Thư viện

Chung kết cuộc thi “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công vụ”

(VOV) – Thí sinh của Đảng bộ Cơ quan Bộ LĐ- TB-XH đã giành giải nhất chung cuộc.

Sáng nay (8/5), tại Hà Nội, Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương tổ chức chung kết cuộc thi “Thuyết trình Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công vụ”. Đây là đợt sinh hoạt chính trị quan trọng của Đảng bộ Khối trong kế hoạch triển khai thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, là hoạt động thiết thực hướng tới kỷ niệm 123 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 – 19/5/2013).

Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức công vụ là một bộ phận cấu thành quan trọng trong toàn bộ di sản tư tưởng của Người, đã thực sự đặt nền móng cho việc xây dựng, hoàn thiện và phát triển một nền công vụ dân chủ, hiện đại, văn minh ở Việt Nam.

Thí sinh của Đảng bộ Cơ quan Bộ LĐ- TB-XH đã giành giải nhất chung cuộc.

Tư tưởng đó đã định hướng cho tiến trình xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức và nền hành chính trong sạch, vững mạnh hướng tới xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của đất nước thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Trải qua nhiều vòng thi, với 60 bài dự thi của các đảng bộ trực thuộc được tổ chức trong suốt nửa năm qua, ban tổ chức đã chọn được 9 thí sinh có bài thuyết trình xuất sắc nhất để tham gia vòng thi chung kết.

9 bài thuyết trình của các thí sinh tham dự hội thi đã đi sâu phân tích, làm rõ nội dung tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức công vụ, nhất là đạo đức, lối sống “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” và việc vận dụng những tư tưởng đó vào quá trình rèn luyện, tu dưỡng của bản thân cũng như việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.

Phát biểu tại buổi lễ, ông Trần Hồng Hà, Phó Bí thư Đảng ủy Khối nhấn mạnh: “Hội thi thuyết trình tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công vụ là dịp để mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, quần chúng trong Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương được nghe và hiểu sâu sắc hơn tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công vụ, cũng như việc vận dụng những tư tưởng đó trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao và trong quá trình rèn luyện, tu dưỡng đạo đức của bản thân”.

Kết thúc hội thi, thí sinh đến từ Đảng bộ Cơ quan Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã giành giải nhất chung cuộc với phần thuyết trình xuất sắc. Ngoài ra ban tổ chức trao 2 giải nhì, 3 giải ba và các giải khuyến khích cho các thí sinh tham dự./.

CTV Kim Anh/VOV online
vov.vn

Advertisement

Từ tư tưởng, đạo đức của Bác Hồ – nghĩ về chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức ngành Tư pháp

Tư tưởng Hồ Chí Minh đi tới mùa XuânĐể học và làm theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì trước hết mỗi chúng ta cần hiểu được cái gốc, cái cốt lõi trong đạo đức của Bác. Như vậy việc học Bác mới thiết thực, mới sâu, mới bền. Cũng nhờ vậy, việc thực hiện Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp theo tấm gương tư tưởng, đạo đức của Bác của mỗi cán bộ, công chức, viên chức Ngành Tư pháp mới trở nên tự giác, nhuần nhị, tự nhiên như một điều thiết yếu cần phải có trong cuộc sống của mỗi chúng ta; là yêu cầu tự thân để hoàn thiện mình, tự làm cho mình trở lên tốt đẹp, hoàn thiện hơn, công tác hiệu quả hơn, từ đó xác định cho bản thân ý thức tự giác thực hiện, tự phấn đấu, vươn lên.

Bác Hồ của chúng ta là một nhà tư tưởng thiên tài, nhưng trước hết và trên hết Người là hiện thân của khát vọng giải phóng con người cần lao, của đạo đức sống, đấu tranh để đem lại hạnh phúc cho con người, vì con người.

Đạo đức của Bác xuất phát từ lòng yêu nước, thương dân, từ khát vọng cứu nước, giải phóng dân tộc. Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, Bác đi từ chủ nghĩa yêu nước chân chính đến chủ nghĩa cộng sản. Trong đạo đức của Người, Bác đi từ đạo đức của người yêu nước đến đạo đức của người cộng sản.  Phẩm chất đạo đức trong con người của Bác là phẩm hạnh, tác phong, quy phạm cao đẹp, là phương hướng, phương thức đúng đắn nhất để Người thực hiện tư tưởng vì dân, vì nước, vì hạnh phúc của con người. Đạo đức của Bác là sự kết tụ, tỏa sáng cao nhất, tinh túy nhất tư tưởng của Bác. Ở Người, phẩm chất tư tưởng và phẩm chất đạo đức hòa quyện, thống nhất làm một và luôn được thể hiện mãnh liệt và nhất  quán – đó là phẩm chất người cộng sản.

Phẩm chất người cộng sản Hồ Chí Minh dựa trên nền tảng văn hoá dân tộc Việt: Đó là văn hoá vì nghĩa vì tình, văn hoá yêu nước thương nòi; đó là sự hiếu hoà, khoan dung, tâm công theo tinh thần nhân văn truyền thống ngàn năm của dân tộc. Cuộc đời của người cách mạng Hồ Chí Minh là cuộc đời của một nhân cách luận cách mạng mẫu mực, trong đường lối chính trị lấy đoàn kết làm nền tảng sách lược, cho nên, để quy tụ, dẫn dắt quần chúng không thuần túy bằng con đường kinh tế, con đường bạo lực dựa trên kỷ luật mà còn theo chính con đường nhân cách luận cách mạng – con đường nêu gương.

Vậy nên, cái gốc đạo đức, cốt lõi đạo đức của Bác là tấm lòng yêu nước, thương dân nồng nàn, sâu sắc, là tư tưởng suốt đời hy sinh phấn đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân, luôn luôn quên mình, hy sinh bản thân mình, không hề vướng bận mưu cầu danh lợi cá nhân. Khi ở vào đỉnh cao quyền lực, Người nói:“Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào uỷ thác thì tôi phải gắng sức làm như một người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra trước mặt trận vậy.

Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Riêng phần tôi sẽ làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi” 

Bác dạy :

Gốc có vững, cây mới bền
Xây lầu Cách mạng trên nền nhân dân.

Trong tư tưởng của Bác, nhân dân là lực lượng đồng thời cũng là gốc của sự nghiệp Cách mạng, quyết định đến sự thành bại của Cách mạng. Do đó, mọi chủ trương đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước và mọi thái độ, việc làm của cán bộ, đảng viên khi tham gia thực hiện các công việc của Đảng và Nhà nước đều phải xuất phát từ nhân dân và vì nhân dân. Bác luôn yêu cầu cán bộ đảng viên phải đặc biệt ý thức được mình là “người đầy tớ”, là công bộc của dân để làm tốt vai trò là người phục vụ nhân dân, bởi vì chỉ có làm tốt vai trò người đầy tớ, công bộc của dân thì mới có thể lãnh đạo được nhân dân – Đây chính là điểm then chốt, là hạt nhân để tạo nên phẩm chất đạo đức của người cán bộ, đảng viên. Là những người đứng trong bộ máy của Đảng, của Nhà nước, càng trải nghiệm thực tế, càng nghĩ ta càng thấm thía lời dạy của Bác rằng: “Làm cán bộ tức là suốt đời làm đày tớ trung thành của nhân dân. Mấy chữ a, b, c này không phải ai cũng thuộc đâu, phải học mãi, học suốt đời mới thuộc được”.

Nói đến tính Liêm, Chính của người cán bộ cách mạng, Bác nêu một định nghĩa như là một điểm tựa cho phẩm giá của mỗi chúng ta: “ Liêm nghĩa là trong sạch, là luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của công, của dân, không tham địa vị, không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ. Vì vậy mà quang minh chính đại” Như vậy theo Bác, cần có “liêm” là để có “chính”.

Là người đề ra và xây dựng nên những giá trị chuẩn mực đạo đức cao đẹp cho cán bộ, đảng viên hướng tới, rèn luyện, phấn đấu, đồng thời Bác Hồ với tư cách là một lãnh tụ tối cao của dân tộc luôn là người nêu gương thực hành, là tấm gương vô cùng trong sáng, mẫu mực về đạo đức suốt đời. Giá trị thực tiễn cao đẹp của tư tưởng của Bác là ở chỗ gắn bó chặt chẽ với cuộc sống, nói đi đôi với làm. Bác dạy : “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, “ Một tấm gương sống còn hơn vạn bài diễn thuyết” – Có như vậy cán bộ, đảng viên mới được nhân dân tin yêu, quý trọng.

Là con người vô cùng lỗi lạc, vĩ đại về tư tưởng, trí tuệ, nhân cách, sự nghiệp, đồng thời Bác cũng là con người hết sức bình dân, giản dị, hòa mình với muôn triệu người dân, luôn quên bản thân mình để yêu thương, quan tâm đến từng thân phận con người, từng gốc cây, ngọn lúa, bờ tre. Và càng bình dân, giản dị, quên mình, nên Bác càng trở nên vĩ đại và càng được mọi người kính yêu, ngưỡng mộ.

Trí tuệ thiên tài và tấm lòng bao la vì dân vì nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn có sức lay động tình cảm, con tim của bất kể những ai có dịp được gặp Bác, được ở gần bên Bác. Nhà thơ Tố Hữu đã nói giúp mỗi chúng ta sự cảm nhận kỳ diệu rằng: Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta/Ta bỗng lớn ở bên Người một chút”. Từ đạo làm người, Bác truyền cho chúng ta nguồn cảm hứng, tinh thần, khí thế để vươn tới những giá trị cao quý, vẻ vang của đạo làm cán bộ, bất kể những rào cản khó khăn, thử thách, chông gai trong cuộc sống. Có thể nói, học tư tưởng, đạo đức của Bác là học nhân cách luận, là học về cách làm người. Đó là: Phẩm chất hy sinh, quên mình vì nhân dân, vì tập thể, vì cái chung; là tính nhân văn, nhân ái, tình đồng chí yêu thương lẫn nhau trên cơ sở tình thương và lẽ phải; là sự đi đầu thực hiện để nêu gương cho mọi người.

 Trải qua các giai đoạn cách mạng của Đảng, của đất nước, dù chức năng, nhiệm vụ có sự thay đổi, nhưng với đặc trưng công tác của Bộ, của Ngành Tư pháp, có thể nói mỗi một cán bộ, công chức, viên chức của Ngành ở những vị trí công tác khác nhau, ở những góc độ, mức độ biểu hiện khác nhau đều là những nhà chính trị, nhà cách mạng có vai trò tham gia cải tạo xã hội, xây dựng những giá trị tiến bộ của xã hội. Vậy nên, trong thư gửi Hội nghị Tư pháp toàn quốc tháng 2/1948, Bác xác định với cán bộ của Ngành rằng: “Các bạn là bậc trí thức. Các bạn có trách nhiệm nặng nề và vẻ vang là làm gương cho dân trong mọi việc”

Tư tưởng tất cả vì nhân dân, vì con người, ở bình diện hẹp hơn, gần gũi hơn, đó chính là cơ sở có tính nền tảng thiết yếu để tạo nên và bảo đảm cho vị thế, uy tín, danh dự, hạnh phúc, hiện tại và tiền đồ của Bộ, Ngành Tư pháp, cụ thể hơn là của những cán bộ, công chức, viên chức Ngành Tư pháp.

Tư tưởng tất cả vì nhân dân, vì con người càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi Đảng, Nhà nước ta đang sửa đổi Hiến pháp 1992, mà trong đó Bộ Tư pháp, Ngành Tư pháp đang đóng một vai trò nòng cốt.

 Với những ý nghĩa nêu trên, việc xây dựng và ban hành “Chuẩn mực đạo của cán bộ, công chức, viên chức Ngành Tư pháp” là một sự kiện đặc biệt trong lịch sử xây dựng và phát triển của Ngành, đánh dấu một bước chuyển lớn của Ngành trong việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là lần đầu tiên Ngành ta có một bản Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp chung, toàn diện, thống nhất đối với cán bộ, công chức, viên chức của toàn Ngành, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay khi Đảng ta đang quyết tâm thực hiện đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác Hồ để tăng cường phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân; chức năng, nhiệm vụ của Bộ, Ngành Tư pháp đang không ngừng được mở rộng, tăng cường, đảm đương nhiều nhiệm vụ quan trọng, nặng nề trong công tác quản lý nhà nước. Vượt lên khỏi một văn bản hành chính, bản Chuẩn mực với sự thể hiện cô đọng, nổi bật, khái quát cao những lời dạy của Bác đối với Ngành – như là món quà tinh thần thiêng liêng mang tâm nguyện, tinh thần của toàn Ngành dâng lên Bác, báo cáo với Bác và hứa đinh ninh với Bác. Qua đó chúng ta như thấy Bác vẫn như dõi theo từng bước đi lên của Ngành, nhắc nhở mỗi cán bộ công chúc, viên chức của Ngành tự soi mình hàng ngày để xứng đáng với mong mỏi của Người.

5 chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của Ngành đều có một trục, một điểm hướng tâm, một tọa độ quy chiếu, đó là ý thức, là phẩm chất vì nước, vì dân của cán bộ, công chức, viên chức của Ngành. Lòng yêu nước, yêu nhân dân được thể hiện tiêu biểu, nhất quán bằng những việc làm cụ thể gắn bó mật thiết với công việc của Ngành. Chúng ta tuân thủ nguyên tắc, phương pháp thực hiện công tác tư pháp “Trách nhiệm, tận tụy, sáng tạo, kỷ cương, phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư” hay thực hiện phẩm chất đạo đức đối với đồng nghiệp “Đoàn kết, thân ái,hợp tác, cùng tiến bộ”; thực hiện yêu cầu nêu gương đối với bản thân là “ Cần, kiệm, liêm, chính, thượng tôn pháp luật” thì trước hết và trên hết cũng là vì đất nước, vì nhân dân, cho nhân dân.

Hơn ai hết, mỗi cán bộ, công chức, viên chức Ngành Tư pháp, đặc biệt là những đảng viên – những người đang đứng trong đội ngũ hành động vì công  lý, công bằng, dân chủ của con người, của  tiến bộ xã hội ý thức sâu sắc rằng, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác là niềm vinh dự, vẻ vang, là nguồn sức mạnh tinh thần vô địch giúp chúng ta luôn đứng vững trước mọi thử thách, gian nan để vươn tới trước.

