Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đã ghi nhận ý tưởng sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thiết lập một nền công vụ mạnh mẽ, sáng suốt của dân, hoạt động vì nhân dân và chịu sự kiểm soát, bãi miễn của nhân dân; một nền công vụ hiện đại, dân chủ, có hiệu lực từ Trung ương đến cơ sở.
Thư viện
Xây dựng tổ chức cơ sở đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những luận điểm của Người về xây dựng tổ chức cơ sở Đảng (TCCSĐ) là một nội dung rất quan trọng. Quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người về xây dựng TCCSĐ nhằm chỉnh đốn và đổi mới Đảng làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là lực lượng chính trị lãnh đạo toàn xã hội, là một trong những nhiệm vụ chủ yếu, là vấn đề then chốt đảm bảo cho thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
Tư tưởng tiết kiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Từ tư tưởng đến hành động
Tiết kiệm là một trong những nội dung luôn được Bác Hồ rất mực coi trọng. Trong suốt thời gian lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Bác luôn nhấn mạnh vai trò và tầm ý nghĩa của tiết kiệm trong điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn của nước ta.
Tiết kiệm là thi đua yêu nước
Tư tưởng Hồ Chí Minh “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”
Từ Tư tưởng Hồ Chí Minh
Tại lễ kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng (3-2-1930 – 3-2-1960), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tự hào khẳng định: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” và “Đảng ta thật là vĩ đại”. Khẳng định Đảng ta là đạo đức, là văn minh bởi Đảng là một tổ chức chính trị chân chính, trung thực, trung thành, quang minh, chính đại, chung thủy, tôn trọng công lí và chính nghĩa, phấn đấu, hy sinh vì độc lập tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân. Đảng bao gồm những người ưu tú của xã hội kết thành một tổ chức có năng lực, trí tuệ cao, có trình độ văn hóa , lí luận đủ sức tiên phong dẫn đường cho nhân dân trong các giai đoạn phát triển của lịch sử.
Trong công tác xây dựng đảng, Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng về xây dựng đạo đức cách mạng. Bởi đạo đức là biểu hiện trực tiếp của tư tưởng, chỉ đạo tư duy và hành động của con người. Giáo dục chính trị, tư tưởng, bồi dưỡng tình cảm, xây dựng nhân cách người đảng viên, cũng như chăm lo củng cố xây dựng tổ chức đảng phải đặt trên nền tảng đạo đức cách mạng, bảo đảm hiệu quả vững chắc và lâu bền.
Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ một trong những tư cách của người cách mạng là “ít lòng ham muốn về vật chất”, cái hữu hạn của giá trị vật chất so với cái vô hạn của giá trị tinh thần: Ai chẳng muốn no cơm, áo ấm. Nhưng sinh hoạt vật chất hết đời người ta hết, còn tiếng tăm xấu hay tốt vẫn lan truyền đến ngàn đời về sau. Vì vậy, người cách mạng chớ để cho ham muốn vật chất tầm thường làm cho mình sa ngã.
Hồ Chí Minh không chỉ đề ra một hệ thống chuẩn mực đạo đức cách mạng cho các thế hệ học tập mà bản thân Người đã suốt đời gương mẫu thực hiện. Trước khi từ biệt chúng ta, Người căn dặn: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, vững mạnh, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Thực tế cho thấy, sự suy thoái về đạo đức là biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng. Sự kém cỏi về đạo đức sớm muộn cũng sẽ dẫn đến sự tha hóa về chính trị. Trong lãnh đạo, Đảng cũng có lúc phạm sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng do giáo điều, chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan, Đảng đã nghiêm túc trong phê bình, sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới, chỉnh đốn để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên. Điển hình như trong Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản năm 1930, Đảng đã tiến hành tự phê bình rất nghiêm khắc bằng sự “tự chỉ trích”, “chuyển hướng phong trào dân chủ 1936-1939”. Đại hội VI của Đảng năm 1986 khởi xướng công cuộc đổi mới trên toàn quốc và đã thu được những thành tựu có ý nghĩa bước ngoặt. và gần đây nhất là Hội nghị Trung ương 4, khóa XI đã đề ra nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiên nay”. Nghị quyết chỉ rõ: “Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác xây dựng đảng còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kì chậm khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ”(1) và khẳng định: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, phai nhạt lí tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỉ, cơ hội, tham nhũng lãng phí, tùy tiện vô nguyên tắc”(2). Vì vậy, sau khi kiểm điểm, phê bình, tại Hội nghị Trung ương 6, khóa XI, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã thành thật nhận lỗi trước Ban Chấp hành Trung ương, trước toàn Đảng, toàn dân về những yếu kém trong công tác xây dựng đảng và những suy thoái, hư hỏng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên như Nghị quyết Trung ương 4 đã nêu. Đồng thời, Ban Chấp hành Trung ương cũng nghiêm túc tự phê bình và hứa trước nhân dân sẽ có gắng hết sức mình để từng bước khắc phục sữa chữa.
Dù luôn luôn tin tưởng vào sức mạnh của dân tộc, vào bản lĩnh của Đảng ta nhưng nhân dân vẫn chưa thật yên tâm trước những diễn biến đáng lo ngại hiện nay. Tình trạng sa sút nghiêm trọng về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có chức, có quyền đang làm suy yếu Đảng, làm cho nhân dân xa rời Đảng như Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) xác định.
Tham nhũng thường gắn liền với chức quyền nhưng không phải bất cứ ai có chức quyền cũng đều tham nhũng. Hoàn cảnh khách quan chỉ có thể phát huy tác dụng thông qua chủ quan của con người, tức là tham nhũng hay không vẫn phụ thuộc phần lớn vào công tác giáo dục và sự tu dưỡng, rèn luyện của mỗi người. Điều đó cho thấy, chúng ta đã thiếu chủ động trong việc đề ra chiến lược về giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên khi bước vào đổi mới cơ chế, thực hiện mở cửa, hội nhập. Chúng ta chưa kế thừa tốt tấm gương đạo đức và phong cách làm việc của Bác Hồ trước mỗi bước chuyển của cách mạng. Vì vậy, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, toàn xã hội chúng ta đang chứng tỏ tính tất yếu khách quan của vấn đề giáo dục đạo đức và việc tu dưỡng, rèn luyện nhân cách người cán bộ, nhất là phẩm chất đạo đức, lối sống của người đảng viên.
Đã có không ít cán bộ, đảng viên cách mạng, thời trẻ chấp nhận gian khổ, hi sinh, hiến dâng tuổi thanh xuân và cả tính mệnh quý giá của mình cho sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Một thời, họ đã là những anh hùng, là biểu tượng về lí tưởng và đạo đức cách mạng nhưng tiếc thay khi đã ngồi vào ghế quyền lực, họ cũng bị quyền lực làm cho tha hóa, trở thành những con người tầm thường, lợi dụng chức quyền để vơ vét, vì đồng tiền mà bước qua pháp luật, tiếp tay cho những kẻ phi pháp, đánh mất phẩm giá và sự nghiệp chính trị đã theo đuổi cả đời. Tình trạng đó có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, xin đừng đổ lỗi riêng cho mặt trái cơ chế thị trường tác động, hoặc do tàn dư của xã hội thực dân phong kiến. Công bằng mà nói, thời nào bên cạnh bọn “quan tham, ô lại” cũng có những “minh quan lương lại”. Những người này đọc sách thánh hiền cũng biết đề cao thanh liêm, công minh, chính trực, cũng tự xem mình là công bộc của dân. Nhưng đáng tiếc, số này không nhiều.
Đến vấn đề cần suy ngẫm, thực hiện
Bệnh trọng thì phải dùng thuốc đắng. Muốn giữ được nhân cách, đạo đức, muốn giữ nghiêm kỉ luật của Đảng, tránh hủ hóa, sai lầm, khuyết điểm thì phải dùng “bốn thứ thuốc” đặc trị: Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Bởi có siêng năng mới hiểu được giá trị về một nắng hai sương của hạt gạo làm ra, mới biết tiết kiệm. Có giản dị, tiết kiệm, không xa hoa, lãng phí thì mới giữ được thanh liêm. Đã có liêm thì sẽ giữ được ngay thẳng, chính trực, thấy đúng dám bảo vệ, thấy sai dám đấu tranh, vì không phụ thuộc vào thế lực nào, không sợ “há miệng mắc quai”, “rút dây động rừng”. Đồng thời phải giữ nghiêm kỷ cương, phép nước như Hồ Chí Minh khẳng định: Trăm điều phải có thần linh pháp quyền.
Sự lành mạnh của đời sống đạo đức xã hội phụ thuộc rất lớn vào sự nêu gương của người lãnh đạo và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Xưa nay, niềm tin của người dân Việt Nam luôn gắn liền với niềm tin vào tấm gương đạo đức của người cầm quyền. Đối với các dân tộc phương Đông thì “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”(3). Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước. Đó là trách nhiệm về nêu gương của cán bộ, đảng viên: “Đi đầu trong đấu tranh phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; nêu gương về đức khiêm tốn giản dị; tác phong sâu sát thực tế, gần gũi để thấu hiểu tâm tư nguyện vọng chính đáng của quần chúng”(4).
Chúng ta đã tích cực đấu tranh chống những những căn bệnh tham nhũng, tiêu cực đang diễn ra trên nhiều lĩnh vực song tình hình đó chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, trái lại, có nơi còn gia tăng và diễn biến hết sức phức tạp. Như thế có nghĩa là một số phần tử cố tình lún sâu vào con đường suy thoái, biến chất về chính trị, đạo đức, lối sống. Tại sao như vậy? Phải chăng có hiện tượng “nhờn” pháp luật, coi thường kỉ cương, phép nước? Nếu chúng ta không kiên quyết với bọn giặc “nội xâm” này, liệu chúng ta có còn kiểm soát được tình hình đất nước? Đó là vấn đề mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cần suy ngẫm và thực hiện cho được những biện pháp đã đề ra.
Đại tá TS. Nguyễn Dân Quốc – Trung tá ThS. Nguyễn Ngọc Sáng
Trường Sĩ quan Lục quân 2
—————————————-
(1), (2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương khoá XI, NXBCTQG, H. 2012, tr.21,22.
(3) Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, H. 2012, tr.552.
(4) Quy định số 101 QĐ/TW ngày 7-6-2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp.
Nguồn: xaydungdang.org.vn
Vkyno (st)
Tìm hiểu thêm về vấn đề cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy rất rõ vai trò, vị trí của vấn đề cán bộ. Vì thế Người có những yêu cầu rất cao và có những chỉ dẫn hết sức sáng suốt về vấn đề này.
Với tư cách là chủ thể
Tiêu chuẩn đầu tiên của người cán bộ là đạo đức cách mạng. Đạo đức cách mạng, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, không phải là cái gì trừu tượng, cao xa mà là những điều bình thường, hết sức cụ thể, dễ hiểu, nhưng thực hiện được nó phải có ý chí rèn luyện rất cao.
Người cán bộ có đạo đức cách mạng là người luôn kiên định lý tưởng xã hội chủ nghĩa; không có những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị; là người luôn biết đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc, của tập thể lên trên hết, biết giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân với lợi ích của Đảng, của dân tộc, của tập thể; là người liên hệ mật thiết với nhân dân, biết lắng nghe ý kiến của nhân dân, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, khéo tổ chức và lãnh đạo nhân dân; bằng lời nói và hành động của mình làm cho dân tin, dân phục, dân yêu, từ đó tuyên truyền và vận động nhân dân một cách có hiệu quả; là người có ý thức tổ chức, kỷ luật cao, không độc đoán chuyên quyền, tự cho phép mình cao hơn tổ chức, tự cho phép mình đứng ngoài kỷ luật. Ý thức tổ chức, kỷ luật phải được thể hiện cả trong suy nghĩ lẫn trong hành động, cả trong cách nói năng lẫn trong giao tiếp, ứng xử hằng ngày.
Người cán bộ có đạo đức cách mạng thì nghĩ, nói và làm phải thống nhất. Nhân dân thường đánh giá cán bộ thông qua những lời nói và việc làm cụ thể hằng ngày. “Nói một đằng, làm một nẻo” là điều tối kỵ đối với người cán bộ. “Một sự bất tín vạn sự bất tin”, người cán bộ một khi đã không được dân tin, dân phục, dân yêu thì chỉ là người “vô tích sự, không làm nên trò trống gì”.
Người cán bộ có đạo đức cách mạng là người có ý thức tự phê bình và phê bình rất cao. Phê bình phải đi liền với tự phê bình. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra cái căn bệnh thường thấy của cán bộ là chỉ biết phê bình người khác mà không muốn người khác phê bình mình, không tự phê bình một cách thật thà, nghiêm chỉnh. Người chỉ rõ: “Chúng ta không sợ sai lầm, chỉ sợ phạm sai lầm mà không quyết tâm sửa chữa. Muốn sửa chữa cho tốt thì phải sẵn sàng nghe quần chúng phê bình và thật thà tự phê bình. Không chịu nghe phê bình và không tự phê bình thì nhất định lạc hậu, thoái bộ. Lạc hậu và thoái bộ thì sẽ bị quần chúng bỏ rơi”(1). Người còn nói thêm: “Dân ta rất tốt, rất yêu thương Đảng, yêu thương cán bộ. Khi ta có khuyết điểm mà nói trước dân, chẳng những dân không ghét, không khinh, mà còn thương yêu, quý trọng, tín nhiệm ta hơn nữa”(2). Quán triệt tư tưởng này của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI đặc biệt nhấn mạnh tới những khuynh hướng tiêu cực cần phải tránh trong việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình là: “vuốt ve ca tụng”, “ngậm miệng ăn tiền” hoặc lợi dụng phê bình để mạt sát, nhục mạ, xúc phạm nhau,…
Người cán bộ có đạo đức cách mạng là người có lối sống lành mạnh, trong sạch, không xa hoa, lãng phí, hủ hóa, tham nhũng, không có tư tưởng đặc quyền, đặc lợi. Ngay từ những năm đầu khi ta mới giành được chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghiêm khắc chỉ ra những biểu hiện thoái hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên về mặt này.
Theo Người, người cán bộ có đạo đức nhưng lại phải có tài. Cán bộ chỉ có đức mà thiếu tài thì cũng chẳng khác nào “những ông bụt ngồi ở trong chùa”. “Tài”, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, bao gồm cả năng lực trí tuệ và năng lực tổ chức thực tiễn. Muốn có được những năng lực đó, người cán bộ phải chịu khó học tập, rèn luyện, trước hết là học tập lý luận Mác – Lê-nin, sau đó phải chịu khó lăn lộn trong thực tiễn. Bởi vì theo Người, lý luận luôn được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động.
Có đức, có tài vẫn chưa đủ. Người cán bộ còn phải có cả phong cách công tác khoa học. Theo Người, muốn có phong cách công tác khoa học phải chống bệnh chủ quan, tác phong quan liêu, đại khái; chống bệnh ham chuộng hình thức, chỉ nhằm về hình thức bề ngoài, chỉ muốn phô trương cho oai; chống cách làm việc theo lối bàn giấy, ngồi một nơi “chỉ tay năm ngón”, không chịu xuống địa phương kiểm tra công tác, kiểm tra việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước,…
Với tư cách là khách thể
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tổ chức và những người trực tiếp làm công tác cán bộ, nhất là người đứng đầu phải:
Hiểu rõ và đánh giá đúng cán bộ. Bởi vì có hiểu rõ và đánh giá đúng cán bộ mới bố trí và sử dụng đúng cán bộ; mới phát hiện đúng ai là cán bộ tốt, ai là cán bộ xấu, ai là người có tài, ai là kẻ bất tài; mới kích thích được mặt tích cực và hạn chế được mặt tiêu cực trong con người cán bộ,… Muốn đánh giá đúng cán bộ phải căn cứ vào những chuẩn mực nhất định. Những chuẩn mực đó có thể thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng. Thí dụ, trong cách mạng dân tộc dân chủ, nhiệm vụ hàng đầu của người cán bộ là nêu gương trong cuộc đấu tranh giữa cái sống và cái chết, phấn đấu hy sinh để giành độc lập, tự do cho Tổ quốc thì trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhiệm vụ hàng đầu của người cán bộ lại là cống hiến hết sức mình cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Theo lôgíc đó thì ngày nay, cán bộ phải là người đi tiên phong trong công cuộc đổi mới, có thái độ đúng đắn đối với công cuộc đổi mới, có kiến thức và năng lực thực hiện đường lối đổi mới.
