Thư viện

Giữ nguyên tên nước như Hiến pháp hiện hành là hoàn toàn phù hợp

Lực lượng CAND góp ý vào “Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992”:

Việc giữ nguyên tên nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẽ tránh những xáo trộn không cần thiết trong công tác quản lý hành chính Nhà nước và tránh lãng phí lớn do phải thay đổi quốc huy, con dấu, quốc hiệu trên hệ thống tiền tệ, các văn bản, giấy tờ hành chính…

Sau một thời gian tổ chức lấy ý kiến sâu rộng trong toàn lực lượng Công an nhân dân về việc góp ý kiến vào “Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992” gửi Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, đến nay Bộ Công an đã bổ sung thêm những đóng góp tâm huyết vào Dự thảo để khi Hiến pháp được Quốc hội thông qua sẽ thực sự phù hợp với tình hình xây dựng và phát triển đất nước trong tình hình hiện nay. Trao đổi với phóng viên Báo CAND về vấn đề này, Đại tá, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Vi Dân, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Công an cho biết:

Quá trình tập hợp các ý kiến đóng góp của toàn thể cán bộ, chiến sĩ, lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong lực lượng Công an và các nhà khoa học trong lực lượng Công an vào “Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992”, Bộ Công an cho thấy, tất cả các ý kiến đóng góp đều thể hiện quan điểm, giữ nguyên tên nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được quy định tại Điều 1 của dự thảo.

Tên nước là thiêng liêng, liên quan đến chế độ chính trị, kinh tế, xã hội, định hướng cách mạng, phương hướng phát triển của đất nước, dân tộc, liên quan đến bản chất, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước, tư tưởng, tâm lý của nhân dân và sự nhìn nhận, đánh giá của cộng đồng quốc tế… Vừa qua, có một số ý kiến đặt vấn đề đổi tên nước trong thời điểm hiện nay là không phù hợp, bởi lẽ:

Thứ nhất, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tên gọi đã được Quốc hội khóa VI quyết định vào ngày 2/7/1976 sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả nước thống nhất, non sông thu về một mối, cùng đi lên chủ nghĩa xã hội và tên nước được sử dụng ổn định cho đến nay. Tên nước đã gắn với giai đoạn hòa bình, độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tên gọi khẳng định rõ con đường, mục tiêu mà chúng ta đang đi và hướng đến là phấn đấu thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tên gọi Việt Nam dân chủ cộng hòa phù hợp với các giai đoạn của cách mạng trước năm 1975 ở nước ta, đó là thời kỳ đất nước thực hiện cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thể chế Việt Nam dân chủ cộng hòa vận động trong thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc, kháng chiến kiến quốc, tạo dựng những nền tảng ban đầu để đi lên chủ nghĩa xã hội. Thể chế đó đã được lịch sử kiểm nghiệm, làm tròn nhiệm vụ lịch sử của nó và được tiếp tục phát triển theo logic bởi thể chế mới là chủ nghĩa xã hội.

Thứ hai, tên gọi Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phù hợp với nền chính trị hiện tại và mục tiêu định hướng phát triển của đất nước ta trong thời gian tới. Sự kiên trì con đường phát triển chủ nghĩa xã hội là quan điểm trước sau như một của Bác Hồ và Đảng ta. Trong điều kiện đổi mới hiện nay, Đảng đã xác định con đường của cả tiến trình đổi mới là kiên định mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng. Thể chế xã hội chủ nghĩa Việt Nam có một quá trình lịch sử đến nay gần 40 năm, đổi mới gần 30 năm, phản ánh rất rõ mục tiêu, lý tưởng của toàn Đảng, toàn dân, thể hiện rõ con đường và sự nghiệp của chúng ta là tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thể chế đó cũng khẳng định chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thể chế đó cũng khẳng định chúng ta đang trong quá trình vận động cách mạng xã hội chủ nghĩa để xây dựng chủ nghĩa xã hội sau khi hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc.

Thứ ba, việc giữ nguyên tên nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẽ tiếp tục khẳng định mục tiêu, định hướng xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và bảo đảm ổn định cho hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước, giữ gìn niềm tin của cán bộ, công chức và nhân dân vào chế độ, vào Đảng và Nhà nước, tránh những tác động bất lợi, thậm chí có thể bị xuyên tạc là ta đang xa rời mục tiêu, con đường lên chủ nghĩa xã hội và có thể gây phức tạp về chính trị, an ninh, trật tự.

Thứ tư, việc giữ nguyên tên nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẽ tránh những xáo trộn không cần thiết trong công tác quản lý hành chính Nhà nước và tránh lãng phí lớn do phải thay đổi quốc huy, con dấu, quốc hiệu trên hệ thống tiền tệ, các văn bản, giấy tờ hành chính…

Từ những căn cứ và phân tích trên, quan điểm của Bộ Công an là giữ nguyên tên gọi nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992

Nguyễn Hưng (ghi)

Theo cand.com.vn
Vkyno (st)

Quán triệt sáu điều Bác Hồ dạy về tư cách người Công an cách mạng trong xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa lực lượng Công an với nhân dân

GS.TS Nguyễn Văn Ngọc, Giám Đốc Học Viện An Ninh Nhân Dân
Trong mối quan hệ với nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn: “Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép”. Theo Người, “Làm công an không phải làm “quan cách mạng”. Làm công an là để giữ trật tự, an ninh cho nhân dân”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân. Tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong công cuộc đổi mới đất nước nói chung và đối với việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công an cách mạng nói riêng. Việc tổ chức học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, quán triệt tư tưởng của Người về tư cách người Công an cách mạng vào công tác, chiến đấu và xây dựng lực lượng là một trong những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng đối với các cấp ủy Đảng, đơn vị trong toàn lực lượng Công an nhân dân (CAND).

Trong thư gửi đồng chí Giám đốc Công an Khu XII ngày 11/3/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu 6 điều dạy về “Tư cách người Công an cách mệnh”. Sáu điều dạy của Bác đã trở thành di sản tinh thần vô cùng quý báu của lực lượng CAND, là cẩm nang, chuẩn mực đạo đức, tư cách, là mục tiêu rèn luyện, phấn đấu, công tác của mỗi cán bộ, chiến sĩ (CBCS) CAND.

Trong mối quan hệ với nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn: “Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép”. Theo Người, “Làm công an không phải làm “quan cách mạng”. Làm công an là để giữ trật tự, an ninh cho nhân dân”. Công an “là một bộ phận của cả bộ máy Nhà nước nhân dân dân chủ chuyên chính tiến lên chủ nghĩa xã hội, công an phải bảo vệ dân chủ nhân dân và thực hiện chuyên chính với những kẻ chống lại dân chủ nhân dân”. Người còn luôn nhắc nhở công an “Phải gần gũi nhân dân, dựa vào lực lượng của nhân dân, xa rời nhân dân thì dù tài tình mấy cũng không làm gì được”. Và Người khẳng định: “Khi nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành công ít, giúp đỡ ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn. Dân ta rất tốt. Gặp trường hợp nguy hiểm, nếu công an khéo léo thì được dân giúp ngay. Khéo ở đây không phải là cái lối khéo bề ngoài, mà khéo có nghĩa là phải thực sự trung thành, tôn kính, thương yêu dân”. Để đạt được điều đó, công an “phải toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân”, “phải đi đường lối quần chúng”, “phải làm sao cho dân yêu mến, phải nhớ rằng dân là chủ, dân như nước mình như cá, lực lượng bao nhiêu là ở dân hết. Phải làm cho dân mến, khi sắp tới dân mong, khi đi dân tiếc, chớ vác mặt quan cách mạng cho dân ghét, dân khinh, dân không ủng hộ”. Công an phải gần dân, kính trọng và lễ phép với nhân dân.