Học nhân cách luận, học về cách làm người nhân văn, nhân ái trong tư tưởng, đạo đức của Bác, chúng ta ý thức sâu sắc rằng: Một trong những giải pháp quan trọng để có thể thực hiện tốt Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của Ngành là đồng thời với việc đề cao tính nêu gương, đi đầu thực hiện  của người đứng đầu cơ quan, đơn vị và sự cố gắng tự thân của mỗi người, rất cần sự quan tâm, hỗ trợ, nâng đỡ của tập thể để mỗi người tự vươn lên; tập thể phải là chỗ dựa, điểm tựa cho mỗi thành viên của mình; phải có tình đồng chí, đồng nghiệp yêu thương, đoàn kết.

 Phát biểu về định hướng, yêu cầu quán triệt và triển khai thực hiện “Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức viên chức Ngành Tư pháp” tại Hội nghị của Ngành vào ngày 08/12/2012, Thứ trưởng Lê Hồng Sơn nhấn mạnh: “Việc đưa Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của Ngành đi vào cuộc sống là thể hiện của sự tiếp nối, phát huy truyền thống quý báu của Ngành, là biểu hiện sinh động, sâu sắc nhất của việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là một trong những yếu tố có tính quyết định quan trọng đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác của Ngành Tư pháp trong thời gian tới”.  Điều đó cũng là để góp phần thực hiện lời hứa thiêng liêng của toàn Ngành đã được khắc ghi trang trọng trên bia tưởng niệm tại Di tích lịch sử trụ sở cơ quan Bộ Tư pháp tại Tuyên Quang: “Cán bộ Tư pháp Việt Nam tri ân, ghi sâu công lao của các thế hệ đi trước, phát huy truyền thống của Ngành, trung thành, sáng tạo, tận tụy, đoàn kết phấn đấu vì sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”.

Hoàng Hà – Văn phòng Bộ
moj.gov.vn

Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm phòng, chống tham ô, lãng phí

Tư tưởng Hồ Chí Minh đi tới mùa XuânChủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, nhưng Người để lại cho chúng ta những di sản tinh thần to lớn, những giá trị nhân văn cao cả, trong đó đặc biệt là tư tưởng về thực hành tiết kiệm và phòng chống tham ô, lãng phí.

Theo Hồ Chí Minh, tiết kiệm là sử dụng hợp lý và có hiệu quả tiền của, thời gian, công sức lao động, tích trữ thêm vốn cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, nâng cao mức sống của nhân dân. Theo Người, “tiết kiệm không phải là bủn xỉn, không phải là: “Xem đồng tiền to bằng cái nống”, gặp việc đáng làm cũng không làm, đáng tiêu cũng không tiêu. Tiết kiệm không phải là ép bộ đội, cán bộ và nhân dân nhịn ǎn, nhịn mặc. Trái lại, tiết kiệm cốt để giúp vào tǎng gia sản xuất, mà tǎng gia sản xuất là để dần dần nâng cao mức sống của bộ đội, cán bộ và nhân dân. Nói theo lối khoa học, thì tiết kiệm là tích cực, chứ không phải là tiêu cực”. Trong quan niệm của Người, tiết kiệm là chi tiêu, sử dụng có kế hoạch, có tính toán, xem xét đầy đủ các yếu tố, giảm bớt hao phí trong sử dụng tiền của, thời gian, công sức nhưng vẫn đạt được mục tiêu xác định. Mục đích của tiết kiệm là để tích luỹ tiền của, thời gian, công sức cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, nâng cao mức sống của nhân dân. Tiết kiệm “không phải là lý luận cao xa, mà là hành vi trong thực tế của cán bộ, nhân dân ta, tất cả mọi người đều phải thực hành tiết kiệm và kết quả tiết kiệm của mọi người đều góp phần cho sự nghiệp cách mạng thắng lợi”.

Vậy tham ô là gì? Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tham ô là: “Ăn cắp của công làm của tư, đục khoét của nhân dân. Tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung, của chính phủ để làm quỹ riêng cho địa phương mình, cho đơn vị mình cũng là tham ô. Tham ô là ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế”. Người còn xác định  tham ô, không chỉ gây tổn hại rất lớn đến của cải vật chất mà còn làm giảm lòng tin của nhân dân. “Tham ô là hành động xấu xa nhất của con người”, “Tham ô của công tức là xâm phạm đến lợi ích chung của nhân dân, tức là kẻ địch của nhân dân. Vì vậy, kiên quyết chống tham ô là trách nhiệm chung của toàn Đảng, toàn dân ta”.

Hồ Chí Minh khẳng định lãng phí là việc quản lý, sử dụng tiền của, sức lao động, thời gian kém hiệu quả. Người cho rằng lãng phí có nhiều cách như lãng phí sức lao động; lãng phí thì giờ; lãng phí tiền của. Người cho rằng: “Lãng phí và tham ô tuy khác nhau ở chỗ: lãng phí thì không trực tiếp ăn cắp, ăn trộm của công, nhưng kết quả tai hại đến tài sản của Nhà nước của tập thể, thì lãng phí cũng có tội. Tham ô là trộm, cướp; lãng phí tuy không lấy của công đút túi, song kết quả cũng rất tai hại cho nhân dân, cho chính phủ, có khi còn tai hại hơn tham ô”.

Hồ Chí Minh chỉ ra “Bệnh quan liêu là nguồn gốc sinh ra lãng phí, tham ô … cho nên muốn triệt để chống tham ô, lãng phí thì phải kiên quyết chống nguồn gốc của nó là bệnh quan liêu”. Theo Người: “Muốn lúa tốt phải nhổ cỏ cho thật sạch, nếu không thì dù cày bừa kỹ, bón nhiều phân, lúa vẫn xấu vì lúa bị cỏ át đi. Muốn thành công trong việc tăng gia sản xuất và tiết kiệm, cũng phải nhổ cỏ cho thật sạch, nghĩa là phải tẩy sạch nạn tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu. Nếu không thì nó sẽ là hại đến công việc của ta”. Tham ô, lãng phí, quan liêu là một thứ “giặc ở trong lòng”, “là kẻ thù của nhân dân, của Chính phủ, kẻ thù khá nguy hiểm, vì nó không mang gươm, mang súng, mà nó nằm trong các tổ chức của ta, để làm hỏng công việc của ta”, “nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta, phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính”. Chế độ xã hội chủ nghĩa của chúng ta rất tốt đẹp, tệ tham ô, lãng phí là cái xấu xa do chế độ cũ để lại, như cái ung nhọt còn sót lại trên thân thể của cơ thể sống. “Công khai và mạnh dạn gạt bỏ cho thật sạch những ung nhọt ấy thì thân thể càng khoẻ mạnh thêm”.

Hồ Chí Minh yêu cầu: Thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham ô, lãng phí, quan liêu phải được tiến hành thường xuyên, kiên quyết, triệt để; phải trở thành phong trào thi đua sôi nổi, rộng khắp. Gắn chặt giữa xây với chống, kết hợp giáo dục, phòng ngừa với đấu tranh khắc phục, lấy giáo dục làm chính. Theo Người, để thực hiện được yêu cầu đó cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của mọi người, mọi tổ chức, cơ quan, đơn vị. Phải dựa vào sức mạnh của quần chúng nhân dân; chăm lo xây dựng và phát huy vai trò tiên phong gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, chủ động đấu tranh khắc phục chủ nghĩa cá nhân. Không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp uỷ, tổ chức đảng, đề cao trách nhiệm chính quyền thủ trưởng cơ quan, đơn vị trong lãnh đạo, quản lý thực hành tiết kiệm, phòng chống tham ô, lãng phí, quan liêu.

Theo dangcongsan.vn
Đỗ Long Văn (st)

bqllang.gov.vn

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng

Tư tưởng Hồ Chí Minh đi tới mùa XuânTrong suốt cuộc đời hoạt động của mình, từ bài giảng đầu tiên trong tác phẩm Đường Kách mệnh(1) đến bản Di chúc cuối cùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề đạo đức và việc tu dưỡng đạo đức, coi đạo đức là “cái gốc” của người cách mạng.

Vấn đề đạo đức cách mạng trong tư tưởng của Hồ Chí Minh luôn có sự nhất quán và tính lôgic cao về tinh thần cách mạng cũng như phương pháp tư duy, nhất là phương pháp tư duy khoa học, tư duy biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, trên cơ sở truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, chắt lọc tinh hoa đạo đức của nhân loại, Người còn phát triển và sáng tạo những giá trị tư tưởng đạo đức mới phù hợp với điều kiện Việt Nam.

Tầm quan trọng của đạo đức bao giờ cũng được Người đặt ở vị trí hàng đầu. Ngay từ khi Đảng ta chưa ra đời, không phải ngẫu nhiên những bài giảng đầu tiên của Người cho thế hệ thanh niên yêu nước đầu tiên ở nước ta theo con đường cách mạng vô sản là những bài giảng về tư cách của người cách mạng. Trong trang đầu cuốn Đường Kách mệnh – Người đã ghi 23 nét tư cách của một người cách mạng trong ứng xử với mình, với người, với đời, với việc. Đó là những chuẩn mực: “Tự mình phải:

Cần kiệm.
Hòa mà không tư.
Cả quyết sửa lỗi mình.
Cận thận mà không nhút nhát.

Hay hỏi.

Nhẫn nại (chịu khó).
Hay nghiên cứu, xem xét.
Vị công vong tư.
Không hiếu danh, không kiêu ngạo.
Nói thì phải làm.
Giữ chủ nghĩa cho vững.

Hy sinh.

Ít lòng ham muốn về vật chất.

Bí mật.

Đối với người phải:
Với từng người thì khoan thứ.
Với đoàn thể thì nghiêm.
Có lòng bày vẽ cho người.
Trực mà không táo bạo.
Hay xem xét người.

Làm việc phải:

Xem xét hoàn cảnh kỹ càng.
Quyết đoán.
Dũng cảm.
Phục tùng đoàn thể”(2).

Trên cơ sở nhận thức về nền tảng của việc hình thành đạo đức mới, vấn đề đạo đức cách mạng được Người nhắc lại nội dung tương tự khi nói chuyện với cán bộ tỉnh Thanh Hóa, năm 1947, nhưng cụ thể hơn(3), gồm 5 điểm: Một, Mình đối với mình; hai, Đối với đồng chí mình phải thế nào?; ba, Đối với công việc phải thế nào?; bốn, Đối với nhân dân; và năm, Đối với đoàn thể. Với những lời căn dặn này cho thấy, Người đã đặt vấn đề đạo đức cách mạng một cách rất lôgic và có cơ sở khoa học về các quan hệ lợi ích. Hầu như các nguyên tắc đạo đức Người đề ra trước hết cho mình thực hiện, sau đó mới để giáo dục người khác, có thể nêu ra một số chuẩn mực cơ bản về đạo đức cách mạng theo tư tưởng của Người, như sau:

1/ Nếu bài học về đạo đức cách mạng đầu tiên trong cuốn Đường Kách mệnh, Người chỉ đề ra những nguyên lý chung thể hiện mối quan hệ giữa ba khía cạnh, phản ánh mối quan hệ đạo đức mới, đạo đức cách mạng mà người cách mạng cần quán triệt trước tiên, đồng thời nêu cao việc tu dưỡng đạo đức cách mạng; thì ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Người đã đề ra những nguyên tắc về hành vi đạo đức cách mạng đối với người có chức, có quyền trong Chính phủ từ toàn quốc đến các làng, Người đề nghị: “Mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: Cần, kiệm, liêm, chính” để “làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động”.

Người coi cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là phẩm chất đạo đức cơ bản nhất của con người mới, đồng thời là chuẩn mực cơ bản của nền đạo đức mới của dân tộc ta. Đây là phẩm chất được Người đề cập đến nhiều nhất, thường xuyên nhất với một nội dung đạo đức mới rất cách mạng mà vẫn giữ được nền tảng của các khái niệm đạo đức cũ rất quen thuộc với mọi người. Phẩm chất này gắn liền với họat động hàng ngày của mỗi con người và có quan hệ mật thiết với tư tưởng trung với nước, hiếu với dân. Chí công vô tư về thực chất là nối tiếp cần, kiệm, liêm, chính. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư và ngược lại. Người có tinh thần chí công vô tư là người ham làm những việc ích nước, lợi dân, không ham địa vị, công danh, phú quý, không nghĩ đến quyền lợi cá nhân. Người cho rằng những cán bộ, đảng viên có đầy đủ đức tính nêu trên sẽ đứng vững trước mọi thử thách, hơn nữa yêu cầu họ phải thể hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đối với người, với việc và với chính mình.

Người từng nói: “Người đảng viên, người cán bộ tốt muốn trở nên người cách mạng chân chính, không có gì là khó cả. Điều đó hoàn toàn do lòng mình mà ra. Lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào thì mình sẽ tiến đến chỗ chí công, vô tư. Mình đã chí công, vô tư thì khuyết điểm sẽ càng ít, mà những tính tốt như sau, ngày càng thêm. Nói tóm tắt, tính tốt ấy gồm có 5 điều: Nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm”(4). Có thể thấy rằng từ các khái niệm đạo đức cũ như: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm, Người đã đưa vào đây nội dung đạo đức mới bằng cách giải thích nó theo quan niệm mới, với một nội dung hoàn toàn khác, rất cách mạng, phản ánh các mối quan hệ một cách rõ ràng, cụ thể và dễ hiểu.

