ, Người chủ trương xây dựng miền Bắc làm hậu phương vững chắc cho tiền tuyến miền Nam và là cơ sở vững chắc cho công cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Người đã động viên quân và dân miền Bắc ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện cả nước có chiến tranh, phát triển kinh tế, văn hóa, xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, đánh bại chiến tranh phá hoại của địch và chi viện cho miền Nam, với tinh thần “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”.

Tiếp nối tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân, hiện nay, Đảng ta rất coi trọng việc giáo dục ý thức quốc phòng cho các tầng lớp nhân dân, kêu gọi nhân dân đề cao cảnh giác, chống các âm mưu và thủ đoạn của địch trong chiến lược “diễn biến hòa bình”. Cùng với chiến lược phát triển kinh tế, Đảng ta đề ra chiến lược về quốc phòng và an ninh quốc gia; kết hợp kinh tế với quốc phòng; kết hợp giữa xây dựng lực lượng vũ trang chính quy với các lực lượng tự vệ ở các địa phương, tạo nên thế trận quốc phòng toàn dân nhằm xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

ĐTH – ĐQ

sites.google.com

Tư tưởng đoàn kết quân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh

(Congannghean.vn) – Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mối quan hệ quân dân là mối quan hệ đặc biệt, “quan hệ cá nước”. Trong đó, “nhân dân là nền tảng, là cha là mẹ của bộ đội” (Hồ Chí Minh toàn tập. T5).

Quân đội muốn hoàn thành được nhiệm vụ cao cả mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó thì phải gắn bó mật thiết máu thịt với nhân dân. Bởi vì, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng mọi sức mạnh đều ở nhân dân, từ cơm ăn, áo mặc, xe cộ đi lại đến vũ khí đánh giặc đều do mồ hôi công sức nhân dân mà có.

Trước ngày thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, trong một lần trò chuyện với đồng chí Võ Nguyên Giáp ở Pắc Bó (Cao Bằng), Bác nhắc đi nhắc lại nhiều lần rằng: “Phải biết dựa vào dân, dựa chắc vào dân thì kẻ địch không thể nào tiêu diệt được”.

Đó chính là nền tảng ban đầu cho vấn đề đoàn kết quân – dân. Ngay trong chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Bác cũng đã nêu rõ: “Vì cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến của toàn dân, cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân”.

Những ngày đầu thành lập, những người đứng đầu Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân hỏi Bác: Đội tuyên truyền hoạt động theo kế hoạch của liên tỉnh, khi tới địa phương thì quan hệ thế nào? Bác nói: “Thống nhất chỉ đạo cả chủ lực và địa phương. Ba lực lượng ấy đoàn kết, phối hợp chặt chẽ với nhau…”. Đó cũng chính là phương châm mà quân đội ta đã thực hiện trong suốt hai cuộc kháng chiến lâu dài.

Trong hồi ký “Một lòng theo Bác”, Thượng tướng Chu Văn Tấn có viết: Bác căn dặn rằng: “Cán bộ không được tự kiêu, tự mãn như ông tướng, mà phải khiêm tốn… Phải lấy dân làm gốc như cá dựa vào nước tùy theo lực lượng của quần chúng mà nâng dần lên; Phải gương mẫu, chịu hi sinh gian khổ, đi đầu trong mọi khó khăn…”. Bộ đội về Bắc Sơn, Vũ Nhai đánh giặc, tới Đông – Ngàn, thấy quần chúng đông nghịt như hội, hát si, hát lượn… Hỏi ra thì biết, nhân dân tổ chức si lượn để che mắt địch, đón bộ đội.

Trong điều kiện hiện nay của đất nước ta, nhắc lại tư tưởng của Bác về vấn đề đoàn kết quân dân vẫn là điều vô cùng cần thiết và quan trọng. Để thực hiện tốt tư tưởng trên của Người và không ngừng tăng cường, củng cố, phát triển mối quan hệ máu thịt này, cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta đang ra sức thi đua và thực hiện tốt những vấn đề lớn theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quân dân.

Người khẳng định: “Quân đội ta là quân đội nhân dân, do nhân dân đẻ ra, vì nhân dân mà chiến đấu” (Hồ Chí Minh toàn tập. T5). Người luôn nhắc nhở, giáo dục cán bộ, chiến sĩ phải hiểu rõ: nhân dân là nền tảng, là gốc rễ sinh ra quân đội. Muốn quân đội vững mạnh thì phải dựa vào cái gốc, cái nền tảng ấy: “Gốc có vững cây mới bền/ Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”.

Nhân dịp kỷ niệm Quốc khánh lần thứ 2, Bác đã có thư gửi đồng bào, chiến sĩ và nêu rõ: “… Chúng gây nên chiến tranh… muốn chia rẽ dân ta… Trước sự xâm lược dã man đó, Chính phủ, quân đội và nhân dân ta đã đoàn kết thành một bức tường đồng, kiên quyết giữ gìn Tổ quốc, nhờ tinh thần đoàn kết, ý chí quật cường đó, mà hai năm kháng chiến… lực lượng của địch thì ngày càng hao mòn, ta thì càng đánh càng hăng, càng mạnh… Hãy tin tưởng vào vận mệnh lớn lao của Tổ quốc, tin tưởng vào sức đoàn kết, chiến đấu của ta… Tướng sĩ ở mặt trận, đồng bào ở hậu phương, ai nấy đều phải đoàn kết chặt chẽ… thì cuộc trường kì kháng chiến của ta nhất định thành công” (Hồ Chí Minh toàn tập, T4).

Bác dạy: “Mình đánh giặc là vì dân, nhưng mình không phải là “cứu tinh” của dân mà mình phải có trách nhiệm phụng sự nhân dân” (HCM toàn tập.T6). “Phải giúp đỡ nhân dân bất kì việc to, việc nhỏ” … Đó là điều “Thương dân, trọng dân, tốt với dân”. Có vậy, mới gắn bó chặt chẽ được với nhân dân, mới được dân tin, dân phục, dân yêu.

Quán triệt, thấm nhuần và tiếp thu tư tưởng đoàn kết quân dân của Hồ Chủ tịch, 67 năm qua, những thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam đã kế tiếp chăm lo xây dựng, giữ gìn mối quan hệ tốt đẹp, đoàn kết quân dân. Trong thời chiến cũng như trong thời bình, mối quan hệ quân dân cá nước, đoàn kết gắn bó keo sơn đó đã phát huy được sức mạnh hiệu quả của nó.

Nguyễn Thanh
congannghean.vn

Tư tưởng Hồ Chí Minh về “Thân dân” và “Dân chủ”

Kể từ lúc còn là người dân xứ thuộc địa ra đi tìm đường cứu nước cho đến khi đã trở thành vị Chủ tịch đầu tiên của Nhà nước Việt Nam độc lập, Hồ Chí Minh luôn luôn tâm niệm bốn chữ “yêu nước, thương dân”. Trong tư tưởng của Người, đất nước – Tổ quốc bao giờ cũng gắn liền với nhân dân. Nói yêu nước là phải nói tới yêu dân, lo cho dân, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân, tin tưởng ở sức mạnh của nhân dân. Nhân dân vừa là động lực của cách mạng, là nguồn sức mạnh quyết định mọi thắng lợi của cách mạng, vừa là đối tượng phục vụ của cách mạng, cách mạng phải mang lại quyền lợi cho nhân dân: Quyền con người và quyền công dân, quyền được ăn no mặc ấm, được học hành, quyền hưởng hạnh phúc.

1. Không gì quý bằng nhân dân

Truyền thống tốt đẹp của mỗi dân tộc bao giờ cũng được phát huy cùng sự trường tồn của dân tộc ấy. Qua mỗi giai đoạn lịch sử, dân tộc Việt Nam đã làm rạng rỡ những bài học quý giá của quá khứ, biến chúng thành những nhân tố góp phần chiến thắng cho cuộc đấu tranh hiện tại và góp phần mở ra triển vọng tươi sáng cho tương lai. Các anh hùng dân tộc của chúng ta sở dĩ làm nên nghiệp lớn, vì không bao giờ họ tách mình khỏi truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà ngược lại, bao giờ họ cũng tiêu biểu cho những nguyện vọng cao cả nhất, bức thiết nhất của mỗi thời đại. Là một anh hùng dân tộc vĩ đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế tục xứng đáng nhất sự nghiệp và công đức của những anh hùng đi trước, đã thu góp tinh hoa tư tưởng mà dân tộc ta đã xây dựng nên từ máu lửa của cuộc chiến đấu để sinh tồn và phát triển.

Các vị vua anh minh, các anh hùng trong lịch sử phong kiến Việt Nam đều có tư tưởng “thân dân”, biết dựa vào sức dân, phát huy sức mạnh toàn dân để xây dựng lực lượng vũ trang, tiến hành chiến tranh chống ngoại xâm. Trong Binh thư yếu lược, Trần Quốc Tuấn đưa ra kế sách “Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc”. Với niềm tin “chúng chí thành thành” (ý chí nhân dân là bức thành vững chắc), Trần Quốc Tuấn chủ trương lấy nông dân làm nguồn bổ sung dồi dào, vô tận cho quân đội thông qua hình thức bách tính giai vi binh (trăm họ là binh), tận dân vi binh (mỗi người dân là một người lính). Và đến thời của Nguyễn Trãi (thế kỷ XV) thì vai trò cứu nước của nhân dân chính thức được tuyên dương xứng đáng. Theo Nguyễn Trãi, “phúc chu thuỷ tín dân do thuỷ” tức là sức của dân như nước, nước chở thuyền và cũng có thể lật thuyền. Sau chiến thắng chống quân Minh, Nguyễn Trãi đã viết Đại cáo Bình Ngô không chỉ ghi công cho trời thần, danh tướng, mà còn cẩn trọng ghi công lao của nhân dân lao khổ – sức mạnh đầu tiên xung phong đánh thắng giặc Minh: “dựng gậy làm cờ, bốn phương dân cày tụ họp”.