Khéo dùng cán bộ. Khéo dùng cán bộ thể hiện ở chỗ đặt người đúng việc, vì việc mà đặt người chứ không phải vì người mà đặt việc; tức là “nồi tròn úp vung tròn” chứ không thể “nồi tròn úp vung vuông”. Người thường căn dặn: Chúng ta phải nhớ rằng, người đời ai cũng có chỗ hay, chỗ dở. Ta phải dùng chỗ hay của họ và giúp họ chữa chỗ dở. Dùng người cũng như dùng gỗ. Người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong đều tùy chỗ mà dùng được. Khéo dùng cán bộ còn thể hiện ở chỗ biết kết hợp các thế hệ cán bộ một cách đúng đắn. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nói: Trong đội ngũ cán bộ của Đảng có cán bộ già, có cán bộ trẻ. Cán bộ già là vốn quý của Đảng, họ có kinh nghiệm về mặt lãnh đạo, được rèn luyện, thử thách nhiều trong thực tế đấu tranh. Nhưng cũng có một số cán bộ già đến một thời kỳ nào đấy là dừng lại, không tiến lên được, hay bám lấy cái cũ, không nhạy cảm với cái mới. Còn cán bộ trẻ tuy chưa có một số ưu điểm như cán bộ già, nhưng họ lại hăng hái, nhạy cảm với cái mới, chịu khó học tập cho nên tiến bộ rất nhanh. Vì vậy, Người luôn căn dặn: “Đảng ta phải khéo kết hợp cán bộ già với cán bộ trẻ. Không nên coi thường cán bộ trẻ. Một số ít cán bộ già mắc bệnh công thần, cho mình là người có công lao, hay có thái độ “cha chú”’ với cán bộ trẻ, đảng viên trẻ nói gì cũng gạt đi, cho là “trứng khôn hơn vịt”, “măng mọc quá tre”. Thời đại của ta hiện nay rất oanh liệt. Xã hội, thế giới phát triển rất nhanh. Thế mà các đồng chí lớn tuổi lại coi thường cán bộ trẻ là không đúng. Còn cán bộ trẻ không được kiêu ngạo, phải khiêm tốn học hỏi các đồng chí già có kinh nghiệm”(3). Muốn dùng cán bộ cho đúng còn phải hết sức khách quan, công tâm và phải chống tư tưởng “địa phương chủ nghĩa”, “óc bè phái”, “óc hẹp hòi”, “ai hẩu với mình dù họ nói không đúng cũng nghe, họ không có tài cũng dùng; còn ai không hẩu với mình thì dù có tài cũng dìm họ xuống, họ nói phải mấy cũng không nghe”…
Có gan cất nhắc cán bộ. Có gan tức là phải mạnh dạn. Sở dĩ Người nói như thế vì chúng ta thường quá rụt rè, quá khắt khe trong việc bổ nhiệm, đề bạt cán bộ. Có gan không có nghĩa là làm vội, làm ẩu, làm liều. Người thường nói: “Trước khi cất nhắc cán bộ, phải nhận xét rõ ràng. Chẳng những xem xét công tác của họ, mà còn phải xét cách sinh hoạt của họ. Chẳng những xem xét cách viết, cách nói của họ, mà còn phải xem xét việc làm của họ có đúng với lời nói, bài viết của họ hay không. Chẳng những xem xét họ đối với ta thế nào, mà còn phải xem xét họ đối với người khác thế nào. Ta nhận họ tốt, còn phải xét số nhiều đồng chí có nhận họ tốt hay không. Phải biết ưu điểm của họ, mà cũng phải biết khuyết điểm của họ, không nên chỉ xem công việc của họ trong một lúc, mà phải xem cả công việc của họ từ trước đến nay”(4). Đối với cán bộ, chẳng những phải xem xét rõ ràng trước khi đề bạt, bổ nhiệm, mà sau khi đề bạt, bổ nhiệm còn phải tiếp tục bồi dưỡng, giúp đỡ họ để họ có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. “Có lên, có xuống, có vào, có ra” trong việc cất nhắc, bổ nhiệm cán bộ nói chung là đúng. Song, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là điều “vạn bất đắc dĩ”. Người nói: “Cất nhắc cán bộ, không nên làm như “giã gạo”. Nghĩa là trước khi cất nhắc không xem xét kỹ. Khi cất nhắc rồi không giúp đỡ họ. Khi họ sai lầm thì đẩy xuống, chờ lúc họ làm khá, lại cất nhắc lên. Một cán bộ bị nhắc lên thả xuống ba lần như thế là hỏng cả đời”(5).
Trên đây chỉ là một số yêu cầu lớn, rất cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với công tác cán bộ, còn toàn bộ tư tưởng của Người về vấn đề này có thể khái quát lại trong những cặp từ mà Người vẫn hay dùng là: “hiểu biết”, “khéo dùng”, “mạnh dạn”, “nâng cao”, “nghiêm khắc”, “thương yêu”.
Quán triệt đầy đủ tinh thần của những cặp từ đó đã là điều khó. Cái khó hơn là thực hành đúng nội dung của nó. Muốn vậy, đòi hỏi những người trực tiếp làm công tác cán bộ, trước hết là người đứng đầu các cấp ủy đảng, chính quyền và các cơ quan, đơn vị phải có thái độ thật khách quan, công tâm, không mảy may xen động cơ cá nhân mới có thể xem xét cán bộ một cách đúng đắn, sử dụng cán bộ đúng chỗ, đúng việc.
Nói chung, lâu nay chúng ta đã vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo những nguyên lý Mác-xít – Lê-nin-nít và những chỉ dẫn quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác cán bộ. Chính vì thế mà Đảng và Nhà nước ta có một đội ngũ cán bộ về cơ bản là tốt, đáp ứng được những yêu cầu ngày càng cao của cách mạng trong từng giai đoạn. Tuy nhiên, sự hoạt động, phát triển của đội ngũ cán bộ và hiệu quả của sự hoạt động đó còn phụ thuộc rất nhiều vào đường lối chính trị, vào tổ chức bộ máy và cơ chế quản lý… Đó chính là những nguyên nhân khách quan tác động khá toàn diện đến người cán bộ.
Không thể đặt người cán bộ ra ngoài mối quan hệ với đường lối chính trị của Đảng. Đường lối chính trị của Đảng sai thì đương nhiên không thể có đội ngũ cán bộ tốt. Đường lối sai sẽ làm cho người cán bộ mất hết phương hướng và đẩy hàng loạt cán bộ vào chỗ sai lầm. Tình hình thực tế của nhiều đảng cộng sản và công nhân quốc tế trong những thập niên cuối của thế kỷ XX đã chứng minh điều đó.
Không thể đặt người cán bộ ra ngoài mối quan hệ với tổ chức và cơ chế quản lý kinh tế – xã hội, bởi những thứ đó ảnh hưởng không nhỏ tới phương hướng và mục tiêu hành động của họ, điều khiển họ, thậm chí buộc họ phải hành động như thế này chứ không thể như thế khác. Nếu chúng ta xây dựng được một hệ thống quản lý kinh tế khoa học, phù hợp với quy luật kinh tế theo đúng nguyên tắc sản xuất thì đó sẽ là điều kiện rất quan trọng buộc người cán bộ phải quan tâm đến hiệu quả kinh tế của sản xuất, phải đi sâu nắm vững cơ cấu và quá trình sản xuất, nâng cao tinh thần trách nhiệm, tinh thần làm chủ và khả năng quản lý,… Trước đây vì chúng ta cứ mò mẫm, lúng túng mãi trong cơ chế mang nặng tính hành chính, quan liêu, bao cấp, do đó đã hình thành một cách tự nhiên lớp cán bộ quan liêu, làm ăn tùy tiện, kế hoạch thực hiện đến đâu hay đến đó. Khi chuyển sang cơ chế quản lý mới, do chưa có nhiều kinh nghiệm thực tiễn nên một số chính sách, chế độ quản lý chưa hoàn chỉnh, có nhiều thiếu sót, sơ hở để cho một bộ phận cán bộ không tốt lợi dụng, nhũng loạn, đục khoét của công. Đây là một vấn đề cấp bách đòi hỏi cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương và các ngành, các cấp cần cố gắng khắc phục.
Không thể đặt cán bộ ra ngoài mối quan hệ với pháp luật. Trong một tổ chức, trong công việc, mối quan hệ giữa thủ trưởng với nhân viên là mối quan hệ giữa cấp trên với cấp dưới, giữa lãnh đạo và bị lãnh đạo; nhưng đối với pháp luật, cả hai đều là công dân, hoàn toàn bình đẳng trước pháp luật. Song thực tế lại có không ít trường hợp cán bộ lãnh đạo phạm tội thì xử nhẹ, tội đáng đưa ra tòa nhưng lại chỉ xử lý nội bộ còn cán bộ bình thường thì bị xử nặng, thậm chí có trường hợp xử phạt cả người vô tội. Tình trạng không công bằng và không công minh trước pháp luật, nếu cứ tiếp diễn thì không thể hạn chế được những biểu hiện tiêu cực nảy sinh trong đội ngũ cán bộ.
Muốn làm tốt công tác cán bộ, một mặt phải quán triệt những nguyên lý Mác-xít - Lê-nin-nít và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ; mặt khác, phải tiến hành đồng bộ hàng loạt những biện pháp tích cực, khoa học. Nếu không như vậy, rất có thể chúng ta sẽ rơi vào tình trạng: trên lý thuyết thì đề cao lý luận Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng trên thực tế thì làm ngược lại./.
______________________
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 9, tr. 290
(2) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 12, tr. 213
(3) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 12, tr. 211
(4), (5) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 5, tr. 281 – 282
Nguyễn Tiến Hải
Nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản
Vấn đề chế độ dân chủ nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh từ góc nhìn triết học
Nghiên cứu hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh ta thấy rất rõ quan điểm của Người về ba giai đoạn trên con đường phát triển của cách mạng Việt Nam: giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong đó, chế độ dân chủ nhân dân là bước phủ định triệt để những tàn tích của chế độ cũ – chế độ thực dân, phong kiến, đồng thời đó cũng là bước khẳng định – xác lập những cơ sở, nền tảng cho chế độ xã hội mới ở trình độ phát triển cao hơn là chủ nghĩa xã hội. Chế độ dân chủ nhân dân là một giai đoạn tất yếu trên con đường phát triển của xã hội Việt Nam.
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Ảnh: Tuấn Anh
I. Chế độ dân chủ nhân dân là sự phủ định triệt để chế độ thực dân, phong kiến
Trong bài nói tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam mới (ngày 03-9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra những nhiệm vụ cấp bách cần phải tiến hành: Thứ nhất, dưới chế độ thực dân, để phục vụ mục đích chính trị và quân sự, thực dân, đế quốc Pháp – Nhật đã “gây nạn đói” cho nhân dân ta nhằm làm cho dân ta chết, còn dưới chế độ mới, chúng ta “phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất,, và mở “cuộc lạc quyên” để “làm thế nào cho họ sống”; thứ hai, dưới chế độ thực dân, nạn dốt là “một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta”, nhằm làm cho dân tộc ta yếu, còn dưới chế độ mới, chúng ta “mở một chiến dịch chống nạn mù chữ” vì chúng ta muốn dân tộc ta mạnh; thứ ba, dưới chế độ thực dân và chế độ quân chủ phong kiến, “nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ”, còn dưới chế độ mới, nhân dân ta được hưởng mọi quyền tự do dân chủ, trước hết là tham gia cuộc “TÔNG TUYÊN CỬ” với chế độ phổ thông đầu phiếu và thông qua Quốc hội được lập nên bằng tổng tuyển cử mà xây dựng một bản Hiến pháp dân chủ; thứ tư, chế độ thực dân “dùng mọi thủ đoạn hòng hủ hóa dân tộc chúng ta bằng những thói xấu, lười biếng, gian giảo, tham ô và những thói xấu khác”, còn chế độ mới “phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập”, vì vậy, chúng ta “mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: CÂN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH”; thứ năm, chế độ thực dân thực hiện “một lối bóc lột vô nhân đạo” bằng thuế thân, thuế chợ, thuế đò, còn chế độ ta “bỏ ngay ba thứ thuế ấy” vì chế độ ta là chế độ nhân đạo; thứ sáu, chế độ thực dân và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào Giáo và đồng bào Lương, còn chế độ ta thì thực hiện “tín ngưỡng tự do và Lương Giáo đoàn kết”.
Trong bài nói quan trọng trên, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến sự đối lập giữa cái mới và cái cũ. Đó là sự đối lập giữa “sống” và “chết”, giữa “phát triển” và “phản phát triển”, giữa “quyền” và “vô quyền”, giữa “lành mạnh” và “hủ hóa”, giữa “nhân đạo” và “vô nhân đạo”, giữa “đoàn kết” và “chia rẽ”. Có thể nói, đó là những sự đối lập triệt để và toàn diện. Trong nhiều bài nói, bài viết khác sau đó, khi đề cập đến những đặc điểm của chế độ xã hội mới, Hồ Chí Minh cũng sử dụng phương pháp đối lập như trên. Chẳng hạn, trong Thư gửi ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng (tháng l0-1945), Hồ Chí Minh viết: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật”. Ở đây, đặc điểm “công bộc của dân” của chế độ dân chủ nhân dân là sự đối lập với bản chất “đè đầu dân” của chế độ xã hội cũ.
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, chế độ dân chủ nhân dân được tuyên bố ra đời, trở thành một tồn tại hiện thực. Song, đó chưa phải là nột hiện thực hoàn toàn, đầy đủ. Đầu năm 1946, Hồ Chí Minh nói: “Bộ máy thống trị cũ đã hủy bỏ, nhưng nền nếp dân chủ mới chưa hoàn toàn”. Sự tồn tại của chế độ xã hội mới là một quá trình. Đó là một quá trình mà trong đó một số phương diện của chế độ xã hội cũ vẫn còn tồn tại (chẳng hạn như ban đầu là sự tồn tại của giai cấp địa chủ và quan hệ địa chủ – nông dân) và vì thế cuộc đấu tranh giữa cái mới đang hình thành với cái cũ vẫn còn tồn tại diễn ra quyết liệt. Chính trong cuộc đấu tranh ấy, cái mới nếu có đủ sức mạnh sẽ chiến thắng cái cũ và vì thế tự khẳng định mình thực sự là cái mới. Chiến thắng của những nội dung mới làm cho sự tồn tại của chế độ xã hội mới trở thành tồn tại hoàn toàn, đầy đủ. Ba giai đoạn trong quá trình hình thành và phát triển của sự vật mới như trên đã được nhà biện chứng lỗi lạc của nhân loại là G.V.F. Hê-ghen khái quát bằng bộ ba khái niệm: thực tại, tồn tại – cho – cái khác và tồn tại – cho – bản thân. V.I. Lê-nin đặc biệt đánh giá cao bộ ba khái niệm nói trên, coi đó là sự thể hiện biện chứng của tư tưởng phản ánh được biện chứng khách quan của hiện thực. Và rõ ràng, Hồ Chí Minh đã tư duy về chế độ dân chủ nhân dân ở Việt Nam theo phương pháp tư duy biện chứng như thế cho dù Người không sử dụng các khái niệm của Hê-ghen.
Có thể thấy, với Hồ Chí Minh, những đặc điểm của chế độ xã hội mới được xác lập trong tư tưởng trước hết thông qua phương pháp tư duy chuyển hóa những đặc điểm của chế độ xã hội cũ thành mặt đối lập của nó. Đây chính là phương pháp tư duy biện chứng. Lê-nin đã đánh giá rất cao tư duy biện chứng của Xpi-nô-da khi ông này nêu lên mệnh đề: “Omnis determinatio est negatio” (mọi sự quy định là sự phủ định). Với phương pháp tư duy như thế, quá trình xây dựng (quy định) chế độ dân chủ nhân dân trong hiện thực được tư duy trước hết là quá trình vượt bỏ (phủ định) một cách triệt để và toàn diện những đặc trưng bản chất của chế độ thực dân, phong kiến.
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chế độ 1 dân chủ nhân dân trước hết là bước phủ định triệt để những tàn tích của chế độ cũ – bước phủ định đã được khởi đầu và hoàn thành một phần trong Cách mạng Tháng Tám.
II – Chế độ xã hội chủ nghĩa ra đời từ trong chế độ dân chủ nhân dân
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quan hệ giữa chế độ dân chủ nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa thể hiện trên hai phương diện.