Thấm nhuần lời dạy của Người, lực lượng CAND đã không ngừng nỗ lực phấn đấu, trưởng thành và hoàn thành xuất sắc sứ mệnh của mình, tuyệt đối trung thành với Ðảng, với Tổ quốc, phục vụ nhân dân, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng Huy hiệu của Người cho những cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 600 CANDVT đạt nhiều thành tích trong công tác bảo vệ.

Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, sự nghiệp cách mạng nước ta đang đứng trước những thời cơ và vận hội lớn, đồng thời cũng phải đối mặt với những khó khăn, thách thức không nhỏ. Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay, do tác động của mặt trái kinh tế thị trường “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau”, trong đó, lực lượng CAND cũng không ngoại lệ. Trong lực lượng CAND vẫn có hiện tượng quan liêu, hách dịch, sách nhiễu người dân, thường được phản ánh ở một số lĩnh vực mà CBCS công an thường xuyên tiếp xúc với người dân, dễ xảy ra tiêu cực… Những tiêu cực đó đã và đang làm giảm lòng tin, gây nhiều bức xúc trong nhân dân, ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng và mối quan hệ giữa lực lượng công an với quần chúng nhân dân.

Do đó, việc nghiên cứu, quán triệt 6 điều Bác Hồ dạy để làm sâu sắc hơn, xây dựng mối quan hệ mật thiết, gắn bó giữa lực lượng CAND với quần chúng nhân dân là một yêu cầu, nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên. Để làm tốt nhiệm vụ này, thời gian tới, lực lượng CAND cần chú ý thực hiện một số nội dung sau:

Một là, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục đạo đức cách mạng, chú ý hướng vào mục tiêu giáo dục ý thức vì nhân dân phục vụ cho CBCS.

Xác định giáo dục, nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng cho CBCS là nhiệm vụ hàng đầu trong công tác xây dựng lực lượng CAND thời kỳ đổi mới. Mục đích, yêu cầu của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng tập trung vào việc bồi dưỡng, tăng cường bản lĩnh chính trị, xây dựng lòng tin vào thắng lợi của công cuộc đổi mới, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và lợi ích của nhân dân, tận hiếu với nhân dân. Do vậy, nội dung giáo dục cần tập trung vào việc bồi dưỡng lý tưởng cộng sản, trau dồi đạo đức cách mạng cho CBCS CAND. Trong đó cần thường xuyên chú ý xây dựng, bồi dưỡng và củng cố phương châm, lẽ sống đúng đắn cho mỗi CBCS; xây dựng ý thức phục vụ nhân dân, giữ gìn mối quan hệ đoàn kết, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh để bảo vệ tính mạng, tài sản, cuộc sống bình yên của nhân dân.

Giáo dục chính trị, tư tưởng trong CAND cần phát động và tổ chức thực hiện tốt các phong trào cách mạng. Đặc biệt là triển khai sâu rộng Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh – CAND vì nước quên thân, vì dân phục vụ” gắn với phong trào “CAND học tập, thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy”, Cuộc vận động “CAND chấp hành nghiêm điều lệnh; xây dựng nếp sống văn hóa vì nhân dân phục vụ”, các phong trào thi đua “Vì An ninh Tổ quốc”, xây dựng lực lượng CAND cách mạng, trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại. Trong chỉ đạo, cần từng bước đưa phong trào đi vào chiều sâu, chuyển trọng tâm chỉ đạo từ học tập, quán triệt, nâng cao nhận thức sang thực hiện, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Hai là, mỗi CBCS CAND cần phải xây dựng, rèn luyện tác phong quần chúng, dân chủ.

Hồ Chí Minh luôn quan tâm tới phong cách làm việc của lực lượng CAND, trước hết là tác phong quần chúng. Bác luôn nhắc nhở công an phải làm sao cho dân yêu mến, muốn vậy, CBCS công an phải “vào sâu trong quần chúng”, phải cùng ăn, cùng ở, cùng làm với nhân dân, chịu khó giúp dân trong mọi việc; đồng thời qua đó biết được dân đang suy nghĩ gì, cần cái gì, lo cái gì, muốn cái gì…, trên cơ sở đó mới “tìm mọi cách” để “thực hành những công việc nên làm, những công việc do Chính phủ và đoàn thể đã giao cho”. Làm được như thế thì mới được dân tin, dân phục, dân yêu, dân ủng hộ, dân giúp đỡ, “đi dân nhớ, ở dân thương”.

Theo Hồ Chí Minh, tác phong quần chúng là phải thực hiện “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm” bám sát thực tiễn. Bác đòi hỏi CAND phải kết hợp “óc nghĩ” với “mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”, nghĩa là phải thâm nhập thực tế, chịu khó quan sát, nghe ngóng để biết tình hình.

Tác phong quần chúng còn biểu hiện ở việc “gương mẫu trong lời nói, việc làm, thái độ sao cho người ta thấy rõ mình” là người công an cách mạng. Người chỉ rõ: “Công an nhân dân phải là kiểu mẫu, phải là con người chuyên trách thi hành chính sách, phương châm của Đảng và Chính phủ cho tốt”. Bên cạnh đó, cần xây dựng phong cách ứng xử có văn hóa của người CBCS công an, chấp hành nghiêm điều lệnh CAND, nâng cao ý thức phục vụ nhân dân, trách nhiệm trong công tác.

Ba là, xây dựng cơ chế phát huy vai trò tích cực và quyền làm chủ của quần chúng trên lĩnh vực ANTT.

Kính trọng, lễ phép đối với nhân dân không chỉ dừng lại ở lòng tôn trọng, gần gũi, bảo vệ, chăm lo sự bình yên của nhân dân mà cần xây dựng cơ chế phát huy vai trò tích cực, quyền làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực ANTT. Để đạt được điều đó, cần phát huy vai trò của nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm; đề cao vai trò giám sát, góp ý của nhân dân trong xây dựng lực lượng CAND; đồng thời tạo các điều kiện để khuyến khích nhân dân tham gia góp ý kiến, phê bình, xây dựng lực lượng CAND; xây dựng các cơ chế trong công tác để tiếp nhận, xử lý những thông tin phản ánh sự giám sát của nhân dân.

Phát huy vai trò giám sát của nhân dân là một kênh thông tin quan trọng, là con đường để nhân dân tham gia quản lý nhà nước, phòng, chống quan liêu, tham nhũng. Sự giám sát đó cần được thực hiện dưới nhiều hình thức… Các ý kiến thể hiện sự giám sát của nhân dân cần phải được cơ quan, CBCS công an tiếp nhận, trân trọng và giải quyết kịp thời, thỏa đáng, tiếp thu ý kiến phê bình của nhân dân để khắc phục, sửa chữa những khuyết điểm, thiếu sót; khen thưởng, động viên kịp thời.