Tiếp sau truyền thống của dân tộc, truyền thống gia đình cũng là một nhân tố quan trọng giúp cho Hồ Chí Minh sớm hình thành quan điểm coi trọng dân, hiểu dân, đánh giá cao vai trò của dân. Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là một người có tư tưởng yêu nước, thương dân. Với quan niệm học để làm người chứ không phải học để làm quan, vả lại trong hoàn cảnh đất nước bị thực dân Pháp thống trị, làm quan là làm tay sai cho giặc, là đắc tội với đồng bào, nên sau khi đỗ Phó bảng (năm 1901), cụ đã lần lữa việc ra làm quan nhiều năm. Mãi đến năm 1906, cụ được bổ nhiệm làm thừa biện Bộ Lễ, phụ trách “công việc trường ốc”. Tiếp xúc với học trò, cụ thường nói: “Quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ, hựu nô lệ” nghĩa là: Làm quan là nô lệ trong đám nô lệ, lại càng nô lệ hơn. Sự tức chí đó khiến cụ bị triều đình cho là “bất phùng thời”, phải đi khỏi kinh đô để vào làm tri huyện Bình Khê (Bình Định). Ngồi ghế Tri huyện nhưng cụ thường giao du với các nhà Nho yêu nước ở địa phương hơn là có mặt ở công đường, tạo điều kiện cho những nông dân thiếu tiền thuế, những người tham gia phong trào chống thuế… đang bị giam cầm, trốn thoát. Cụ rất oán ghét bọn cường hào bức hiếp nông dân và thường đứng về phía nông dân chống lại chúng.

Tư tưởng yêu nước, thương dân của người cha đã ảnh hưởng sâu sắc tới thời niên thiếu của Nguyễn Tất Thành. Mặt khác, trong quá trình trưởng thành ở quê nhà, rồi đi học ở Huế, càng đi vào cuộc sống của nhân dân, Nguyễn Tất Thành càng thấm thía thân phận cùng khổ của người dân mất nước. Người đã tận mắt chứng kiến cảnh đoạ đày dân đi phu ở Cửa Rào (Nghệ An) và tự bản thân Người cũng đã tham gia những cuộc biểu tình đòi giảm sưu, giảm thuế của nông dân sáu huyện của tỉnh Thừa Thiên (tháng 4-1908). Ấn tượng theo suốt cuộc đời Người là hình ảnh những người dân mất nước cần được giải phóng khỏi đoạ đày, đau khổ, cần được sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Tư tưởng đó, thực tế đó đã nằm trong hành trang của Người khi xuất dương tìm đường cứu nước. Với dự định: “Tôi muốn đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”, ngay từ những ngày hoạt động cách mạng đầu tiên trên đất Pháp, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã lấy tên là Nguyễn Ái Quốc.

Khi viết tác phẩm “Đường cách mệnh”, Nguyễn Ái Quốc đã khảo cứu về các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới: Cách mạng Mỹ năm 1776, cách mạng Pháp năm 1789 và cách mạng Nga năm 1917. Từ sự phân tích nội dung, tính chất các cuộc cách mạng ở Mỹ, ở Pháp, Người đi đến kết luận: đó đều là những cuộc cách mạng không đến nơi – nghĩa là cách mạng rồi mà dân vẫn bị áp bức, bóc lột. Người chỉ rõ: “chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”(1). Người khẳng định chỉ có cách mạng Tháng Mười Nga là đã thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng hạnh phúc tự do, bình đẳng thật sự. Bài học mà Nguyễn Ái Quốc rút ra qua nghiên cứu cách mạng Tháng Mười Nga là: Cách mạng Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mạng thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc.

Sau khi tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, đi theo con đường cách mạng Tháng Mười Nga, tán thành và gia nhập Quốc tế III, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc tiếp nhận thêm quan điểm về “Dân” của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đó là quan điểm coi quần chúng nhân dân là những người làm ra lịch sử. Nhưng chữ “Dân” của những người sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa học đã được Nguyễn Ái Quốc cụ thể hoá trong hoàn cảnh của Việt Nam. Người quan niệm “Dân” là bao gồm toàn bộ những người lao động và những người có tinh thần yêu nước. Như vậy phạm vi “Dân” của Hồ Chí Minh rất rộng, bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, cùng nguồn gốc, tổ tiên là dân tộc Việt Nam, cùng có chung một điều là tinh thần yêu nước. Không chỉ có thế, Hồ Chí Minh còn chú ý đến cái lõi giai cấp trong quảng đại quần chúng nhân dân – công nhân, nông dân và trí thức (công-nông-trí). Với đặc điểm này, khái niệm nhân dân của Hồ Chí Minh vừa bảo đảm đúng theo tinh thần chủ nghĩa Mác-Lênin về quan điểm giai cấp khi tập hợp lực lượng cách mạng, vừa rất phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh Việt Nam, nơi giai cấp công nhân còn ít ỏi, nông dân chiếm hơn 90% dân số, tầng lớp thanh niên trí thức có tinh thần yêu nước, cách mạng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh tin vào vai trò to lớn của nhân dân Việt Nam trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm và thấy đó là sức mạnh vô tận của dân tộc mà Đảng Cộng sản phải trân trọng. Người khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”(2). Hồ Chí Minh đánh giá đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước, đều có lòng nồng nàn yêu nước, sẵn sàng hy sinh tất cả để phục vụ Tổ quốc. Cho nên mỗi khi cách mạng cần đến sức người, sức của thì nhân dân đều nhiệt liệt hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và Chính phủ, nhờ vậy cách mạng đã thành công, kháng chiến đã thắng lợi. Người hỏi: “Cách mạng thành công là do ai?” và trả lời “do quần chúng”. Người khẳng định một cách chắc chắn rằng “nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng”(3). Do đó mà “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng đoàn kết của nhân dân”(4). Người đã dùng những lời lẽ tôn vinh nhân dân lên hàng tối thượng trong tất cả các lực lượng và chỉ rõ vai trò to lớn nhất của nhân dân mà không có lực lượng nào có thể sánh được.

2. Nước ta là một nước dân chủ

Con người là một giá trị cao quý và là mục tiêu của bất cứ cuộc cách mạng nào. Chính vì vậy, bảo vệ và phát huy các quyền cơ bản của con người phải là trọng tâm và là cái đích cuối cùng của mỗi cuộc cách mạng, của mỗi thể chế tiến bộ. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, cứu nước thực chất là cứu dân, mưu độc lập cho dân tộc thực chất là mưu cầu độc lập tự do cho nhân dân. Phấn đấu cho một xã hội mà ở đó dân tộc được độc lập, dân quyền được tự do, dân sinh được hạnh phúc là tiêu chí xem xét một cuộc cách mạng, cũng là sự nghiệp cả cuộc đời Người mong đạt tới. Người khẳng định: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(5).

Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc – kỷ nguyên độc lập tự do và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Sự kiện lịch sử trọng đại này gắn liền với tên tuổi Chủ tịch Hồ Chí Minh, người giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, xây dựng lực lượng, căn cứ địa cách mạng, lãnh đạo Tổng khởi nghĩa và đặc biệt là soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà. Bản Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc ngày 2-9-1945 đã và đang còn vang vọng những lời bất hủ, những giá trị cao đẹp của nhân loại:

“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

“Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.

“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc lại câu mở đầu của bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776, một câu trong bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của nước Pháp 1789 nhằm vạch ra rằng những tư tưởng đó là những ý kiến chung có giá trị tiến bộ toàn nhân loại, là những lẽ phải không ai có thể chối cãi được. Và tư tưởng của Việt Nam về quyền con người cũng có nội dung phổ biến như vậy, có chung lý tưởng với nhân loại về quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của con người. Đó là lẽ tự nhiên, là tạo hoá chứ không phải do ai ban phát. Nhưng, nét sáng tạo độc đáo của Tuyên ngôn độc lập 2/9/1945 là ở chỗ: có sự mở rộng khái niệm quyền con người ra đến “quyền làm người”, đến “quyền dân tộc”. Những tư tưởng này được phát triển từ những tư tưởng đòi các quyền, các yêu sách của nhân dân An Nam từ năm 1919 của Hồ Chí Minh. Nó chứng tỏ tư duy lý luận của Hồ Chí Minh đạt đến mức biện chứng sâu sắc. Nó xuất phát từ thực tế lịch sử dân tộc ta, gần một thế kỷ bị giặc ngoại xâm thống trị, mọi quyền con người đều bị tước đoạt, kể cả những quyền tối thiểu nhất. Dân tộc có được độc lập thì mới có tiền đề để thực hiện các quyền con người. Mặt khác, dân tộc được độc lập mà nhân dân không có quyền gì, nhân dân không được tự do thì độc lập dân tộc cũng không có ý nghĩa. Như vậy, có thể thấy khái niệm quyền con người ở Tuyên ngôn độc lập đã được triển khai tới mức cụ thể trong thực tiễn, là công cụ thiết thực và sắc bén chỉ đạo hoạt động thực tiễn cách mạng nước ta là: phải giải phóng dân tộc, giành được độc lập dân tộc, quyền bình đẳng dân tộc, sau đó mới có thể giải phóng con người, mới có thể xác lập được quyền con người và quyền công dân. Thực hiện tốt quyền con người, quyền công dân lại là cơ sở để giữ gìn độc lập dân tộc, để độc lập dân tộc có ý nghĩa đích thực.