Thứ nhất, theo Hồ Chí Minh: chế độ dân chủ nhân dân chưa phải là chế độ xã hội chủ nghĩa. Điểm khác căn bản chính là ở vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất. Trong chế độ dân chủ nhân dân, chế độ sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất của thiểu số ngùơi bị phủ định để xác lập chế độ sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất của đa số người. Quan điểm trên của Hồ Chí Minh được thể hiện rõ, chẳng hạn trong luận điểm về so sánh chế độ sở hữu tư liệu sản xuất trong chế độ dân chủ nhân dân với chế độ sở hữu tư liệu sản xuất trong chê độ xã hội chủ nghĩa: CANH GIẢ HỮU KỲ ĐIỀN” nghĩa là dân cày có ruộng. “Phải chăng đó là một chủ nghĩa cộng sản, hoặc chủ nghĩa xã hội? Không phải. Chủ nghĩa xã hội hoặc cộng sản là không có chế độ tư hữu. Trái lại “canh giả hữu kỳ điền” là làm cho hàng chục triệu dân cày thành tư hộ đều có ruộng, đều có quyền sở hữu ruộng đất… Dân cày có ruộng chỉ là một chính sách dân chủ”.
Tất nhiên, còn có những sự khác biệt khác nữa, những đâu là sự khác biệt về quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất và đi liền với nó là các loại hình kinh tế là sự khác biệt chủ yếu. Trong tác phẩm Thường thức chính trị (năm 1953), khi đề cập tới đặc điểm kinh tế trong các “đặc điểm của dân chủ mới”, Hồ Chí Minh đã chỉ ra “năm loại kinh tế,,: A- Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung của nhân dân). B- Các hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa xã hội và sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội). C- Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác xã, tức là nửa chủ nghĩa xã hội). D- Tư bản của tư nhân. E- Tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh doanh). Năm loại kinh tế này dựa trên nhiều loại hình sở hữu tư liệu sản xuất khác nhau, và vì thế nó vẫn khác với kinh tế xã hội chủ nghĩa, dù rằng những mầm mống xã hội chủ nghĩa về kinh tế đã xuất hiện. Nói theo ngôn ngữ ngày nay thì kinh tế dân chủ nhân dân là kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Có thể nói như vậy bởi chính Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: trong năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Cho nên kinh tế ta sẽ phát trên theo hướng xã hội chủ nghĩa chứ không phải theo hướng chủ nghĩa tư bản”.
Quan điểm về sự khác biệt giữa chế độ dân chủ nhân dân với chế độ xã hội chủ nghĩa cũng được Đảng ta khẳng định. Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam tại Đại hội II (năm 1951) nói rõ: Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân “không phải là cách mạng dân chủ tư sản lối cũ cũng không phải là cách mạng xã hội chủ nghĩa mà là một thứ cách mạng dân chủ tư sản lối mới tiến triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa, không phải trải qua một cuộc nội chiến cách mạng”. Sự khác biệt giữa chế độ dân chủ nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, cũng như quá trình tiến triển từ chế độ dân chủ nhân dân lên chế độ xã hội chủ nghĩa còn được luận chứng rõ hơn trong Luận cương cách mạng Việt Nam do đồng chí Trường Chinh trình bày tại Đại hội II của Đảng.
Thứ hai, chế độ dân chủ nhân dân không phải là chế độ xã hội chủ nghĩa, nhưng chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam lại ra đời từ trong chế độ dân chủ nhân dân. Đây là quan điểm rất cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng ta đều biết rõ, quan điểm chính thức của Đảng ta là từ năm 1954, miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh cũng nhất trí với quan điểm như vậy. Bước vào thời kỳ quá độ, tức là bắt tay “xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội”. Tuy nhiên, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đây là quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ trong chế độ dân chủ nhân dân. Từ năm 1945 cho đến lúc Hồ Chí Minh qua đời, Người luôn khẳng định chế độ ta là chế độ dân chủ nhân dân, đặc biệt là về phương diện chính trị. Trong những năm 1954 – 1955, Hồ Chí Minh nhiều lần nói rõ: “chế độ ta là chế độ dân chủ”, hay “nước ta là nước dân chủ”. Đến những năm 1964 – 1965, Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục khẳng định “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là nhân dân làm chủ. Rõ ràng là, chế độ xã hội chủ nghĩa là giai đoạn phát triển cao hơn chỉ có thể ra đời từ cái khác nó – từ chế độ dân chủ nhân dân. Hay nói cách khác, chế độ dân chủ nhân dân là giai đoạn phát triển thấp hơn nhất định sẽ chuyển hóa thành cái khác nó – chế độ xã hội chủ nghĩa trong quá trình vận động khách quan của mình. Đây là một quan hệ biện chứng và quan hệ này thể hiện “lôgic đặc thù” trong sự vận động, phát triển của xã hội Việt Nam. Sự ra đời của chế độ xã hội chủ nghĩa từ cái khác của nó chính là một bước chuyển về chất trong quá trình vận động và phát triển của xã hội Việt Nam. Chúng ta thấy rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh đã phản ánh xã hội Việt Nam hiện đại trong trạng thái vận động qua hai bước chuyển. Bước chuyên thứ nhất gắn liền với sự thành công của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của chế độ dân chủ nhân dân. Bước chuyển thứ hai chính là sự chuyển hóa từ chế độ dân chủ nhân dân sang chế độ xã hội chủ nghĩa. Toàn bộ quá trình vận động của xã hội trải qua những bước chuyển về chất như thế nhằm hướng tới một trình độ phát triển cao hơn – chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Đi sâu hơn nữa vào tư tưởng Hồ Chí Minh về quá trình chuyển hóa từ chế độ dân chủ nhân dân sang chế độ xã hội chủ nghĩa, ta thấy nổi lên mấy quan điểm sau:
Một là, Việt Nam tiến dần lên chủ nghĩa xã hội từ trong chế độ dân chủ nhân dân – chế độ dân chủ nhân dân ở trình độ phát triển cao. Trình độ phát triển cao của chế độ dân chủ nhân dân thể hiện trước hết ở sự tiến bộ trong năng lực làm chủ của người dân, ở việc hoàn thiện bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật với tư cách là
những công cụ quyền lực của nhân dân và cùng với những bước phát triển về phương diện chính trị, sự phát triển của chế độ dân chủ nhân dân còn thể hiện trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội… Và đặc biệt là sự phát triển trong lĩnh vực kinh tế.
Hai là, bước chuyển từ chế độ dân chủ nhân dân lên chế độ xã hội chủ nghĩa là bước chuyển về chất, vì thế không thể làm mau, không thể một sớm một chiều, mà là cả một quá trình với nhiều bước đi. Quá trình đó dài hay ngắn, điều đó tùy thuộc vào sự nỗ lực của toàn thể nhân dân. Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định quan điểm này, chẳng hạn: “Chủ nghĩa xã hội không thể làm mau được mà phải làm dân dần”; “Nói tóm lại, tiến lên chủ nghĩa xã hội, không thể một sớm một chiều”…
Ba là, tiến lên chủ nghĩa xã hội từ chế độ dân chủ nhân dân là một công trình cải tạo và xây dựng khổng lồ, diễn ra trên tất cả các lĩnh vực, các quan hệ của đời sống xã hội. Khi nhấn mạnh một đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa là “mọi tư liệu sản xuất là của chung”, thì sự cải tạo đầu tiên chính là nhằm vào quan hệ sản xuất. Việc Hồ Chí Minh đặt vấn đề cải tạo quan hệ sản xuất theo hướng xóa bỏ các hình thức tư hữu, làm cho hình thức công hữu chiếm địa vị độc tôn trong quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất khi bắt tay xây dựng chủ nghĩa xã hội là một sự thật. Tuy nhiên, cần lưu ý là, đồng thời với quan điểm trên, Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh, thậm chí nhấn mạnh nhiều hơn, đến một vấn đề kinh tế có liên quan, đó là vấn đề mục đích của cải tạo quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất vấn đề tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm, hay nói cách khác là vấn đề phát triển sản xuất.
Cải tạo quan hệ sản xuất không phải là mục tiêu, mà chỉ là phương thức để phát triển sản xuất, qua đó thực hiện mục tiêu “không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần” cho nhân dân. Thực vậy, trong toàn bộ quá trình tư duy về chế độ dân chủ nhân dân, Hồ Chí Minh đã luôn coi phát triển sản xuất là động lực trong phát triển xã
hội. Hồ Chí Minh viết: “Tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là hai việc then chốt để khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa, để cải thiện dần đời sống của nhân dân, để củng cố miền Bắc, tranh thủ miền Nam, để tăng cường lực lượng đấu tranh thống nhất nước nhà. Tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là hai việc cần thiết nhất để phát triển chế độ dân chủ nhân dân tiến dần lên chủ nghĩa xã hội”. Lôgic của tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện ở đây rất rõ ràng. Mục tiêu là cái quyết định, còn phương thức là cái bị quyết định. Phương thức nào phù hợp, giúp đạt được mục tiêu thì lựa chọn, còn phương thức nào không phù hợp, cản trở quá trình đến mục tiêu thì ta không lựa chọn hoặc từ bỏ. Chính quan điểm về mối quan hệ giữa đặc trưng mục tiêu và đặc trưng phương thức của Hồ Chí Minh đã cung cấp cơ sở phương pháp luận quan trọng để Đảng ta có những điều chỉnh kịp thời về phương thức thực hiện mục tiêu, mở ra thời kỳ đổi mới.
Bốn là, để bảo đảm cho sản xuất phát triển và quá trình chuyển biến từ chế độ dân chủ nhân dân lên chế độ xã hội chủ nghĩa được diễn ra ổn định, vấn đề củng cố chính quyền là rất quan trọng. Hồ Chí Minh viết: “nhiệm vụ chúng ta phải ra sức củng cố chính quyền nhân dân và củng cố những tổ chức của nhân dân ở các địa phương. Bởi vì nếu chính quyền nhân dân và tổ chức nhân dân ở các địa phương lỏng lẻo thì những chính sách của Đảng và của Chính phủ đưa ra thi hành không đến nơi đến chốn. Cho nên phải củng cố chính quyền nhân dân, củng cố các tổ chức của nhân dân, trong đó phải đặc biệt chú ý tổ chức công an và dân quân du kích, vì công an, dân quân du kích có nhiệm vụ giữ gìn trật tự an ninh ở địa phương. Có giữ gìn trật tự trị an, nhân dân mới an cư lạc nghiệp, tăng gia sản 1 xuất”.
Củng cố chính quyền nhân dân trước hết là củng cố và tăng cường địa vị lãnh đạo của Đảng Cộng sản – “đội tiên phong của nhân dân lao động”. Củng cố chính quyền nhân dân, sử dụng chính quyền nhân dân như là công cụ quyền lực của nhân dân để bảo đảm sự ổn định cho phát triển kinh tế, xã hội là quan điểm thể hiện tính biện chứng của tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế.
Năm là, quá trình chuyển biến từ chế độ dân chủ nhân dân lên chế độ xã hội chủ nghĩa diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, những biến chuyển của các lĩnh vực khác đều phải xoay quanh kinh tế mà cụ thể là phải góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. Về văn hóa, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Văn hóa phải phục vụ sản xuất tiết kiệm, phục vụ nhân dân, phục vụ đoàn kết, phục vụ Tổ quốc. Cần xây dựng và phát triển thuần phong mỹ tục . . . Thuần phong mỹ tục là đoàn kết thương yêu giúp đỡ nhau sản xuất, tiết kiệm, vì vậy nên cần phát triển thuần phong mỹ tục”. Về giáo dục: “Thanh toán nạn mù chữ là bước đầu nâng cao trình độ văn hóa. Trình độ văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”.
Trong giáo dục, cần đặc biệt chú ý đến giáo dục thế hệ trẻ. Giáo dục thế hệ trẻ chính là một phương thức xây dựng xã hội tương lai ngay từ hiện tại. Đây là quan điểm thường trực trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tất cả đều do và vì phát triển sản xuất. Quan điểm coi sản xuất là nền tảng, là động lực cho sự vận động và phát triển của xã hội của Hồ Chí Minh chính là quan điểm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Bản thân Hồ Chí Minh cũng ý thức rất rõ về điều này. Người thấy rõ sự gặp gỡ của chủ nghĩa Mác – Lê-nin với quan điểm đề cao lao động trong truyền thống Việt Nam: Bác chỉ nói một điểm rất đơn giản “có thực mới vực được đạo” đó là duy vật, đó là gốc của chủ nghĩa Mác – Lê-nin.
Muốn ăn là phải sản xuất… Đảng ta không phải là đảng làm quan mà Đảng phải lo đời sống cho nhân dân, trước mắt là sản xuất. Rõ ràng là trong hiện thực, sản xuất là nền tảng của đời sống xã hội, và khi hiện thực ấy được khái quát thành lý luận, thì nó trở thành quan điểm “gốc” của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, của tư tưởng Hồ Chí Minh. Không xuất phát từ quan điểm “gốc” này để nghiên cứu hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh thì rất dễ chệch hướng.
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chế độ dân chủ nhân dân không chỉ là bước phủ định triệt để những tàn tích của chế độ thực dân, phong kiến, mà còn là môi trường, điều kiện để chủ nghĩa xã hội có thể ra đời từ đó, trong đó.
Theo Tạp chí Cộng sản
Nguồn: hochiminhhoc.com
Vkyno (st)
Báo chí với phong trào thi đua yêu nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh
(ĐCSVN) – Hưởng ứng lời kêu gọi Thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những năm qua, báo chí cách mạng Việt Nam đã tích cực hưởng ứng, tham gia các phong trào thi đua yêu nước, góp phần quan trọng trong quá trình đổi mới, phát triển đất nước.
Ngày 27/3/1948, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị phát động phong trào thi đua ái quốc, nhằm động viên mọi lực lượng phục vụ cho công cuộc kháng chiến và kiến quốc của dân tộc ta. Tiếp đến, ngày 11/6/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi Thi đua ái quốc, mở đầu cho phong trào thi đua yêu nước trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Lời kêu gọi của Bác được đăng trên Báo Cứu quốc ngày 24/6/1948 và đã đến với mọi tầng lớp nhân dân ở khắp mọi miền của Tổ quốc, đáp ứng với sự mong đợi và được nhân dân cả nước nhiệt tình hưởng ứng sôi nổi, rộng khắp, mang lại nhiều hiệu quả to lớn, thiết thực.
Chủ tịch Hồ Chí Minh với các đại biểu dự Đại hội chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc ngày 1/5/1952
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thi đua mang tính cách mạng, tính nhân văn sâu sắc và có giá trị thực tiễn to lớn, lâu dài, bởi “mục đích của thi đua yêu nước là làm sao cho kháng chiến mau thắng lợi, kiến quốc chóng thành công”; thi đua yêu nước là “dựa vào lực lượng của dân, tinh thần của dân để gây hạnh phúc cho dân”. Bác căn dặn: Bổn phận của người Việt Nam, bất kỳ sĩ, nông, công, thương, binh, bất kỳ làm việc gì đều cần phải thi đua… Mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ già trẻ, trai gái, bất kỳ giàu nghèo, lớn nhỏ, đều cần phải trở nên một chiến sĩ đấu tranh trên mặt trận quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa.
Và Người kêu gọi: “Người người thi đua, ngành ngành thi đua, ngày ngày thi đua…”. Trong quan điểm của Người, thi đua là một cách tốt nhất, hiệu quả nhất để khơi dậy lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự lực, tự cường của đông đảo quần chúng nhân dân và khí phách, lòng tự hào dân tộc.