Bốn là, kiên quyết phê phán, đấu tranh với các biểu hiện quan liêu, hách dịch, sách nhiễu người dân của CBCS, xử lý nghiêm khắc các trường hợp vi phạm.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Làm công an không phải làm “quan cách mạng”, “phải khiêm tốn, nghiêm chỉnh”, “chớ tự kiêu, tự mãn”. Bảo vệ ANTT là một lĩnh vực đặc thù, nên lực lượng CAND được Nhà nước trao cho một số quyền uy riêng biệt. Nếu CBCS công an không thấm nhuần đạo đức cách mạng, không rèn luyện quan điểm, tác phong quần chúng thì rất dễ xảy ra hiện tượng hách dịch, quan cách, sách nhiễu người dân, tham nhũng, tiêu cực… Bác căn dặn, CAND trong thực hiện nhiệm vụ “Phải triệt để sửa đổi tác phong mệnh lệnh, quan liêu, hống hách; phải gây quan hệ thật tốt giữa công an và nhân dân”.

Để phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh với hiện tượng quan liêu, hách dịch, sách nhiễu nhân dân, phải tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kỷ luật; tăng cường thực hiện nghiêm điều lệnh; đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng nhanh, gọn để phục vụ nhân dân được tốt hơn, đồng thời cũng góp phần hạn chế, loại trừ các hiện tượng tiêu cực của CBCS trong khi làm nhiệm vụ.

Học tập, quán triệt 6 điều Bác Hồ dạy CAND, xây dựng mối liên hệ mật thiết giữa lực lượng công an với quần chúng nhân dân là một yêu cầu quan trọng cần phải được nhận thức đúng đắn và thực hiện thường xuyên, nghiêm túc, góp phần xây dựng lực lượng “Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin yêu”

N.V.N.

cand.com.vn
Vkyno (st)

Chỗ này thừa, nơi kia lại quá thiếu

Thành lập các đội trật tự đô thị tại TP HCM:

Sau thời gian dài tính toán, trong ngày 11 và 17/5 vừa qua, TP Hồ Chí Minh đã liên tiếp có các quyết định tổ chức, sắp xếp lại lực lượng thanh tra xây dựng. Theo đó, Sở Xây dựng sẽ thành lập thêm 24 đội thanh tra địa bàn trên cơ sở các đội thanh tra xây dựng ở cấp quận, huyện hiện nay.

Trong tổng số gần 3.000 thanh tra, cộng tác viên thanh tra xây dựng các cấp trước đây, hiện Sở Xây dựng đã chọn được khoảng 860 cán bộ, nhân viên thanh tra đủ điều kiện để tuyển về các đội thanh tra phụ trách địa bàn quận, huyện. So với biên chế được duyệt là 1.060 thì hiện thanh tra xây dựng chỉ còn thiếu khoảng 200 người.

Ngoài phương án sắp xếp trên, lực lượng thanh tra và cộng tác viên thanh tra xây dựng còn lại gần 1.900 người cũng được chính quyền thành phố cho phép các quận, huyện được thành lập thêm các đội trật tự đô thị trực thuộc phòng quản lý đô thị. Lực lượng trật tự đô thị được xác định sẽ chỉ tập trung kiểm tra, xử lý các lĩnh vực như trật tự lòng lề đường, vệ sinh môi trường, thi hành các quyết định hành chính của UBND quận, huyện và những nhiệm vụ khác do quận, huyện giao. Tuy nhiên, để bố trí việc làm cho tất cả số lượng thanh tra, cộng tác viên xây dựng còn dôi dư, phương án được đưa ra là bình quân mỗi đội quản lý trật tự đô thị quận, huyện sẽ có 24 công chức và 54 cộng tác viên.

Với cách sắp xếp này, thực tế quỹ lương ngân sách thành phố trả cho lực lượng thanh tra xây dựng và trật tự đô thị không tăng thêm nhiều do trước đây cũng đã phải trả. Song khi có thêm đến 76 con người tập trung về 1 phòng chức năng của quận huyện, ngoài việc lo bố trí trụ sở làm việc, nhiệm vụ của lực lượng trật tự đô thị cũng vẫn như cũ. Bởi việc xử phạt trật tự lòng lề đường đã được giao cho lực lượng Công an, dân phòng cấp phường, xã và lực lượng Cảnh sát giao thông – trật tự cấp quận huyện. Với việc kiểm tra, xử phạt vi phạm về môi trường, ngoài thanh tra chuyên ngành tài nguyên – môi trường, các quận huyện còn có lực lượng Cảnh sát môi trường đảm trách.

Vì vậy, trong khi các lực lượng chuyên trách của cấp quận, huyện e ngại chuyện có thêm các đội trật tự đô thị quận, huyện tham gia, việc kiểm tra xử phạt sẽ chồng chéo; thì nhiều người dân cũng tỏ ra lo lắng việc lực lượng trật tự đô thị sẽ lại ra đường xử phạt như thanh tra xây dựng trước đây do chỉ khác ở màu áo.

Nghịch lý ở chỗ, trong khi các phòng quản lý đô thị vốn đã ổn về định biên lại được tăng thêm quá nhiều người như vậy. Nhưng ở các phòng chuyên trách khác của các quận, huyện, chẳng hạn như Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội lại quá thiếu người. Bộ phận kiểm tra, giám sát thực hiện các chế độ về lao động, tiền lương… cho cả chục ngàn doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trên địa bàn đông dân như quận Tân Bình, Gò Vấp, Bình Tân, Thủ Đức… chỉ có vài ba cán bộ chuyên viên đảm trách dẫn đến tình trạng quá tải kéo dài nhiều năm qua

Đ.Thắng

Theo cand.com.vn
Vkyno (st)

Sáu điều dạy của Bác Hồ đối với Công an nhân dân vẫn giữ nguyên giá trị thời sự trong thời kỳ đất nước phát triển, hội nhập

Kỷ niệm 65 năm CAND học tập, thực hiện sáu điều Bác Hồ dạy:

GS. TS. Nguyễn Hồng Vinh
Cách đây 65 năm, ngày 11/3/1948, Bác Hồ đã viết thư gửi đồng chí Hoàng Mai, Giám đốc Công an khu XII về “Tư cách người công an cách mệnh”.

Lời dạy của Bác Hồ đã trở thành lời huấn thị chung cho toàn lực lượng CAND, trở thành di sản tinh thần thiêng liêng, vô giá; là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của lực lượng CAND, góp phần quan trọng làm nên nhiều chiến công vẻ vang của lực lượng CAND từ đó đến nay.

Sáu lời dạy của Bác tuy ngắn gọn, dễ hiểu, nhưng có ý nghĩa toàn diện, cơ bản trong quá trình tu dưỡng, rèn luyện đối với mỗi CBCS công an, chẳng những phù hợp trình độ văn hóa và hoàn cảnh chiến tranh trong những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, mà còn có giá trị nhân văn lâu dài trong giai đoạn lịch sử chống Mỹ, cứu nước, xây dựng CNXH, đổi mới và hội nhập quốc tế hôm nay của đất nước ta.

Đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu công phu về ý nghĩa 6 lời dạy của Bác Hồ đối với CAND. Ở bài viết này, chúng tôi muốn nhấn mạnh 2 vấn đề căn cốt trong 6 điều dạy của Bác, đó là tư cách của người công an cách mệnh trong quan hệ đối với Chính phủ và nhân dân.

Có ý kiến cho rằng, tại sao trong lời dạy đó, Bác chỉ nói: “Đối với Chính phủ…”, mà không đề cập tình cảm của người cán bộ công an đối với Đảng? Tại sao Người không dạy “Đối với Đảng, phải tuyệt đối trung thành”?

Cần nhớ lại thời điểm lịch sử năm 1948, đó là thời kỳ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của chúng ta đang ở giai đoạn cầm cự, gặp vô vàn khó khăn.