2/ Từ nội dung hẹp của các phạm trù đạo đức cũ, Người mở rộng, đưa vào đây một nội dung rất mới, tiến bộ, cách mạng, vượt qua những hạn chế của tư tưởng đạo đức truyền thống và nâng lên thành tư tưởng đạo đức mới, mà tiêu biểu nhất là các khái niệm: Trung, hiếu, nhân, nghĩa… “Từ trung với vua thành trung với nước; từ hiếu với cha mẹ mình thành hiếu với dân; từ nhân chỉ là nhân ái thành nhân dân, từ cần cho riêng mình thành cần cho cả xã hội; từ kiệm cho riêng mình thành tiết kiệm chung phục vụ cho đất nước; từ liêm nghĩa là liêm khiết, không tham nhũng, nghĩa là chỉ giữ cho bản thân mình trong sạch, Người mở rộng thành vấn đề liêm khiết mang tính xã hội; từ chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đúng đắn, Người chuyển sang vấn đề thiện, ác; làm việc chính, là người thiện; làm việc tà là người ác”(5). Người nhấn mạnh: “Người cán bộ phải có đạo đức cách mạng. Phải giữ đạo đức cách mạng mới là người cán bộ cách mạng chân chính. Đạo đức cách mạng có thể nói tóm tắt là: Nhận rõ phải trái, giữ vững lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân”(6). Trung với nước, hiếu với dân được coi là nội dung cơ bản nhất, bao trùm nhất trong tư tưởng đạo đức cách mạng của Người, thể hiện mối quan hệ giữa con người với Tổ quốc và nhân dân. “Trung với nước” là trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc, nước ở đây là nước của dân, dân là chủ nhân của đất nước. Người cho rằng bao nhiêu quyền hạn đều là của dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Xuất phát từ quan niệm như vậy, nên “hiếu” trong tư tưởng của Người chính là “Hiếu với dân”. Hiếu với dân không chỉ là xem người dân như đối tượng dạy dỗ, ban ơn mà là đối tượng phải phục vụ hết lòng. Ở người, lý luận luôn gắn chặt với thực tiễn, lời nói luôn đi đôi với việc làm. Cuộc đời của Người là minh chứng sinh động về tư tưởng tận trung với nước, tận hiếu với dân.

3/ Nếu như trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất của mỗi con người – công dân đối với Tổ quốc, đối với nhân dân, thì yêu thương con người là trách nhiệm của mỗi con người đối với con người. Người cho đây là phẩm chất cao đẹp nhất của con người. Yêu thương con người trước hết là tình cảm dành cho những người bị áp bức, bóc lột, những người cùng khổ. Yêu thương con người còn được thể hiện trong mối quan hệ hàng ngày với những người đồng chí xung quanh, trong cuộc sống bình thường. Phải luôn nghiêm khắc với bản thân, nhưng rộng rãi độ lượng với ngươì khác. Điều đặc biệt là ở Người, yêu thương con người luôn luôn gắn với niềm tin vào con người, tin vào lương tri, tin vào lòng dũng cảm, tin vào sức sáng tạo của họ trong hành trình con người tự giải phóng lấy mình, để con người làm chủ xã hội, làm chủ bản thân mình.

4/ Người đã có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cá nhân và giai cấp, giữa dân tộc và quốc tế, giữa truyền thống và hiện đại tạo ra trong quan niệm về đạo đức cách mạng sự hài hòa về các mối quan hệ lợi ích. Theo Người, tinh thần quốc tế trong sáng thực chất là chủ nghĩa yêu nước gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Người cho rằng nếu tinh thần yêu nước không chân chính, tinh thần quốc tế không trong sáng thì có thể dẫn tới tư tưởng dân tộc chủ nghĩa, hẹp hòi, sô vanh, biệt lập, kỳ thị chủng tộc. Từ rất sớm, Người đã chủ trương quan hệ với các quốc gia dân tộc và các tổ chức trên thế giới để thêm bạn, bớt thù. Quan điểm dân tộc đã được thổi vào thời đại, đã vượt qua biên giới quốc gia, hướng tới mục tiêu độc lập, dân chủ, hòa bình, hữu nghị và hợp tác.

Cần nhấn mạnh là tuy có những cách định nghĩa khác nhau về nội hàm các khái niệm đạo đức cách mạng, nhưng nhìn chung ở Người đều có sự nhất quán về tinh thần cách mạng và phương pháp tư duy. Từ các khái niệm, phạm trù của các tư tưởng đạo đức đã có từ trước như: Nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm, đến cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; từ trung, hiếu, đến thiện, ác… bao giờ Người cũng có cách giải thích riêng về những chuẩn mực đạo đức phù hợp dễ hiểu, dễ chấp nhận với từng đối tượng, với mọi tầng lớp nhân dân: trí thức, quân đội, công an, công nhân, nông dân, phụ nữ, phụ lão, các cháu thiếu niên và nhi đồng… Đề cao đạo đức mới, Người đã thể hiện một tầm nhìn xa trông rộng về nhân cách con người. Những phẩm chất mà Người nêu ra là nhằm hướng con người tới cái thiện, cái tốt, cái cao cả, đồng thời ngăn chặn, khắc phục những biểu hiện thoái hóa, biến chất có thể xảy ra, đặc biệt là chống khuynh hướng lạm dụng quyền lực để tham nhũng, lãng phí. Ngay cả trước khi qua đời, việc đầu tiên được đề cập đến trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân là nói về Đảng, việc đầu tiên khi đề cập đến Đảng là đạo đức, Người viết: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(7).

Tóm lại, từ bài viết đầu tiên trong tác phẩm Đường Kách mệnh đến bản Di chúc cuối cùng, dù ở những thời điểm lịch sử khác nhau nhưng tư tưởng của Người về đạo đức cách mạng đều có sức thuyết phục rất cao, có sức sống mạnh mẽ và có giá trị lâu bền. Bởi đó là sự thống nhất giữa lời nói, tư tưởng và hành động. Người đặt vấn đề đạo đức cách mạng từ lĩnh vực lý luận sang lĩnh vực thực tiễn, đưa đạo đức cách mạng vào chính sự nghiệp cách mạng, coi đó là một trong những nguyên tắc hoạt động cách mạng, phản ánh các quan hệ mới về lợi ích tạo ra nền tảng vững chắc của chính quyền cách mạng nói chung và người cách mạng nói riêng.

———————————–

[1] Đường Kách mệnh, xuất bản năm 1927 – đây là một tác phẩm lý luận và chính trị vô cùng quan trọng, gồm những đề cương bài giảng của Nguyễn Ái Quốc, tức Chủ tịch Hồ Chí Minh giảng cho các lớp huấn luyện chính trị được tổ chức bí mật ở Quảng Châu, Trung Quốc từ đầu năm 1925 nhằm đào tạo cán bộ cách mạng nước ta, chuẩn bị về tư tưởng, đường lối và tổ chức cho việc thành lập một chính đảng mác xít của giai cấp công nhân Việt Nam.
[2] Nguyễn Ái Quốc. Đường Kách mệnh. Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1982, tr..22-23.
[3] Xem thêm: Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 5. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 54-55.
[4] Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 5. Sđd, tr. 251.
[5] Thành Duy, Văn hóa đạo đức: Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam, Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 2004, tr. 35.
[6] Hồ Chí Minh. Toàn tập, Tập 7, Sđd, tr. 480.
[7] Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 12, Sđd, tr. 510.

Theo: dangcongsan.vn
Tâm Trang(st)

bqllang.gov.vn

Tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về phong cách quần chúng

Tư tưởng Hồ Chí Minh đi tới mùa XuânSuốt cuộc đời mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh phấn đấu không mệt mỏi cho độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân.

Sớm nhận thức sâu sắc được vai trò của quần chúng, sau khi tìm thấy con đường cứu nước trong thời đại mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở về nước, đi vào quần chúng, vận động, tập hợp, tổ chức quần chúng, lãnh đạo quần chúng đấu tranh cách mạng giành lại độc lập, tự do. Đến khi trở thành lãnh tụ của Đảng và Nhà nước, cũng vẫn là một Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên trì thực hiện mối liên hệ với quần chúng, gắn bó máu thịt với quần chúng.

Vai trò của quần chúng nhân dân

Là người hiểu rất rõ: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”, và “người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại và duy nhất của đời sống xã hội của họ”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo những nguyên lý của học thuyết Mác-Lênin về công tác vận động quần chúng kiểu mới, trang bị cho lớp cán bộ cốt cán đầu tiên của cách mạng Việt Nam một phương pháp vận động quần chúng khoa học. Sau đó, đội ngũ cán bộ ấy đã trở về nước, hoạt động cách mạng trong lòng nhân dân, tổ chức quần chúng, “nếm mật nằm gai” cùng quần chúng đấu tranh, tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng một đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh.

Thấm nhuần lời của cổ nhân “chở thuyền cũng là dân”, “lật thuyền cũng là dân”, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng sự nghiệp cách mạng là của dân, do dân và “không có sự đồng tình ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội tiền phong của mình, tức là đối với giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thành công”. Cũng theo lời Người, giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền, xây dựng một đất nước Việt Nam mới còn khó khăn, phức tạp hơn gấp nhiều lần: “Trong việc phá hoại chống kẻ thù đòi độc lập thì dễ dàng kéo cả toàn dân. Trong việc kiến thiết thì khó kéo hơn”, vì nó đụng chạm đến quyền lợi riêng của một đôi giai tầng trong nước. Hơn nữa, Người đã nói: “Chúng ta phải thật thà thừa nhận rằng kinh nghiệm chúng ta còn ít, tài năng chúng ta còn kém, mà công việc thì nhiều”, nên để “thuyết phục quần chúng một cách có lý, có tình, làm cho họ hiểu để… việc gì khó khăn mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng không sợ”, thì không thể không làm tốt công tác dân vận.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm chỉ ra vị trí “cầu nối” giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân chính là người cán bộ, đảng viên, bởi chính họ là người đem đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ đến với nhân dân, đồng thời cũng là người lãnh đạo, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nên nhấn mạnh: “Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công và thất bại của chính sách đó là do cách tổ chức công việc, do nơi lựa chọn cán bộ, do nơi kiểm tra. Nếu ba điểm ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”. Vì vậy, muốn tổ chức công việc tốt, người cán bộ, đảng viên phải tuyệt đối trung thành với Đảng, phải có năng lực lãnh đạo, khả năng tổ chức thục hiện và nhất định phải quán triệt những nguyên tắc của công tác dân vận – liên hệ mật thiết với nhân dân, luôn gần dân, hiểu tâm tư nguyện vọng của dân… Tuy nhiên, dường như cùng với thời gian, những điều Người cảnh báo về những hiện tượng chưa thực sự “vì dân”, “ngày càng xa dân”, “coi khinh công tác dân vận” của cán bộ, đảng viên từng được nêu trong các tác phẩm: Thư gửi Uỷ ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng (năm 1945), Thư gửi các đồng chí tỉnh nhà (năm 1947),  Thư gửi các đồng chí Trung Bộ, Sửa đổi lối làm việc (năm 1947), Cần kiệm liêm chính (năm 1949)… đã không được khắc phục kịp thời, mà những vấn nạn đó ngày càng trở nên nghiêm trọng.

Thực tế là, khi Đảng cầm quyền, dù đa số cán bộ, đảng viên tại các cơ quan Đảng, Nhà nước và các đoàn thể vẫn thực sự là những “công bộc”, hết lòng tận tụy phục vụ nhân dân, thì cũng đã có không ít người “lên mặt làm quan cách mạng, miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối quan chủ, miệng nói phụng sự quần chúng, khi làm thì trái ngược với lợi ích của quần chúng”. Họ đã không lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, đã tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành, tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền, xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu mệnh lệnh, không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu khó học tập để tiến bộ, và thường thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, dần càng rời xa nhân dân… Họ đã làm trái ngược nguyên tắc “phải gắn bó máu thịt với nhân dân”, làm cho nhân dân hoang mang, oán Chính phủ và Đảng.

Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ nói rằng: “Đảng cầm quyền nhưng dân là gốc, dân là chủ” nên mọi công việc của Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do, dân chủ, hạnh phúc cho mọi người. Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải lấy dân làm gốc, coi dân là chủ, đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy: Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh, mà còn yêu cầu cán bộ từ Chủ tịch nước trở xuống đều phải là đày tớ trung thành của nhân dân trên tinh thần: “Dân làm chủ thì Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, uỷ viên này khác là làm gì? Làm đày tớ. Làm đày tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan cách mạng”…

Phong cách quần chúng

Trước những thiếu sót, sai lầm “rất to, rất có hại” của các địa phương, của đội ngũ cán bộ, đảng viên về công tác dân vận, để “đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân”, nhằm chỉnh đốn lại nội bộ Đảng và thông qua chỉnh đốn Đảng để tăng cường xây dựng Đảng, ngày 15-10-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh (bút danh X.Y.Z) đã kịp thời cảnh báo và nêu rõ những nội dung cốt lõi về tư tưởng dân vận qua tác phẩm Dân vận đăng trên Báo Sự thật  ngày 15-10-1949. Trong đó

Người khẳng định:

“Nước ta là nước dân chủ Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.

Vì “lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công” nên người cán bộ, đảng viên phải luôn gần dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, để cổ vũ, động viên nhân dân và phát huy được nguồn sức mạnh nội lực của lực lượng “dời non, lấp bể” này trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Muốn vậy, phải làm tốt công tác dân vận, phải “vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho”.

Người đã từng nhiều lần nhấn mạnh rằng: Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước dù đúng đắn, nhưng nếu không được sự đồng lòng, ủng hộ của nhân dân thì rất khó đi vào hiện thực cuộc sống. Nhưng muốn được nhân dân ủng hộ, thì không chỉ dùng cách tuyên truyền bằng sách, báo, mít tinh, nghị quyết hay khẩu hiệu, mà “phải đưa chính trị vào giữa dân gian”. Nghĩa là:

Thứ nhất: Phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi người dân hiểu được rõ ràng những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước chính là đem lại “lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được”.

Thứ hai: Bất cứ công việc gì cũng phải bàn bạc và hỏi ý kiến, kinh nghiệm của quần chúng; giáo dục, động viên quần chúng, “khéo tập trung ý kiến của quần chúng, hoá nó thành cái đường lối để lãnh đạo quần chúng”.

Thứ ba: Trong lúc thi hành, phải theo dõi, đôn đốc, khuyến khích quần chúng thực hiện tốt chủ trương, đường lối đó.

Thứ tư: Cùng quần chúng bàn bạc, rút kinh nghiệm trong quá trình thực hiện, để có phê bình và khen thưởng kịp thời.