Báo chí là một lực lượng trong đội quân xung kích trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa của Đảng. Báo chí làm tốt nhiệm vụ là tiếng nói của Đảng, Nhà nước và là diễn đàn của nhân dân, đóng góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới, góp phần hoàn thành thắng lợi những nhiệm vụ chính trị đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước; đóng vai trò tích cực trong việc phổ biến, tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nâng cao dân trí và thoả mãn nhu cầu thông tin, hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Đồng thời, cổ vũ những điển hình tốt, tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh tư tưởng, đấu tranh lý luận, chống âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hoà bình”; đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa, giáo dục thẩm mỹ; góp phần vào việc phát hiện, bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc; sáng tạo những giá trị văn hóa mới, xây dựng con người Việt Nam hiện đại, phát triển và xã hội hóa giáo dục; góp phần tăng cường ổn định chính trị, tạo ra bầu không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội; mở rộng quan hệ hợp tác, hữu nghị với bạn bè trên thế giới. Đồng bào Việt Nam ở nước ngoài cũng như bạn bè quốc tế nắm bắt thông tin kịp thời về Việt Nam, phục vụ cho việc phát triển kinh tế – xã hội, củng cố quốc phòng – an ninh, tăng cường công tác đối ngoại. Báo chí còn là công cụ có hiệu quả của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các tệ nạn xã hội …
Báo chí còn là lực lượng góp phần tạo nên sức lan tỏa của phong trào thi đua yêu nước cả nước. Thông qua ngòi bút, ống kính của phóng viên, các phong trào thi đua yêu nước của cả nước đã phát hiện được những tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến, từ đó tuyên truyền, nhân rộng. Phong trào thi đua yêu nước của cả nước có được kết quả to lớn như thời gian qua có phần đóng góp rất quan trọng của báo giới. Thi đua giữ vững tôn chỉ mục đích trong báo giới không chỉ tác động tới riêng hệ thống báo chí mà còn thực hiện sứ mệnh cổ vũ tập thể, định hướng dư luận, tạo sự đồng thuận, khuyến khích và nâng cao hiệu quả thi đua toàn xã hội.
Chúng ta hiện có một hệ thống báo chí với đầy đủ các loại hình: Báo in, báo nói, báo hình, báo mạng điện tử với trên 17.000 hội viên người làm báo chuyên nghiệp được cấp thẻ nhà báo, hàng ngàn cán bộ, kỹ sư, nhân viên làm việc trong các cơ quan báo chí và hàng chục ngàn người khác là cộng tác viên, nhân viên, lao động tham gia các công đoạn in ấn, tiếp thị, quảng cáo, phát hành. Báo chí đã có nhiều bài viết, phóng sự cổ vũ, động viên kịp thời cho các phong trào thi đua yêu nước. Phương pháp đưa tin của đội ngũ phóng viên đã có nhiều đổi mới, cải tiến giúp phát hiện gương điển hình tiên tiến, cổ vũ phong trào thi đua yêu nước trên toàn quốc.
Trong những năm qua, nhiều cơ quan báo chí đã xây dựng và kiên trì thực hiện những quy định mang tính nguyên tắc giữ vững tôn chỉ, mục đích, bảo đảm thông tin tích cực, lành mạnh; khuyến khích việc phát hiện và cổ vũ những gương điển hình tiên tiến; phát động và tổ chức nhiều phong trào hành động cách mạng, hoạt động xã hội, nhân đạo, từ thiện có ý nghĩa, mang lại hiệu quả thiết thực. Nhiều phong trào thi đua yêu nước được tổ chức bằng hình thức đa dạng, phong phú, bám sát nhiệm vụ chính trị được giao. Trọng tâm thi đua thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội và phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”, gắn với việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Đặc biệt trong đợt I (2011 – 2013), các nhà báo trên cả nước đã hưởng ứng, tích cực tham gia Cuộc vận động sáng tác, quảng bá tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí về chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Các phong trào thi đua trong lĩnh vực báo chí đã được phát triển cả chiều rộng và chiều sâu, đổi mới cả về nội dung và hình thức. Hầu hết các tờ báo lớn đều mở chuyên mục, chuyên trang tuyên truyền về xây dựng phong trào nông thôn mới, Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và gương người tốt, việc tốt… Điển hình như: Báo Nhân dân với chuyên mục “Gương sáng, việc hay Hà Nội”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam với chuyên mục “Thi đua yêu nước”, Báo Hà nội mới với mục “Nét đẹp người Thủ đô”, “Xây dựng nông thôn mới Hà Nội”; Báo Lao động với chuyên mục “Bình dị mà cao quý”… Các cơ quan báo chí còn tích cực xây dựng, huy động, tổ chức nhiều hoạt động, sự kiện nhằm quyên góp vào các quỹ nhân đạo, từ thiện hàng trăm tỷ đồng, xây dựng gần 1.000 nhà tình nghĩa, tặng hàng nghìn suất quà và sổ tiết kiệm… cho các đối tượng chính sách trên cả nước. Các phong trào thi đua nói trên đã thấm sâu vào các cơ quan báo chí, các cấp Hội Nhà báo, đội ngũ phóng viên và hội viên, có sức lan tỏa to lớn, trở thành động lực, sức mạnh của tất cả các cơ quan báo chí Việt Nam.
Tuy nhiên, trong năm qua, công tác tuyên truyền về phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, giới thiệu và tuyên truyền các gương điển hình tiên tiến trên báo chí và các phương tiện truyền thông vẫn còn hạn chế, chưa thực sự đáp ứng theo tinh thần Chỉ thị 39 của Bộ Chính trị “về việc tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước”. Báo chí và các đài phát thanh truyền hình chưa chú trọng về thời gian, thời lượng đúng mức để tuyên truyền về công tác này…; còn thiếu những tác phẩm về phong trào thi đua, gương người tốt việc tốt. Những sáng kiến các phong trào thi đua hiện nay chưa phong phú. Các cơ quan báo chí, truyền thông cần quan tâm hơn, cân nhắc về thời lượng, thời gian, hình thức đưa tin phong phú, đa dạng trong công tác tuyên truyền về phong trào thi đua yêu nước. Một số báo xem nhẹ việc phát hiện, biểu dương nhân tố mới, điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt.
Ngoài ra, các cơ quan báo chí cần đề xuất, tham mưu cho Lãnh đạo Ðảng và Nhà nước những điểm cần đổi mới, tháo gỡ vướng mắc trong tổ chức, phát động phong trào thi đua, tạo sự đồng thuận của nhân dân trong công tác thi đua yêu nước.
Năm 2013 là năm kỷ niệm 65 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi Thi đua ái quốc (11/6/1948 – 11/6/2013), đồng thời cũng là năm Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 01 về tổ chức sự kiện lớn này. Theo đó, các phong trào thi đua yêu nước sẽ tập trung vào chủ đề “Đồng thuận cao, thi đua giỏi, về đích sớm”, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội.
Việc tuyên truyền các phong trào thi đua yêu nước, gương điển hình tiên tiến cần đẩy mạnh hơn nữa với sự tăng cường chỉ đạo, phối hợp của cơ quan liên quan: Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông, Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam… Mặt khác, tăng cường thời lượng, chuyên mục về gương người tốt, việc tốt, đặc biệt là những gương lao động trực tiếp như: Người lao công, hiệp sỹ đường phố… để cổ vũ, động viên, nhân rộng những điển hình tiên tiến, góp phần thực hiện mục tiêu đặt ra của đất nước.
Bám sát nhiệm vụ chính trị của báo chí Việt Nam, không ngừng đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước trong các cơ quan báo chí, các cấp Hội Nhà báo, gắn hoạt động thi đua của Hội Nhà báo với hoạt động thi đua của các cơ quan báo chí; lấy việc thực hiện nhiệm vụ của báo chí nói chung và của mỗi cơ quan báo chí làm mục tiêu và nội dung thi đua chính của mỗi cơ quan, tổ chức Hội; đưa phong trào thi đua của cơ quan báo chí, của Hội thật sự trở thành động lực thúc đẩy, động viên, cổ vũ các tổ chức Hội, hội viên, phóng viên phấn đấu hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ của báo chí Việt Nam trong thời gian tới.
Nội dung thi đua thực hiện nhiệm vụ công tác thi đua – khen thưởng của báo chí tập trung vào các vấn đề chính như: Đổi mới và tăng cường các giải pháp, hình thức giáo dục, bồi dưỡng nâng cao nhận thức chính trị cho cán bộ, phóng viên; không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho nhà báo, hội viên; tham gia có hiệu quả vào công tác quản lý và chỉ đạo báo chí; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phóng viên, hội viên. Đồng thời, các cơ quan báo chí, các cấp Hội Nhà báo tiếp tục triển khai sâu rộng Cuộc thi đợt II (2013 – 2015) về sáng tác, quảng bá tác phẩm văn học nghệ thuật, báo chí về chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” gắn với việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam.
Tiến hành thường xuyên, liên tục công tác thi đua – khen thưởng, gắn với các hoạt động công tác của các cơ quan báo chí, các cấp Hội Nhà báo; nâng cao chất lượng của giải Báo chí quốc gia; triển khai có hiệu quả công tác hỗ trợ tác phẩm báo chí chất lượng cao hàng năm; góp phần động viên, cổ vũ các nhà báo thi đua sáng tạo nhiều tác phẩm hay, có tác động tốt đối với xã hội.
Cách mạng nước ta bước sang thời kỳ mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Bên cạnh những thuận lợi to lớn, chúng ta cũng đang đứng trước nhiều thử thách, khó khăn, đòi hỏi phải phát huy cao độ lòng yêu nước trong mỗi con người vì mục tiêu chung là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Vì vậy, việc đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong các cơ quan báo chí cần được nhận thức đầy đủ và thực hiện một cách sâu rộng, hiệu quả.
Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh: “Tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…”. Với sự quan tâm lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo của Nhà nước và thực hiện tư tưởng của Bác về thi đua yêu nước, với ý thức thực hiện kiên quyết, đồng bộ những biện pháp đã đề ra của cơ quan báo chí và cơ quan chủ quản báo chí, nhất là việc vận dụng sáng tạo Lời kêu gọi Thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các cơ quan báo chí Việt Nam tích cực tham gia công tác thi đua; tiếp tục khẳng định là lực lượng xung kích trên mặt trận tư tưởng – văn hóa của Đảng; nhất định sẽ có bước chuyển mạnh mẽ, tích cực, vững chắc, khắc phục nhanh các yếu kém, khuyết điểm, để báo chí nước ta luôn làm tròn chức năng và sứ mệnh cao cả của mình trên mặt trận chính trị, tư tưởng, nhất là tham gia tích cực các phong trào thi đua yêu nước; đóng góp tích cực hơn nữa vào công tác thi đua của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân; đi vào các mũi nhọn của đời sống xã hội để phát hiện các nhân tố mới, điển hình tiên tiến; quyết tâm tạo ra phong trào thi đua sâu rộng trong cả nước, để lập nhiều thành tích, góp phần thúc đẩy sự nghiệp đổi mới, phát triển chung của cả nước, từng bước xây dựng đất nước ta ngày càng “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như Bác Hồ hằng mong muốn./.
Nguyễn Huy Ngọc
dangcongsan.vn
Vkyno (st)
Báo chí cách mạng Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Báo chí cách mạng Việt Nam ra đời trong hoàn cảnh đất nước bị xâm lược, rơi vào cảnh đen tối, nhân dân phải chịu bao khổ cực lầm than. Lúc bấy giờ báo chí cách mạng nước ta ra đời với mục đích làm công cụ tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin, giác ngộ những người yêu nước đấu tranh cách mạng đánh đuổi quân xâm lược, giải phóng dân tộc, giành độc lập cho đất nước. Đồng thời, phục vụ mục đích trong sáng và cao cả của Đảng, của sự nghiệp cách mạng, là công cụ để tuyên truyền khơi dậy tinh thần yêu nước của nhân dân ta, biểu dương những cái tốt, người tốt, việc tốt, ngăn chặn và đẩy lùi cái xấu, cái tiêu cực.
Bác Hồ viết báo bằng máy đánh chữ. (Ảnh tư liệu)
Nền báo chí cách mạng Việt Nam ra đời đã 88 năm (21/6/1925 – 21/6/2013), kể từ khi tờ “Báo Thanh Niên” đầu tiên ra đời cho đến nay, những thế hệ nhà báo nước ta đã có nhiều đóng góp quan trọng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước. Và không thể nào quên người đã sáng lập ra nền báo chí cách mạng Việt Nam, cũng là một nhà báo xuất sắc, người thầy vĩ đại của báo chí cách mạng nước ta, đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc và Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam, lãnh tụ vĩ đại vô vàn kính yêu của dân tộc ta. Giờ đây, đã 44 năm Bác đã đi xa (từ 1969 đến nay), song những quan điểm, tư tưởng và tấm gương đạo đức sáng ngời của Bác trên từng lĩnh vực mãi luôn in đậm trong lòng dân tộc ta. Cũng như những quan điểm, tư tưởng và lời dạy của Bác về báo chí đến nay vẫn còn nguyên giá trị từ tính chất, nội dung và những nhiệm vụ trong bất kỳ hoàn cảnh nào của mỗi giai đoạn lịch sử đất nước.
Tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Bác ngay từ những ngày đầu ra đi tìm đường cứu nước, Bác rất coi trọng báo chí đối với sự nghiệp cách mạng. Nhìn lại chặng đường hoạt động cách mạng của Bác, lúc bôn ba hải ngoại cũng như khi đặt chân về nước, Bác đã sớm thấy lợi khí cách mạng của báo chí là phương tiện, là vũ khí sắc bén, có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong sự nghiệp kháng chiến giải phóng cho dân tộc, giành độc lập cho đất nước. Bác đã để lại cho đội ngũ làm báo những bài học sâu sắc và nhớ lại ngày 21/6/1925 tại Quảng Châu (Trung Quốc), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập ra tờ “Báo Thanh niên” – cơ quan của tổ chức Thanh niên Cách mạng Việt Nam. Đây là tờ báo cách mạng Việt Nam đầu tiên do Bác Hồ sáng lập, chỉ đạo và là người biên tập chính. Thời ấy “Báo Thanh Niên” với 88 số, mở ra lớp đào tạo 300 cán bộ đều do Bác Hồ khởi thảo, chủ trì, giảng dạy là sự mở đầu một cuộc cách mạng đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thời gian đầu báo ra mỗi tuần một kỳ với trên 500 tờ, sau đó do điều kiện khó khăn, báo ra 3 tuần, thậm chí 5 tuần một kỳ. Các tổ chức cách mạng trong nước ta đã dùng tờ báo để tuyên truyền, giác ngộ và giáo dục quần chúng; làm cầu nối truyền thông điệp và truyền ánh sáng tư tưởng cách mạng của Bác về cho dân tộc, góp phần to lớn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước ta.
Bác Hồ là người đã sáng lập ra nền báo cách mạng nước nhà, Bác đặt nền móng, Bác khơi nguồn cho báo chí cách mạng nước nhà phát triển, cũng như Bác tham gia viết báo suốt cả đời làm cách mạng. Những bài báo do Bác viết thật giản dị, dễ hiểu và vô cùng sâu sắc. Bác viết nhiều thể loại: chính luận, tuyên ngôn, tin ngắn, dài, tin bình, trào phúng, ký, hiệu triệu, thơ tự sự, trữ tình… và được ký bằng nhiều tên gọi, bí danh, bút danh khác nhau. Những bài báo Bác viết, được xem đó là những tác phẩm lý luận quan trọng, là cẩm nang chỉ đường cho Đảng và nhân dân ta trong các giai đoạn cách mạng. Bài báo cuối cùng Bác viết: “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Một nhà văn hóa nổi tiếng của Liên Xô đã nhận xét: “Nguyễn Ái Quốc là một nhà văn hóa lớn. Phong cách viết báo của Người thường đi thẳng vào đề, làm rõ tư tưởng trung tâm sự kiện bằng ngôn ngữ giản dị, ngắn gọn, ngôn ngữ thông tin đại chúng”.