Để tập hợp, đoàn kết tất cả các lực lượng trong nước, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố “giải tán Đảng Cộng sản”, thực chất là chỉ đạo Đảng ta rút vào hoạt động bí mật dưới danh nghĩa “Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác” để tiếp tục lãnh đạo cuộc kháng chiến kiến quốc. Chính vì đặc điểm lịch sử đó, trong thư, Bác chỉ nói “Đối với Chính phủ…”.

Trong bối cảnh như vậy, lực lượng công an triển khai học tập, thực hiện lời dạy của Người, đều hiểu rõ sự trung thành với Chính phủ cũng có nghĩa là trung thành với Đảng, với Tổ quốc. Nội hàm Đảng – Chính phủ – Tổ quốc ở đây thống nhất làm một.

Đây là điều cốt tử để sau này lực lượng CAND xây dựng thành nội dung 5 lời thề danh dự CAND Việt Nam và trở thành nguyên tắc sống còn trong cơ cấu, tổ chức lực lượng cũng như phương thức công tác, chiến đấu của lực lượng công an Việt Nam.

Bác từng nhiều lần căn dặn cán bộ phải là “công bộc” của dân, là “đầy tớ” của dân. Với công an, Bác Hồ dạy “Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép”, đó là nội dung cụ thể và rất dễ hiểu để thực hiện.

Trong suốt quá trình giáo dục, rèn luyện lực lượng CAND, Bác Hồ đã dành sự lưu tâm đặc biệt căn dặn cán bộ công an coi trọng việc xây dựng mối liên hệ mật thiết với nhân dân.

Năm 1951, với tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta bước vào thời kỳ gấp rút chuẩn bị mọi mặt cho giai đoạn chuyển mạnh sang tổng phản công chống thực dân Pháp, lực lượng Công an tiến hành đào tạo những lớp học viên công an có trình độ trung cấp nhằm cung cấp nguồn nhân lực, đáp ứng kịp thời những đòi hỏi mới của cuộc kháng chiến.

Trước yêu cầu đó, tại châu Sơn Dương, Tuyên Quang (Việt Bắc), Trường Công an Trung cấp được vinh dự đón Bác đến thăm. Bác căn dặn CBCS công an phải nhận thức đầy đủ vị trí, nhiệm vụ của mình trong việc bảo vệ nền chuyên chính dân chủ nhân dân – đó là điểm khác biệt về bản chất giữa công an đế quốc với CAND Việt Nam.

Bác nhấn mạnh, người CAND trong chế độ mới cần nâng cao nhận thức tư tưởng chính trị, gắn liền với ý chí khắc phục khó khăn, ra sức thi đua sáng tạo để đáp ứng kịp thời những đòi hỏi mới của cuộc kháng chiến, kiến quốc. Bác dạy trong quan hệ với dân, lực lượng công an phải ghi nhớ: “Khi nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành công ít, giúp đỡ ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn”.

Đó là những lời dạy giản dị, sâu sắc, dễ thấm sâu vào tâm tư, tình cảm mỗi người, ai cũng có thể hiểu để vận dụng trong thực tiễn công tác.

Cũng như vậy, ngày 16/5/1959, nói chuyện với CBCS và học viên khóa II lớp chỉnh huấn tại Trường Công an Trung ương, Bác lại nhắc: “Làm công an thì phải làm cho dân tin, dân yêu, dân ủng hộ. Có dựa vào nhân dân thì công an mới hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Nhân dân có hàng triệu tai mắt thì kẻ địch khó mà che giấu được. Nếu trong công tác công an, các cô, các chú được dân ủng hộ, làm cho dân tin, dân phục, dân yêu thì nhất định các cô, các chú thành công. Muốn được như vậy cũng phải trau dồi đạo đức cách mạng, cũng phải chống chủ nghĩa cá nhân”.

Trong suốt 65 năm qua, khi có chiến tranh cũng như trong điều kiện đất nước hòa bình, phong trào học tập, thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy luôn luôn được duy trì, phát triển sâu rộng và là một phong trào thi đua lớn nhất của lực lượng CAND.

Qua phong trào thi đua học tập và thực hiện 6 điều Bác dạy, đã xuất hiện ngày càng nhiều những tấm gương CBCS công an không ngại gian khổ, không sợ hy sinh, tận tụy công tác, dũng cảm chiến đấu, lập nhiều thành tích và chiến công xuất sắc, góp phần tô thắm truyền thống vẻ vang của lực lượng CAND anh hùng.

Nhiều CBCS đã hy sinh anh dũng trong phòng, chống tội phạm, bảo vệ tính mạng và tài sản vì cuộc sống bình yên của nhân dân, như: Anh hùng, liệt sỹ Lâm Văn Thạnh (Công an tỉnh Lâm Đồng); Lưu Thế Hà (Cục Cảnh sát bảo vệ và Hỗ trợ tư pháp); Lê Thanh Á (Công an TP Hải Phòng); Nguyễn Văn Ngữ (Công an TP Hà Nội); Phạm Văn Cường (Công an tỉnh Lai Châu)… Đó là những minh chứng sống động về kết quả to lớn của phong trào “CAND học tập, thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy”.

Và còn có hàng nghìn, hàng vạn CBCS công an không tiếc máu xương, chiến đấu kiên cường, dũng cảm trong quá trình bảo vệ ANTT của Tổ quốc, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân. Đó là những bằng chứng sinh động về kết quả to lớn của phong trào “CAND học tập, thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy” trong 65 năm qua.

Thời gian tới, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của nước ta, trong đó có lĩnh vực bảo vệ ANTT.

Ở trong nước, bên cạnh những thời cơ thuận lợi, đất nước ta đang phải đối mặt với những nguy cơ, thách thức không nhỏ. Các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hòa bình”; triệt để lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền hòng gây mất ổn định chính trị. Đặc biệt, quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đã và đang xuất hiện những biểu hiện mới, phức tạp, tinh vi. Vấn đề an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống đang đặt ra nhiều thách thức…

Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ những nhiệm vụ hết sức nặng nề của sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, đó là “Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; giữ vững ổn định chính trị – xã hội, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, TTATXH; ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch…”, trong đó giữ vững ANQG, TTATXH là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, mà lực lượng CAND là lực lượng nòng cốt.

Hiến pháp 1992 sửa đổi cũng quy định (Điều 73 dự thảo): “CAND Việt Nam được xây dựng chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, làm nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH, đấu tranh phòng chống tội phạm”.

Để thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ đó, hơn lúc nào hết, lực lượng CAND cần tiếp tục đẩy mạnh phong trào “CAND học tập, thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy”, đưa phong trào phát triển lên tầm cao mới.

Trong thời đại và hoàn cảnh lịch sử ngày nay, theo chúng tôi, cần phải tổ chức nghiên cứu sâu sắc hơn nữa giá trị bền vững và ý nghĩa thời sự của 6 điều Bác Hồ dạy CAND, tiếp tục tuyên truyền và phổ biến ý nghĩa cách mạng, khoa học, nhân văn và giá trị thực tiễn to lớn của 6 điều Bác Hồ dạy.

Mỗi CBCS cần nhận thức rằng, việc duy trì và phát triển phong trào thi đua “CAND học tập, thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy” là nhiệm vụ thường xuyên và là định hướng cơ bản để tạo ra tiền đề quan trọng nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu xây dựng lực lượng CAND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại

N.H.V.