Ngay sau khi tuyên bố độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu vấn đề xây dựng nhà nước dân chủ mới của dân, do nhân dân là người làm chủ, thể hiện quan điểm: bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Đối với Hồ Chí Minh, dân chủ là điều cốt tử còn chuyên chính chỉ là phương tiện đảm bảo dân chủ. Người chỉ rõ: “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân, chuyên chính là cái khoá, cái cửa đề phòng kẻ phá hoại, nếu hòm không còn khoá, nhà không có cửa thì sẽ mất cắp hết. Cho nên có cửa phải có khoá, có nhà phải có cửa. Thế thì dân chủ cũng cần phải có chuyên chính để giữ gìn lấy dân chủ”(6). Điều kiện, tiền đề và là thước đo trình độ làm chủ của nhân dân được thể hiện ở ba mặt: Bảo đảm dân quyền, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí.

Với tư cách là người đứng đầu Đảng và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà vừa mới được thành lập sau Cách mạng tháng Tám, Hồ Chí Minh đã nhắc nhở: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật”(7). Chính vì thế, phiên họp đầu tiên của Chính phủ ngày 3/9/1945 đã đề ra những nhiệm vụ cấp bách là: Cứu đói cho dân, chống giặc dốt, xoá bỏ những thứ thuế hà khắc do chế độ cũ để lại, ban hành quyền tự do dân chủ cho nhân dân, thực hiện nền giáo dục nhân dân, thực hiện tự do tín ngưỡng, nam nữ bình quyền,… Và trong muôn vàn công việc của người lãnh đạo tối cao của đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng không quên việc tiếp chuyện, lắng nghe ý kiến của đại biểu các đoàn thể nhân dân. Người viết thông cáo tiếp dân bằng những lời lẽ thật giản dị, ân cần, thể hiện lòng yêu quý, sự tôn trọng với đồng bào: “Từ năm nay tôi sẽ rất vui lòng tiếp chuyện các đại biểu của các đoàn thể… Gửi thơ nói trước, để tôi sắp thì giờ, rồi trả lời cho bà con, như vậy thì khỏi phải chờ đợi mất công”(8).

Ngày 20/2/1947, nói chuyện với các đại biểu nhân sĩ trí thức, phú hào tỉnh Thanh Hoá, Hồ Chí Minh tiếp tục nhấn mạnh: “Chính phủ cộng hoà dân chủ là gì? Là đầy tớ chung của dân, từ Chủ tịch toàn quốc đến làng. Dân là chủ thì chính phủ phải là đầy tớ… Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi chính phủ”(9). Người khẳng định: dân chủ là nhân dân là người làm chủ đất nước, chủ xã hội, chủ cuộc sống. Các cấp chính quyền Nhà nước, các đoàn thể nhân dân, bao giờ, ở đâu, xuất phát của hành động cũng là vì lợi ích của nhân dân mà làm và chịu trách nhiệm trước nhân dân.

Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng ra đời từ phong trào cách mạng của nhân dân, có thiên chức lãnh đạo cách mạng vì mục đích phục vụ nhân dân, lấy lợi ích của nhân dân làm lợi ích cao nhất của mình, thì Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng, hoàn toàn không có một bức tường ngăn cách nào giữa nhiệm vụ lãnh đạo và nhiệm vụ phục vụ: “Tất cả đường lối, phương châm, chính sách… của Đảng đều chỉ nhằm nâng cao đời sống của nhân dân nói chung”(10). Đây là quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh. Dẫn ra hai câu thơ của đại văn hào Trung Quốc Lỗ Tấn: “Hoành my lãnh đối thiên phu chỉ, Phủ thủ cam vi nhũ tử ngưu” mà Người tạm dịch là “Trợn mắt xem khinh nghìn lực sĩ, Cúi đầu làm ngựa các nhi đồng”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi đến kết luận: “Đảng Lao động Việt Nam không sợ kẻ địch nào dù cho chúng hung tợn đến mấy, không sợ nhiệm vụ nào dù nặng nề nguy hiểm đến mấy, nhưng Đảng Lao động Việt Nam sẵn sàng vui vẻ làm trâu ngựa, làm tôi tớ trung thành của nhân dân”(11). Rõ ràng, quan điểm Đảng, chính quyền, cán bộ và đảng viên là đầy tớ của nhân dân chỉ có ở chế độ ta và do bản chất của chế độ ta quy định.

Nội dung khái niệm “đầy tớ”, “công bộc” của dân được Hồ Chí Minh chỉ ra rất rõ, rất cụ thể chứ Người không nêu ra để mị dân. Theo Người, “điều chủ chốt” nhất của đạo đức cách mạng là “quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng”, là “tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân. Cán bộ, đảng viên phải có thái độ yêu kính nhân dân, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, học hỏi quần chúng, thật thà, ngay thẳng, không giấu dốt, giấu khuyết điểm, giấu sai lầm; khiêm tốn, gần gũi quần chúng; không được kiêu ngạo, phải thực sự cầu thị, không được chủ quan; kiên quyết dựa vào quần chúng, giáo dục và phát động quần chúng tiến hành thắng lợi mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Và cũng từ rất sớm, rất kiên quyết, Người đã đặt vấn đề đấu tranh để ngăn ngừa các tệ quan liêu, chuyên quyền, tham ô, lãng phí, đặc quyền đặc lợi trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Người coi đó là thứ giặc rất nguy hiểm, chà đạp quyền dân chủ, làm hư hỏng cán bộ, phá vỡ kỷ cương, kỷ luật, có thể làm ruỗng nát chế độ dân chủ từ bên trong.

Tháng 1-1960, tại buổi lễ kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng ta, Người lại nói: “Hễ còn có một người Việt Nam bị bóc lột, bị nghèo nàn, thì Đảng vẫn đau thương, cho đó là vì mình chưa làm tròn nhiệm vụ. Cho nên Đảng vừa lo tính công việc lớn như đổi nền kinh tế và văn hoá lạc hậu của nước ta thành một nền kinh tế và văn hoá tiên tiến, đồng thời lại luôn luôn quan tâm đến những việc nhỏ như tương cà mắm muối cần thiết cho đời sống hằng ngày của nhân dân. Cho nên Đảng ta vĩ đại vì nó bao trùm cả nước, đồng thời vì nó gần gũi tận trong lòng mỗi đồng bào ta. Đảng ta vĩ đại vì ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác”(12). Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh khi trả lời các nhà báo, đã nói rõ: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân”(13) và “bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ theo đuổi một mục đích là làm cho ích quốc lợi dân”(14).

Trên thế giới, đã có không ít trường hợp những người quyền cao chức trọng, là lãnh tụ, đứng ở vị trí đỉnh tháp quyền lực thì quên mất nền tảng quyền lực là nhân dân; họ coi dân chúng như là một công cụ, phương tiện để phục vụ cho mục đích củng cố và thao túng quyền lực của mình. Còn với Hồ Chí Minh, Người coi việc mình làm Chủ tịch là do nhân dân ủy thác cho. Người tự cho mình là “người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận”, là “người đày tớ trung thành của đồng bào”. Đó là tư cách rất đúng đắn của vị lãnh tụ Đảng cầm quyền trong giai đoạn nhân dân giữ vai trò làm chủ đất nước, xây dựng một xã hội mới.

Xứng đáng là Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh dày công sáng lập, chăm lo xây dựng, một đảng đã được tôi luyện và trưởng thành trong lò lửa đấu tranh cách mạng anh dũng của dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vươn lên thực hiện sứ mệnh lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp xây dựng đất nước. Đảng và Nhà nước ta luôn luôn dựa vào dân, tin ở dân, phát huy quyền làm chủ thực sự, tiềm lực và sức sáng tạo của nhân dân. Ngay từ những ngày đầu tiên của tiến trình đổi mới, Đảng đã xác định: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng lấy dân làm gốc, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”. Điều này được coi là bài học kinh nghiệm hàng đầu trong 4 bài học cơ bản mà Đại hội VI nêu lên để định hướng cho công cuộc đổi mới. Từ những sáng kiến của nhân dân, tư tưởng đổi mới được thai nghén và hình thành ngày càng rõ nét. Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt cực kì quan trọng, đánh dấu sự ra đời của chủ trương đổi mới trên mọi lĩnh vực của công cuộc cách mạng và đời sống xã hội. Đổi mới là sự trở về với di sản Hồ Chí Minh, rũ bỏ bệnh giáo điều, bệnh duy ý chí, bệnh quan liêu, mở ra nhận thức mới về Việt Nam và con đường cũng như động lực phát triển của dân tộc.