Bác Hồ đọc báo nhân dân. (Ảnh tư liệu)
Quan tâm đặc biệt đến nền báo chí cách mạng nước nhà, tại Đại hội lần thứ II của Hội Nhà báo Việt Nam (16/4/1959), Bác đã chỉ rõ: “Báo chí ta không phải để cho một số ít người xem, mà để phục vụ nhân dân, để tuyên truyền giải thích đường lối chính sách của Đảng và Chính phủ”. Với Bác, để báo chí luôn là diễn đàn của nhân dân, phục vụ nhân dân, Bác khẳng định: “Một tờ báo không được đại đa số (dân chúng) ham muốn thì không xứng đáng là một tờ báo” và “Không riêng vì viết sách, viết báo, mà công tác gì muốn làm tốt điều phải coi trọng ý kiến nhân dân”. Bác còn nói với các nhà báo: “Nếu các bạn viết báo mà quần chúng hiểu, quần chúng ham đọc, quần chúng khen hay, thế là các bạn tiến bộ. Trái lại, là các bạn chưa thành công”. Đến Đại hội lần thứ III (8/9/1962), Bác lại nói: “Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ”. Quan điểm, tư tưởng của Bác để báo chí hoàn thành sứ mệnh là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và quần chúng; là cầu nối để cộng đồng hiểu nhau hơn, để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang đó, Bác đòi hỏi cán bộ báo chí cách mạng phải không ngừng học tập, nâng cao trình độ hiểu biết chính trị và nhận thức. Chính vì vậy, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Bác viết: “Chúng ta muốn tuyên truyền quần chúng, phải học cách nói của quần chúng mới lọt tai quần chúng”. Bác còn căn dặn: “Viết dài mà rỗng thì không tốt, viết ngắn mà rỗng cũng không hay. Chúng ta phải chống tất cả những thói rỗng tuếch”. Bác cũng từng nhắc nhở: “Phải đặt câu hỏi: Viết cho ai? Viết cho đại đa số Công – Nông – Binh. Viết để làm gì? Để giáo dục, giải thích, cổ động, phê bình. Để phục vụ quần chúng”. Từ đó, Bác dạy: “Muốn cho người xem hiểu được, nhớ được, làm được thì phải viết cho đúng trình độ của người xem, viết rõ ràng, gọn gàng, chớ dùng chữ nhiều”. Bác phê phán: “Viết ba hoa, dây cà dây muống là hình như để đếm dòng lấy tiền, có những bài nhạt nhẽo thế nào ấy” và Bác chỉ trích: “Có người muốn làm cái gì để lưu danh thiên cổ. Muốn viết bài cho oai, muốn đăng bài mình lên các báo lớn. Cái đó cũng không đúng, những khuyết điểm đó đều do chủ nghĩa cá nhân đẻ ra”. Bác nhắc nhở đội ngũ nhà báo phải cẩn thận: “Không biết rõ, hiểu rõ, chớ nói, chớ viết, chớ viết càn. Khi viết xong một bài báo, một bản báo cáo, hoặc thảo một bài diễn văn, nhất định phải đọc đi đọc lại vài lần. Mình tự phê bình bài của mình, hỏi ý kiến đồng chí khác. Những câu, những chữ thừa vô ích bỏ đi”; “Viết phải thiết thực”; “Nói có sách, mách có chứng”…
Nhớ đến công ơn, công lao trời biển của Bác, thế hệ những người làm báo nước ta đã tích cực rèn luyện, mài giũa ngòi bút, tự trau dồi và nâng cao cho mình bản lĩnh chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp, tác phong, đạo đức của người làm báo cách mạng, để xứng đáng là học trò của Bác và yêu cầu nhiệm vụ mới đang đặt ra. Nhất là trong thời đại ngày nay, thời kỳ của sự hội nhập báo chí nước ta với báo chí quốc tế là một bước ngoặt không thể quên được. Hơn bao giờ hết, đội ngũ nhà báo cả nước nói chung và Bến Tre nói riêng, cần bản lĩnh khẳng định rằng dù đổi mới, hiện đại và hội nhập, báo chí nước ta vẫn là nền báo chí cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ thiên tài kính yêu vô vàng của Việt Nam sáng lập ra và do Đảng ta lãnh đạo cho đến nay. Do đó, hiện tại và mãi mãi về sau, đội ngũ cán bộ làm báo phải luôn lấy tư tưởng, quan điểm của Bác làm kim chỉ nam cho nghề nghiệp của mình; học nhiều điều từ sự nghiệp làm báo, làm cách mạng của Bác; không ngừng trau dồi đạo đức cách mạng, học tập và làm theo tấm gương của Bác, bằng ra sức nghiên cứu đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đi sát cuộc sống nhân dân, để tuyên truyền, vận động chuyển tải thông tin có ích đến với nhân dân. Đó là cách người làm báo tu dưỡng, rèn luyện nâng cao đạo đức và chuyên môn, tinh thông nghề nghiệp, tận tụy phục vụ nhân dân, góp phần tích cực trong công cuộc đổi mới, trong đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm.
Đồng chí Nguyễn Thành Phong – Bí thư Tỉnh ủy họp mặt báo chí tỉnh nhà nhân dịp đầu xuân 2013. (Ảnh: H.C)
Theo dòng lịch sử của đất nước, báo chí cách mạng Bến Tre cũng đã sớm có mặt và liên tục hoạt động dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy từ những năm 1930 đến nay. Báo chí tỉnh ra đời nhằm phục vụ cho công tác tuyên truyền vận động cách mạng quần chúng, giáo dục đảng viên và đáp ứng yêu cầu lãnh đạo của Đảng. Tờ báo đầu tiên mang tên “Dân Cày” được xuất bản sau khi liên Tỉnh ủy Bến Tre – Mỹ Tho được thành lập vào tháng 6/1930. Khi Đảng bộ Bến Tre tách ra thành một Đảng bộ độc lập, thì tháng 5/1930 Tỉnh ủy cho ra tờ “Búa Liềm”. Đến tháng 8/1933 thì có tờ “Tranh Đấu”, tiếp theo là tờ “Cờ Chiến Đấu” ra đời phục vụ cho việc phát động phong trào Đông Dương đại hội và chỉ đạo các cuộc đấu tranh vì dân sinh, dân chủ liên tục nổ ra trong tỉnh suốt từ năm 1936-1939. Sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1940 thất bại, Đảng bộ Bến Tre bị địch đánh khốc liệt, cơ sở Đảng nhiều nơi tan rã. “Ủy ban Sáng Kiến” lúc bấy giờ (như Tỉnh ủy lâm thời) được thành lập và cho phát hành ngay tờ báo “Sự Thật” vào tháng 4/1944. Đây là tờ báo bí mật cuối cùng của Bến Tre trong thời kỳ thực dân Pháp thống trị. Báo “Sự Thật” vẫn tồn tại hoạt động đều đặn; đến năm 1945 bước sang giai đoạn kháng chiến chống Pháp thì được thay tên mới là báo “Hy Sinh”. Ngay từ khi ra đời tờ báo “Hy Sinh” đã có những đóng góp hiệu quả trong việc tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia “Tuần lễ vàng”, vận động bầu cử Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, cùng các phong trào toàn dân sẵn sàng chiến đấu, thanh niên tòng quân, thành lập các đội cảm tử quân…. Sau này, tờ báo “Hy Sinh” được đổi tên mới là “Đoàn Kết” và tồn tại đến cuối năm 1950 thì nhường chỗ cho tờ “Thông tin Bến Tre” ra đời, được in chì, phát hành đều đặn mỗi tuần 01 kỳ. Sau Hiệp định Genève năm 1954, để hướng dẫn và chỉ đạo cuộc đấu tranh chính trị trong hoàn cảnh mới, Tỉnh ủy cho ra đời tờ “Hòa bình thống nhất” phát hành rộng rãi trong nhân dân và duy trì hoạt động cho đến ngày nổ ra cuộc Đồng Khởi long trời lở đất vào ngày 17/1/1960. Đến tháng 3/1960, tờ “Hòa bình thống nhất” được đổi thành báo “Chiến Thắng”, được in sáp, phát hành từ 700 – 1.000 bản/kỳ. Đến ngày 25/12/1960 nhân dịp chào mừng Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh Bến Tre ra đời, báo “Chiến Thắng” bắt đầu in chữ chì và giữ vững suốt đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Đặc biệt, cùng tồn tại hoạt động với báo “Chiến Thắng” suốt thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, còn có tờ báo “Văn nghệ Bến Tre” và tờ báo “Cứu nước cứu đạo”. Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, ngày 11/11/1976, nhân ngày khai mạc Đại hội Đảng bộ, Tỉnh ủy Bến Tre quyết định đổi tên báo “Chiến Thắng” thành báo “Đồng Khởi” cho đến ngày nay. Và sau đó đến ngày 20/12/1976 Tỉnh ủy đã quyết định thành lập Đài Phát thanh Bến Tre, đến ngày 07/3/1995 thành lập Đài Truyền hình Bến Tre; ngày 23/11/1978 Chi hội Nhà báo tỉnh Bến Tre cũng chính thức được thành lập và đến ngày 16/12/2004 là Hội Nhà báo Bến Tre; báo Điện tử của báo Đồng Khởi tiếp tục được ra đời vào ngày 23/10/2007… và còn nhiều chuyên san, tạp chí, thông tin nội bộ, bản tin, báo điện tử… của các sở, ngành, đoàn thể tiếp nối ra đời và có mặt hàng tháng, quý… trên địa bàn tỉnh nhà. Có thể nói, báo viết, báo nói, báo hình, báo điện tử ra đời ở tỉnh ta đang trở thành kênh thông tin thống nhất, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu sinh hoạt thông tin, đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân và ngày càng phát huy hiệu quả tiếng nói của Đảng bộ, của hệ thống chính trị và diễn đàn làm chủ của nhân dân Bến Tre. Điều đó, đã minh chứng nhiều năm qua lãnh đạo tỉnh đã quan tâm đặc biệt đến công tác báo chí, tạo điều kiện thuận lợi để đội ngũ nhà báo trong tỉnh không ngừng phát triển, ngày càng lớn mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả của các hoạt động báo chí. Thấm nhuần quan điểm, tư tưởng của Bác, đội ngũ nhà báo của tỉnh cũng đã tích cực nâng cao tinh thần trách nhiệm, tạo ra những ấn phẩm báo chí đáp ứng tốt nhu cầu thông tin, định hướng dư luận, động viên khích lệ các tầng lớp nhân dân hăng hái thi đua sản xuất, kinh doanh; phát triển kinh tế – xã hội; xây dựng đời sống văn hóa; xây dựng nông thôn mới; phát huy tuyên truyền người tốt việc tốt, cổ vũ động viên những con người mới, những nhân tố mới, những tấm gương tiêu biểu trong sự nghiệp đổi mới quê hương; tuyên truyền chủ quyền biển đảo và bảo vệ toàn vẹn chủ quyền Tổ quốc Việt Nam…. Và thực tế báo chí của tỉnh nhà nhiều năm qua đã làm tốt vai trò cầu nối giữa Đảng với nhân dân, chính quyền với nhân dân; là diễn đàn của nhân dân; tiếp thu sự phê bình của nhân dân; góp phần giáo dục toàn dân; đi đầu trong việc định hướng tư tưởng, góp phần giữ vững ổn định chính trị – xã hội; tích cực đấu tranh chống tham nhũng và các hiện tượng tiêu cực trong xã hội, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.
Họp mặt báo chí tỉnh Bến Tre tại huyện Giồng Trôm nhân kỷ niệm 88 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam. (Ảnh tư liệu)
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là những quan điểm, tư tưởng của Bác đã trường tồn gắn liền với nền báo chí cách mạng Việt Nam suốt 88 năm qua, đã góp phần cho đội ngũ báo chí cách mạng Việt Nam trưởng thành vượt bậc cả về số lượng và chất lượng, nội dung và hình thức. Những quan điểm, tư tưởng của Bác để lại cho nền báo chí cách mạng nước nhà là một kho tàng quý báu, đội ngũ nhà báo hôm nay và mai sau của nước ta nói chung, Bến Tre nói riêng cần phải luôn phấn đấu kế thừa và phát triển sự nghiệp báo chí của Bác trong giai đoạn cách mạng hiện nay, cùng với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ, lĩnh vực báo chí ngày một đổi mới, hiện đại và chiếm vị trí quan trọng trong đời sống xã hội. Vì vậy, đòi hỏi người làm báo tiếp tục học tư duy, học phong cách và đạo đức làm báo của Bác, để góp phần phát huy tính chiến đấu của báo chí cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hội nhập, trước hết đội ngũ nhà báo cần thể hiện trong việc làm sáng tỏ đường lối, chủ trương và các chính sách của Đảng và Nhà nước ta; động viên và cổ vũ lòng hăng hái, tinh thần phấn đấu của nhân dân vì sự nghiệp đổi mới đất nước… Và phát huy tính chiến đấu của báo chí cách mạng Việt Nam còn được thể hiện trong việc đấu tranh bác bỏ các quan điểm sai trái, phê phán các luận điệu xuyên tạc và các hành vi chống phá của các thế lực thù địch đối với Việt Nam ta.
Nhân kỷ niệm 88 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21/6/1925 – 21/6/2013), những người làm báo hôm nay thật vinh dự, tự hào vì có Bác, nhà báo cách mạng vĩ đại, người thầy lỗi lạc của báo chí cách mạng Việt Nam. Mỗi nhà báo, để trở thành nhà báo cách mạng thật sự chân chính, hãy tiếp tục học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác; nâng cao trách nhiệm của người làm báo, phải có đạo đức cách mạng, nhất là chí công vô tư, cái tâm trong sáng, có hiểu biết rộng; không ngại khó khăn, hy sinh, vì nhân dân phục vụ; trau dồi tư tưởng, nghiệp vụ và văn hóa; chú trọng học tập chính trị, để nắm vững chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nâng trình độ về mọi mặt, hiểu biết ngoại ngữ, lăn lộn thực tiễn và gắn bó mật thiết với nhân dân. Đặc biệt, kiên định lập trường tư tưởng, giữ vững quan điểm báo chí cách mạng do Bác sáng lập ra và do Đảng ta lãnh đạo suốt 88 năm qua. Có như thế, đội ngũ nhà báo mới thật sự xứng đáng góp phần nâng cao tính chiến đấu của báo chí cách mạng Việt Nam trong việc tuyên truyền, động viên, cỗ vũ toàn Đảng, toàn quân, toàn dân phấn đấu đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; xây dựng đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và theo mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
(Tham khảo tư liệu HCM toàn tập và Thông tin nội bộ BTG TU Bến Tre)
Theo bentre.gov.vn
Vkyno (st)
Tư tưởng Hồ Chí Minh về lối sống và môi trường văn hóa
Lối sống văn hóa như Bác nói là được thể hiện trong lao động sản xuất, trong sinh hoạt hàng ngày.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, trong Diễn văn khai mạc Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất, tổ chức tại Hà Nội ngày 21/11/1946, Bác Hồ đã nêu rõ: “Nền văn hóa mới của Việt Nam phải lấy hạnh phúc của nhân dân, của dân tộc làm cơ sở; phải học lấy những điều tốt đẹp của văn hóa nước ngoài tạo ra nền văn hóa Việt Nam, sao cho văn hóa mới phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, phải làm cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập”(1).
Muốn làm được điều đó, nhiệm vụ đầu tiên và rất quan trọng là phải thường xuyên quan tâm xây dựng lối sống văn hóa và môi trường văn hóa.
Lối sống văn hóa như Bác nói là được thể hiện trong lao động sản xuất, trong sinh hoạt hàng ngày như cách ăn mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm việc… Cốt lõi của lối sống văn hóa là nhân sinh quan, thế giới quan cách mạng, tiến bộ. Lối sống văn hóa mà Đảng ta, nhân dân ta xây dựng biểu hiện tập trung các giá trị của nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đó là lối sống nhằm phát huy cao độ những giá trị tốt đẹp, bền vững của ông cha ta để lại như lòng yêu nước, ý chí tự lực tự cường, lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết cộng đồng, đức tính cần cù, giản dị, coi trọng đạo lý, nghĩa tình… Đó là lối sống lấy độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nội dung, mục tiêu hoạt động của cộng đồng và mỗi cá nhân.
Còn môi trường văn hóa là điều kiện để hình thành nhân cách con người văn hóa và lối sống văn hóa. Trong môi trường văn hóa có môi trường văn hóa xã hội, môi trường văn hóa cộng đồng, môi trường văn hóa gia đình… Môi trường văn hóa của nước ta xây dựng hiện nay bảo đảm cho con người được giao tiếp với thiên nhiên, sống trong một môi trường trong lành, hài hòa, bền vững. Đồng thời, ở đó con người với con người được sống bình đẳng, tự do, hạnh phúc, được phát huy mọi năng lực, sở trường, được thụ hưởng những giá trị chân – thiện – mỹ. Ở đó, cái đúng, cái tốt, cái đẹp, cái tiến bộ được tôn trọng và bảo vệ. Cái xấu, cái ác, cái phản văn hóa phải bị phê phán, loại trừ.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, những nội dung và các giải pháp về xây dựng lối sống văn hóa, môi trường văn hóa đã được Bác nêu một cách đầy đủ, cụ thể, giản dị mà sâu sắc. Người nói: “Đời sống mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ. Thí dụ ta phải bỏ hết tính lười biếng, tham lam. Cái gì cũ mà không xấu nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý. Thí dụ đơm cúng, cưới hỏi quá xa xỉ, ta phải giảm bớt đi.
Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm. Thí dụ: Ta phải tương thân tương ái, tận trung với nước, tận hiếu với dân hơn khi trước.
Cái mới mà hay thì ta phải làm. Thí dụ: Ăn ở cho hợp vệ sinh, làm việc cho nó ngăn nắp(2).
Tư tưởng Hồ Chí Minh về lối sống văn hóa còn có cả xây dựng lối sống văn minh, phù hợp với yêu cầu của thời đại. Muốn thực hiện điều này, theo Bác là phải thường xuyên quan tâm nâng cao dân trí, nhận thức đầy đủ vai trò của văn hóa, giáo dục con người “biết ham đọc”, bởi có học mới tiến bộ. Đồng thời, xây dựng lối sống văn hóa phải được nhận thức và thể hiện từ mỗi con người, trong từng gia đình, từng làng xóm, phố phường ra toàn dân mới có hiệu quả bền vững và phát huy tác dụng tích cực, rộng lớn, lâu dài.
Xây dựng môi trường văn hóa trong tư tưởng Hồ Chí Minh là luôn coi trọng và đề cao mối quan hệ hài hòa, sự kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng môi trường xã hội và môi trường tự nhiên. Trong môi trường xã hội phải coi trọng và luôn chăm lo giáo dục bồi dưỡng nhân cách phẩm chất con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Bác Hồ nói: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần phải có những con người xã hội chủ nghĩa”(3).
Trong môi trường xã hội đó con người phải được tự do, bình đẳng, được sống ấm no, hạnh phúc, nhân phẩm, quyền lợi chính đáng được bảo vệ, chủ nghĩa cá nhân phải bị phê phán, loại bỏ, tham ô, tham nhũng, lãng phí phải được ngăn chặn, con người luôn coi trọng giá trị đạo đức và biết tôn trọng pháp luật…
Cùng với việc quan tâm xây dựng môi trường xã hội, Bác Hồ sớm nhận thức và luôn coi trọng, chú ý tới bảo vệ môi trường tự nhiên.
Cách đây hơn nửa thế kỷ, Bác Hồ đã phát động “Tết trồng cây” và kêu gọi: “Vì lợi ích mười năm trồng cây. Vì lợi ích trăm năm trồng người”. Điều này cho thấy, Người đặt lợi ích của “trồng cây” và “trồng người” quan trọng như nhau và trong mối quan hệ gắn bó không thể tách rời của đời sống con người, của dân tộc. Người khẳng định: “Do Tết trồng cây mà nước ta ngày càng xanh tươi, nhân dân ta càng thêm giàu có”.
Ngày nay, môi trường sống đã trở thành vấn đề toàn cầu. Thế giới lấy ngày 5/6 hàng năm làm Ngày Môi trường thế giới, khuyến cáo mọi người, mỗi quốc gia hãy quan tâm và có trách nhiệm, hành động thiết thực nhằm bảo vệ môi trướng sống trên khắp hành tinh. Có thể nói, thông qua “Tết trồng cây” do Bác Hồ phát động đã cho thấy, Người chính là nguyên thủ quốc gia đầu tiên dự báo và đưa ra chiến lược bảo vệ môi trường.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của nhiệm vụ xây dựng lối sống văn hóa và môi trường văn hóa, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, đường lối đúng đắn, phù hợp về phát triển văn hóa qua các thời kỳ, từ đó làm cho lối sống văn hóa, môi trường văn hóa nước nhà đã phát huy được những giá trị tốt đẹp của con người Việt Nam, tính ưu việt của văn hóa xã hội chủ nghĩa được thể hiện, trở thành “cái nôi” nuôi dưỡng những phẩm chất và nhân tố tích cực trong cộng đồng xã hội, góp phần vào những thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ Quốc và hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, cũng phải thẳng thắn chỉ ra rằng, hiện nay lối sống văn hóa và môi trường văn hóa nước ta còn nhiều vấn đề đáng quan tâm, lo ngại, tồn tại ở nhiều nơi, cả ở nông thôn và thành thị. Chẳng hạn như hiện tượng tàn phá thiên nhiên, ô nhiễm môi trường, hủy hoại môi sinh một cách nghiêm trọng diễn ra khá phổ biến, kéo dài không được ngăn chặn. Sự lãng quên vô thức của con người làm cho các di sản văn hóa nhiều nơi bị biến dạng, xuống cấp nghiêm trọng… Một số người, ở nhiều nơi kể cả trong trí thức, văn nghệ sĩ, thanh thiếu niên sống thiếu văn hóa, ăn mặc lố lăng, đầu tóc nhuộm vàng nhuộm đỏ, nói năng văng tục, đua đòi lãng phí, vứt rác bừa bãi, vi phạm pháp luật, thiếu tôn trọng kỷ cương, không tự giác chấp hành luật lệ giao thông… Môi trường gia đình, xã hội bị xuống cấp, có nơi, có lĩnh vực đáng lo ngại. Điều đó đang đặt ra cho chúng ta từ các tổ chức Đảng, đến cả hệ thống chính trị ở trung ương đến các cơ sở phải nhận thức đầy đủ tầm quan trọng, tính cấp bách của nhiệm vụ xây dựng lối sống văn hóa, môi trường văn hóa ở nước ta hiện nay.
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng vừa qua đã giành mục VI nói về “Chăm lo phát triển văn hóa”, trong đó nhiệm vụ “củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú, đa dạng” được đưa lên đầu tiên với những nội dung cơ bản, cụ thể:
Một là: Đưa phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng văn hóa đi vào chiều sâu, thiết thực và hiệu quả. Nâng cao chất lượng phong trào xây dựng xã, phường, khu phố, thôn bản đoàn kết, dân chủ, văn minh, lành mạnh.
Hai là: Xây dựng nếp sống văn hóa trong các gia đình, khu dân cư, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, làm cho các giá trị văn hóa thấm sâu vào mọi mặt đời sống, tạo sức đề kháng đối với các sản phẩm độc hại. Đấu tranh chống các biểu hiện phi văn hóa, suy thoái đạo đức, lối sống.
Ba là: Tiếp tục đẩy mạnh việc giáo dục, bồi dưỡng đạo đức, lối sống văn hóa, xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội; ngăn chặn và đẩy lùi các hủ tục, bạo lực, gây rối trật tự công cộng, mại dâm, ma túy, cờ bạc…
Bốn là: Sớm có chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam, góp phần gìn giữ và phát triển những giá trị truyền thống của văn hóa, con người Việt Nam, quan tâm bồi dưỡng, giáo dục đạo đức, nhân cách, lối sống, nếp sống mới đối với thế hệ trẻ.
Năm là: Đúc kết và xây dựng hệ thống giá trị chung của con người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân.
Sáu là: Tiếp tục phát triển nền văn hóa, nghệ thuật nước nhà tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, giàu chất nhân văn, dân chủ, khẳng định cái đúng, cái đẹp, đồng thời lên án cái xấu, cái ác, bồi dưỡng lý tưởng, thị hiếu thẩm mỹ cho công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ… Đồng thời tập trung xây dựng môi trường, lối sống và đời sống văn hóa của mọi người dân, phát huy năng lực làm chủ của nhân dân…
Bước sang năm 2013, với quyết tâm và khí thế mới, chúng ta tin tưởng đất nước ta sẽ đạt được những thành tựu mới về các mặt, trong đó có thành tựu “củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú, đa dạng” theo tư tưởng Hồ Chí Minh mà Nghị quyết Đại hội XI đã chỉ ra, góp phần làm cho văn hóa nước nhà xứng đáng với vai trò “soi đường cho quốc dân đi” như lời Bác căn dặn, trong thời kỳ đất nước đổi mới và hội nhập./.
(1): Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử. NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 1993, tập 3, tr. 342
(2): Hồ Chí Minh: Toàn tập. NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2000, tập 5, tr. 94
(3): Hồ Chí Minh: Về đạo đức cách mạng. NXB Sự thật Hà Nội, 1976, tr. 97
TS. Nguyễn Xuân Thông
Nguyên Vụ trưởng Vụ Thư ký Tạp chí Cộng sản
Theo vov.vn
Huyền Trang (st)
bqllang.gov.vn
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ cơ sở
Nhận thức rõ bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa, ngay từ những ngày đầu chính quyền nhân dân mới được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Quyền lực của Nhà nước là của nhân dân, Nhà nước là của dân, do dân, vì dân. Trong tổ chức bộ máy Nhà nước có thang, bậc, quyền hạn khác nhau nhưng đều là một công cụ thể hiện quyền lực nhân dân. Cán bộ từ trên xuống dưới làm đầy tớ cho nhân dân, phải xứng đáng là người công bộc trung thành của nhân dân. Người đặc biệt chú ý tới việc thực hiện quyền lực của nhân dân ở cơ sở.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tát nước chống hạn với bà con nông dân ở cánh đồng Quai Chảo,xã Đại Thanh, huyện Thường Tín, Hà Đông (12-1-1958)
Từ quan niệm “mọi lực lượng đều ở nơi dân”, nhìn thấy và tin tưởng ở sức mạnh của nhân dân, nên Người yêu cầu phải “vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho”. Để nhân dân có điều kiện tham gia trực tiếp vào việc thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước với tư cách là người chủ thực sự, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu cán bộ, đảng viên phải luôn luôn: Vì nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Người luôn ý thức rằng: Dân là quý nhất, là quan trọng hơn hết. Dân là gốc của nước. Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân. Trong cuốn Đường Kách mệnh (1927), Người đã khẳng định: Kách mệnh là việc chung của dân chúng chứ không phải việc một hai người. Đó là tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất phát từ cơ sở nhận thức khoa học: Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân. Vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề đoàn kết tập hợp được đông đảo nhân dân. Đảng dù vĩ đại đến mấy cũng chỉ là một bộ phận của nhân dân, một bộ phận tiên phong, tiên tiến nhất.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ rằng: Dân chủ là vì dân, tất cả vì lợi ích của nhân dân. Người nói: “Ngoài lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, Đảng ta không có lợi ích nào khác. Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân ta hết sức tránh”. Đó cũng chính là mục đích của Người: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc, và hạnh phúc của nhân dân”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Dân chủ là tư tưởng cơ bản xuyên suốt quá trình cách mạng. Cái cốt lõi trong tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh là lấy dân làm gốc. Bản chất dân chủ là quyền làm người. Người nói: “Lãnh đạo một nước mà để cho nước mình lạc hậu, bị thiệt thòi trong hưởng hạnh phúc con người cũng là mất dân chủ. Nhân dân có quyền lợi làm chủ thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân. Người đánh giá rất cao về dân chủ: Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân. Thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc chúng ta: Nước lấy dân làm gốc, dân lấy cuộc sống làm đầu, chế độ ta là chế độ của dân, do dân. Dân theo Đảng đứng lên đánh đuổi kẻ thù giành lấy chính quyền mà có được. Các cấp chính quyền và đoàn thể từ trung ương đến địa phương, cơ sở là do nhân dân bầu cử ra. Do vậy, mỗi cán bộ phải vì dân, hết lòng phục vụ mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Theo Người, phương thức cơ bản của dân chủ cơ sở là “dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra”.
Trên cơ sở nhận thức sâu sắc dân là chủ và phương pháp làm việc là phương pháp dân chủ chứ không phải là những thủ thuật chính trị, Người đã đưa ra một quy định làm việc khoa học như sau: Trước hết phải làm cho dân biết, phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi người dân hiểu rõ rằng: việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được. Hiểu rõ tâm tư nguyện vọng của quần chúng nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm khơi dậy sức mạnh của nhân dân bằng cách giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích và trách nhiệm, quyền hạn và bổn phận. Lợi ích của mỗi người dân được bảo đảm ngày càng đầy đủ hơn và nhờ vào vị thế của họ đã giành được trong quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ, hy sinh, mất mát để giành lấy độc lập, tự do, để trở thành người chủ và làm chủ xã hội. Thấy rõ được vai trò, vị trí của nông dân, nông nghiệp, nông thôn đối với sự phát triển của nền dân chủ trong một nước nông nghiệp lạc hậu như ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Bao giờ nông thôn, nông dân thực sự nắm chính quyền, nông dân được giải phóng thì mới dân chủ thực sự”. Sau những diễn biến phức tạp của xã hội nông thôn Việt Nam xuất hiện những điểm nóng ở nông thôn như năm 1998, 1999, 2011, 2012, chúng ta càng thấy ý nghĩa lớn lao trong chỉ dẫn đó của Người.
Theo Người, khi dân đã được biết, được hiểu thì phải tạo điều kiện cho dân được bàn bạc thực sự, bàn tất cả mọi vấn đề và mọi người đều được tham gia bàn bạc. Cần hiểu rõ nguyện vọng của dân. Họ muốn được tôn trọng, được bày tỏ ý kiến. Sau khi dân được biết, được hiểu, được bàn bạc và được xây dựng kế hoạch của địa phương mình, cơ sở mình, họ sẽ dùng chính sức lao động của họ vào những việc làm, hành vi, nhiệm vụ cụ thể một cách tự giác… Lúc này nhiệm vụ của lãnh đạo là “động viên và tổ chức cho toàn dân ta thi hành, phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân”, phải biết “đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân” có như vậy mới động viên được đông đảo nhân dân tích cực tham gia và thực hiện mọi kế hoạch của địa phương cơ sở.
“Khi thi hành xong phải cùng với nhân dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng”. Đây là công đoạn cuối cùng của quy trình tiến hành thực hiện dân chủ của mỗi tổ chức, đơn vị, địa phương, cơ sở. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng việc kiểm tra, rút kinh nghiệm là vô cùng quan trọng và cần thiết giúp chúng ta thực hiện tốt những nhiệm vụ khác. Dân kiểm tra cán bộ, cán bộ kiểm tra dân, dân và cán bộ cùng kiểm tra mọi hoạt động và lề lối làm việc sao cho dân chủ , cấp trên phải thường xuyên kiểm tra cấp dưới, cấp dưới phải phê bình cấp trên, nhất là phê bình từ dưới lên. Kiểm tra chỉ có hiệu lực nếu được thực hiện một cách nghiêm túc, được đánh giá một cách khách quan, được tiến hành bằng những giải pháp khéo léo, tinh tế mà Người gọi là “phải kín đáo”. Thanh tra chỉ có hiệu lực nếu được tiến hành một cách đột xuất và bất ngờ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm kiểu mẫu cho phương pháp kiểm tra, thanh tra khoa học và có hiệu quả ấy. Đồng thời Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng thường xuyên kêu gọi nhân dân giám sát công việc của Chính phủ từ Trung ương.
Dân chủ cơ sở cũng là một trong những tư tưởng cơ bản xuyên suốt trong tư tưởng dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng dân chủ của Người luôn xoay quanh cái cốt lõi: Dân là gốc. Dân là gốc thì dân phải là chủ và dân phải làm chủ. Nhân dân có quyền lợi làm chủ thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân. Người đánh giá rất cao về dân chủ: Dân chủ là thứ quý báu nhất của nhân dân. Thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn. Điều đáng mừng là, hiện nay, chúng ta đang thực hiện dân chủ ở cơ sở, thông qua việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đã và đang thực hiện tốt hơn chức năng và nhiệm vụ của mình theo đúng đường lối của Đảng và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh với nhiều nội dung và hình thức phong phú, đạt được những kết quả tốt./.
Theo Báo Hải Dương online
Huyền Trang (st)
bqllang.gov.vn
Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngăn ngừa, khắc phục những thói hư tật xấu của cán bộ, đảng viên
Sau đợt tập trung tiến hành tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, toàn Đảng và từng cán bộ, đảng viên đang từng bước tự khắc phục những bất cập, yếu kém, thói hư tật xấu để xứng đáng là người chiến sĩ tiên phong trong công cuộc đổi mới đất nước. Để tạo thêm niềm tin, vững tâm tiến lên “chiến thắng mọi tính xấu trong mình ta” (1) theo lời kêu gọi của Bác Hồ, chúng ta hãy cùng nhau ôn lại những lời dạy chí tình, sâu sắc của Người đối với cán bộ, đảng viên trong các giai đoạn phát triển của cách mạng.
Bác Hồ kính yêu là lãnh tụ lỗi lạc của toàn dân tộc, là người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng, nhà nước ta, lãnh đạo công cuộc giữ nước và dựng nước. Người đặc biệt quan tâm vấn đề xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, những người đem đường lối của Đảng đến quần chúng và tập hợp, tổ chức quần chúng tiến hành cách mạng. Theo Người, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc” (2) “công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém. Vì vậy Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta” (3).