Theo cand.com.vn
Vkyno (st)

Quán triệt và vận dụng 6 điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm

Trung Tướng Phan Văn Vĩnh (Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Cảnh Sát Phòng, Chống Tội Phạm)
Là một bộ phận của lực lượng Công an nhân dân (CAND), ra đời từ cách mạng tháng Tám 1945, trong suốt chặng đường vẻ vang của dân tộc, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, của Bác Hồ, được sự giúp đỡ của nhân dân, lực lượng Cảnh sát nhân dân (CSND) đã vượt qua khó khăn, thử thách, thể hiện rõ vai trò nòng cốt, xung kích trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự (ANTT) của đất nước.

Quá trình công tác, chiến đấu, trưởng thành của lực lượng CAND nói chung, lực lượng CSND nói riêng, luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh rèn luyện, lãnh đạo sát sao.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ bản chất nhân dân là cốt lõi của Công an cách mạng, phương thức tốt nhất để lực lượng Công an hoàn thành nhiệm vụ là phải “dựa vào nhân dân mà làm việc”; “làm Công an thì phải làm cho dân tin, dân yêu, dân ủng hộ”. Có dựa vào nhân dân thì Công an mới hoàn thành tốt được nhiệm vụ của mình…”.

Bác chỉ rõ, dựa vào dân không có nghĩa là trông chờ, ỷ lại, dựa dẫm hoàn toàn vào dân mà phải làm sao biết nắm bắt, chủ động khai thác và phối hợp với sức mạnh của nhân dân trong công tác, nhất là trong công tác đấu tranh giữ gìn ANTT.

CBCS công an phải biết nhận phần khó về mình, tạo thuận lợi cho nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân – đó là yếu tố quan trọng để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ và cũng là nhân tố quyết định để được nhân dân tin yêu, giúp đỡ.

Muốn phát huy được sức mạnh của nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi công an viên phải giữ đúng tư cách, đạo đức; tự rèn luyện “cần, kiệm, liêm, chính” để không “trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”, và cách ứng xử phù hợp trong các mối quan hệ: với đồng sự, với Chính phủ, với nhân dân, với địch.

Trong các mối quan hệ đó, nền cơ bản vẫn là nhân dân mà yêu cầu về tư cách người Công an là phải kính trọng, lễ phép. “Công an với dân phải đoàn kết -nghĩa là phải khuyến khích cho dân phê bình Công an”, phải khéo – “nghĩa là phải thực sự trung thành, tôn kính, thương yêu dân”.

Đối với công việc, Người yêu cầu mỗi CBCS phải “tận tụy”, “phải đặt việc nước lên trên, lên trước việc tư, việc nhà” và “đã phụ trách công việc gì thì quyết làm cho kỳ được, cho đến nơi, đến chốn, không sợ khó nhọc, không sợ nguy hiểm. Bất kỳ việc to, việc nhỏ, phải có sáng kiến, phải có kế hoạch, phải cẩn thận, phải quyết làm cho thành công”.

Mỗi CBCS luôn tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, không hoang mang, dao động, mất lòng tin dù khi cách mạng gặp khó khăn hay trong những tình huống chiến đấu ác liệt, hoặc trước những cám dỗ, ham muốn của đời thường.

Đồng đội phải biết “thân ái, giúp đỡ” nhau “từ cấp trên cho đến nhân viên phải đoàn kết nhất trí”; “Cấp trên phải chú ý đến đời sống vật chất và tinh thần của chiến sĩ… đoàn kết và học tập lẫn nhau, luôn luôn giúp đỡ nhau tiến bộ”.

Đối với kẻ địch phải cương quyết, khôn khéo trong mọi hoàn cảnh, giữ vững bản lĩnh chính trị, ý chí chiến đấu. Những lời chỉ bảo ngắn gọn, súc tích, dễ nhớ đó đã trở thành những nguyên tắc, triết lý, phương châm hành động của mỗi CBCS Công an nói chung, lực lượng CSND nói riêng trong suốt chặng đường lịch sử đấu tranh giữ gìn ANTT, bảo vệ bình yên cho Tổ quốc.

Từ những năm đầu mới thành lập, đặc biệt là trong những ngày bão táp của Cách mạng tháng 8/1945, các tổ chức Cảnh sát đầu tiên của lực lượng CSND đã phối hợp chặt chẽ với lực lượng Liêm phóng trấn áp các đối tượng và tổ chức phản cách mạng, lưu manh côn đồ; làm thất bại âm mưu gây mất ANTT, bạo loạn hòng lật đổ chính quyền cách mạng còn non trẻ; bài trừ tệ nạn xã hội, giữ gìn trật tự trị an ở các thành phố, thị xã, góp phần bảo vệ an toàn các đồng chí lãnh đạo Đảng, Chính phủ, các cơ quan, nhà máy…

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, lực lượng CSND đã luôn sát cánh cùng với quân và dân cả nước đánh thắng kẻ thù xâm lược, bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân; tích cực phòng ngừa, đấu tranh không khoan nhượng với các loại tội phạm, giữ vững ANTT xây dựng miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, làm hậu phương lớn cho miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, làm nên đại thắng mùa Xuân năm 1975.

Hình ảnh những CBCS CSND dũng cảm chiến đấu dưới mưa bom, bão đạn, xả thân bảo vệ nhân dân, bảo vệ tài sản Nhà nước đã trở thành những kí ức đẹp không phai mờ trong lòng nhân dân.

Bước vào thời kỳ đổi mới, cùng với việc triển khai đồng bộ, có hiệu quả các mặt công tác nghiệp vụ, lực lượng Cảnh sát phòng, chống tội phạm (PCTP) đã tập trung đẩy mạnh việc quán triệt, học tập và vận dụng linh hoạt, sáng tạo 6 điều Bác Hồ dạy trong rèn luyện và thực hiện nhiệm vụ, tạo những chuyển biến tích cực, rõ nét trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Gương liêm khiết, người tốt, việc tốt trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm xuất hiện ngày càng nhiều.

Quán triệt sâu sắc lời dạy “Đối với nhân dân phải kính trọng, lễ phép”, lực lượng Cảnh sát PCTP đã không ngừng tự rèn luyện, đổi mới các mặt công tác cũng như trong tiếp xúc, giải quyết công việc với nhân dân. Đã xây dựng hàng trăm mô hình, tổ chức quần chúng tham gia phòng, chống tội phạm, bảo vệ ANTT; phòng, chống ma túy, mại dâm… như phong trào: “Tự phòng, tự quản, tự bảo vệ”; “Quản lý giáo dục con em trong gia đình không phạm tội và tệ nạn xã hội”…

Qua tổng kết, có tới 60 – 70% tin tố giác về tội phạm của quần chúng có giá trị giúp cơ quan chức năng phát hiện kịp thời, điều tra, xử lý nhiều vụ phạm tội; vận động hơn 28.560 đối tượng phạm tội ra đầu thú; bắt giữ gần 15.000 đối tượng truy nã, trốn thi hành án…

Kết quả đó khẳng định vai trò quan trọng của phong trào quần chúng trong giữ gìn TTATXH, đồng thời thể hiện sự tin tưởng, đồng lòng của nhân dân với lực lượng Cảnh sát trong thực hiện nhiệm vụ.

Lời dạy “Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành” đã trở thành nguyên tắc hàng đầu trong các mặt công tác Công an nói chung và trong đấu tranh phòng, chống tội phạm nói riêng.

Trong những năm qua, lực lượng Cảnh sát PCTP đã tập trung tham mưu cho Trung ương Đảng, Chính phủ chỉ đạo thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm như: Nghị quyết số 09 về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình hình mới”; Chỉ thị số 48 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới”; xây dựng chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm đến năm 2020…

Các nghị quyết, chương trình, chỉ thị trên được quán triệt đến toàn thể CBCS, thể hiện rõ quyết tâm đấu tranh chống lại mọi luận điệu, quan điểm sai trái hòng làm giảm vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ giữ gìn TTATXH.