Kế thừa và khẳng định tư tưởng của Hồ Chí Minh về nhân dân làm chủ đất nước, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã ghi rõ: “Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức” (Điều 2); “Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân; xây dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện công bằng xã hội, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” (Điều 3).

Chủ tịch Hồ Chí Minh – Người suốt đời phấn đấu quên mình vì đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam, người có lòng tin lớn lao vào nhân dân, tin vào mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi, vào trí tuệ, tài năng và phẩm chất của con người Việt Nam. Nhân dân làm chủ đất nước, là tác giả của thắng lợi liên tiếp trong cuộc cách mạng Tháng Tám 1945, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ và ngày nay cũng là tác giả của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Tiếp tục phát huy sức mạnh của nhân dân để xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh chính là sự kế tục và phát triển sáng tạo tư tưởng nhân dân làm chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tình hình mới./.

Theo Th.s Vũ Thị Kim Yến
Khu Di tích Phủ Chủ tịch
Thu Hiền (st)

—————-

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2002, t.2, tr.270
(2), (11) Sđd, t.6, tr.171, 185
(3), (8), (13), (14) Sđd, t.4, tr.56, 10, 240, 240
(4), (6) Sđd, t.8, tr.276, 279-280
(5) Sđd, t.12, tr.501
(9) Sđd, t.5, tr.60
(10), (12) Sđd, t.10, tr.380, 4

bqllang.gov.vn

Tư tưởng Hồ Chí Minh quy tụ mọi lực lượng để dựng nước và giữ nước

Nếu nghe ai ca tụng cái vĩ đại của Bác thì được Bác trả lời: một mình tôi thì làm được cái gì? Thiên tài của Bác chính là biết tập hợp lực lượng, biết quy tụ mọi sức mạnh có thể quy tụ được để dựng nước và giữ nước.

“Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” – Ảnh tư liệu.

Trong lịch sử dân tộc, cũng có thời kỳ chia rẽ nội bộ như “Thập nhị sứ quân”, Trịnh – Nguyễn phân tranh, “Nam Kỳ quốc” v.v… nhưng quy luật chung của sự phát triển vẫn là sự đồng tâm nhất trí, sự quy tụ lực lượng với hình tượng “bó đũa”, “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Nguyên lý đó dựa trên thực tế xã hội Việt Nam: sự phân hóa và đấu tranh giai cấp trong nội bộ xã hội bị chi phối và phụ thuộc vào mâu thuẫn lớn hơn: giữa dân tộc Việt Nam và giai cấp thống trị ngoại bang – mâu thuẫn đối kháng cao nhất.

Vốn mang truyền thống đại đoàn kết dân tộc, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành trên lộ trình tìm đường cứu nước, nắm được học thuyết Mác–Lênin, phân tích rõ thực trạng xã hội Việt Nam, giải quyết chính xác mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc trong cách mạng Việt Nam.

Nếu trước kia Mác cho rằng giai cấp vô sản trước hết phải trở thành dân tộc, rằng đấu tranh để giải phóng nhân loại là tiền đề để giải phóng giai cấp vô sản thì Bác Hồ coi giải phóng dân tộc là tiền đề để giải phóng giai cấp bị áp bức bóc lột trong xã hội Việt Nam. Nếu dân tộc không được giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột của giai cấp tư bản đế quốc thì muôn đời cũng không giải phóng được nhân dân lao động.

Sự sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện trên hai mặt. Một mặt phải tìm mọi khả năng quy tụ nhân dân thuộc mọi tầng lớp xã hội có lòng yêu nước thương nòi vào một mặt trận rộng lớn, chống quan điểm biệt phái, quan điểm giai cấp cực đoan có hại cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Mặt khác, phải từng bước giải quyết mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ xã hội Việt Nam, chủ yếu là giữa nông dân với địa chủ, bằng những biện pháp thích hợp (hiến điền, giảm tô, tức, tạm cấp ruộng đất v.v…) để tăng cường sức dân nhưng không phá vỡ mặt trận đoàn kết dân tộc. Sự quy tụ lực lượng rộng rãi đó đã tạo nên sức mạnh quyết định thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Và cũng nhờ đó làm thất bại chính sách chia để trị của kẻ thù trong bất cứ giai đoạn nào.

Sau khi giành được độc lập, thống nhất Tổ quốc chuyển sang xây dựng xã hội mới, phải chăng chúng ta đã coi nhẹ sự quy tụ lực lượng toàn dân tộc theo mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh” và quá lo sợ, đề cao việc xóa bỏ ngay mâu thuẫn giai cấp trái quy luật lịch sử – tự nhiên, đốt cháy những giai đoạn quá độ cần thiết và lâu dài. Bị ám ảnh bởi những mô hình cải tạo xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hóa và quản lý kinh tế, quản lý xã hội của Liên Xô, chúng ta đã bỏ mất thời cơ lớn để tập hợp lực lượng, phát triển mạnh sản xuất và nâng cao đời sống nhân dân, dẫn đến khủng hoảng kinh tế – xã hội.

Từ khi tiến hành đổi mới, chuyển sang kinh tế thị trường với sự phát triển của nhiều thành phần kinh tế, quan trọng nhất là sự giải phóng lực lượng sản xuất trong nông nghiệp quan hệ đến hàng chục triệu lao động cùng với sự khai thác khả năng tiềm tàng của các tầng lớp xã hội khác, bộ mặt kinh tế – xã hội của đất nước đã có nhiều thay đổi lớn.

Tuy nhiên, cũng phải từng bước giải quyết những mâu thuẫn giai cấp, đảm bảo lợi ích của nhân dân lao động nhưng không làm tổn hại đến sự quy tụ lực lượng rộng rãi. Chính sách của Đảng và luật pháp của Nhà nước phải đồng thời giải quyết tốt nhất cả hai mặt đó. Vừa qua, về mặt kinh tế, chúng ta chậm ban bố các luật đầu tư trong nước, luật chống độc quyền, luật lao động v.v… có liên quan đến việc quy tụ lực lượng và giải quyết mâu thuẫn giai cấp.

Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ nguyên lý phải biết kết hợp chặt chẽ sự quy tụ lực lượng trong nước với lực lượng tiến bộ trên thế giới để đấu tranh và xây dựng Tổ quốc. Ngay từ buổi ban đầu cách mạng cho đến lúc hoàn thành giải phóng dân tộc, tư tưởng Hồ Chí Minh luôn nhất quán đề cao ngọn cờ chính nghĩa của dân tộc Việt Nam để tranh thủ rộng rãi sự đồng tình và giúp đỡ của cả nhân loại tiến bộ. Không chỉ riêng các nước xã hội chủ nghĩa mà cả các nước dân tộc chủ nghĩa, các chính phủ tiến bộ, các tầng lớp xã hội, nhân sĩ, một số nhân vật trong giới cầm quyền không tán thành chiến tranh xâm lược v.v… đã đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ nhân dân Việt Nam.

Bước vào thời kỳ xây dựng đất nước, chúng ta đã đánh mất một phần sự ủng hộ quốc tế đó, mà đáng ra phải được tăng cường hơn trước. Cũng giống như tình trạng quy tụ lực lượng trong nước, chúng ta đã muốn làm trong sạch ngay các quan hệ kinh tế đối ngoại, quá lo sợ về sự xâm nhập của chủ nghĩa thực dân mới trong khi đã nắm vững chính quyền cả nước.

Từ một nước chậm phát triển, chúng ta bị cô lập với thế giới tư bản đang nắm khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến nhất cùng với vốn đầu tư và thị trường rộng lớn. Điều kiện quốc tế của sự phát triển đất nước bị hạn hẹp và chịu chung số phận khủng hoảng cùng với các nước xã hội chủ nghĩa trước những cú sốc của thế giới và nội địa.

Chuyển sang thời kỳ đổi mới, nhất là từ sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan rã, chúng ta đã điều chỉnh lại quan hệ đối ngoại, “làm bạn với tất cả các nước trên thế giới”, nhất là các nước trong khu vực.

Muốn quy tụ lực lượng trong điều kiện quốc tế ngày nay, phải tìm được những mục tiêu chung với các đối tác, tạm gác những nét khác biệt, thậm chí cần phải bắt tay với những kẻ thù cũ đã biết tôn trọng lợi ích đôi bên. Cửa phải mở rộng nhưng phải thường xuyên quét sạch rác rưởi, vi trùng, đảm bảo môi trường trong sạch. Yếu tố quyết định thắng lợi của sự quy tụ lực lượng trên thế giới vẫn là sự lớn mạnh, trưởng thành của bản thân nhân dân ta.

Những thành tựu đạt được trong mấy năm qua là kết quả tổng hợp của sự quy tụ lực lượng trong nước và trên thế giới. Tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ tiếp tục soi sáng cho chúng ta trong một thời kỳ phát triển mới: công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo lời dặn của Bác:

Dân ta nên nhớ chữ đồng
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh.

TRẦN BẠCH ĐẰNG
5-1994
(theo Đến với Tư tưởng Hồ Chí Minh – NXB Trẻ, 2-2007)
Tuổi trẻ Online

Đảng cầm quyền theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, năm 1951, khi nói về thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, Bác viết: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.