Suốt cuộc đời Người, mặc dù phải quán xuyến trăm công ngàn việc cách mạng, Bác vẫn luôn là “người làm vườn” cần mẫn, ra sức chăm chút “vun trồng những cây cối quý báu” của Đảng, Nhà nước và của nhân dân ta. Một trong những bài giảng quan trọng của Người truyền đạt lớp cán bộ đầu tiên năm 1927 tại hải ngoại là phải thường xuyên trau dồi “tư cách một người cách mệnh” (4). Bản thân từng người phải rèn luyện ra sao; đối với đồng nghiệp, đồng chí, đối với nhà nhân dân, đối với công việc phải như thế nào?…
Ngay sau khi đọc “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được nửa tháng, ngày 17-9-1945, trong Thư gửi các đồng chí tỉnh nhà (Nghệ An), Bác căn dặn: “Cán bộ ta nhiều người cúc cung tận tụy, hết lòng trung thành với nhiệm vụ, với chính phủ, với quốc dân. Nhưng cũng có nhiều người hủ hóa, lên mặt làm quan cách mạng, hoặc là độc hành, độc đoán, hoặc là vì công vinh tư. Thậm chí dùng phép công để báo thù tư, làm cho dân oán đến Chính phủ và đoàn thể. Những khuyết điểm trên, nhỏ thì làm cho dân chúng hoang mang, lớn thì làm cho nền đoàn kết lay động. Chúng ta phải lập tức sửa đổi ngay…” (5). Giáo dục cách làm người, làm cán bộ và phê bình, phê phán những thói hư tật xấu trong đội ngũ cán bộ, đảng viên là những việc làm thường xuyên thắm tình đồng chí, đòi hỏi phải tiến hành bền bỉ, liên tục. Gần 2 tháng sau khi thành lập chính quyền nhân dân trong cả nước, ngày 17-10-1945, trong Thư gửi ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, Bác nêu 6 căn bệnh của cán bộ, công chức thời bấy giờ. Đó là ‘trái phép”, do tư thù tư oán mà bắt bớ trái phép, tịch thu bừa bãi; “cậy thế”, cho mình là người của ban này ban nọ, rồi ngang tàng phóng túng, muốn sao được vậy; “hủ hóa”, muốn ăn ngon mặc đẹp, chi tiêu ngày càng xa xỉ, lấy của công dùng vào việc tư; “tư túng”, kéo bè kéo cánh, không tài năng gì cũng đưa vào chức này chức nọ; “chia rẽ”, bênh vực lớp này chống lại lớp kia; “kiêu ngạo”, lúc nào cũng lên mặt “quan cách mạng”, coi khinh quần chúng. Người phê phán gay gắt những “lầm lỗi rất nặng nề nói trên”, đồng thời chỉ rõ: “chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa” (6). Sự nghiệp cách mạng phát triển, công việc ngày càng nhiều, cán bộ đảng viên tăng thêm. Do thiếu tư tưởng, rèn luyện, không ít người đã vi phạm khuyết điểm và những khuyết điểm đó mang nặng dấu ấn của “quan cai trị”, “người cầm quyền” dưới thời kỳ thống trị của thực dân, phong kiến.
Sau ngày toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta (12-1946), trong vòng một, hai tháng, chính quyền non trẻ của chúng ta buộc phải rời thành phố chuyển về nông thôn và miền núi để điều hành công cuộc chiến đấu thần thánh của nhân dân ta chống kẻ xâm lược và bè lũ tay sai, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, ngày 1-3-1947, trong Thư gửi các đồng chí Bắc Bộ, Bác đã nêu tám khuyết điểm “phải kiên quyết tẩy sạch” (7). Đó là: “Địa phương chủ nghĩa”, chỉ biết đến lợi ích của địa phương mình, bộ phận mình; “Óc bè phái”, nghe người, dùng người hẩu với mình; “óc quân phiệt quan liêu”, hống hách, như một “ông vua con” ở nơi mình phụ trách; “óc hẹp hòi”, không biết dùng chỗ hay của người khác và giúp họ chữa chỗ dở; “ham chuộng hình thức”, thích hình thức bề ngoài, phô trương cho oai; “làm việc lối bàn giấy”, thích làm việc kiểu giấy tờ, chỉ tay năm ngón, ít đi vào quần chúng, bám sát thực tiễn; “vô kỷ luật, kỷ luật không nghiêm”, việc dễ thì làm, khó thì bỏ, bỏ địa phương khi chiến tranh lan đến; “ích kỷ, hủ hóa”, thích ăn ngon mặc đẹp, xa hoa, chỉ lo danh lợi của bản thân mình…
Những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp và bè lũ tay sai, công việc thật bộn bề, khó khăn gian khổ chồng chất không sao kể xiết. Bác cùng Bộ Chính trị tập trung mọi công sức vào công tác đối nội, đối ngoại của một chính quyền non trẻ đang còn thiếu thốn mọi bề. Cùng với việc xây dựng bộ máy kháng chiến, kiến quốc từ trên xuống dưới, Người đã dành nhiều thời gian cho việc xây dựng, rèn luyện, uốn nắn những lầm lỗi, lệch lạc của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đúc kết kinh nghiệm hoạt động của bộ máy chính quyền từ sau ngày giành được độc lập, nhất là trong gần một năm điều hành công cuộc kháng chiến, kiến quốc, tháng 10-1947, Bác cho ra đời tập sách “Sửa đổi lối làm việc”, một cẩm nang gối đầu giường của đông đảo của cán bộ, đảng viên. Bác nghiêm khắc đòi hỏi từng tổ chức, từng người: “Ngay từ bây giờ, các cơ quan, các cán bộ, các đảng viên, mỗi người mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm điểm và kiểm điểm đồng chí mình. Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa và giúp đồng chí mình sửa chữa. Phải như thế Đảng mới nhanh chóng phát triển, công việc mới chóng thành công” (8). Nội dung tập sách là những lời chỉ dẫn cụ thể cán bộ đảng viên về phương pháp lãnh đạo và tác phong công tác của người chiến sĩ cách mạng. Bác đã nêu lên khá nhiều khuyết điểm của không ít cán bộ, đảng viên và chỉ dẫn cách thức chữa từng căn bệnh cụ thể. Những khuyết điểm đó, theo Người, có thể xếp vào ba loại: “Khuyết điểm về tư tưởng, tức là bệnh chủ quan. Khuyết điểm về sự quan hệ trong Đảng và ngoài Đảng, tức là bệnh hẹp hòi. Khuyết điểm về cách nói và cách viết, tức là ba hoa (9). Ba “chứng bệnh nguy hiểm” này nếu không chữa ngay để nó lây ra, thì có hại vô cùng.
Trong sách này, Bác đã nêu lên hàng loạt chứng bệnh tệ hại khác và mỗi chứng bệnh là một kẻ địch. Kẻ địch bên trong của mỗi người cán bộ, đảng viên. Người phân tích sâu sắc: “Mỗi kẻ địch bên trong là một bạn đồng minh của kẻ địch bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong ta đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra” (10). Những chứng bệnh này là bước phát triển tất nhiên của những chứng bệnh cũ. Đó là: “Bệnh nể nang”, làm ngơ trước sai lầm của người quen biết, họ hàng, thân thích; “bệnh tham lam”, tự tư tự lợi, đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích dân tộc, “bệnh lười biếng”, tự cho mình là cái gì cũng biết, việc gì cũng giỏi, lười suy nghĩ, lười học tập, dành lấy việc dễ, đẩy việc khó cho người; “bệnh kiêu ngạo”, tự cao tự đại, ham địa vị, danh vọng, hay lên mặt, thích được tâng bốc; “bệnh hiếu danh”, tự cho mình là anh hùng, quan trọng, không chịu làm những công tác thiết thực; “thiếu kỷ luật”, đặt mình lên trên tổ chức, thích sao làm vậy; “óc hẹp hòi”, khinh người, không cân nhắc người tốt, sợ người ta hơn mình; “óc lãnh tụ”, làm được một vài việc thì cho mình đáng là lãnh đạo, lãnh tụ ở địa phương, đơn vị; “bệnh hữu danh vô thực”, làm việc không thiết thực, làm cho có chuyện, làm ít nói nhiều; “kéo bè kéo cánh”, từ bè phái dẫn đến chia rẽ, hợp với mình thì dở cũng cho là hay, che đậy cho nhau; “bệnh cận thị”, không nhìn xa thấy rộng; “bệnh tị nạnh”, cái gì cũng muốn “bình đẳng”, cào bằng như nhau; “xu nịnh, a dua”, bốc thơm cấp trên và những người có quyền thế, theo gió bẻ buồm…những chứng bệnh trên bắt nguồn từ “bệnh cá nhân”, mọi suy nghĩ việc làm đều xuất phát từ lợi ích cá nhân và đặt lợi ích cá nhân lên trên hết, trước hết. Tất cả đều vì cá nhân, vì gia đình mình, vì phe nhóm mình. Bác khẳng định: Mắc những căn bệnh đó là do “kém tính đảng”, mắc một trong những bệnh đó “là hỏng việc”. Người căn dặn “chúng ta phải ráo riết dùng phê bình và tự phê bình để giúp nhau chữa cho hết những bệnh ấy” (11). Từ đây, Bác đã nói đến chỉ đích danh và phê phán gay gắt “bệnh cá nhân”- chủ nghĩa cá nhân trong con người cán bộ, đảng viên.
“Báo cáo Chính trị” do Bác trình bày tại Đại hội lần thứ II của Đảng (2-1951) một lần nữa nhấn mạnh “những khuyết điểm khá phổ thông và nghiêm trọng” lúc ấy là “những bệnh chủ quan, quan liêu, mệnh lệnh, hẹp hòi và bệnh công thần” (12). Sau đó, ngày 2-9-1951, trong bài báo “Cần tẩy sạch bệnh quan liêu mệnh lệnh”, Bác chỉ rõ: Bệnh quan liêu mệnh lệnh là do xa nhân dân, khinh nhân dân, không tin cậy nhân dân, không hiểu biết nhân dân, không yêu thương nhân dân, sợ nhân dân… và Người căn dặn: “Bệnh quan liêu mệnh lệnh chỉ đưa đến một kết quả là hỏng việc. Vì vậy chúng ta phải mau mau chữa bệnh nguy hiểm ấy” (13).
Từ năm 1952, Bác Hồ đã lưu ý và kêu gọi cán bộ, đảng viên, nhân dân phải thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu. Người nói: “Tham ô là kẻ cướp. Lãng phí tuy không lấy của công đút túi, song kết quả cũng rất có hại cho nhân dân, cho Chính phủ. Có khi tai hại hơn nạn tham ô. Mà có nạn tham ô và lãng phí là vì bệnh quan liêu. Muốn trừ nạn tham ô, lãng phí thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu” (14).
Miền Bắc (từ Quảng Bình trở ra) được hoàn toàn giải phóng sau chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu năm 1954. Từ đó, nhân dân miền Bắc bước vào giai đoạn khôi phục kinh tế, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tiến dần vào giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà. Đất nước chuyển từ chiến tranh sang hòa bình, đi sâu vào lĩnh vực xây dựng, phát triển kinh tế xã hội, văn hóa, xây dựng cuộc sống mới. Sống và hoạt động một thời gian dài trong cơ chế quan liêu bao cấp và xin cho, số đông cán bộ đảng viên hoạt động năng động có hiệu quả. Song không ít người đã sớm quên đi những ngày sống cực khổ, khó khăn, chia ngọt sẻ bùi bên nhau trong thời kỳ kháng chiến. Họ nhiễm nặng “bệnh cá nhân”- chủ nghĩa cá nhân, bắt đầu suy tính nhiều hơn và trước hết cho lợi ích cá nhân, gia đình và lợi ích phe nhóm. Ở họ, chủ nghĩa cá nhân nảy sinh và chiếm vị trí chi phối trong suy nghĩ cũng như việc làm hằng ngày, mà trước kia Bác thường gọi là “bệnh cá nhân”.
Từ thời điểm này, cùng với việc phê phán chủ nghĩa cá nhân, Bác luôn đề cao đạo đức cách mạng và chỉ rõ người cách mạng phải kiên quyết loại trừ chủ nghĩa cá nhân ra khỏi đầu óc mình. Bác phân tích rõ nguồn gốc và những tác hại của chủ nghĩa cá nhân: “vết tích xấu xa nhất và nguy hiểm nhất của xã hội cũ là chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân trái ngược với đạo đức cách mạng…, là một thứ rất gian xảo, xảo quyệt; nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc”, nó “là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội. Người cách mạng phải tiêu diệt nó” (15). Đúng như vậy, người có đầu óc cá nhân chủ nghĩa thường ít hoặc không nghĩ đến lợi ích chung của cách mạng, của nhân và và cộng đồng chung quanh họ, mà thường lo cho lợi ích riêng của cá nhân cũng như của phe nhóm mình, đặt nó lên trên lợi ích chung của đất nước, của tập thể. Họ là những người tham danh, hám lợi, thích địa vị, hay so bì, tị nạnh. Có chút thành tích thì tự cao, tự đại, kiêu ngạo, công thần, gây lủng củng chia rẽ nội bộ. Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra chủ nghĩa tự do, quan liêu mệnh lệnh, tham ô lãng phí, lười biếng…; đẻ ra biết bao thói hư tật xấu và hằng trăm hàng ngàn căn bệnh nguy hiểm. Người mang nặng chủ nghĩa cá nhân thì việc gì cũng chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân, của phe nhóm trước hết. Họ ngại gian khổ, khó khăn, chỉ nghĩ đến hưởng thụ, ăn chơi sa đọa, biến chất. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành, tự cao tự đại coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán chuyên quyền, xa rời quần chúng, xa rời thực tế, không có tinh thần học hỏi cố gắng vươn lên. Họ thường tạo thành phe nhóm, gây mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, gây tổn hại lợi ích cách mạng…
Bác Hồ đã khẳng định: “Cái gì trái với đạo đức cách mạng đều là chủ nghĩa cá nhân. Muốn thành người cách mạng, thành người cộng sản chân chính thì phải chống chủ nghĩa cá nhân” (16). Người chỉ rõ: “Do cá nhân chủ nghĩa mà phạm nhiều sai lầm” và đòi hỏi mỗi cán bộ đảng viên phải “phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật. Phải đi sâu đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thực sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Phải cố gắng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ hiểu biết để làm tốt nhiệm vụ” (17).
Bác kính yêu của chúng ta đi xa đã 44 năm nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm, chỉ dẫn của Người về xây dựng, rèn luyện, bồi dưỡng, quản lý đội ngũ cán bộ, đảng viên đã và đang chiếu sáng cho từng bước đi của mỗi người. Bác luôn tỏ rõ lòng nhân từ độ lượng đối với mọi người, nhưng cũng rất nghiêm khắc với những lầm lỗi, vi phạm khuyết điểm, làm tổn hại đến thanh danh của Đảng. Làm theo lời chỉ bảo ân cần, chí tình của Bác, phát huy những kết quả bước đầu của đợt tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, mỗi người chúng ta hãy luôn nghiêm khắc với bản thân mình và thường xuyên nhắc nhở nhau khắc phục những vi phạm, thiếu sót đã được làm sáng tỏ, đấu tranh kiên quyết với những vi phạm, xử lý kỷ luật nghiêm minh đối với những người cố tình đi ngược lại kỷ luật đảng, pháp luật nhà nước và kỷ cương xã hội. Đó cũng là điều Bác Hồ mong muốn ở mỗi người, đã từng chỉ bảo chúng ta trong một cuộc đời lãnh đạo cách mạng của Bác. Những lời căn dặn của Người hãy còn nguyên giá trị thực tiễn trong cuộc đấu tranh khắc phục những biểu hiện tiêu cực, mặt trái của kinh tế thị trường phản ánh trong suy nghĩ, hành động của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.
———–
(1),(2),(3),(7),(8),(9),(10),(11) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG – Sự thật, H.2002, tập 5, tr. 660, 269, 273, 71, 233, 233, 238-239, 267.
(4) Sđd, tập 2, tr. 260. (5), (6) Sđd, tập 4, tr. 21, 57. (12),(13),(14) Sđd, tập 6, tr. 167, 293, 489. (15), (16) Sđd, tập 9, tr. 283, 292, 448. (17) Sđd, tập 12, tr. 439.