Trước tình hình tội phạm đang diễn biến phức tạp, phương thức, thủ đoạn hoạt động ngày càng tinh vi, có sự móc nối, tổ chức chặt chẽ trong hoạt động phạm tội… lực lượng Cảnh sát PCTP luôn nêu cao bản lĩnh chính trị vững vàng, “cương quyết, khôn khéo” trong đấu tranh với các loại tội phạm và hành vi tiêu cực.

Bên cạnh việc tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả các mặt công tác nghiệp vụ cơ bản, lực lượng Cảnh sát PCTP đã tổ chức tốt các đợt cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm; điều tra, xử lý nhiều vụ án liên quan đến các hành vi tham nhũng, cố ý làm trái. Chỉ tính riêng năm 2012, toàn lực lượng đã điều tra, khám phá 37.221 vụ phạm pháp hình sự, 19.582 vụ án về ma túy, 15.690 vụ án về kinh tế, tham nhũng… trong đó nhiều vụ có tính chất nghiêm trọng.

Trải qua các giai đoạn cách mạng, lực lượng CAND nói chung, lực lượng CSND nói riêng luôn coi 6 điều Bác Hồ dạy là kim chỉ nam cho mọi hoạt động, định hướng cho mỗi CBCS Công an những nguyên tắc hành động, rèn luyện phẩm chất, năng lực, phương pháp công tác, vượt qua khó khăn, thử thách, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.

Để hoàn thành nhiệm vụ trong giai đoạn mới, lực lượng Cảnh sát PCTP không ngừng xây dựng lực lượng vững mạnh toàn diện, nâng cao chất lượng, hiệu quả các mặt công tác, tiếp tục đẩy mạnh phong trào “Học tập, thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy CAND” gắn với triển khai, thực hiện hiệu quả, thiết thực Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh – CAND vì nước quên thân, vì dân phục vụ”, “CAND chấp hành nghiêm điều lệnh; xây dựng nếp sống văn hóa vì nhân dân phục vụ”, góp phần xứng đáng cùng toàn Đảng, toàn dân bảo vệ vững chắc sự nghiệp cách mạng, giữ vững ANTT của đất nước

P.V.V.

Theo cand.com.vn
Vkyno (st)

Đảng lãnh đạo toàn diện lực lượng vũ trang

PGS.TS Nguyễn Viết Thông (Tổng Thư Ký Hội Đồng Lý Luận Trung Ương)
Sự ra đời và tồn tại của lực lượng vũ trang gắn liền với sự ra đời và tồn tại của Nhà nước.

Với tư cách là một tổ chức của Nhà nước, do Nhà nước xây dựng, nên lực lượng vũ trang bao giờ cũng mang bản chất giai cấp của Nhà nước.

C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định rằng, lực lượng vũ trang của bất cứ nhà nước bóc lột nào cũng đều là công cụ bạo lực chủ yếu để bảo vệ lợi ích của giai cấp bóc lột, để đàn áp những người lao động, để thực hiện chính sách xâm lược của chúng.

V.I.Lênin đã bảo vệ và phát triển lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen về lực lượng vũ trang, chỉ rõ lực lượng vũ trang của các nước tư sản “là công cụ vững chắc nhất để duy trì chế độ cũ, là thành trì kiên cố nhất để bảo vệ trật tự tư sản và sự thống trị của tư bản” (V.I.Lênin: Toàn tập, tập 37, NXB CTQG, HN 2001, tr.361).

Đồng thời, V.I.Lênin đã khẳng định bản chất giai cấp của quân đội kiểu mới – quân đội của giai cấp vô sản: “Quân đội chúng ta là quân đội của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản”.

V.I.Lênin cũng đã phê phán những quan điểm cho rằng quân đội “trung lập hoá” chính trị, “phi chính trị”. Người chỉ rõ: “Quân đội không thể và không nên trung lập. Không lôi kéo quân đội vào chính trị – đó là khẩu hiệu của bọn tôi tớ giả nhân giả nghĩa của giai cấp tư sản và của chế độ Nga hoàng, bọn này trong thực tế bao giờ cũng lôi kéo quân đội vào chính trị phản động”.

VI.Lênin đã đề ra những nguyên tắc căn bản xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới: Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với lực lượng vũ trang; quan điểm giai cấp trong xây dựng lực lượng vũ trang; sự thống nhất giữa lực lượng vũ trang và nhân dân… Trong đó, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nguyên tắc quan trọng nhất, quyết định sức mạnh, sự tồn tại và phát triển của lực lượng vũ trang.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận của V.I.Lênin về lực lượng vũ trang kiểu mới, sáng lập ra lực lượng vũ trang của dân tộc ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng xây dựng bản chất cách mạng của lực lượng vũ trang.

Nói về quân đội, Người chỉ rõ: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 11, NXB CTQG, HN, 2002, tr.350).

Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập, giáo dục và rèn luyện. Từ khi ra đời đến nay, lực lượng vũ trang không ngừng phát triển và đã thực sự trở thành lực lượng chính trị – vũ trang hùng mạnh, trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Nhờ có đường lối đúng đắn, có chiến lược và sách lược phù hợp, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam cùng với toàn dân ta làm nên những thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa dân tộc tiến vào kỷ nguyên độc lập tự do, thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa xuân năm 1995, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế.

Lịch sử, gần 70 năm qua đã khẳng định nhờ sự lãnh đạo toàn diện đúng đắn, tài tình của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, nên lực lượng vũ trang cùng toàn dân đã làm nên những kỳ tích nêu trên.

Sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của lực lượng vũ trang nói riêng, của cách mạng Việt Nam nói chung.

Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam từ khi ra đời đến nay luôn luôn là lực lượng trung thành, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Tổ quốc gắn liền với bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ.

Sinh ra và lớn lên trong phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân, của dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam thật sự là lực lượng vũ trang của nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Cội nguồn sức mạnh của lực lực lượng vũ trang là từ nhân dân, ở trong nhân dân. Bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ thiêng liêng của lực lượng vũ trang.

Trong chế độ ta, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Tổ quốc gắn liền với bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ. Đảng ra đời, tồn tại là vì nhân dân, vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng chế độ mới.

Do đó lực lượng vũ trang là lực lượng trung thành với Tổ quốc, nhân dân, và Đảng Cộng sản Việt Nam, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế.

Hiến pháp là đạo luật cơ bản, thể hiện tập trung ý chí, nguyện vọng của nhân dân và lực lượng lãnh đạo xã hội, có quy định những nội dung về bảo vệ Tổ quốc và các lực lượng vũ trang nhân dân là đúng đắn, cần thiết.

Hiến pháp năm 1980, Chương IV. Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, có 2 điều, trong đó Điều 51 quy định: “Các lực lượng vũ trang nhân dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ những thành quả cách mạng, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, tự do, hạnh phúc và lao động hoà bình của nhân dân, cùng toàn dân xây dựng nước nhà”.

Hiến pháp năm 1992, Chương IV. Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, có 5 điều, trong đó Điều 45 quy định “Các lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và những thành quả của cách mạng, cùng toàn dân xây dựng đất nước”.

Kế thừa những bản Hiến pháp trước đây, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, công bố lấy ý kiến nhân dân, Chương IV. Bảo vệ Tổ quốc, giữ 5 điều, nhưng có sửa đổi, bổ sung trong từng điều, trong đó Điều 70 quy định: “Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế”.