Cho nên, để khắc phục suy nghĩ: Việc gì cũng từ “trên dội xuống”, dùng mệnh lệnh, chỉ thị để lãnh đạo, “thích làm việc bằng giấy tờ thật nhiều. Ngồi một nơi chỉ tay năm ngón không chịu xuống địa phương kiểm tra công tác… Những chỉ thị, nghị quyết cấp trên gửi xuống các địa phương có thực hiện được hay không, các đồng chí cũng không biết đến” – “Cái lối làm việc như vậy rất có hại. Nó làm cho chúng ta không đi sát phong trào, không hiểu rõ được tình hình bên dưới cho nên phần nhiều chủ trương của chúng ta không thi hành được đến nơi, đến chốn”, thì bất cứ việc to, việc nhỏ gì cũng đều phải thực hiện theo nguyên tắc “từ trong quần chúng ra. Về sâu nơi quần chúng” và “phải thật thà nhúng tay vào việc”. Điều đó nghĩa là: Trong bất cứ hoàn cảnh nào, cán bộ, đảng viên cũng phải chú trọng xem: người dân đang nghĩ gì? cần gì?… để đưa mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào thực tế cuộc sống; để người dân được thụ hưởng những kết quả của các chủ trương, nghị quyết ấy. Muốn vậy, phải thực hiện lời Người: rất cần và nhất thiết phải khắc phục “khuyết điểm to ở nhiều nơi là xem khinh việc dân vận. Cử ra một ban hoặc vài người, mà thường cử những cán bộ kém rồi bỏ mặc họ. Vận được thì tốt, vận không được cũng mặc. Những cán bộ khác không trông nom, giúp đỡ, tự cho mình không có trách nhiệm dân vận. Đó là sai lầm rất to, rất có hại”.

Để làm dân vận tốt, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Những người phụ trách dân vận cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh. Họ phải thật thà nhúng tay vào việc”. Đó phải là những người luôn “tự mình phải làm gương mẫu cần, kiệm, liêm chính, để nhân dân noi theo”, vì quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức, những người luôn lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ… Đồng thời, cũng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Dân vận không phải là việc riêng của một hai người, một hai ban, ngành, đó phải là công việc của cả hệ thống chính trị, là “tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân (Liên Việt, Việt Minh…) đều phải phụ trách dân vận”.

Tấm gương của Bác về phong cách quần chúng

Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ luôn hết lòng yêu thương nhân dân, vì nhân dân phục vụ: “Người luôn luôn ở giữa quần chúng nhân dân, mang lại muôn vàn tình thân yêu cho con người”. Bởi vậy, từ cách mạng thành công Người đã nói: “Trong nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa của chúng ta, tất cả mọi quyền lực đều là của nhân dân” và “nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”. Nhất quán nguyên tắc đó, trong 24 năm ở vị thế một nguyên thủ quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh là “một vị lãnh tụ thực sự liên hệ sâu sắc với quần chúng, mà nói như vậy cũng không đủ, phải nói là một vị lãnh tụ kiệt xuất đã hòa sâu trong nhân dân Việt Nam, thực sự trở thành một thể thống nhất với nhân dân Việt Nam”. Khó mà kể hết được những dòng ký ức của mỗi người về hình ảnh một Chủ tịch Hồ Chí Minh – mẫu mực về công tác dân vận… và thật sinh động, cụ thể, ngày 18-1-1967, khi nói chuyện với Lớp bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo cấp huyện, Người đã căn dặn: “Làm việc gì cũng phải có quần chúng. Không có quần chúng thì không thể làm được… Dễ mười lần không dân cũng chịu, Khó trăm lần dân liệu cũng xong”.

Từ những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác dân vận, từ tấm gương làm dân vận mẫu mực của Người và bài học quý giá Người căn dặn: “Giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi”, trong hơn 26 năm đổi mới, đã có nhiều nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước… về tăng cường công tác dân vận được ban hành. Và trên thực tế, các cấp chính quyền đã chú trọng, tăng cường công tác quần chúng; có những chính sách kịp thời khuyến khích, vận động người dân tham gia vào các phong trào thi đua yêu nước, tham gia phát triển kinh tế, xã hội… Đồng thời, việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, việc chính quyền phối hợp ngày càng chặt chẽ, thường xuyên với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên cùng làm công tác dân vận, đã góp phần làm cho quyền làm chủ của người dân ngày càng được phát huy, tôn trọng./.

Theo Báo Hải Dương online
Huyền Trang (st)

bqllang.gov.vn

Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác – Lênin, được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với giải quyết xã hội và giải phóng con người. Trong đó, vấn đề con người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu và là vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ nội dung tư tưởng của Người.

Tư tưởng Hồ Chí Minh đi tới mùa XuânTư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác – Lênin, được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với giải quyết xã hội và giải phóng con người. Trong đó, vấn đề con người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu và là vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ nội dung tư tưởng của Người. Tin ở dân, dựa vào dân, tổ chức và phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, bồi dưỡng, đào tạo và phát huy mọi năng lực của dân (ở từng cá nhân riêng lẻ và của cả cộng đồng), đó là tư tưởng được Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cách mạng giành độc lập dân tộc cũng như xây dựng đất nước. Tư tưởng đó cũng chính là nội dung cơ bản của toàn bộ tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh.

Đối với Hồ Chí Minh, con người vừa tồn tại tư cách cá nhân, vừa là thành viên của gia đình và của cộng đồng, có cuộc sống tập thể và cuộc sống cá nhân hài hòa, phong phú. Người đã nêu một định nghĩa về con người: “Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người”. Quan điểm đó thể hiện ở chỗ Người chưa bao giờ nhìn nhận con người một cách chung chung, trừu tượng. Khi bàn về chính sách xã hội, cũng như ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn cảnh, Người luôn quan tâm đến nhu cầu, lợi ích của con người với tư cách nhu cầu chính đáng. Đem lại lợi ích cho con người chính là tạo ra động lực vô cùng lớn lao cho sự nghiệp chung, vì nếu như những nhu cầu, lợi ích của mỗi cá nhân không được quan tâm thỏa đáng thì tính tích cực của họ sẽ không thể phát huy được. Trong khi phê phán một cách nghiêm khắc chủ nghĩa cá nhân, Người viết: “Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là “giày xéo lên lợi ích cá nhân”. Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình mình”. Trong quan điểm về thực hiện một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, theo Người, phải là một nền dân chủ chân chính, không hình thức, không cực đoan, trong đó mỗi con người cụ thể phải được đảm bảo những quyền lợi và nghĩa vụ của mình theo hiến pháp và pháp luật. Con người, với tư cách là những cá nhân, không tồn tại biệt lập mà tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với cộng đồng dân tộc và với các loài người trên toàn thế giới.

Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không tồn tại như một phạm trù bản thể luận có tính trừu tượng hóa và khái quát hóa, mà được đề cập đến một cách cụ thể, đó là nhân dân Việt Nam, những con người lao động nghèo khổ bị áp bức cùng cực dưới ách thống trị của phong kiến, đế quốc; là dân tộc Việt Nam đang bị đô hộ bởi chủ nghĩa thực dân; và mở rộng hơn nữa là những “người nô lệ mất nước” và “người cùng khổ”. Lôgíc phát triển tư tưởng của Người là xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước để đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, đến với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Theo lôgíc phát triển tư tưởng ấy, khái niệm “con người” của Hồ Chí Minh tiếp cận với khái niệm “giai cấp vô sản cách mạng”. Người đề cập đến giai cấp vô sản cách mạng và sự thống nhất về lợi ích căn bản của giai cấp đó với các tầng lớp nhân dân lao động khác (đặc biệt là nông dân). Người nhận thức một cách sâu sắc rằng, chỉ có cuộc cách mạng duy nhất và tất yếu đạt tới được mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự nô dịch, áp bức. Toàn bộ các tư tưởng, lý luận (chiếm một khối lượng lớn trong các tác phẩm của Người) bàn vềcách mạng (chiến lược giải pháp; bàn về người cách mạng và đạo đức cách mạng, về hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội; về rèn luyện và giáo dục con người v.v…) về thực chất chỉ là sự cụ thể hóa bằng thực tiễn tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người được khái niệm vừa là mục tiêu của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, vừa là động lực của chính sự nghiệp đó. Tư tưởng đó được thể hiện rất triệt để và cụ thể trong lý luận chỉ đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Trong lý luận về xây dựng chế độ mới, Hồ Chủ tịch đã khẳng định xây dựng chế độ dân chủ nhân dân gắn liền với việc thực hiện bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong kháng chiến giải phóng dân tộc cần xây dựng chế độ dân chủ nhân dân để đẩy mạnh công cuộc kháng chiến, đồng thời tạo ra những tiền đề cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội; trong xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải thực hiện chế độ dân chủ nhân dân, vì như Người nói: “Đây là cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại những cái gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”. Cuộc chiến đấu ấy sẽ không đi đến thắng lợi, nếu không “dựa vào lực lượng của toàn dân”. Về chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh không bao giờ quan niệm hình thái xã hội đó như một mô hình hoàn chỉnh, một công thức bất biến. Bao giờ Người cũng coi trọng những điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa khách quan. Người chỉ đề ra những mục tiêu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội với những bước đi thiết thực và những nội dung cơ bản nhất. Theo Người: “Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết là làm cho nhân dân lao động thoát khỏi bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và được sống đời hạnh phúc”; “Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân” xây dựng chủ nghĩa xã hội tức là làm cho nhân dân ta có một đời sống thật sung sướng, tốt đẹp. Người dạy xây dựng chủ nghĩa xã hội phải thiết thực, phù hợp với điều kiện khách quan, phải nắm được quy luật và phải biết vận dụng quy luật một cách sáng tạo trên cơ sở nắm vững tính đặc thù, tránh giáo điều, rập khuôn máy móc. Sự sáng tạo đó gần gũi, tương đồng, nhất quán với luận điểm của Ăngghen: “Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay”. Vì vậy, không chỉ trong lý luận về đấu tranh giành độc lập dân tộc mà cả trong lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội khi định ra những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, trước hết, “cần có con người xã hội chủ nghĩa”, Hồ Chí Minh đã thể hiện nhất quán quan điểm về con người: con người là mục tiêu, đồng thời vừa là động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính bản thân con người.

Tấm lòng Hồ Chí Minh luôn hướng về con người. Người yêu thương con người, tin tưởng con người, tin và thương yêu nhân dân, trước hết là người lao động, nhân dân mình và nhân dân các nước. Với Hồ Chí Minh, “lòng thương yêu nhân dân, thương yêu nhân loại” là “không bao giờ thay đổi”. Người có một niềm tin lớn ở sức mạnh sáng tạo của con người. Lòng tin mãnh liệt và vô tận của Hồ Chí Minh vào nhân dân, vào những con người bình thường đã được hình thành rất sớm. Từ những năm tháng Người bôn ba tìm đường cứu nước, thâm nhập, lăn lộn, tìm hiểu thực tế cuộc sống và tâm tư của những người dân lao động trong nước và nước ngoài. Người đã khẳng định: “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương ẩn giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét, và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến”1. Tin vào quần chúng, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đó là một trong những phẩm chất cơ bản của người cộng sản. Và đây cũng chính là chỗ khác căn bản, khác về chất, giữa quan điểm của Hồ Chí Minh với quan điểm của các nhà Nho yêu nước xưa kia (kể cả các bậc sĩ phu tiền bối gần thời với Hồ Chí Minh) về con người. Nếu như quan điểm của Hồ Chí Minh: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết toàn dân”, thì các nhà Nho phong kiến xưa kia mặc dù có những tư tưởng tích cực “lấy dân làm gốc”, mặc dù cũng chủ trương khoan thư sức dân”, nhưng quan điểm của họ mới chỉ dừng lại ở chỗ coi việc dựa vào dân cũng như một “kế sách”, một phương tiện để thực hiện mục đích “trị nước”, “bình thiên hạ”. Ngay cả những bậc sĩ phu tiền bối của Hồ Chí Minh, tuy là những người yêu nước một cách nhiệt thành, nhưng họ chưa có một quan điểm đúng đắn và đầy đủ về nhân dân, chưa có đủ niềm tin vào sức mạnh của quần chúng nhân dân. Quan điểm tin vào dân, vào nhân tố con người của Người thống nhất với quan điểm của Mác, Ăngghen, Lênin: “Quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính ra lịch sử”.

Tin dân, đồng thời lại hết lòng thương dân, tình thương yêu nhân dân của Hồ Chí Minh có nguồn gốc sâu xa từ trong truyền thống dân tộc, truyền thống nhân ái ngàn đời của người Việt Nam. Cũng như bao nhà Nho yêu nước khác có cùng quan điểm “ái quốc là ái dân”, nhưng điểm khác cơ bản trong tư tưởng “ái dân” của Người là tình thương ấy không bao giờ dừng lại ở ý thức, tư tưởng mà đã trở thành ý chí, quyết tâm thực hiện đến cùng sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại cần lao, xóa bỏ đau khổ, áp bức bất công giành lại tự do, nhân phẩm và giá trị làm người cho con người. ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước gắn bó không tách rời với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Tình thương yêu cũng như toàn bộ tư tưởng về nhân dân của Người không bị giới hạn trong chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi mà nó tồn tại trong mối quan hệ khăng khít giữa các vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc gia với quốc tế. Yêu thương nhân dân Việt Nam, Người đồng thời yêu thương nhân dân các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh luôn coi trọng sức mạnh đoàn kết toàn dân và sự đồng tình ủng hộ to lớn của bè bạn khắp năm châu, của cả nhân loại tiến bộ. Người cũng xác định sự nghiệp cách mạng của nước ta là một bộ phận không thể tách rời trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh giải phóng nhân loại trên phạm vi toàn thế giới.

Tóm lại: Quan niệm về con người, coi con người là một thực thể thống nhất của “cái cá nhân” và “cái xã hội”, con người tồn tại trong mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân với cộng đồng, dân tộc, giai cấp, nhân loại; yêu thương con người, tin tưởng tuyệt đối ở con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính bản thân con người, đó chính là những luận điểm cơ bản trong tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh. Xuất phát từ những luận điểm đúng đắn đó, trong khi lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh luôn tin ở dân, hết lòng thương yêu, quý trọng nhân dân, biết tổ chức và phát huy sức mạnh của nhân dân. Tư tưởng về con người của Người thông qua thực tiễn cách mạng của Người đã trở thành một sức mạnh vật chất to lớn và là nhân tố quyết định thắng lợi của chính sự nghiệp cách mạng ấy.

Tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh dựa trên thế giới quan duy vật triệt để của chủ nghĩa Mác – Lênin. Chính vì xuất phát từ thế giới quan duy vật triệt để ấy, nên khi nhìn nhận và đánh giá vai trò của bản thân mình (với tư cách là lãnh tụ), Người không bao giờ cho mình là người giải phóng nhân dân. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, người cán bộ (kể cả lãnh tụ) chỉ là “đầy tớ trung thành” có sứ mệnh phục vụ nhân dân, lãnh tụ chỉ là người góp phần vào sự nghiệp cách mạng của quần chúng. Tư tưởng này đã vượt xa và khác về chất so với tư tưởng “chăn dân” của những người cầm đầu nhà nước phong kiến có tư tưởng yêu nước xưa kia. Và đây, cũng chính là điều đã làm nên chủ nghĩa nhân văn cao cả ở Hồ Chí Minh, một chủ nghĩa nhân văn cộng sản trong cốt cách của một nhà hiền triết phương Đông.

Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Tư tưởng về con người của Đảng Cộng sản Việt Nam nhất quán với tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh. Sự nhất quán ấy được thể hiện qua đường lối lãnh đạo cách mạng và qua các chủ trương chính sách của Đảng trong suốt quá trình Đảng lãnh đạo công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, tư tưởng đó tiếp tục được Đảng ta quán triệt vận dụng và phát triển. Con người Việt Nam đang là trung tâm trong “chiến lược phát triển toàn diện”; đang là động lực của công cuộc xây dựng xã hội mới với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”.

Theo http://www.yenbai.gov.vn
Tâm Trang
(st)

bqllang.gov.vn

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền kiểu mới

Tư tưởng Hồ Chí MinhTư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là một hệ thống các quan điểm lý luận về bản chất, chức năng, cơ chế hoạt động, tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức nhà nước; trong đó, quan niệm về nhà nước pháp quyền là một tư tưởng nhất quán, thể hiện tầm nhìn vượt thời đại và có giá trị lâu bền. Hồ Chí Minh luôn khẳng định: Pháp luật của ta là pháp luật dân chủ, phải nghiêm minh và phát huy hiệu lực thực tế. Nhà nước ta cũng sử dụng pháp luật để quản lý xã hội. Song pháp luật của ta đã có sự thay đổi về chất, mang bản chất của giai cấp công nhân, là một loại hình pháp luật kiểu mới, pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động.

Với Hồ Chí Minh, pháp luật không phải là để trừng trị con người mà là công cụ bảo vệ, thực hiện lợi ích của con người. Tư tưởng pháp quyền của Người không chỉ dừng lại ở các quyền con người được ghi trong các văn bản pháp luật mà còn thấm đượm một tấm lòng thương yêu nhân dân, chăm lo cho ấm no, hạnh phúc của nhân dân, thấm đượm lòng nhân ái, nghĩa đồng bào theo đạo lý truyền thống ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Vì thế, pháp quyền Hồ Chí Minh là pháp quyền đặc biệt, pháp quyền nhân nghĩa – một thứ nhân nghĩa có nội hàm triết lý, mang đậm tính dân tộc và dân chủ sâu sắc. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu các giá trị tư tưởng hiện đại của loài người, trước nhu cầu thực tiễn phát triển đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta.

Là người sáng lập Nhà nước dân chủ mới Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là người có công lớn nhất trong sự nghiệp lập hiến và lập pháp. Ở cương vị Chủ tịch nước, Người đã hai lần đứng đầu Ủy ban soạn thảo Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân đã được ghi trang trọng trong Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đó là tư tưởng về “tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”; tư tưởng về “nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia”; tư tưởng về “Chính phủ là công bộc của dân”. Nhà nước của nhân dân thì “bao nhiêu quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Tất cả các cơ quan Nhà nước đều phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân.

Ngay sau ngày giành được chính quyền về tay nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã chủ trương xây dựng Hiến pháp, biểu hiện đầu tiên của một Nhà nước pháp quyền. Hiến pháp năm 1946 là Hiến pháp dân chủ đầu tiên của nước Việt Nam mới, phù hợp với giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của nước ta, là một mốc son quan trọng đánh dấu quá trình bắt đầu xây dựng một nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Theo Hồ Chí Minh: “Dân là chủ, Chính phủ là đầy tớ”. Đây là một trong những vấn đề hết sức căn bản trong xây dựng nhà nước kiểu mới, Nhà nước pháp quyền của dân, do nhân dân làm chủ, mà Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất do nhân dân trực tiếp bầu ra. Người viết: “Những khi dân dùng đầy tớ để bảo vệ cho mình thì phải giúp đỡ, nếu Chính phủ sai thì phải phê bình, phê bình không có nghĩa là chửi”. Đối với cán bộ, đảng viên, nhân viên nhà nước, Người gọi đó là “công bộc” của dân.

Nhà nước phải thể hiện ý chí quyền lực của dân, mưu cầu hạnh phúc cho dân, phấn đấu đem lại lợi ích cho dân, thoả mãn những nhu cầu hợp lý của các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Đó là một Nhà nước dân chủ và tiến bộ. Những lợi ích và nhu cầu đó lại phải được thực hiện một cách công bằng, dân chủ, văn minh, chính đáng, bảo đảm sự kết hợp hài hòa giữa phát triển các cá nhân với mục tiêu phát triển xã hội. Đồng thời, lại phải chăm lo giải quyết những vấn đề bức xúc hàng ngày của dân tộc, của đất nước.

Trải qua các thời kỳ cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước ta đã không ngừng lớn mạnh, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, bảo vệ và xây dựng đất nước theo con đường XHCN. Qua hơn 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCH đã được đẩy mạnh; tổ chức bộ máy ngày càng hoàn thiện hơn; phương thức hoạt động của Nhà nước được đổi mới, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HÐH đất nước. Tuy nhiên, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN trong những năm qua còn một số hạn chế, chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội và quản lý đất nước.

Hiện nay, toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân ta đang nỗ lực triển khai thực hiện thắng lợi Nghị quyết Ðại hội lần thứ XI của Ðảng, các Nghị quyết của QH khóa XIII, đặc biệt là Nghị quyết T.Ư 4 (khóa XI): Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Ðảng hiện nay, Kết luận Hội nghị T.Ư 5 (khóa XI) về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành T.Ư Ðảng khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; về Tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và một số nội dung cần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992. Ðây là nhiệm vụ hết sức quan trọng đặt ra những yêu cầu mới trong việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ: Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo đó, Nhà nước mà chúng ta đang xây dựng phải là một Nhà nước đủ khả năng quản lý kinh tế, quản lý xã hội bằng pháp luật, chăm lo, phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của mọi người dân; tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. Một nhà nước với thể chế dân chủ, minh bạch; bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh và tinh thông nghiệp vụ.

Ðể đáp ứng những yêu cầu này, một trong những nhiệm vụ quan trọng cấp thiết hiện nay là chúng ta cần sớm hoàn thiện bộ máy Nhà nước và hệ thống pháp luật để tổ chức quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN, trong đó có việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 theo tinh thần Hội nghị T.Ư 5 (khóa XI) vừa qua. Trên cơ sở Hiến pháp, Nhà nước cần xây dựng cơ chế kiểm soát, ngăn ngừa tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền dân chủ của công dân để giữ nghiêm kỷ cương, phép nước. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách nền hành chính Nhà nước và cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị. Ðồng thời, kiên quyết trừng trị mọi hành vi xâm phạm lợi ích quốc gia và của công dân.

Đại hội XI của Đảng xác định, Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân. Việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước ta hiện nay là một trong những vấn đề lớn được Đảng hết sức quan tâm và xác định, Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, trên cơ sở liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.Nhà nước định ra luật pháp và tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm pháp luật, vi phạm  lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân. Nhà nước gắn bó chặt chẽ với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. Nhà nước có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lộng quyền, xâm phạm quyền làm chủ của công dân, nhằm bảo đảm, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương. Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; có cơ chế kiểm tra, giám sát trong việc thực hiện ba quyền đó, bảo đảm những hoạt động của các cơ quan nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; thật sự mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định.

Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ta hiện nay diễn ra trong bối cảnh mới của tình hình quốc tế và xu thế toàn cầu hóa đang đặt ra những nhiệm vụ hết sức nặng nề đòi hỏi Nhà nước ta cần có sự đổi mới mạnh mẽ, sâu sắc và toàn diện hơn trên tất cả các lĩnh vực, trước hết là đẩy mạnh cải cách, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý, góp phần phát triển kinh tế – xã hội./.

Tâm Trang (Tổng hợp)
bqllang.gov.vn

Tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật quân sự

Kỷ luật quân sự được hiểu là một hình thức đặc biệt của kỷ luật mà đặc trưng của nó được quyết định bởi tính chất của hoạt động quân sự. Kỷ luật quân sự đòi hỏi những người thực hiện nghĩa vụ quân sự tính tập trung, chính xác, tinh thần chấp hành triệt để vô điều kiện, tự chủ, kịp thời, nhanh chóng thực hiện tốt nhất mệnh lệnh, chỉ thị của người chỉ huy. Khi nói về ý nghĩa của kỷ luật với tư cách là một phương tiện quan trọng nhằm nâng cao năng lực chiến đấu của quân đội, V.I.Lênin viết: “Nếu suy nghĩ đến cùng, do nguyên nhân sâu xa mà có được cái kỳ tích lịch sử là một nước suy yếu, bị kiệt quệ và lạc hậu lại chiến thắng được những nước hùng cường nhất thế giới, thì chúng ta thấy nguyên nhân đó là chế độ tập trung, kỷ luật và tinh thần hy sinh chưa từng có” [i].

Là người khai sinh Quân đội nhân dân Việt Nam, Bác luôn dày công chăm lo, rèn luyện và giáo dục quân nhân trong mọi lĩnh vực, nhất là tính kỷ luật. Kế thừa một cách khoa học, sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin, trong quá trình giáo dục, rèn luyện Quân đội ta, Bác chỉ rõ: “Bộ đội không có kỷ luật, đánh giặc nhất định thua” [ii] hay “Quân đội mạnh là nhờ giáo dục khéo, nhờ chính sách đúng và nhờ kỷ luật nghiêm. Vì vậy, kỷ luật phải nghiêm minh” [iii]Trong nội dung xây dựng kỷ luật quân đội, Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ phải chăm lo xây dựng kỷ luật tự giác, nghiêm minh. Kỷ luật ấy phải xuất phát từ tính tự giác, tự nguyện của từng cá nhân và của cả tập thể.

Đối với Bác, để có kỷ luật tốt, trước tiên phải nâng cao trình độ tri thức về mọi phương diện cho cán bộ, chiến sĩ. Trong một lá thư gửi bộ đội, Bác dạy: “Quân nhân phải biết võ, phải biết văn. Võ như tay phải, văn như tay trái của quân nhân. Muốn biết thì phải thi đua học…” [iv].

Trong công tác giáo dục kỷ luật quân sự, Bác đặc biệt quan tâm đến giáo dục ý thức tổ chức kỷ luật cho sĩ quan, đặc biệt là cán bộ chủ trì đơn vị. Nói chuyện với đại biểu quân đội nhân dịp Tết Đinh Dậu, Bác nhắc nhở:“Trong quân đội cách mạng, cán bộ gương mẫu, phải chăm nom đến đời sống tinh thần, vật chất của chiến sĩ, phải gương mẫu học tập và giữ kỷ luật”.

Về phương pháp thực hành kỷ luật, Bác nhấn mạnh việc dùng vũ khí phê bình và tự phê bình trong việc quản lý và duy trì chấp hành kỷ luật. Bác dạy: “Người cán bộ muốn tốt thì phải có đạo đức cách mạng, phải biết phê bình và tự phê bình, phải biết kỷ luật”Phương pháp nêu gương được Bác coi là biện pháp hữu hiệu để hướng dẫn các hành vi về đạo đức và ý thức tổ chức kỷ luật cao. Trước hết là sự gương mẫu về hành vi kỷ luật của cán bộ sĩ quan. Theo Bác: “Giữ gìn kỷ luật, học tập kỹ thuật, luyện tập lập công, xung phong hãm trận, thân ái đoàn kết, nói tóm lại mỗi việc trong bộ đội, cán bộ đều phải làm  gương”.

Để duy trì kỷ luật, thưởng và phạt là quan trọng và cần thiết nhằm động viên trong mọi người giữ nghiêm kỷ luật. Trong quốc lệnh tháng 1-1946, Bác yêu cầu: “Phải nâng cao kỷ luật, giữ vững kỷ luật. Những cán bộ có ưu điểm thì phải khen thưởng; người làm trái kỷ luật thì phải phạt. Nếu không thưởng thì không có khuyến khích; nếu không có phạt thì  không giữ vững kỷ luật. Thưởng phạt nghiêm minh là cần thiết. 

Một phương pháp quản lý và thực hành kỷ luật có hiệu quả nhất theo lời dạy của Bác,  là từng người phải tự giác chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật nghiêm của quân đội, mệnh lệnh chỉ thị của người chỉ huy. Bác nhắc nhở cán bộ: “…Phải khiêm tốn, nghiêm chỉnh. Phải giữ gìn tính chất trong sạch, chất phác của người chiến sĩ cách mạng… Giấu khuyết điểm thì khuyết điểm ngày càng nhiều… Mình phải tự đấu tranh với mình”.

Những tư tưởng của Người về xây dựng quân đội nói chung và tư tưởng về kỷ luật quân sự nói riêng luôn là kim chỉ nam cho quá trình nhận thức và thực hiện các nhiệm vụ của quân đội ta trong suốt chặng đường gần 70 năm qua.

Ths. Nguyễn Văn Công
Đồng Nai


[i] V.I. Lênin, Toàn tập, tập 40, Nxb Tiến bộ, 1978, tr.279.  [ii] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, H, 1996, tr.341. [iii] Sđd, tập6, tr.560.  [iv] Sđd, tập 5, tr.588.

xaydungdang.org.vn

Đức “Chính” trong tư tưởng Hồ Chí Minh

“Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” là những chuẩn mực đạo đức cốt lõi trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.

dưc chinhaThăm Bệnh xá Vân Đình, tỉnh Hà Tây ngày 20-4-1963, Bác Hồ căn dặn
cán bộ bệnh xá thực hiện “Lương y như từ mẫu”

Những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp này đã tồn tại qua thời gian, qua các chế độ xã hội và đã được Bác Hồ tiếp thu, phát triển nội dung của những chuẩn mực ấy để rèn luyện chính mình và răn dạy chúng ta. Có người cho rằng: Giáo dục cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư thì e cổ quá. Bác đã ôn tồn giải thích: “Cái gì cũ mà tốt thì phải tiếp thu, phát triển lên”.