Theo Tạp chí Xây dựng Đảng
Huyền Trang (st)
bqllang.gov.vn
Tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh – nguồn cảm xúc dồi dào, động lực sáng tạo mạnh mẽ
(ĐCSVN) – Kế thừa kết quả qua 3 năm hưởng ứng Cuộc vận động sáng tác, quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí viết về chủ đề Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14 tháng 5 năm 2011 của Bộ Chính trị (khóa XI) và Kế hoạch số 03-KH/TW ngày 01 tháng 7 năm 2011 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, hoạt động sáng tác, quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí tiếp tục được các cấp ủy chỉ đạo, văn nghệ sĩ, nhà báo cả nước tích cực tham gia.
Sau khi Ban Chỉ đạo Giải thưởng sáng tác, quảng bá các tác phẩm văn học nghệ thuật và báo chí viết về chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” ban hành Quy chế Giải thưởng, Ban Tuyên giáo các tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương; Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học, nghệ thuật Việt Nam; các Hội Văn học, Nghệ thuật chuyên ngành Trung ương; Hội Nhà báo Việt Nam; Hội Xuất bản Việt Nam; Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; Tổng cục Xây dựng lực lượng, Bộ Công an và Đảng ủy Ngoài nước đã tổ chức quán triệt, xây dựng kế hoạch triển khai các hoạt động sáng tác, quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí để tiếp tục cổ vũ việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác, tạo ra các tác phẩm mới, góp phần làm phong phú đời sống tinh thần của xã hội.
Nhân kỷ niệm sinh nhật Chủ tịch Hồ Chí Minh năm nay, Ban Bí thư sẽ tổ chức Hội nghị sơ kết hai năm thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị, Kế hoạch của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, trong đó có đánh giá kết quả hoạt động sáng tác, quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí viết về chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; trao giải thưởng đối với tác phẩm, công trình xuất sắc.
Một cảnh trong vở “Điều ước thiêng liêng”, kịch bản được
Thành ủy TP. Hồ Chí Minh chọn đầu tư dàn dựng sau khi đoạt giải A
trong Trại sáng tác do Hội Sân khấu TP. Hồ Chí Minh tổ chức (Ảnh: sggp.org.vn)
Quá trình triển khai hoạt động sáng tác, quảng bá, nhiều cơ quan, địa phương có cách làm sáng tạo, hiệu quả. Các Hội Văn học nghệ thuật chuyên ngành ở Trung ương đã chủ động tổ chức cho đội ngũ sáng tác đi thực tế, mở trại viết, dàn dựng tác phẩm.
Hội Nghệ sỹ Sân khấu dàn dựng và biểu diễn các tác phẩm: “Lời Người – lời của nước non”, “Lớn lên từ câu hò ví giặm”, “Bác Hồ – Người là niềm tin tất thắng”, “Lời Người sáng mãi lòng ta”; tổ chức Hội đồng sơ khảo, thẩm định, báo cáo và gửi kịch bản có chất lượng tới Ban Tổ chức cuộc thi.
Hội Nhà báo Việt Nam xây dựng kế hoạch, triển khai thực hiện nhiệm vụ sáng tác và quảng bá các tác phẩm báo chí về chủ đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trên phạm vi cả nước. Các cơ quan báo chí Trung ương và địa phương đều mở và duy trì các chuyên mục “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; thông tin về các tấm gương tập thể, cá nhân tiêu biểu; phản ánh những cách làm hay, có hiệu quả qua việc thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị.
Hội Nghệ sỹ múa Việt Nam hỗ trợ kinh phí cho một số biên đạo sáng tác, dàn dựng các tác phẩm có nội dung phản ánh về đề tài chiến tranh cách mạng, học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; tổ chức dàn dựng những tác phẩm có chất lượng: “Đạp bằng sóng gió” (nội dung về bảo vệ chủ quyền biển, đảo); “Lính đảo” (ngợi ca người lính trên đảo Trường Sa); “Mẹ Làng Sen” (ngợi ca những người Mẹ Việt Nam anh hùng)…
Hội Kiến trúc sư Việt Nam tổ chức nghiên cứu lý luận các công trình kiến trúc có tác dụng định hướng sáng tác kiến trúc và sự phát triển của nền kiến trúc Việt Nam hiện đại, mang đậm bản sắc dân tộc; khuyến khích các công trình phục vụ dân sinh như: Nhà nông thôn mới; nhà ở công nhân các khu công nghiệp; nhà cho người thu nhập thấp, vùng sâu, vùng xa, vùng lũ; công trình văn hóa giáo dục phục vụ trẻ em…
Hội Nghệ sỹ Nhiếp ảnh Việt Nam phát động sáng tác những tác phẩm có chất lượng cao về nội dung và nghệ thuật, góp phần nâng cao nhận thức về tư tưởng, đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh; quảng bá, nâng cao vị thế hình ảnh Việt Nam với thế giới…
Đối với tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương, hầu hết các ban sơ khảo đã phổ biến Quy chế của Ban Chỉ đạo, thể lệ giải thưởng, tổ chức đi thực tế, giao lưu với các điển hình tiêu biểu, tuyên truyền các tác phẩm tốt; thẩm định, xét chọn các tác phẩm có chất lượng gửi về Hội đồng Sơ khảo Trung ương. Một số cơ quan, địa phương có sự chủ động, sáng tạo trong triển khai như:
Đảng ủy Ngoài nước đã sưu tầm được 160 tư liệu, hiện vật gồm thơ, văn xuôi, ca khúc, ký sự, phóng sự, bài viết, sách, báo, hội họa, phù điêu…, sách của tác giả người Nga, Arập, Trung Quốc, Hàn Quốc và Xrilanca viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Báo Nhân dân, Quân đội nhân dân xác định tuyên truyền việc thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị vừa là trách nhiệm, vừa là cơ hội để mỗi cán bộ, đảng viên, phóng viên tu dưỡng phẩm chất, nhân cách, đạo đức cách mạng, đạo đức người làm báo; rèn luyện tay nghề thông qua việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức trong sáng của Bác Hồ; thường xuyên tổ chức chuyên trang, mục đăng bài viết về các điển hình tiêu biểu của tập thể, cá nhân trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác. Chuyên mục “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” của Báo Nhân dân, “Những tấm gương bình dị mà cao quý” của Báo Quân đội nhân dân đã thu hút sự quan tâm của các tầng lớp nhân dân, sự chú ý của dư luận xã hội.
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Lào Cai triển khai chỉ đạo các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh sáng tác, quảng bá tác phẩm văn học nghệ thuật và báo chí về chủ đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trên hệ thống phát thanh – truyền hình, cổng thông tin điện tử; thường xuyên duy trì chuyên mục “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, “gương người tốt, việc tốt”, đăng tải nội dung và các văn bản của cấp trên tới các đảng bộ, chi bộ trực thuộc; tuyên truyền rộng rãi đến cán bộ, đảng viên và nhân dân trên địa bàn.
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Ngãi xây dựng kế hoạch tổ chức phát động trong đội ngũ văn nghệ sỹ, nhà báo, các đoàn nghệ thuật, quần chúng nhân dân trong tỉnh sáng tác và quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí về chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; tiếp nhận hàng trăm tác phẩm (truyện ngắn, thơ, phim tài liệu, âm nhạc, phóng sự, mẩu truyện, tranh cổ động), tin bài, chương trình truyền hình, giao lưu với các điển hình tiên tiến về học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác.
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Yên Bái tham mưu cho Thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo và tạo điều kiện để văn nghệ sỹ đi thực tế, gặp gỡ các điển hình tiêu biểu, các nhân tố mới, các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; tổ chức các đoàn kiểm tra về thực hiện Chỉ thị 03 tại thành ủy, đảng ủy trực thuộc, các huyện, thị gắn với kiểm tra chuyên đề của Tỉnh ủy, kiểm tra công tác Tuyên giáo; thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) gắn với việc giới thiệu, nhân rộng các mô hình hay, điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác.
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Thái Nguyên tham mưu cho Ban Chỉ đạo Đề án số 09 – ĐA/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về việc nâng cao chất lượng thực hiện Chỉ thị 03; thường xuyên đôn đốc việc thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị ở địa phương, đơn vị; chỉ đạo giới thiệu, tuyên truyền một số chương trình, tác phẩm có chất lượng như: Chương trình nghệ thuật tại lễ Kỷ niệm 65 năm Ngày Bác Hồ, Trung ương Đảng, Chính phủ về ATK Thái Nguyên; biểu diễn, công chiếu vở kịch “Bác không phải là vua”, bộ phim “Bác Hồ với ATK Thái Nguyên” phục vụ nhân dân trong tỉnh…
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Nam Định quan tâm công tác tuyên truyền và nhân rộng các điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo Bác. Hội Văn học – Nghệ thuật tỉnh tổ chức cho các bộ môn chuyên ngành sáng tác các tác phẩm văn học nghệ thuật về đề tài “Tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; tổ chức 3 trại sáng tác với 50 hội viên tham gia. Một số kịch bản văn học được Hội đồng nghệ thuật đánh giá cao: Vở “Một lần được ở bên Người”; “Lời Bác dặn”; “Quê nghèo đón Bác”; “Một bữa ăn tối của Bác”; “Điều thiêng liêng nhất”.
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Tuyên Quang tham mưu cho Ban Thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo các cơ quan báo chí của tỉnh duy trì các chuyên trang, chuyên mục tuyên truyền về chủ đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, trong đó tập trung tuyên truyền về những tấm gương tiêu biểu trong việc thực hiện học tập và làm theo Bác. Hội Văn học – Nghệ thuật tỉnh phát động cuộc thi sáng tác, quảng bá các tác phẩm văn học nghệ thuật; tổ chức 02 đoàn gồm 30 thành viên đi nghiên cứu sáng tác tại các tỉnh: Điện Biên, Sơn La, Cao Bằng về đề tài “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Cà Mau chủ động chỉ đạo các cơ quan báo chí mở chuyên trang, chuyên mục đăng phát toàn bộ quy chế, thể loại cuộc thi để mọi người tìm hiểu, tham gia sáng tác.
Ban Tuyên giáo tỉnh ủy Tiền Giang tham mưu cho Ban Thường vụ Tỉnh ủy phát động cuộc thi sáng tác tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí về chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Báo, đài phát thanh – truyền hình tỉnh, đài truyền thanh các huyện, thị xã, website các sở, ngành đã tập trung tuyên truyền, đưa tin phát động cuộc thi sáng tác, quảng bá tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí về chủ đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, rộng rãi trong toàn tỉnh.
Ban Tuyên giáo Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh tham mưu cho Thành ủy chỉ đạo toàn diện, đồng bộ các hoạt động: Hội Mỹ thuật mở trại sáng tác, thu được 40 tác phẩm mỹ thuật về chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” qua 8 đợt trại. Hội Sân khấu tổ chức trại sáng tác chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, đã nghiệm thu 14 kịch bản, trong đó 2 kịch bản sân khấu “Cây bàng vuông”, “Nơi tình yêu bắt đầu” đã đưa vào kế hoạch hỗ trợ đầu tư dàn dựng. Riêng vở kịch “Điều ước thiêng liêng” (đề tài Bác Hồ với thiếu nhi miền Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ) đến cuối năm 2011 đã biểu diễn lưu động thêm 20 suất từ kinh phí hỗ trợ của ngân sách thành phố. Hội Âm nhạc tổ chức cho hội viên đi thực tế sáng tác, giáo dục truyền thống kết hợp biểu diễn chương trình nghệ thuật tại Quân đoàn 4 với chủ đề “Bộ đội Cụ Hồ”; tại Bến Tre với chủ đề “Nông thôn mới và Bến Tre ngày mới”; tại Côn Đảo với chủ đề “Xanh xanh Côn Đảo”; tại Cần Giờ với chủ đề “Màu xanh Cần Giờ”; tại Củ Chi với chủ đề “Tình đất Củ Chi”. Qua đó, các hội viên có nhiều sáng tác mới về lao động, sản xuất và những nỗ lực vươn lên xây dựng cuộc sống mới của con người và quê hương, đất nước. Lĩnh vực sáng tác văn học có tác phẩm: “Hồ Chí Minh – Xin nhớ mãi ơn Người” do Nhà Xuất bản Hội Nhà văn phát hành năm 2012. Hãng phim Hội Điện ảnh thành phố đã thực hiện xong phim tài liệu “Những đêm chiến khu chờ nghe thơ Bác”. Hội Nhiếp ảnh thành phố tổ chức thi và triển lãm tập thể 10 cuộc với trên 830 tác phẩm nhiếp ảnh, trong đó có nhiều tác phẩm thể hiện tinh thần lao động, học tập, sáng tạo theo chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng tham mưu cho Thành ủy chỉ đạo Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật thành phố tổ chức sưu tầm, nghiên cứu các tư liệu về Chủ tịch Hồ Chí Minh, tạo điều kiện cho các cá nhân và nhóm tác giả nghiên cứu các tài liệu về Bác Hồ; tổ chức nhiều chuyến đi thực tế về thăm quê Bác tại Nghệ An; thăm di tích lịch sử tại An Toàn Khu tỉnh Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn… Đặc biệt, trong 2 năm (2011 – 2012), Liên Hiệp hội đã tổ chức hai chuyến đi thực tế trên địa bàn tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) cho hơn 30 văn nghệ sĩ với chủ đề “Hành trình theo chân Bác”…
Nét mới của các sáng tác đợt này là có nhiều tác phẩm viết về điển hình tiêu biểu trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh như: “Sáng mãi phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ: (tác phẩm văn học, báo chí của Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị, Quân đội Nhân dân Việt Nam); “Vũ Văn Tinh – tấm gương người thương binh học tập và làm theo Bác” (Báo nói của Trung tâm phát thanh, Truyền hình quân đội); “Làng Chăm làm theo lời Bác” (tác phẩm Mỹ thuật của Chế Thị Kim Chung, Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam); “La Thanh Sơn, Bí thư Chi bộ trẻ nói đi đôi với làm” (ghi chép của Quang Lâm, tỉnh Phú Yên); “Người Thày mẫu mực về sáng tạo” (bút ký văn học nghệ thuật của Hoàng Giá, Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Bắc Ninh)…
Một số tác phẩm chất lượng tốt và tâm huyết của tác giả là người nước ngoài như: Tranh “Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh” của Ghihan Thennakoo công dân Xrilanca; “Chủ tịch Hồ Chí Minh – lãnh tụ vĩ đại của Cách mạng Việt Nam” (văn xuôi của Ivo Vasilje, Cộng hòa Séc, Tiến sỹ ngôn ngữ học); “Gặp gỡ Chủ tịch Hồ Chí Minh, kỷ niệm không bao giờ quên” (văn xuôi của Almási Alfréd, nguyên Tham tán công sứ Hungary tại Việt Nam) …
Một số tác giả có nhiều đóng góp đối với đất nước trên lĩnh vực nghiên cứu lịch sử, văn hóa, văn học nghệ thuật, tuổi đã cao nhưng vẫn sáng tác, gửi tác phẩm tham gia Giải thưởng: Sách “Hồ Chí Minh, ngôi sao sáng trên bầu trời Việt Nam” của Giáo sư Vũ Khiêu; sách “Hồ Chí Minh chân dung một tâm hồn và trí tuệ vĩ đại” của cố Giáo sư Trần Văn Giầu do Nhà Xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh xuất bản.
Tính đến hết tháng 2 năm 2013, Bộ phận Chuyên trách Chỉ thị 03 của Ban Tuyên giáo Trung ương đã nhận được 296 tác phẩm (219 tác phẩm của địa phương; 77 tác phẩm của cơ quan Trung ương) gồm đủ các thể loại từ các Ban Sơ khảo gửi về. Tiểu ban chuyên ngành đã chấm và đề nghị Hội đồng Sơ khảo, Hội đồng Chung khảo thẩm định, đề nghị Ban Chỉ đạo Giải thưởng, Hội đồng Giải thưởng xem xét quyết định.
Nhân kỷ niệm 123 năm Ngày sinh nhật Bác (19/5/1890 – 19/5/2013), Ban Chỉ đạo Giải thưởng sẽ tổ chức trao giải thưởng đối với các tác phẩm, công trình, xuất bản phẩm xuất sắc, các tập thể, cá nhân có thành tích trong hoạt động quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí về chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”./.
Nhạc sĩ Vũ Việt Hùng
dangcongsan.vn
Bạn phải đăng nhập để bình luận.