Đa số nhân dân đồng tình với Dự thảo, có đề nghị thay đổi trật tự một số cụm từ và kiến nghị viết như sau: “Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, nhân dân, với Đảng Cộng sản Việt Nam, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế”.

Sửa đổi, bổ sung như trên là chính xác. So với Hiến pháp năm 1992 có bổ sung quy định lực lượng vũ trang không chỉ trung thành với Tổ quốc và nhân dân mà còn trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì Điều 4 đã quy định: Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước.

Bổ sung quy định lực lượng vũ trang bảo vệ nhân dân, Đảng, Nhà nước là đúng đắn. Đồng thời, bổ sung nhiệm vụ “thực hiện nghĩa vụ quốc tế” phù hợp với quyết định của Đại hội XI là hội nhập quốc tế, trong đó có hội nhập quốc tế về quốc phòng, an ninh

N.V.T.

Theo cand.com.vn
Vkyno (st)

Đảng lãnh đạo toàn diện lực lượng vũ trang

PGS.TS Nguyễn Viết Thông (Tổng Thư Ký Hội Đồng Lý Luận Trung Ương)
Sự ra đời và tồn tại của lực lượng vũ trang gắn liền với sự ra đời và tồn tại của Nhà nước.

Với tư cách là một tổ chức của Nhà nước, do Nhà nước xây dựng, nên lực lượng vũ trang bao giờ cũng mang bản chất giai cấp của Nhà nước.

C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định rằng, lực lượng vũ trang của bất cứ nhà nước bóc lột nào cũng đều là công cụ bạo lực chủ yếu để bảo vệ lợi ích của giai cấp bóc lột, để đàn áp những người lao động, để thực hiện chính sách xâm lược của chúng.

V.I.Lênin đã bảo vệ và phát triển lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen về lực lượng vũ trang, chỉ rõ lực lượng vũ trang của các nước tư sản “là công cụ vững chắc nhất để duy trì chế độ cũ, là thành trì kiên cố nhất để bảo vệ trật tự tư sản và sự thống trị của tư bản” (V.I.Lênin: Toàn tập, tập 37, NXB CTQG, HN 2001, tr.361).

Đồng thời, V.I.Lênin đã khẳng định bản chất giai cấp của quân đội kiểu mới – quân đội của giai cấp vô sản: “Quân đội chúng ta là quân đội của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản”.

V.I.Lênin cũng đã phê phán những quan điểm cho rằng quân đội “trung lập hoá” chính trị, “phi chính trị”. Người chỉ rõ: “Quân đội không thể và không nên trung lập. Không lôi kéo quân đội vào chính trị – đó là khẩu hiệu của bọn tôi tớ giả nhân giả nghĩa của giai cấp tư sản và của chế độ Nga hoàng, bọn này trong thực tế bao giờ cũng lôi kéo quân đội vào chính trị phản động”.

VI.Lênin đã đề ra những nguyên tắc căn bản xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới: Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với lực lượng vũ trang; quan điểm giai cấp trong xây dựng lực lượng vũ trang; sự thống nhất giữa lực lượng vũ trang và nhân dân… Trong đó, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nguyên tắc quan trọng nhất, quyết định sức mạnh, sự tồn tại và phát triển của lực lượng vũ trang.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận của V.I.Lênin về lực lượng vũ trang kiểu mới, sáng lập ra lực lượng vũ trang của dân tộc ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng xây dựng bản chất cách mạng của lực lượng vũ trang.

Nói về quân đội, Người chỉ rõ: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 11, NXB CTQG, HN, 2002, tr.350).

Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập, giáo dục và rèn luyện. Từ khi ra đời đến nay, lực lượng vũ trang không ngừng phát triển và đã thực sự trở thành lực lượng chính trị – vũ trang hùng mạnh, trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Nhờ có đường lối đúng đắn, có chiến lược và sách lược phù hợp, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam cùng với toàn dân ta làm nên những thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa dân tộc tiến vào kỷ nguyên độc lập tự do, thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa xuân năm 1995, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế.

Lịch sử, gần 70 năm qua đã khẳng định nhờ sự lãnh đạo toàn diện đúng đắn, tài tình của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, nên lực lượng vũ trang cùng toàn dân đã làm nên những  kỳ tích nêu trên.

Sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của lực lượng vũ trang nói riêng, của cách mạng Việt Nam nói chung.

Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam từ khi ra đời đến nay luôn luôn là lực lượng trung thành, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Tổ quốc gắn liền với bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ.

Sinh ra và lớn lên trong phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân, của dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam thật sự là lực lượng vũ trang của nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Cội nguồn sức mạnh của lực lực lượng vũ trang là từ nhân dân, ở trong nhân dân. Bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ thiêng liêng của lực lượng vũ trang.

Trong chế độ ta, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Tổ quốc gắn liền với bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ. Đảng ra đời, tồn tại là vì nhân dân, vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng chế độ mới.

Do đó lực lượng vũ trang là lực lượng trung thành với Tổ quốc, nhân dân, và Đảng Cộng sản Việt Nam, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế.

Hiến pháp là đạo luật cơ bản, thể hiện tập trung ý chí, nguyện vọng của nhân dân và lực lượng lãnh đạo xã hội, có quy định những nội dung về bảo vệ Tổ quốc và các lực lượng vũ trang nhân dân là đúng đắn, cần thiết.

Hiến pháp năm 1980, Chương IV. Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, có 2 điều, trong đó Điều 51 quy định: “Các lực lượng vũ trang nhân dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ những thành quả cách mạng, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, tự do, hạnh phúc và lao động hoà bình của nhân dân, cùng toàn dân xây dựng nước nhà”.

Hiến pháp năm 1992, Chương IV. Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, có 5 điều, trong đó Điều 45 quy định “Các lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và những thành quả của cách mạng, cùng toàn dân xây dựng đất nước”.

Kế thừa những bản Hiến pháp trước đây, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, công bố lấy ý kiến nhân dân, Chương IV. Bảo vệ Tổ quốc, giữ 5 điều, nhưng có sửa đổi, bổ sung trong từng điều, trong đó Điều 70 quy định: “Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế”.

Đa số nhân dân đồng tình với Dự thảo, có đề nghị thay đổi trật tự một số cụm từ và kiến nghị viết như sau: “Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, nhân dân, với Đảng Cộng sản Việt Nam, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế”.

Sửa đổi, bổ sung như trên là chính xác. So với Hiến pháp năm 1992 có bổ sung quy định lực lượng vũ trang không chỉ trung thành với Tổ quốc và nhân dân mà còn trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì Điều 4 đã quy định: Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước.

Bổ sung quy định lực lượng vũ trang bảo vệ nhân dân, Đảng, Nhà nước là đúng đắn. Đồng thời, bổ sung nhiệm vụ “thực hiện nghĩa vụ quốc tế” phù hợp với quyết định của Đại hội XI là hội nhập quốc tế, trong đó có hội nhập quốc tế về quốc phòng, an ninh

N.V.T.
cand.com.vn

Quyền giám sát của nhân dân

(VOV) -Lấy phiếu tín nhiệm đề cao trách nhiệm của đại biểu Quốc hội, là một bước tiến mới trong thực hành dân chủ.

Lần đầu tiên trong lịch sử gần 70 năm, hôm qua (11/6) Quốc hội đã công bố kết quả lấy phiếu tín nhiệm đối với 47 chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Nhiều đại biểu Quốc hội và cử tri đánh giá “kết quả tương đối sát thực tế, đáp ứng sự mong đợi của đa số cử tri”. Thông qua lần lấy phiếu tín nhiệm này cho thấy rõ hơn về quyền giám sát của nhân dân.