Và trong Di chúc- tác phẩm cuối cùng của đời mình, khi nói về Đảng, một lần nữa Bác viết: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.

Theo tư tưởng của Bác Hồ và của Đảng ta từ trước đến nay, khái niệm Đảng “nắm chính quyền” hay “cầm quyền” là đồng nghĩa với Đảng lãnh đạo chính quyền.

Năm 1947, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Bác Hồ viết: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”.

Năm 1960, trong bài nói tại lễ kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng, Người nhấn mạnh: “Đảng ta vĩ đại, vì ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác”.

Năm 1968, làm việc với một số cán bộ Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng về việc xuất bản loại sách “Người tốt, việc tốt”, Bác nói: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, nói chung và về Đảng cầm quyền nói riêng luôn được Đảng ta trung thành, vận dụng sáng tạo và phát triển. Nói Đảng cầm quyền hoàn toàn không có nghĩa là Đảng tự biến mình thành chính quyền, một mình mình nắm giữ chính quyền và làm chức năng của chính quyền. “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” là cơ chế vận hành của chế độ ta. Theo cơ chế ấy, Đảng, Nhà nước và nhân dân đều là những chủ thể của quyền lực, nhưng quyền lực của mỗi chủ thể ấy lại không giống nhau. Quyền lực của Đảng là quyền lãnh đạo, bao gồm cả quyền lãnh đạo chính quyền, nhưng bản thân Đảng lại không phải là chính quyền nhà nước, không làm thay cho Nhà nước. Quyền lực nhà nước bao gồm các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, nhưng quyền lực ấy không phải do Nhà nước tự có mà là do nhân dân giao phó cho những cơ quan quyền lực do mình cử ra. Quyền lực của nhân dân là quyền của người làm chủ đất nước, như Bác Hồ từng nêu lên trong bài báo “Dân vận” viết năm 1949: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương đều do dân cử ra… Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.

Cương lĩnh năm 1991 của Đảng và những điều bổ sung, phát triển các quan điểm về Đảng và Đảng cầm quyền qua các kỳ Đại hội của Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; thống nhất lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Đại hội X của Đảng, khi đề cập nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng, đã đặt lên hàng đầu nhiệm vụ “Nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách; tổ chức thực hiện có hiệu quả đường lối”. Đại hội cũng chủ trương, về mặt lý luận, phải tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề về xây dựng Đảng và về đảng cầm quyền. Điều quan trọng hơn nữa là để xứng đáng là đảng cầm quyền, Đảng phải làm những gì và làm như thế nào?

Cương lĩnh năm 1991 của Đảng, trong khi nêu lên những bài học lớn, đã khẳng định: “Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam”. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên.

  • N.Dân

baobinhdinh.com.vn

Thực hiện hai tiếng cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Thuc hien 2 tieng cach mang theo TTHCM

Hai tiếng cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là trong “Di chúc” của Người, ít nhất có 3 nội dung cơ bản, quan trọng mà chúng ta, đặc biệt và trước hết là những cán bộ, đảng viên có trình độ trung – cao cấp đang lãnh đạo, quản lý ở các cấp cần nhận thức rõ, đúng để làm theo

Rất nhiều nhà lãnh đạo và nhà khoa học đã chẳng ít lần nhắc tới và phân tích về những tiếng thật trong Di chúc của Bác Hồ: “Mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của nhân dân”(1). Tư tưởng bất hủ đó của Bác Hồ rất đúng và hay. Tôi nhận thức thêm rằng, xét về mặt triết học, Bác Hồ nói đến bản chất, thực chất của các vấn đề đó cần thể hiện đúng trong thực tiễn. Xét về mặt tình cảm thì đó là lòng mong muốn của Người đối với mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng và đối với toàn Đảng ta.

Suy ngẫm về những tiếng cách mạng trong Di chúc và nhiều bài viết của Người, chúng ta càng thêm vững tin vào sự nghiệp cách mạng mà Bác đã lựa chọn. Thiết nghĩ, trong tình hình “suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên…” như Nghị quyết Trung ương lần thứ 4 (khóa XI) của Đảng ta vừa nhấn mạnh với vị trí là vấn đề cấp bách số một… thì những tiếng cách mạng mà Bác Hồ để lại cho chúng ta càng cần được lưu ý, phân tích một cách khoa học và thực tiễn sâu sắc, có sức thuyết phục hơn. Làm được như vậy sẽ góp phần để chúng ta cùng nhau làm theo tấm gương, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, nhất là đối với các cán bộ, đảng viên có trình độ trung – cao cấp, đang làm công tác lãnh đạo, quản lý.

Dưới đây, là một số luận điểm tiêu biểu nhất của Bác Hồ để lại cho chúng ta, khi Người nhấn mạnh hai tiếng cách mạng, giúp chúng ta cùng suy ngẫm và vận dụng để thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương lần thứ 4 (khóa XI): “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.

– “Đạo đức cách mạng”. Bác Hồ viết bài này năm 1958, khi miền Bắc nước ta bắt đầu vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Bác Hồ đã lường trước và cảnh báo nguy cơ “đạn bọc đường” sẽ có thể bắn gục không ít cán bộ, đảng viên trong điều kiện Đảng Cộng sản cầm quyền.

– “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Bác Hồ viết bài này năm 1969, khi cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống đế quốc Mỹ xâm lược rất khốc liệt, và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đang đầy khó khăn, phức tạp…; và khi Người đã lâm bệnh rất trầm trọng…

– “Di chúc”. Bác Hồ bắt đầu viết tác phẩm này từ năm 1965; công bố chính thức năm 1969, khi Người “… từ biệt thế giới này…”.

Trong nhiều tác phẩm, nhất là “Di chúc”, Bác Hồ luôn luôn nhấn mạnh hai tiếng cách mạng (chính Người đã gạch dưới; do đó trong “Hồ Chí Minh toàn tập” đã in nghiêng là chính xác theo tư tưởng Bác Hồ và theo quy định của xuất bản phẩm).

Chỉ riêng trong “Di chúc”, Bác Hồ đã nhấn mạnh nhất hai vấn đề mà ngày nay chúng ta rất cần lưu tâm nhận thức đúng để làm theo. Đó là: “Đạo đức cách mạng” (2) và “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”(3).

Về đạo đức cách mạng

Nhìn chung, hai tiếng đạo đức mà nước ta và nhân loại thường dùng thì đã hàm nghĩa tốt đẹp của con người. Do vậy Đảng ta, Bác Hồ và dân tộc ta đều rất trân trọng mọi đạo đức vốn có của các dân tộc, của nhân loại, thể hiện qua mỗi con người chân chính trong lịch sử lâu đời được lưu giữ, phát huy cho đến ngày nay và mai sau.

Nhưng, nếu Bác Hồ và chúng ta chỉ nói đạo đức theo nghĩa chung nhất như trên thì chẳng có giá trị mới so với những gì mà dân tộc ta và nhân loại đã có trước Thời đại Hồ Chí Minh. Giá trị mới to lớn là: Bác Hồ – người Việt Nam đầu tiên nói về đạo đức cách mạng. Vậy những nội dung cơ bản nhất của giá trị mới đó là gì so với những giá trị đạo đức truyền thống lịch sử trước đó? Giá trị mới đó ít nhất bao gồm các nội dung cơ bản sau đây: 1) Gắn đạo đức truyền thống với chủ nghĩa xã hội. Đó là “đạo đức xã hội chủ nghĩa”(4). 2) Gắn đạo đức truyền thống với quan điểm về đạo đức trong học thuyết Mác – Lênin; 3) Gắn đạo đức truyền thống với sự lãnh đạo – giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản.

Về “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”.

Trong “Di chúc” Bác Hồ viết: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”(5). Tương tự phân tích như trên thì chúng ta cũng rõ sự kế thừa và phát triển mới: Vừa gắn liền, vừa phân biệt được sự khác nhau giữa “Bồi dưỡng thế hệ cho đời sau”, nói chung (là điều lịch sử lâu đời đã phổ biến, đương nhiên) với “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”… cũng có thêm các nội dung cơ bản và mới đã nêu ở trên, khi nói về đạo đức cách mạng.

Với cách tiếp cận đó thì việc chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau luôn được Bác Hồ và Đảng ta đặc biệt quan tâm. Và nếu thế hệ các đời sau của chúng ta mà xa rời chủ nghĩa xã hội, học thuyết Mác – Lênin, vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua Đảng ta, thì thế hệ đó không còn là “thế hệ cách mạng cho đời sau” như Bác Hồ căn dặn!.

Tóm lại, hai tiếng cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là trong “Di chúc” của Người, ít nhất có 3 nội dung cơ bản, quan trọng mà chúng ta, đặc biệt và trước hết là những cán bộ, đảng viên có trình độ trung – cao cấp đang lãnh đạo, quản lý ở các cấp cần nhận thức rõ, đúng để làm theo là:

– “Đạo đức cách mạng”, “Thế hệ cách mạng” phải thể hiện lập trường, niềm tin – yêu, và luôn phấn đấu vì chủ nghĩa xã hội (theo mục tiêu – con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội – cũng là vì mục tiêu cao nhất của dân tộc ta).

– “Đạo đức cách mạng”, “Thế hệ cách mạng” phải thể hiện có nhận thức – lập trường tư tưởng chính trị theo học thuyết Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

– “Đạo đức cách mạng”, “Thế hệ cách mạng” phải thể hiện sự trung thành và thực hiện quan điểm, đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam – đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc.

Xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát triển Đảng hiện nay cần nhận thức đúng và thực thi những nội dung đó, cũng là thực hiện tốt đường lối của Đảng ta; pháp luật, chính sách…của Nhà nước ta trong giai đoạn cách mạng hiện nay: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mở rộng hội nhập quốc tế, tiếp tục xây dựng và bảo vệ quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng và của Dân tộc ta phát triển nhanh, bền vững…, vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./

——————-

(1), (3), (5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 1995, t.12, tr.510, 510, 510.

(2), (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.238, 456.

Theo PGS. TS. Nguyễn Đức Bách
Tạp chí Tuyên giáo
Tâm Trang (st)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của trí thức trong sự nghiệp cách mạng

anh dep 2Chủ tịch Hồ Chí Minh với trí thức nước nhà

Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Hồ Chí Minh viết: “Trí thức là hiểu biết. Trong thế giới chỉ có hai thứ hiểu biết: Một là hiểu biết sự tranh đấu sinh sản – Khoa học tự nhiên do đó mà ra; Hai là hiểu biết tranh đấu dân tộc và tranh đấu xã hội – Khoa học xã hội do đó mà ra”(1).

Trong bài viết “Đảng Lao động Việt Nam với lao động trí óc”, Người xác định trí thức là “những người lao động trí óc”, “là thầy giáo, thầy thuốc, kỹ sư, những nhà khoa học, văn nghệ, những người làm bàn giấy…”(2). Và với Người, trí thức là lực lượng có vị trí, vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp cách mạng, là “vốn liếng quý báu của dân tộc”(3).

Trước 1945, trong hoàn cảnh nước mất nhà tan, trí thức Việt Nam đã đi tiên phong tham gia cách mạng, là lực lượng đi đầu trong việc tiếp thu tư tưởng cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tích cực truyền bá trong quần chúng nhân dân và hăng hái tham gia vào các tổ chức cách mạng – tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nói về lực lượng này, Hồ Chí Minh cho rằng: Trí thức Việt Nam là lực lượng rất nhạy bén với cái mới, với những tư tưởng tiến bộ, “có đầu óc dân tộc và đầu óc cách mạng” (4), “có học thức, dễ có cảm giác chính trị,… dễ tiếp thụ sự giáo dục cách mạng và cùng đi với công nông”(5).

Trí thức Việt Nam có vị trí, vai trò quan trọng trong cách mạng, nên khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, trước yêu cầu phải có một đường lối chính trị rõ ràng, phải phân định rõ chiến tuyến giữa cách mạng và phản cách mạng, Hồ Chí Minh đã xếp trí thức vào hàng ngũ lực lượng cách mạng của dân tộc, là một trong những đồng minh gần gũi của giai cấp công nhân và nông dân. Người chỉ rõ: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, thanh niên, Tân Việt,… để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp”(6). Việc xác định từ sớm vai trò, vị trí của trí thức trong cách mạng của Hồ Chí Minh đã lôi cuốn tầng lớp trí thức về phía cách mạng từ những ngày đầu tiên, đã tăng cường sức mạnh cho cuộc cách mạng. Đây là vấn đề mang tính chất chiến lược  trong cách mạng.

Cuộc cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta tiến hành là một cuộc cách mạng vô cùng khó khăn, gian khổ với những nhiệm vụ rất lớn lao. Đó là đánh đuổi đế quốc thực dân, phong kiến, đòi lại tự do, độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày… Hồ Chí Minh xác định: “Lao động trí óc có nhiệm vụ rất quan trọng trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, trong công cuộc hoàn thành dân chủ mới để tiến lên chủ nghĩa xã hội”(7). Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, trí thức phải tuyên truyền, giáo dục quần chúng những tư tưởng cách mạng, là ngòi nổ cho các phong trào cách mạng, đấu tranh chống lại những luận điệu phản động, mị dân của kẻ thù.

Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, trí thức phải đi đầu trong việc nâng cao dân trí, xây dựng và kiến thiết nước nhà. Người khẳng định: “Trí thức phục vụ nhân dân bây giờ cũng cần, kháng chiến kiến quốc cũng cần, tiến lên xã hội chủ nghĩa càng cần, tiến lên cộng sản chủ nghĩa lại càng cần”(8). Theo Người: “muốn phát triển văn hoá thì phải cần thầy giáo, muốn phát triển sức khoẻ của nhân dân thì phải cần thầy thuốc, muốn phát triển kỹ nghệ thì phải cần các kỹ sư”(9). Thực tiễn đã chứng minh, trong mọi lĩnh vực, mọi thời kỳ cách mạng đều rất cần đến học vấn, tài năng và tâm huyết, sức lực của giới trí thức; đội ngũ trí thức đồng hành cùng dân tộc tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa; và trong suốt quá trình cách mạng “Trí thức không có bao giờ thừa, chỉ có thiếu trí thức thôi”(10).

Nhận thức được vị trí, vai trò quan trọng của trí thức trong sự phát triển của xã hội, hiểu rõ sức mạnh vô tận của trí tuệ con người và sức mạnh lớn lao của một dân tộc giàu tri thức, Hồ Chí Minh khẳng định: trí thức là lực lượng luôn đi đầu, là ngòi nổ trong phong trào đấu tranh đòi độc lập, đòi quyền dân tộc, dân chủ; là lớp “tiên tri, tiên giác”(11) (hiểu biết trước, giác ngộ trước); là “Một phần tương lai của dân tộc”(12). Chính vì vậy, năm 1946, khi trả lời câu hỏi của một nhà báo nước ngoài về vấn đề trí thức, Người nhấn mạnh: “Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc. Ở nước khác như thế, ở Việt Nam càng như thế”(13). Trên thực tế, trong suốt mấy chục năm trên cương vị Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã có thái độ, cách cư xử, chính sách hết sức trân trọng và đề cao trí thức. Câu trả lời trên chính là sự phản ánh cô đọng suy nghĩ của Người, thể hiện sự trân trọng của Người đối với đội ngũ trí thức của dân tộc.

Với những quan điểm đúng đắn của Hồ Chí Minh và những chính sách sát thực của Đảng đối với trí thức mà trong các giai đoạn lịch sử, chúng ta đã đoàn kết được trí thức và xây dựng được đội ngũ trí thức mới xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, làm sao để phát huy và sử dụng vốn liếng quý báu này của đất nước có hiệu quả vẫn đang là vấn đề lớn đặt ra. Đảng và Nhà nước phải có sự phối hợp chặt chẽ trong việc giải quyết vấn đề trí thức. Những quan điểm chủ trương của Đảng phải được Nhà nước thể chế hóa kịp thời. Việc quy hoạch, đào tạo đội ngũ trí thức phải gắn liền với nhu cầu thực tiễn, trên cơ sở đó bố trí đúng người, đúng việc để phát huy tốt năng lực của lực lượng này. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng phải gắn liền với việc đổi mới quản lý của Nhà nước đối với công tác trí thức, phát huy dân chủ, lắng nghe ý kiến của tầng lớp trí thức, tin dùng họ trong công việc, tạo các điều kiện để họ tham gia hoạt động sáng tạo, đóng góp thật nhiều cho đất nước.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức vào việc xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam có phẩm chất chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, giỏi về chuyên môn, giàu về năng lực, hiểu biết sâu sắc trên từng lĩnh vực, có bản lĩnh và sẵn sàng thích ứng với mọi biến động trong nước và thế giới, nối tiếp truyền thống hào hùng của trí thức Việt Nam, đóng góp tài năng và sức lực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đổi mới đất nước, xây dựng xã hội: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

————

(1), (3), (11), (13) HCM Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tr.235, 156, 131, 156. (2), (7) Sách đã dẫn (Sđd), tập 6, tr.202, 203. (4), (5), (8), (9), (10) Sđd, tập 7, tr.34, 214, 39, 32-33, 36. (6) Sđd, tập3, tr.3. (12) Sđd, tập 4, tr.220.

Lê Văn Điện /Trường Chính trị thành phố Cần Thơ
Theo Tạp chí Xây dựng Đảng
Tâm Trang (st)

Rèn luyện phong cách quần chúng của người cán bộ cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề cán bộ. Theo Người, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”(1), “công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”(2).

anh Bác Hồ với đồng bao dân tôc Tây Bac
Ảnh Bác Hồ chụp với đồng bào dân tộc

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong công tác vận động quần chúng “vấn đề cán bộ là một vấn đề rất trọng yếu, rất cần kíp”(3), bởi vì, cán bộ là dây chuyền của bộ máy, nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, toàn bộ máy cũng bị tê liệt. Hơn nữa, cán bộ là những người đem chính sách của Đảng thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ kém thì chính sách hay mấy cũng không thể thực hiện được. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu người cán bộ phải có phẩm chất, năng lực toàn diện: Có đạo đức cách mạng; tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân; có năng lực lãnh đạo tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, có trí tuệ, có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ giỏi. Đối với người cán bộ cách mạng, Người yêu cầu phải nắm vững lý luận Mác – Lênin, vận dụng vào thực tiễn, tổng kết kinh nghiệm công tác, phải không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn.