Hồ Chí Minh đã viết nhiều bài về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Bản thân Người thực sự là tấm gương mẫu mực của cần, kiệm, liêm, chính. Bốn đức ấy, đức nào cũng quý, cũng cần, Bác Hồ đã ví như bốn mùa của trời, bốn phương của đất, thiếu một đức, thì không thành người. Với chữ “chính”, đức “chính”, Bác không phân tích nhiều, Người viết: “Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn đứng đắn. Điều gì không thẳng thắn, đứng đắn, tức là tà”.

Cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có cành, lá, hoa, quả mới là cây hoàn toàn. Một người phải cần, kiệm, liêm nhưng còn phải chính mới hoàn toàn. Trên quả đất có hàng muôn triệu người. Số người ấy có thể chia làm hai hạng người thiện và người ác. Trong xã hội, tuy có trăm công nghìn việc. Song những công việc ấy có thể chia làm hai thứ: việc chính và việc tà. Làm việc chính, là người thiện. Làm việc tà, là người ác. Siêng năng (cần), tằn tiện (kiệm), trong sạch (liêm), chính là thiện. Lười biếng, xa xỉ, tham lam là tà, là ác.

Chữ “chính” của Bác là sự tiếp thu, phát triển chữ “chính” từ đạo Nho của Đức Khổng Tử. Đức Khổng Tử nêu học thuyết của mình cách đây khoảng 2.500 năm đòi hỏi xã hội phong kiến phải thực hiện cho được “chính danh”. Danh là tên gọi của con người hoặc sự vật. Danh có thể hiểu là do con người đặt tên cho sự vật và hiện tượng khi đã hiểu biết về bản chất của nó. “Chính danh” nghĩa là tên gọi của sự vật thế nào thì bản chất của sự vật như thế ấy. Vua phải thật sự xứng đáng là vua, có đầy đủ các tố chất về tài, đức, về trí tuệ. Các thứ bậc, quan tước được cất nhắc, bổ nhiệm cũng phải có đầy đủ những tiêu chí xứng đáng với chức vụ được bổ (những tiêu chí ấy bây giờ tương tự như chúng ta coi đó là các tiêu chuẩn cán bộ). Trong các mối quan hệ thì cha phải ra cha, con phải ra con, vợ phải ra vợ, chồng phải ra chồng, trên phải ra trên, dưới phải ra dưới… Đức Khổng Tử cho rằng danh có chính thì ngôn mới thuận. Ngôn là biểu hiện không chỉ của danh mà còn là biểu hiện của trí tuệ và các phẩm chất bảo đảm của chính danh. Học thuyết chính danh của Khổng Tử vô cùng sâu sắc và gần gũi với chúng ta hiện nay. Bác Hồ dạy cán bộ, đảng viên đạo làm gương, nêu gương: “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau” cũng có cội nguồn sâu xa từ thuyết chính danh.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni quan niệm về cuộc đời là những chuỗi ngày đau khổ, là sự luân hồi, nhân – quả. Người đã tìm ra chân lý của sự khổ đau vô tận của con người do thập kết sử (mười điều) do chính con người tạo ra: tham lam, giận dữ, si mê, kiêu ngạo, nghi ngờ, thân kiến, biến kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ; trong đó đặc biệt có tam độc (ba điều): tham lam, giận dữ, si mê là nguyên nhân chính của sự đau khổ. Đức “chính” theo quan niệm của đạo Phật hết sức toàn diện cả tư duy đến hành động, cả lời nói đến việc làm trong mọi mối quan hệ của con người. Cái đích chữ chính của Đức Phật là cái đích hướng thiện, loại bỏ cái tà, cái ác…

Bác Hồ kính yêu tiếp thu những tinh túy cái thiện của Đức Khổng Tử, Đức Phật, Người định nghĩa: chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Nội dung chữ chính của Bác có cả những điều trong chữ Chính của tinh hoa văn hóa nhân loại: nhân loại luôn có xu hướng hướng thiện, hướng tới cái chính, không chấp nhận cái tà, cái ác. Thực hiện chữ chính theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phải bắt đầu từ tâm và phải là sự tu dưỡng bền bỉ suốt đời. Trong mối quan hệ với “liêm”; có “liêm” thì mới có “chính”; có “cần”, “kiệm” thì có “liêm”; nhưng cũng có khi có “liêm” mà chưa thể có “chính” hoàn toàn. Ví dụ như có một người trong cuộc sống và quan hệ luôn liêm khiết, trong sáng, nhưng trước hành vi lũng đoạn, sa đọa của người khác lại không dám góp ý, không dám đấu tranh… thì người đó chưa chính tâm, chưa chính ngôn… Cho nên trong bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính mà Bác dạy chúng ta đức nào cũng vô cùng cần thiết và thực hiện nó không hề dễ. Đức “chính” là kết quả của cần, kiệm, liêm nhưng không phải cứ thực hiện tốt cần, kiệm, liêm là có “chính”, phải thấy “chính” độc lập tương đối, đồng thời cũng là cái đức khó thực hiện nhất trong bốn đức. Trong đời sống “chính” có ý nghĩa vô cùng sâu rộng, vô cùng cần thiết, nhưng không phải ai cũng thực hiện được, nhất là trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta.

Thực hiện tốt đức “chính” thật sự là niềm tin, là sự công bằng, văn minh và ổn định chính trị, xã hội. Những điều đó đòi hỏi ở mọi người, trước hết là ở Đảng, ở cán bộ, đảng viên, đặc biệt là những người đang giữ những cương vị, những trọng trách của Đảng và chính quyền các cấp, bởi vì, họ như những tấm gương cho cán bộ, đảng viên và nhân dân noi theo… Hiểu được và làm được chữ “chính” trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh không hề đơn giản mà nó là niềm tin, là cội nguồn của sự đoàn kết, là biểu hiện của một xã hội chân chính, một Đảng chân chính, một tương lai chân chính, bắt đầu từ mỗi con người chân chính..

CHÍNH

Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đúng đắn. Điều gì không đúng đắn, thẳng thắn, tức là tà. CẦN, KIỆM, LIÊM, là gốc rễ của CHÍNH. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có cành, lá, hoa, quả mới là hoàn toàn. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm, nhưng còn phải CHÍNH mới là người hoàn toàn. Trên quả đất, có hàng muôn triệu người. Song số người ấy có thể chia làm hai hạng: người THIỆN và người ÁC.

Trong xã hội, tuy có trăm công, nghìn việc. Song những công việc ấy có thể chia làm 2 thứ: việc CHÍNH và việc TÀ.

Làm việc CHÍNH, là người THIỆN.

Làm việc TÀ, là người ÁC.

Siêng năng (cần), tằn tiện (kiệm), trong sạch (liêm), CHÍNH là THIỆN.

Lười biếng, xa xỉ, tham lam, là tà, là ác.

Bất kỳ ở tầng lớp nào, giữ địa vị nào, làm nghề nghiệp gì, sự hoạt động của một người trong xã hội có thể chia làm 3 mặt:

1. Mình đối với mình.

2. Mình đối với người.

3. Mình đối với công việc.

ĐỐI VỚI MÌNH

– Chớ tự kiêu, tự đại. Tự kiêu, tự đại là khờ dại. Vì mình hay, còn nhiều người hay hơn mình. Mình giỏi, còn nhiều người giỏi hơn mình. Tự kiêu, tự đại tức là thoái bộ. Sông to, biển rộng, thì bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng của nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn, thì một chút nước cũng đầy tràn, vì độ lượng của nó hẹp nhỏ. Người mà tự kiêu, tự mãn, cũng như cái chén, cái đĩa cạn.

– Luôn luôn cầu tiến bộ. Không tiến bộ thì là ngừng lại. Trong khi mình ngừng lại thì người ta cứ tiến bộ. Kết quả là mình thoái bộ, lạc hậu.

Tiến bộ không giới hạn. Mình cố gắng tiến bộ, thì chắc tiến bộ mãi.

– Luôn luôn tự kiểm điểm, tự phê bình, những lời mình đã nói, những việc mình đã làm, để phát triển điều hay của mình, sửa đổi khuyết điểm của mình.

Đồng thời phải hoan nghênh người khác phê bình mình. Cụ Tăng Tử là một vị đại hiền, là một tín đồ giỏi nhất của cụ Khổng Tử. Cụ Tăng đã làm kiểu mẫu cho chúng ta. Cụ nói: Mỗi ngày tôi tự kiểm điểm mấy lần: đối với người có thẳng thắn không? Đối với việc có chuyên cần không?

Cụ Khổng Tử nói: Mình có đứng đắn, mới tề được gia, trị được quốc, bình được thiên hạ.

Tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính. Mình không chính, mà muốn người khác chính là vô lý.

ĐỐI VỚI NGƯỜI

Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người.

Trừ bọn Việt gian bán nước, trừ bọn phát xít thực dân, là những ác quỷ mà ta phải kiên quyết đánh đổ, đối với tất cả những người khác thì ta phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ.

Chớ nịnh hót người trên. Chớ xem khinh người dưới. Thái độ phải chân thành, khiêm tốn, phải thật thà đoàn kết. Phải học người và giúp người tiến tới.

Phải thực hành chữ Bác – Ái.

ĐỐI VỚI VIỆC

Phải để công việc nước lên trên, trước việc tư, việc nhà. Đã phụ trách việc gì, thì quyết làm cho kỳ được, cho đến nơi đến chốn, không sợ khó nhọc, không sợ nguy hiểm. Bất kỳ việc to, việc nhỏ, phải có sáng kiến, phải có kế hoạch, phải cẩn thận, phải quyết làm cho thành công. Việc THIỆN thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ÁC thì dù nhỏ mấy cũng tránh.

Việc gì dù lợi cho mình, phải xét nó có lợi cho nước không? Nếu không có lợi, mà có hại cho nước thì quyết không làm.

Mỗi ngày cố làm một việc lợi cho nước (lợi cho nước tức là lợi cho mình), dù là việc nhỏ, thì một năm ta làm được 365 việc. Nhiều lợi nhỏ cộng thành lợi to.

Cả 20 triệu đồng bào đều làm như vậy, thì nước ta nhất định mau giàu, dân ta nhất định được nhiều hạnh phúc.

Ai chẳng muốn cho tự mình thành một người tốt.

Con cháu mình sung sướng,

Gia đình mình no ấm,

Làng xóm mình thịnh vượng,

Nòi giống mình vẻ vang,

Nước nhà mình mạnh giàu.

Mục đích ấy tuy to lớn, nhưng rất thiết thực.

Thiết thực, vì chúng ta nhất định đạt được.

Chúng ta nhất định đạt được, vì mỗi người và tất cả dân ta đều thi đua: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.

“Cần, kiệm, liêm, chính”, tháng 6-1949.

Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, tr. 631-645.

Theo Báo Hải Dương online
Huyền Trang
(st)
bqllang.gov.vn

Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tư tưởng

Việt Nam - Hồ Chí MinhTuyên truyền là một bộ phận, một tác nghiệp của công tác tư tưởng có vị trí hết sức quan trọng, bởi vậy, Người định nghĩa và xác định rõ mục đích của tuyên truyền “Tuyên truyền là đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không đạt được mục đích đó, là tuyên truyền thất bại”

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chăm lo đến công tác giáo dục chính trị tư tưởng, bởi theo Người “Tư tưởng không đúng đắn thì công tác ắt sai lầm”; rằng “Trong Đảng và ngoài Đảng có nhận rõ tình hình mới, hiểu rõ nhiệm vụ mới thì tư tưởng mới thống nhất, tư tưởng thống nhất thì hành động mới thống nhất”. Công tác tư tưởng tự bản thân nó đã hàm chứa những vấn đề nhạy cảm, phức tạp, đa chiều, liên quan đến tâm tư nguyện vọng của cán bộ, đảng viên, nhân dân; liên quan đến sự thành bại của sự nghiệp cách mạng. Người nói: “Lãnh đạo quan trọng nhất là lãnh đạo tư tưởng, phải hiểu tư tưởng của mỗi cán bộ để giúp đỡ thiết thực trong công tác; vì tư tưởng thông suốt thì làm tốt, tư tưởng nhùng nhằng thì không làm được việc”. Trong báo cáo tại Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá II (15-7-1954), trong mười công tác được xác định thì công tác lãnh đạo tư tưởng là quan trọng nhất. Hồ Chí Minh luôn yêu cầu “Cán bộ lãnh đạo và cán bộ các ngành, tư tưởng phải thông, phải thật thông. Phải có quyết tâm khắc phục khó khăn, làm tròn nhiệm vụ”. “Phải đánh thông tư tưởng và động viên sáng kiến và lực lượng của toàn Đảng, toàn dân. Mọi người quyết tâm làm cho được và tin tưởng làm nhất định được”. Mỗi lần về thăm các nhà máy, công trường, hợp tác xã, Bác Hồ luôn nhắc nhở, động viên cán bộ, đảng viên, nhân viên “Muốn quản lý tốt thì cán bộ và công nhân phải thông suốt tư tưởng”.

Trên cơ sở quy luật của công tác tư tưởng, Người đã trù liệu hệ quả khi đảng viên chưa thông suốt tư tưởng sẽ dẫn tới những biến dạng khôn lường “Nếu đảng viên tư tưởng và hành động không nhất trí, thì khác nào một mớ cắt rời, “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”. Như vậy, thì không thể lãnh đạo quần chúng, không thể làm cách mạng”. Do đó mà Người luôn canh cánh kỳ vọng làm sao tư tưởng tiên tiến, tư tưởng xã hội chủ nghĩa phải trở thành chủ đạo, trường tồn cùng với Đảng, với cán bộ, đảng viên và nhân dân. Người chỉ rõ “Tư tưởng thông suốt thì mọi việc làm đều tốt. Phải làm cho tư tưởng xã hội chủ nghĩa hoàn toàn thắng, tư tưởng cá nhân hoàn toàn thất bại”.

Tuyên truyền là một bộ phận, một tác nghiệp của công tác tư tưởng có vị trí hết sức quan trọng, bởi vậy, Người định nghĩa và xác định rõ mục đích của tuyên truyền “Tuyên truyền là đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không đạt được mục đích đó, là tuyên truyền thất bại”. Người nói “Người tuyên truyền bao giờ cũng phải tự hỏi: Viết cho ai xem? Nói cho ai nghe? Nếu không vậy, thì cũng như cố ý không muốn cho người ta nghe, không muốn cho người ta xem”. Do mục đích, yêu cầu của công tác tuyên truyền, nhất là tính chính xác và sức lay động lan toả đối với dân chúng nên Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ tuyên truyền “Phải biết cách nói. Nói thì phải giản đơn, rõ ràng, thiết thực. Phải có đầu, có đuôi, sao cho ai cũng hiểu được, nhớ được”; rằng: Người tuyên truyền không điều tra, không phân tách, không nghiên cứu, không hiểu biết quần chúng, chỉ gặp sao nói vậy, bạ gì viết nấy, nhất định thất bại. Khi tuyên truyền vận động đồng bào dân tộc thiểu số, Người lưu ý: Phải nói thiết thực, rõ ràng để đồng bào dễ nghe, dễ hiểu và làm được tốt.