Ngoài những phẩm chất đã nêu, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh tới phong cách làm việc, đặc biệt là phong cách quần chúng của người cán bộ cách mạng. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong cách quần chúng của người cán bộ cách mạng là hết sức cần thiết, nhờ đó mà sâu sát, liên hệ mật thiết với nhân dân, không mắc bệnh chủ quan, không quan liêu, đại khái, ham chuộng hình thức. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh: Sâu sát quần chúng là biểu hiện quan trọng nhất của phương pháp làm việc XHCN, nó đối lập với lề lối làm việc quan liêu, hống hách, cửa quyền của bọn quan lại cai trị dưới chế độ cũ. Người cho rằng: “Cán bộ muốn cho xứng đáng, phải làm được việc. Muốn làm được việc, thì phải được dân tin, dân phục, dân yêu”(4). Do vậy, rèn luyện phong cách quần chúng trong công tác luôn là trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Phong cách quần chúng của người cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh biểu hiện ở một số vấn đề cơ bản sau:

Một là, biết định cách làm việc, cách tổ chức phong trào phù hợp với quần chúng.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ thì phải có phương pháp lãnh đạo, phong cách quản lý, cách tổ chức, cách đặt kế hoạch phù hợp với quần chúng; phải xét rõ và làm cho hợp trình độ văn hóa, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ của quần chúng mà định cách làm việc, cách tổ chức. Cán bộ làm việc vì lợi ích của quần chúng cho nên cách tổ chức và cách làm nào không phù hợp với quần chúng thì phải có gan đề nghị lên cấp trên để bỏ đi hoặc sửa lại. Cách nào hợp với quần chúng, quần chúng cần, thì dù chưa có sẵn, ta phải đề nghị lên cấp trên mà đặt ra. Nếu cần làm thì cứ đặt ra, rồi báo cáo sau, miễn là được việc”(5).

Người từng căn dặn đội ngũ cán bộ phải luôn sâu sát quần chúng, xuất phát từ quần chúng để rèn luyện, điều chỉnh tác phong, phương pháp làm việc; phải luôn luôn chống thói làm việc tuỳ tiện, chủ quan, coi thường quần chúng. Đối với đội ngũ cán bộ, hiểu sâu sắc đường lối, chủ trương, chính sách là điều quan trọng, nhưng quan trọng hơn là phải làm cho đông đảo quần chúng hiểu đúng, tổ chức cho quần chúng thực hiện đúng và hiệu quả. Để làm được như vậy, cán bộ phải luôn sâu sát quần chúng để học cách nói, cách viết sao cho hợp với quần chúng, và quan trọng hơn đó là biết giải quyết những vấn đề thiết thực có liên quan cụ thể tới đời sống của quần chúng – đó mới là một người cán bộ thực sự sâu sát quần chúng, thực sự hiểu dân, yêu dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở đội ngũ cán bộ phải chống thói ba hoa, chủ quan, chống bệnh hình thức, khuôn sáo. Người cho rằng, cách nói, cách viết ba hoa, sáo rỗng là hệ quả của tác phong quan liêu, thái độ làm việc chủ quan, phương pháp làm việc tuỳ tiện. Những căn bệnh này phá hoại mối quan hệ cán bộ với quần chúng, làm cho quần chúng mất lòng tin, chán ghét cán bộ.

Hai là, dựa vào quần chúng để xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch công tác.

Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Phải chống bệnh chủ quan, tác phong quan liêu, đại khái. Phải xây dựng tác phong điều tra, nghiên cứu trong mọi công tác cũng như trong khi định ra mọi chính sách của Đảng, của Nhà nước”(6). Trong xây dựng chương trình, kế hoạch công tác Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu các cán bộ “Phải nắm vững quy luật phát triển của cách mạng, phải tính toán cẩn thận những điều kiện cụ thể, những biện pháp cụ thể. Kế hoạch phải chắc chắn, cân đối”(7) và phải biết dựa vào quần chúng để xây dựng kế hoạch cho sát, cho đúng, đồng thời biết dựa vào quần chúng, biết tổ chức, động viên, huy động được tiềm năng, sức mạnh của quần chúng để thực hiện thắng lợi kế hoạch. Để làm được điều đó, đội ngũ cán bộ phải thành tâm học hỏi quần chúng, kiên trì trong việc giáo dục, giác ngộ, lãnh đạo quần chúng. “Muốn cho dân chúng thành thật bày tỏ ý kiến, cán bộ phải thành tâm, phải chịu khó, phải khéo khơi cho họ nói. Do ý kiến và đề nghị lẻ tẻ của dân chúng, ta phải khéo gom góp lại, sắp đặt lại cho có ngăn nắp, thứ tự rồi cùng dân chúng ra sức thi hành. Như vậy, vừa nâng cao trình độ dân chúng, mà cũng vừa nâng cao kinh nghiệm của mình”(8) và “Bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân thi hành”(9).

Ba là, cán bộ, đảng viên phải luôn luôn gương mẫu trong công tác cũng như trong đời sống sinh hoạt hàng ngày.

Để dân biết, dân tin, dân làm theo, mỗi cán bộ, đảng viên phải là người tiên phong gương mẫu, phải miệng nói, tay làm, thống nhất lời nói với hành động. Gương mẫu là biểu hiện không thể thiếu, là yếu tố tạo nên niềm tin của quần chúng, tạo nên sự bền vững của mối quan hệ cán bộ – nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở, trước dân chúng, không phải chúng ta cứ viết lên trán hai chữ “cộng sản” là được người ta tôn trọng, mà muốn lãnh đạo nhân dân “phải làm mực thước cho nhân dân bắt chước”. Trong phong trào xây dựng đời sống mới, xây dựng xã hội mới, Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thực hiện phương châm “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, nghiêm túc thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, kiên quyết đấu tranh với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, xa xỉ. Có như thế người cán bộ cách mạng mới được dân mến, dân tin, dân phục, mới có thể công tâm, sâu sát, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Có người cho rằng “phải ăn mặc bảnh mới giữ được oai tín, giữ được thể diện. Nói thế hết sức sai. Muốn có oai tín thể diện, thì phải làm việc cho giỏi…”(10).

Hơn 80 năm xây dựng và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn dành sự quan tâm lớn đối với công tác giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên. Đảng đã đào tạo được nhiều thế hệ cán bộ, đảng viên hết lòng vì dân, vì nước, chiến đấu, hy sinh vì hạnh phúc nhân dân, thực sự gắn bó với quần chúng, sâu sát quần chúng, được “dân mến, dân tin, dân phục, dân yêu”. Sự trưởng thành của mỗi cán bộ, đảng viên luôn gắn liền với sự trưởng thành và phát triển của các phong trào cách mạng với sự tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân – nguồn sức mạnh tạo nên mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.

Quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng, phong cách làm việc của Hồ Chí Minh, nhất là phong cách quần chúng, là bổn phận, danh dự của những người cán bộ, đảng viên tâm huyết với Đảng, với nhân dân. Đó là giải pháp hữu hiệu nhất để xây dựng người cán bộ cách mạng vừa “hồng” vừa “chuyên”, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, làm cho Đảng thật sự trong sạch vững mạnh, lãnh đạo toàn dân hoàn thành thắng lợi công cuộc đổi mới và phát triển đất nước.

—————–

(1), Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5, tr.273. (2). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.269. (3). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.274. (4). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.274. (5). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 12, tr.213. (6). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.208. (7). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.248. (8). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.246. (9). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.248. (10) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.248.

Theo Tạp chí Xây dựng Đảng
Huyền Trang (st)
bqllang.gov.vn

Tư tưởng nhân văn sâu sắc trong Di chúc của Bác Hồ

Trên thế giới có nhiều nhà lãnh đạo thiên tài, kiệt xuất, nhưng có lẽ ít ai trước lúc đi vào cõi vĩnh hằng đã để lại bản Di chúc lịch sử cụ thể, chu đáo và cẩn trọng như Bác Hồ. Di chúc của Bác khiến lòng ta xúc động, trước hết vì tư tưởng nhân văn sâu sắc của vị lãnh tụ vô cùng kính yêu mà hình ảnh và sự nghiệp vĩ đại của Người mãi mãi không thể phai mờ trong trái tim của người đương thời cũng như của bao thế hệ nối tiếp. Đó còn là muôn vàn tình thương yêu Bác để lại cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, các cháu thanh thiếu niên và nhi đồng…

Trên thế giới có nhiều nhà lãnh đạo thiên tài, kiệt xuất, nhưng có lẽ ít ai trước lúc đi vào cõi vĩnh hằng đã để lại bản Di chúc lịch sử cụ thể, chu đáo và cẩn trọng như Bác Hồ. Di chúc của Bác khiến lòng ta xúc động, trước hết vì tư tưởng nhân văn sâu sắc của vị lãnh tụ vô cùng kính yêu mà hình ảnh và sự nghiệp vĩ đại của Người mãi mãi không thể phai mờ trong trái tim của người đương thời cũng như của bao thế hệ nối tiếp. Đó còn là muôn vàn tình thương yêu Bác để lại cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, các cháu thanh thiếu niên và nhi đồng…

Trong bản Di chúc, Bác dành tình cảm đặc biệt cho thương binh, gia đình liệt sỹ và người có công

Ngày 19/5/1968, sau khi tiếp khách đến chúc thọ, Bác Hồ thấy cần phải “viết thêm mấy điểm không đi sâu vào chi tiết” vào Di chúc. Trong mấy điểm ấy, Bác nhấn mạnh: Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sỹ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong…), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”. Đối với các liệt sỹ, mỗi địa phương cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sỹ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước của nhân dân ta. Đối với cha mẹ, vợ con thương binh, liệt sỹ mà thiếu sức lao động và túng thiếu thì chính quyền phải giúp đỡ họ có công ăn việc làm thích hợp, quyết không để họ bị đói rét. Những lời căn dặn cuối cùng của Bác đối với thương binh, gia đình liệt sỹ và người có công với cách mạng thắm đượm sâu sắc truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta.

Đảng vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân

Trong Di chúc, “Trước hết nói về Đảng”, Bác dặn: Việc cần làm trước tiên là chỉnh đốn Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi Chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân. Đối với Bác điều tâm nguyện và hệ trọng bậc nhất là việc xây dựng Đảng. Phải giữ gìn khối đoàn kết nhất trí trong Đảng, giữ gìn Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh để xứng đáng “là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Điều căn dặn cốt tử nhất trong Di chúc của Bác là giữ gìn, phát huy truyền thống đoàn kết và tình đồng chí thương yêu lẫn nhau trong Đảng. Bác đòi hỏi ở mọi đảng viên, nghĩa vụ, trách nhiệm và tình thương, vì mục tiêu và lý tưởng cao cả của Đảng.

Bác khẳng định vai trò, vị trí của Đảng trong việc lãnh đạo nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Bác muốn củng cố lòng tin của nhân dân ta đối với Đảng. Bác nhấn mạnh: Đảng là người trung thành nhất với lợi ích của giai cấp, nhân dân và Tổ quốc. “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Bác chỉ rõ trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Bác chỉ ra rằng, sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi, việc phải làm là mau chóng hàn gắn vết thương chiến tranh. Chúng ta phải có kế hoạch sẵn sàng, rõ ràng,chu đáo để tránh khỏi bị động, thiếu sót và sai lầm. Bác thông cảm và thương yêu vô bờ bến “nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng như miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến thực dân áp bức, bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh”. Người ca ngợi: “Nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn đi theo Đảng”. “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng củng cố nâng cao đời sống của nhân dân”.

Bác luôn quan tâm đến mọi tầng lớp nhân dân, nhất là nông dân

Bác trăn trở nhiều đến nông dân, Bác nói: “Trong bao năm chống thực dân Pháp, tiếp đến chống đế quốc Mỹ, đồng bào ta, nhất là đồng bào nông dân đã luôn hết sức trung thành với Đảng và Chính phủ ta, ra sức góp của góp người, vui lòng chịu đựng mọi khó khăn gian khổ. Nay ta đã hoàn toàn thắng lợi, tôi có ý đề nghị miễn thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm nhiều phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất”. Dân tộc ta đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm bảo vệ nền độc lập dân tộc. Sau mỗi lần chiến thắng, ông cha ta lại có kế sách để bồi dưỡng sức dân, tăng cường lực lượng. Di chúc của Bác đã kế thừa truyền thống lâu đời đó của dân tộc ta. Tình thương bao la của Bác còn tỏa sáng đến một lớp người của xã hội cũ để lại. Bác dặn chúng ta: Đối với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu… thì Nhà nước vừa dùng giáo dục, vừa dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lương thiện”.

Bác chú trọng đến việc vạch kế hoạch xây dựng lại thành phố, làng mạc đẹp đẽ, đàng hoàng “to đẹp sáng trời Đông”. Theo Bác, phải khôi phục và mở rộng các ngành kinh tế. Phát triển công tác vệ sinh, y tế. Sửa đổi chế độ giáo dục cho phù hợp với hoàn cảnh mới của nhân dân, như phát triển các trường nửa ngày học tập, nửa ngày lao động… nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp nhân dân. Trong muôn vàn tình thương yêu để lại cho toàn dân, toàn Đảng, Bác không bỏ sót một ai. Lòng nhân ái của Bác thật rộng rãi bao la, như một nhà văn đã viết: “Hồ Chí Minh là con Người của chủ nghĩa nhân đạo theo ý nghĩa đầy đủ nhất”.

“Về việc riêng…”, cũng là suốt đời phục vụ nhân dân, đất nước

“Về việc riêng…”, Bác không nói “cá nhân” hay “bản thân”, mà nói riêng, việc riêng. Bởi vì, suốt đời Bác phấn đấu cho hạnh phúc chung của toàn dân. Cái riêng của Bác hòa trong cái chung của dân tộc. Suốt đời Bác vì dân vì Đảng cho nên hầu như không có lúc nào nghĩ đến bản thân mình. Vì thế mà trước lúc đi xa Bác “không có điều gì phải hối hận”. Bác đã phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân hết lòng. Bình sinh cho đến trọn đời, Bác đã không làm bất cứ điều gì để phải ân hận, hối tiếc. Bác chẳng tiếc gì cho bản thân mình, hy sinh tất cả cho dân, cho nước. Chỉ riêng có một điều tiếc duy nhất – một điều thật cơ bản, đáng nói hơn cả, là “không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa” cho nhân dân, đất nước.

Trong ý định của Bác, việc đầu tiên sau ngày đất nước toàn thắng là đi chúc mừng đồng bào và chiến sĩ anh hùng, thăm hỏi các cụ phụ lão và các cháu thanh, thiếu niên, nhi đồng yêu quý khắp hai miền Nam Bắc. Riêng với miền Nam thương nhớ, kể từ buổi ra đi trên bến cảng Sài Gòn, ròng rã mấy mươi năm, Bác chưa một lần trở lại, thì đây là một cuộc hành hương có một không hai. Bác còn thay mặt nhân dân ta đi thăm các nước anh em, thăm hỏi bạn bè quốc tế đã từng hết lòng giúp đỡ và ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta. Đọc Di chúc, chúng ta ai cũng đau lòng xúc động, vì ao ước đó của Bác đã không kịp thực hiện.

Chan chứa muôn vàn tình thương yêu

Cuối cùng, trong bản Di chúc “Bác để lại muôn vàn tình thương yêu” cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, cho các cháu thanh thiếu niên, nhi đồng… Có lẽ đây là tình cảm lắng động, gây xúc động mạnh nhất. Như trước đây, Bác thường “gửi nhiều cái hôn thân ái” đến chiến sĩ và các cháu nhi đồng, lần này Bác gửi lại, để lại “muôn vàn tình thân yêu”. Và lời này của Bác đã là đề tài phong phú cho văn học nghệ thuật về tấm lòng của bác đối với nhân dân. “Để lại muôn vàn tình thân yêu”, cách nói sao mà nghe thân thuộc, tha thiết, cháy bỏng. Bác ra đi, không đem theo gì cho mình; tất cả, Bác để lại trọn vẹn cho đồng chí, đồng bào, cho các cháu thiếu niên và nhi đồng: Cuộc sống và tình yêu, lý tưởng và ước nguyện, ham muốn tột bậc đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành…

Học tập và làm theo tư tưởng nhân văn trong Di chúc của Bác

Tư tưởng nhân văn của Bác là chân lý cách mạng của thời đại. Học tập tư tưởng nhân văn của Bác là để giác ngộ cách mạng, trau dồi tính nhân văn xã hội chủ nghĩa. Bác đến với chủ nghĩa Mác – Lênin bắt đầu từ lòng yêu nước, từ tình cảm cách mạng. Ngày nay, nghiên cứu tư tưởng nhân văn của Bác, chúng ta có toàn bộ những lời kêu gọi và những trước tác của Bác, trong đó Di chúc được xem là một kiệt tác tư tưởng nhân văn. Di chúc là sự thể hiện tuyệt vời những tình cảm lớn, tư tưởng lớn của một con Người chỉ có một ham muốn tột bậc là “nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Ở đây, tất cả tình cảm, tư tưởng và hoài bão lớn hòa quyện làm một trong Người anh hùng giải phóng dân tộc và chính Người đã làm rạng rỡ non sông ta, đất nước ta.

Từ ngày Bác đi xa đến nay, toàn Đảng, toàn dân ta đang ra sức thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác, lấy nhiệm vụ xây dựng Đảng là then chốt, kinh tế là trọng tâm với phát triển văn hóa, nền tảng tinh thần xã hội. Qua hơn 25 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã vượt qua giai đoạn suy giảm tốc độ tăng trưởng, đạt mức tăng trưởng khá cao; chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của một số lĩnh vực và sản phẩm có chuyển biến.

Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XI) của Đảng đang nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình nhằm xây dựng Đảng trong sạch trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức, nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân trong cán bộ, đảng viên, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng. Qua thực hiện cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng lần này cho thấy, phần lớn cán bộ, đảng viên đều tin tưởng vào công cuộc đổi mới và sự lãnh đạo của Đảng. Thực hiện Di chúc của Bác, cán bộ, đảng viên chúng ta càng luôn luôn nhớ tới lời Bác căn dặn, phải tu dưỡng đạo đức cách mạng, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Đồng thời, phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, lập trường tư tưởng kiên định và có tầm cao trí tuệ để “Xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.

TS. Chu Thái Thành
Theo Tạp chí Tài nguyên và Môi trường

Thu Hiền (st)
bqllang.gov.vn