Với sự quan sát và thông qua nhiều kênh tiếp nhận, với tình cảm chân thành mà Người nhắc nhở, phê phán một số báo cáo viên thiếu chủ động, đầu tư trong việc chuẩn bị bài nói, thuyết trình “Nhiều người trước khi nói không sắp sửa kỹ càng. Lúc ra nói hoặc lắp lại những cái người trước đã nói. Hoặc lắp đi lắp lại cái mình đã nói rồi”; hoặc “Nhưng viết một cách cao xa, mầu mè, đến nỗi chẳng những quần chúng không hiểu, mà cả cán bộ cũng không hiểu”. Đặc biệt Người còn phê phán một số người sính dùng chữ, nhất là thích dùng chữ Hán “Tiếng ta có thì không dùng, mà cứ ham dùng chữ hán. Dùng đúng, đã là một cái hại, vì quần chúng không hiểu. Nhiều người biết không rõ, dùng không đúng, mà cũng ham dùng, cái hại lại càng to”. Vì vậy, Hồ Chí Minh mong muốn làm sao trong mỗi bài nói, bài viết phải thấu cảm được ý tưởng và mong ước của nhân dân. Người yêu cầu “Mỗi tư tưởng, mỗi câu nói, mỗi chữ viết, phải tỏ rõ cái tư tưởng và lòng ước ao của quần chúng”. Có như vậy công tác tư tưởng mới đạt được mục tiêu “được người, được việc, được tổ chức” như nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã khẳng định. “Phải đạt được mục đích tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng, trong quân đội”.

Hơn lúc nào hết đội ngũ cán bộ tuyên truyền “Phải có lòng tự tin, tin vào mình, tin Đảng, tin giai cấp, tin nhân dân mình”, thiếu nó thì khó có thể hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao trên mặt trận tư tưởng văn hoá. Xuất phát từ vai trò, tầm quan trọng của công tác tư tưởng nên Người luôn mong muốn “Người tuyên truyền cần phải chịu khó, chịu khổ, khéo ở, siêng làm. Chớ tưởng rằng: Đi phớt qua địa phương, diễn thuyết một hai giờ đồng hồ mà có kết quả. Đến một địa phương nào cần phải đi thăm các cụ phụ lão, các người phụ trách, rồi đi thăm các nhà đồng bào để gây cảm tình, và để hiểu biết tình hình địa phương”. Người còn chỉ giáo “Thấy dân làm việc gì, bất kỳ to nhỏ, ta cũng ra tay làm giúp. Đó là cách gây cảm tình tốt nhất, nó sẽ giúp cho việc tuyên truyền kết quả gấp bội”. Cán bộ tuyên truyền cần phải chủ động học tập nâng cao trình độ, kiến thức, nếu không sẽ lạc hậu, thoái bộ; luôn nắm vững chủ trương, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tập quán, sinh hoạt của nhân dân. Chú trọng “nâng cao trình độ lý luận, gắn liền công tác lý luận với thực tiễn cách mạng; phải đi sát thực tế, phải liên hệ mật thiết với quần chúng”. Đồng thời Người còn căn dặn: Cán bộ, đảng viên phải nâng cao chí khí chiến đấu, nâng cao lòng tin tưởng. Trong kháng chiến rất khó khăn nếu chí khí chiến đấu của bộ đội, cán bộ, nhân dân mà sụt thì sẽ thất bại.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa chúng ta nhưng tư tưởng của Người nói chung, về công tác tư tưởng nói riêng vẫn còn sống mãi với thời gian, với Đảng ta, và đội ngũ những người làm công tác tuyên giáo hôm nay. Đó là hành trang, phương pháp luận quý báu để Đảng ta, đội ngũ làm công tác tuyên truyền vững tin hơn, trí tuệ sắc sảo hơn nhằm góp phần nâng cao chất lượng công tác tư tưởng của Đảng lên một tầm cao mới. Đặc biệt càng có ý nghĩa cấp bách khi Đảng ta thực hiện chủ trương mở cửa, hội nhập; khi các lực lượng thù địch chưa từ bỏ mưu toan chống phá cách mạng nước ta, hòng chia rẽ Đảng với nhân dân; khi “Công tác tư tưởng còn thiếu sắc bén, tính chiến đấu còn hạn chế…; chưa làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, những quan điểm mơ hồ, sai trái; thiếu quan tâm giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống”. Khắc phục và thực hiện tốt các nhiệm vụ đó là nhân tố để “Đảng ta là một tập thể lớn, tư tưởng nhất trí, hành động nhất trí” trong tiến trình kiến tạo đất nước theo lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Theo  TS. Nguyễn Thế Tư, Học viện Chính trị-
Hành chính khu vực III
Tâm Trang
(st)

bqllang.gov.vn

Tư tưởng Hồ Chí Minh về người cao tuổi Việt Nam

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến người cao tuổi. Trong suốt cuộc đời phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng của mình, dù bận nhiều việc nhưng Người vẫn luôn dành cho người cao tuổi Việt Nam những tình cảm ân cần và sự quan tâm sâu sắc. Những quan điểm nhất quán, có tính hệ thống của Người về vị trí xã hội, vai trò, trách nhiệm của người cao tuổi đối với Tổ quốc luôn đi trước thời đại. Đặc biệt, những tình cảm dành cho người cao tuổi biểu hiện rất đậm nét bản sắc văn hóa Việt Nam – văn hóa Hồ Chí Minh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định vai trò, vị thế của người cao tuổi trong xã hội ta. Người luôn coi người cao tuổi là lực lượng quan trọng góp phần tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong “Lời hiệu triệu đoàn kết tất cả các bậc phụ lão” (6-1941), Bác viết: “Dẫu rằng tóc đã bạc, mắt đã hoa, tay run, chân mỏi, nhưng một lời nói của phụ lão có ảnh hưởng đến hưng bang, một hành động của phụ lão có ảnh hưởng đến giết giặc. Rút guốc mộc để ném vào đầu bọn bạo ngược, vung gậy trúc để đánh vào đầu bọn hung ác. Đối với gia đình, đối với Tổ quốc, phụ lão đã có trọng trách là bậc tôn trưởng, đối với làng xóm, đối với bà con, phụ lão có sự tín nhiệm lớn lao. Phụ lão hô, nhân dân hưởng ứng; phụ lão làm, nhân dân làm theo. Hô điều nên hô, làm việc nên làm. Người có của xuất của, người có sức dốc sức, góp gió thành bão, tụ hơi thành mây. Đồng bào cả nước đang ngẩng cao đầu mà trông chờ các bậc phụ lão”.

Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, người cao tuổi Việt Nam không chỉ là người lao động cần cù, sáng tạo trong xây dựng gia đình, quê hương, đất nước mà còn là những người dám quên mình chiến đấu hi sinh cho độc lập, tự do của dân tộc. Họ là những nhân chứng của lịch sử và rất nhiều người đã góp phần trực tiếp làm nên lịch sử. Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam, người cao tuổi đã đem bầu nhiệt huyết đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng, là lớp người từng đứng trong đạo quân hùng mạnh làm nên chiến thắng vĩ đại của hai cuộc kháng chiến thần thánh giải phóng dân tộc, giành lại chính quyền về tay nhân dân, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước CHXHCN Việt Nam). Họ cũng là lớp người đi đầu trên con đường đổi mới, góp phần quyết định tạo ra những thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực của đất nước. Già – trẻ cùng gắng sức vì một mục đích chung, đó là lời nhắn gửi của Người trong bài thơ “Tặng cụ Đinh Chương Dương: “Quan san muôn dặm gặp nhau đây/ Mục đích chung là đuổi Nhật, Tây/ Dân bị hai tròng vào một cổ/ Ta liều trăm đắng với ngàn cay/ Già dù sức yếu mang mang nhẹ/ Trẻ cố ra công gánh gánh đầy/ Non nước của ta ta lấy lại/ Nghìn thu sự nghiệp nổi từ đây”.

Hồ Chí Minh khẳng định: Trách nhiệm của người cao tuổi là phải yêu quý, dìu dắt, bồi dưỡng lớp trẻ. Người từng căn dặn: “Các đồng chí già là rất quý, là tấm gương bền bỉ đấu tranh, dìu dắt, bồi dưỡng, đào tạo thêm đồng chí trẻ. Đồng chí già phải giúp đồng chí trẻ tiến bộ. Như thế đòi hỏi đồng chí già phải có thái độ độ lượng, dìu dắt đồng chí trẻ. Đó cũng là một tiêu chuẩn đạo đức cộng sản chủ nghĩa”. Không những thế, Người còn cho rằng, người cao tuổi phải tự mình học tập thường xuyên, phải nâng cao dân trí bởi “Công việc ngày càng nhiều, càng mới nên đảng viên già phải cố gắng mà học”, để “chẳng những làm kiểu mẫu, siêng năng cho con cháu mà còn tỏ rõ ý chí hùng mạnh của dân tộc Việt Nam”. Người cao tuổi Việt Nam sống, cống hiến theo tư tưởng Hồ Chí Minh, suy cho cùng chính là sự nêu gương sáng cho con cháu về lòng yêu nước, về đạo đức cách mạng.

Hồ Chí Minh còn phê phán quan niệm “Lão lai tài tận, lão giả an chi” (tuổi già thì tài hết, tuổi già nên ở yên). Người chủ trương “vận động tất cả lực lượng của mỗi người dân, không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân”, trong đó người cao tuổi có vai trò đặc biệt quan trọng. Trong kháng chiến chống Pháp, Người đã có những vần thơ mộc mạc, nôm na mà đầy hào khí “Tặng các cụ lão du kích Cao Bằng” bởi có thành tích góp phần đánh chặn bước tiến của giặc. “Người cũng nêu rõ: “Các cấp đảng bộ, mặt trận ở các địa phương ra sức giúp các cụ phụ lão tổ chức, củng cố và phát triển các đội Bạch đầu quân. Đó cũng là một lực lượng khá to trong công cuộc chống Mỹ cứu nước”. Người là tấm gương tuổi già mà “không chịu ngồi không”, “càng già càng quắc thước, càng già càng anh hùng”. Người luôn là tấm gương sáng về “tuổi cao chí khí càng cao”, suốt cuộc đời vì dân, vì nước, vì sự nghiệp cách mạng quên cả tuổi già, quên cả bản thân. Một con người mà “dù phải từ biệt thế giới này” vẫn không có điều gì phải hối hận, “chỉ tiếc là không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”…

Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là một tấm gương về ứng xử đối với người cao tuổi. Dù là Chủ tịch nước, nhưng trong thư chúc thọ cụ Phùng Lục ở Ứng Hòa, Hà Tây (trước đây), Người đã viết: “Cháu xin thay mặt Chính phủ cảm ơn cụ, trân trọng chúc cụ sống lâu và luôn luôn mạnh khỏe để kêu gọi các con cháu ra sức tham gia công việc kháng chiến và cứu quốc. Cháu lại kính gửi cụ lời chào thân ái và quyết thắng”. Một vị Chủ tịch nước viết thư cho một công dân bình thường nhưng có tuổi thọ cao mà xưng hô như vậy quả là nét đặc trưng của văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh. Nét đặc trưng của văn hóa ứng xử ấy còn thể hiện rất rõ trong những câu chuyện nhỏ mà đầy thú vị: Khi được tin chiến thắng dồn dập từ Việt Bắc Thu – Đông 1947, Người đã viết một bài thơ tặng cụ Bùi Bằng Đoàn, một bậc nhân sĩ trí thức yêu nước, người đứng đầu Quốc hội nước ta hồi đó những vần thơ bằng chữ Hán rất mực trang trọng mà vẫn đầm ấm nghĩa tình. Có lẽ không ai lại không xúc động trước một lối ứng xử tuyệt vời của Bác với một cụ già cao tuổi từ vùng bị giặc chiếm đóng lặn lội lên Việt Bắc để được gặp và thăm Bác. Cụ già ấy được biết tên ngay trong nhan đề bài thơ của Người: “Tặng cụ Võ Liêm Sơn”… Có thể nói, đó cũng chính là biểu tượng sáng ngời về truyền thống “kính già” của dân tộc – một đạo lý đẹp đẽ mang tính nhân văn cao cả từ xưa đến nay.

Hiện nay, gần 10 triệu người cao tuổi trong cả nước ta đã và đang ra sức thực hiện tốt Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” bằng những phong trào thi đua thiết thực “Tuổi cao – gương sáng”. Đó cũng chính là một trong nhiều hình thức để phát huy những giá trị văn hóa, tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần thực hiện tốt lời căn dặn của Người: “Tuổi cao chí khí càng cao”.

______________

Tài liệu tham khảo:
1. Danh nhân Hồ Chí Minh, NXB Lao động, H.2000.
2. Thông tin Tư liệu TTXVN, số 65.

Theo xaydungdang.org.vn
Huyền Trang (st)

bqllang.gov.vn

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước hiện nay đang đặt ra những yêu cầu mới cho nguồn lực con người. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng khẳng định: “Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao và coi đây là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, bền vững đất nước”(1). Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về con người xã hội chủ nghĩa vào chiến lược nâng cao nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa là một nhiệm vụ quan trọng để thực hiện chiến lược đổi mới toàn diện đất nước tạo tiền đề đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

1. Trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đường lối lãnh đạo, Đảng Cộng sản việt Nam xác định: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển”(2). Quan điểm này đã thể hiện nhận thức khoa học của Đảng ta về bản chất con người trong mối quan hệ biện chứng của sự phát triển. Đồng thời, khẳng định sự nhận thức rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất con người và con người xã hội chủ nghĩa sẽ là cơ sở lý luận về Đảng và Nhà nước ta coi trọng vai trò con người để từ đó hoạch định đúng Chiến lược con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa.

Con người là vốn quý của xã hội nên con người giữ vai trò vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm của tiến trình cải biến tự nhiên và xã hội. Điều đó khẳng định, con người chính là mục tiêu phát triển cao nhất của mọi quá trình phát triển tự nhiên, xã hội, đồng thời cũng là động lực của quá trình phát triển đó.

Với ý nghĩa nêu trên, con người đã trở thành nhân tố then chốt và là nhân tố quyết định của sự phát triển lịch sử. Bởi vì, chỉ có con người mới có trí tuệ và năng lực sáng tạo theo chiều hướng tiến bộ. Nói một cách khác, nhân tố con người là một tiềm năng vô tận của sự phát triển. Điều đó đồng nghĩa với việc nhân tố con người là cơ sở để hình thành nên nguồn lực con người, nhất là nguồn lực con người có chất lượng cao.

“Nguồn lực con người (hay còn gọi là nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên người) là nhân tố con người được xem xét, dự tính như một tiềm năng, một điều kiện cần và có thể phát huy thành động lực cho một quá trình phát triển xã hội, một chiến lược phát triển xã hội trong những thời gian, không gian xác định”(3). Nguồn lực con người được xem xét ở các tiêu chí: Số lượng và chất lượng con người (bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất); là tổng thể chất dự trữ, những tiềm năng, những lực lượng thể hiện sức mạnh và sự tác động của con người trong việc cải tạo tự nhiên và xã hội; là sự kết hợp sức lực và thể lực tạo nên năng lực sáng tạo, chất lượng, hiệu quả hoạt động và triển vọng phát triển mới của con người; là kinh nghiệm sống, đặc biệt là kinh nghiệm được tích lũy qua sự nếm trải trực tiếp của con người tạo thành thói quen, kỹ năng tổng hợp của mỗi người, của cộng đồng. Điều kiện để nguồn lực con người đạt tới các tiêu chí đó khi: “người lao động có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo, bồi dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học, công nghệ hiện đại”(4).

2. Ngay từ những ngày hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã có nhận thức sâu sắc về con người và nhân tố con người. Ở Hồ Chí Minh, khái niệm con người luôn luôn được nhắc đến như một mục tiêu thiêng liêng và cao cả của sự nghiệp cách mạng mà cả cuộc đời Người hằng theo đuổi. Tư tưởng về con người, về việc giải phóng và phát triển con người, coi con người là nhân tố quyết định thành công của cách mạng luôn quán xuyến trong tư duy, đường lối và phương pháp lãnh đạo cách mạng của Hồ chí Minh. Người đã bộc bạch ham muốn tột độ của Người là: Đất nước được hoàn toàn độc lập, tự do. Đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Vì sự ham muốn tột độ đó mà Hồ Chí Minh đã phải trải qua 30 năm bôn ba ở nước ngoài, phải sống xa gia đình, quê hương, đất nước, chịu đựng bao khó khăn, gian khổ, phải vượt qua vô vàn những gian truân, thử thách để tìm ra chân lý cách mạng, con đường cách mạng giành độc lập, tự do cho Tổ quốc và hạnh phúc cho nhân dân.

Với tư duy biện chứng sâu sắc về phát triển cùng với tầm nhìn “vượt gộp”, trong tư tưởng, Hồ Chí Minh quan niệm: Đất nước được độc lập, tự do phải gắn liền với ấm no và hạnh phúc cho con người ở những hưởng thụ cụ thể: ăn, mặc, ở, học tập, việc làm… những điều kiện đó chỉ ở chế độ xã hội chủ nghĩa mới có. Người nói: “Chủ nghĩa xã hội là mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do”(5), là “Được ấm no, hạnh phúc và học hành tiến bộ”(6). Mục đích của “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh”(7), là “Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”(8).

Xác định được mục tiêu và bản chất của chủ nghĩa xã hội, trên cương vị lãnh đạo của mình, Hồ Chí Minh đã lựa chọn con đường cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng xã hội, giải phóng con người và chủ nghĩa xã hội là con đường phát triển tất yếu của đất nước. Do đó, Người yêu cầu: “Muốn xã hội chủ nghĩa, phải có người xã hội chủ nghĩa. Muốn có người xã hội chủ nghĩa, phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa”(9). Những con người xã hội chủ nghĩa trong tư tưởng Hồ Chí Minh thực chất là những con người mới, những con người từ thân phận nô lệ vì mất nước vươn lên làm chủ xã hội, làm chủ sự phát triển của đất nước độc lập, tự do. Họ có vị trí và vai trò quan trọng trong quá trình phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để khẳng định được vị trí và vai trò then chốt này thì con người xã hội chủ nghĩa trong tư tưởng Hồ Chí Minh phải là con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng được những yêu cầu và đòi hỏi của chủ nghĩa xã hội với đặc trưng cơ bản là phải vừa “hồng”, vừa “chuyên”.

“Hồng” và “chuyên” là quan điểm nổi bật và có tính bao quát trong tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất con người mới xã hội chủ nghĩa. Hồng là phẩm chất, là đạo đức của người cách mạng: yêu nước, trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; chống chủ nghĩa cá nhân và có tinh thần quốc tế trong sáng. Chuyênlà sự thể hiện trí tuệ, là tài năng, là năng lực của cá nhân con người gắn liền với sự khổ công học tập, rèn luyện để có tri thức, nâng cao tri thức và dùng chính những tri thức mình có được để phục vụ lợi ích cho sự phát triển của cộng đồng, của chủ nghĩa xã hội. Hồng và chuyên, hay cách gọi khác là đức và tài trong mỗi con người đều rất cần thiết. Đây là hai mặt cơ bản của con người mới nói riêng và được xem như nội hàm của khái niệm con người mới xã hội chủ nghĩa trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người nói: Đức là gốc nhưng tài là quan trọng và luôn dặn mọi người không được xem nhẹ mặt nào: có đức mà không có tài thì không khác ông Bụt trong chùa, không làm hại ai nhưng cũng không làm được gì có ích cho mọi người. Có tài mà không có đức thì sẽ trở thành kẻ phá hoại.

Lời nói của Người có ý nghĩa như một thông điệp để mong muốn mỗi con người hãy lấy cái thiện làm phương châm sống và rèn luyện cho chính mình để phấn đấu trở thành con người có ích cho cộng đồng, cho chủ nghĩa xã hội và cho nhân loại.

Như vậy, theo Hồ Chí Minh, hồng và chuyên của con người Việt Nam trong sự phát triển được hiểu là quá trình con người tự hoàn thiện bản thân theo yêu cầu của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và rèn luyện mình thành con người chủ nghĩa xã hội. Điều đó đòi hỏi trước hết sự phấn đấu vươn lên không ngừng của mỗi cá nhân con người theo hướng tự giác đấu tranh với những mặt lạc hậu, mặt xấu vốn tồn tại như bản năng tự nhiên của con người, đồng thời phải không ngừng học tập, tu dưỡng đạo đức cách mạng, lấy đạo đức cách mạng làm gốc “cũng như sông phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”(10). Đồng thời, giữ gìn và phát huy những phẩm chất  đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa đạo đức của nhân loại. Sau đó, quan trọng  hơn là tham gia tích cực của con người vào sự cải tạo xã hội theo hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội mà cụ thể ở nước ta là thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc kết hợp với cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Sự kết hợp này, đòi hỏi con người Việt Nam phải có nhận thức mới về tư tưởng trong ý thức hệ. Từ ý thức cộng đồng, từ tinh thần yêu nước trong phạm vi dân tộc mang tính truyền thống phải được bổ sung và kết hợp nhuần nhuyễn với chủ nghĩa vô sản. Để từ đó, động lực lớn nhất của đất nước là chủ nghĩa dân tộc đã mang nội hàm mới, kết hợp giữa truyền thống với hiện đại, dân tộc với quốc tế và từ đó con người xã hội chủ nghĩa vốn được hình thành trong cách mạng dân tộc dân chủ, cần phải vuơn lên tự rèn luyện phẩm chất đạo đức, có ý thức phấn đấu suốt đời vì mục tiêu cao cả của lý tưởng chủ nghĩa xã hội.

Song hành cùng với nhận thức về tư tưởng, Hồ Chí Minh luôn coi trọng và rèn luyện ý thức phục vụ con người, phụng sự Tổ quốc và coi đây là một trong những nhân tố then chốt trong bản chất con người xã hội chủ nghĩa. Để làm được điều đó, Người đòi hỏi mỗi cá nhân con người xã hội chủ nghĩa phải là người gương mẫu, có tinh thần vì nước, vì dân, có tình yêu thương con người và phải biết hi sinh cái tôi của cá nhân mình để cống hiến và coi việc phục vụ nhân dân là niềm hạnh phúc, là nghĩa vụ thiêng liêng của đời người.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Ở một khía cạnh khác, nói đến con người xã hội chủ nghĩa là nói đến những người có tinh thần sáng tạo, làm chủ được khoa học công nghệ, ham học hỏi, biết vươn lên trong cuộc sống, trong công việc, luôn bổ sung kiến thức, trí tuệ và năng lực bằng con đường học tập đáp ứng nhu cầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa: “Chủ nghĩa xã hội cộng với khoa học, chắc chắn sẽ đưa loài người đến hạnh phúc vô tận(11)”. Do đó, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh, đề cao và nêu bật vai trò của giáo dục đào tạo trong tiến trình xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa và coi đó là một chiến lược lâu dài. “Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”,Người luôn đặt niềm tin vào khả năng của giáo dục với mong muốn: có gì vẻ vang hơn là nghề giáo dục, đào tạo những thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng Chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa cộng sản. Người gửi gắm ở thế hệ trẻ: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không , dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”(12).

3. Với bất cứ một quốc gia nào thì vấn đề con người và nguồn lực con người luôn giữ vị trí quan trọng. Đây là nhân tố có tính chất quyết định đến sự thành công hay thất bại trong sự phát triển của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Trong đường lối lãnh đạo, Đảng xác định: “Chúng ta cần hiểu sâu sắc những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hóa, mọi nền văn minh quốc gia… Con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là nguồn động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”(13).

Ở giai đoạn văn minh hiện nay, loài người đã đạt tới một trình độ nhận thức mới về tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và phát triển con người. Trong đó, phát triển con người được xem là thước đo sự phát triển của mỗi quốc gia. Do đó, “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển  ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững”(14).

Trong tiến trình hội nhập theo xu thế phát triển chung toàn cầu, công cuộc đổi mới gắn liền với đường lối đẩy mạnh nền công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đất nước Việt Nam muốn phát triển nhanh, mạnh và bền vững thì đòi hỏi nguồn lực con người phải bảo đảm được cả yêu cầu về chất lượng cũng như số lượng. Trên cơ sở nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng của Người về bản chất con người xã hội chủ nghĩa nói riêng, ngoài công tác đẩy mạnh việc giáo dục đạo đức cho nhân tố con người Việt Nam, coi trọng, bồi dưỡng và tôn vinh nhân tài vì “hiền tài là nguyên khí quốc gia” thì cần coi trọng việc nâng cao chất lượng nguồn lực con ngươi gắn liền với Chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo. Bởi vì, chỉ có phát triển giáo dục, đào tạo mới nâng cao chất lượng dân trí, đào tạo được nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, trang bị chuyên môn, nghiệp vụ, văn hóa, đạo đức, ý thức kỷ luật lao động cho con người…

Bản chất, hay nói cách khác chất lượng của nguồn lực con người, là sức mạnh trí tuệ và tay nghề. Muốn nâng cao chất lượng nguồn lực con người, đặc biệt là nhân lực có chất lượng cao thì phải coi trọng công tác giáo dục, đào tạo và khẳng định phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu như sinh thời Hồ Chí Minh vẫn thường nhấn mạnh. Do đó, để đáp ứng được yêu cầu về nguồn lực con người với các tiêu chí đặt ra thì phải đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa; đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học; đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, đào tạo. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ thuật thực hành. Đẩy mạnh đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội; xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và tạo điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời. Đồng thời, đẩy mạnh công tác xã hội hóa, huy động toàn xã hội chăm lo phát triển giáo dục, mở rộng các hình thức đào tạo và thực hiện tốt yêu cầu bình đẳng về cơ hội học tập và các chính sách xã hội trong giáo dục; Biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo nhằm phát huy tính tích cực và chủ động của con người v.v… Các trường chuyên nghiệp và đại học tập trung đào tạo nguồn nhân lực đủ khả năng tiếp cận công nghệ tiên tiến như trong Cương lĩnh phát triển kinh tế – xã hội đã được Đảng ta xác định phát triển khoa học và công nghệ thực sự là động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững. Do đó, giáo dục và đào tạo phải bảo đảm tập trung đào tạo đội ngũ nhân lực cho công nghiệp hóa – hiện đại hóa đáp ứng được cả 2 tiêu chí đại trà và chuyên sâu, cả số lượng và chất lượng.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một quá trình tất yếu mang tính quy luật phổ biến để xây dựng đất nước giàu mạnh. Quá trình này đòi hỏi bước chuyển về chất của xã hội nhất là ở nước ta chuyển từ nền văn minh nông nghiệp sang văn minh công nghiệp đòi hỏi phải có sự nỗ lực về trí tuệ, kỹ năng, bản lĩnh của cả dân tộc. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về con người xã hội chủ nghĩa vào chiến lược nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa là điều kiện đảm bảo để đất nước Việt Nam phát triển bền vững, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Chú thích:
bqllang.gov.vn

———————————-

  1. 1.Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXBCTQG, Hà Nội – 2011, Tr.41
  2. 2.Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, SĐD , Tr.76-77
  3. 3.Học viện CT-HC Quốc gia Việt Nam, Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, NXBCT-HC, Hà Nội-2010. Tr.235,236
  4. 4.Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ hai BCH Trung ương hóa VIII, NXBCTQG, Hà Nội -1997, Tr.9
  5. 5.Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, T10, Tr.97
  6. 6.
  7. 7.Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, T8, Tr.226
  8. 8.Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, T10, Tr.271
  9. 9.Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, T9, Tr.296
  10. 10.Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, T9, Tr.253
  11. 11.Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, T9, Tr.131
  12. 12.Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, T4, Tr.33
  13. 13.Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện HN tái bản lần thứ tư BCHTW khóa VII, NXBCTQG, HN – 1993, Tr.5
  14. 14.Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, SĐD , Tr.130

Th.s Cao Hải Yến
Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch
Kim Yến (st)