Với đại biểu Quốc hội, đây được coi là trách nhiệm nặng nề, chứa đựng trong lá phiếu cả cái tâm, cái tầm, cả kỳ vọng nhưng cũng là “sức ép” của cử tri và nhân dân cả nước. Qua cuộc lấy phiếu đầu tiên này, mỗi vị đại biểu sẽ có thêm kinh nghiệm tiếp cận, phân tích thông tin cho những lần bỏ phiếu tiếp theo.

Việc lấy phiếu tín nhiệm các chức danh cấp cao của Nhà nước thể hiện vai trò giám sát tối cao của Quốc hội với tư cách “là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất”; tiếp tục là một bước đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội để quyền lực của nhân dân được thể hiện trên thực tế và trở thành thông lệ trong các đợt sinh hoạt chính trị rộng khắp.

Kết quả lấy phiếu tín nhiệm là lần “chấm điểm” một cách tương đối chính xác để trả lời câu hỏi: Mỗi chức danh Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn đã thực hiện nhiệm vụ đạt kết quả đến đâu? Uy tín của mỗi cán bộ đang giữ trọng trách trong bộ máy nhà nước như thế nào? Đó là cơ sở quan trọng giúp mỗi người được lấy phiếu tín nhiệm “thấy được mức độ tín nhiệm của mình để phấn đấu, rèn luyện, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động; làm cơ sở để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ”.

Lâu nay, cử tri và nhân dân cả nước đánh giá mức độ tín nhiệm những cán bộ giữ vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước (nhất là các Bộ trưởng, trưởng ngành) theo cách riêng của mình. Cách đánh giá đó từ những phiên chất vấn và trả lời chất vấn công khai, được phát thanh truyền hình trực tiếp; qua các buổi tiếp xúc cử tri và thông tin báo chí. Với kết quả lấy phiếu tín nhiệm vừa công bố công khai, có thể được coi là “thước đo” cụ thể nhất, góp phần quan trọng thực hiện nguyên tắc: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”.

Cũng như việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI, việc lấy phiếu tín nhiệm các chức danh được thực hiện “từ trên xuống”; Quốc hội gương mẫu làm trước, tiếp đó sẽ đến HĐND các cấp. Nhiều đại biểu Quốc hội cho rằng, kết quả kiểm điểm phê bình, tự phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 vừa qua là một lần “đánh giá mức độ tín nhiệm” đối với cán bộ, đảng viên trong bộ máy Đảng, nhà nước, đoàn thể. Còn lần lấy phiếu tín nhiệm này, nhằm đánh giá năng lực điều hành, quản lý; đánh giá phẩm chất, đạo đức, lối sống của các vị trí chủ chốt trong bộ máy nhà nước do dân bầu. Nghị quyết Trung ương 4 và Nghị quyết 35 của Quốc hội về lấy phiếu tín nhiệm đều xác định rất rõ: “Căn cứ vào kết quả lấy phiếu, những người hai năm liền tín nhiệm thấp, không hoàn thành nhiệm vụ cần được xem xét cho thôi giữ chức vụ, không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi”. Tinh thần dứt khoát và thống nhất đó, đều thể hiện sự giám sát của nhân dân đối với hoạt động của đảng viên và tổ chức Đảng trong các cơ quan quyền lực nhà nước.

Lấy phiếu tín nhiệm được thực hiện định kỳ hàng năm, không chỉ “đề cao trách nhiệm của đại biểu Quốc hội, bảo đảm tiêu chuẩn của người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; bảo đảm sự ổn định và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, sự lãnh đạo của Đảng trong công tác cán bộ”, mà còn là một bước tiến mới trong thực hành dân chủ.

Hôm nay, Quốc hội bắt đầu phiên chất vấn – một hình thức hoạt động độc lập với lấy phiếu tín nhiệm, nhưng cũng là một cách “chấm điểm” năng lực điều hành của các “Tư lệnh ngành” và cũng là hoạt động giám sát được cử tri mong đợi. Chất vấn và lấy phiếu tín nhiệm tuy hai cách làm nhưng cùng một mục đích là: biến nguyên tắc “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và HĐND” trở thành hiện thực, bởi Quốc hội và HĐND là những cơ quan “do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”./.

Nguyễn Ngọc Năm/VOV- Trung tâm Tin
vov.vn

Lắng nghe, tiếp thu và trọng trách

(VOV) -Đa số ý kiến đều có chung mong muốn: Hiến pháp là ý chí, nguyện vọng của dân, phục vụ lợi ích của dân.

Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đang là một trong những chủ đề “nóng” nhất, được cử tri và nhân dân cả nước cũng như kiều bào ta ở nước ngoài đặc biệt quan tâm. Trong hai ngày 3 và 4/6, Quốc hội dành toàn bộ thời gian thảo luận tại hội trường về dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, được phát thanh, truyền hình trực tiếp để cử tri theo dõi. Đây là đợt sinh hoạt chính trị, pháp lý rộng lớn, dân chủ và sôi nổi nhất từ trước tới nay với hàng triệu ý kiến góp ý tâm huyết của các tầng lớp nhân dân.

Lịch sử lập hiến Việt Nam qua 4 bản Hiến pháp, dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 được tổ chức lấy ý kiến nhân dân một cách rộng rãi nhất, ý kiến nhiều chiều nhất. Chỉ trong vòng 4 tháng, đã có trên 26 triệu lượt ý kiến góp ý của các tầng lớp nhân dân, hơn 28.000 hội nghị, hội thảo, tọa đàm được tổ chức.

Hàng chục vạn bản dự thảo được các đơn vị, địa phương in ấn, phát hành rộng rãi đến từng hộ dân như ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Hàng nghìn bài báo, tham luận, phát biểu, phỏng vấn, tin tức liên quan đến góp ý cho dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 được đăng tải trên các loại hình báo chí.

Không ai có thể phủ nhận sự quan tâm đặc biệt của các tầng lớp nhân dân đối với dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Một vị nguyên là lãnh đạo cấp cao nhận xét: “Chưa bao giờ việc lắng nghe, tiếp thu ý kiến nhân dân lại có kết quả đáng chú ý như vậy. Đây là một bước tiến mới về thực hành dân chủ”.

Đó cũng là sự kế thừa trong việc hoàn thiện hiến pháp kể từ khi xây dựng bản Hiến pháp đầu tiên ở nước ta năm 1946. Mặc dù trong hoàn cảnh “thù trong giặc ngoài” vô cùng khó khăn, chính quyền cách mạng còn non trẻ, nhưng bản dự thảo Hiến pháp 1946 đã được chính thức công bố trên báo in và gửi đến các làng, xã để thu thập ý kiến nhân dân.

Thông cáo của Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa nêu rõ: “Muốn cho tất cả nhân dân Việt Nam dự vào việc lập hiến của nước nhà nên Chính phủ công bố bản dự án Hiến pháp này để mọi người được đọc kỹ càng và tự do bàn bạc, phê bình”.

Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 thu nhận được nhiều ý kiến nhân dân là nhờ trình độ dân trí được nâng cao so với trước đây, cùng với sự bùng nổ của truyền thông và các mạng xã hội. Đặc biệt, người dân đã nhận thức rõ hơn về một bản Hiến pháp dân chủ với nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”; về các quyền cơ bản của họ được ghi nhận, trong đó có quyền sống, quyền lao động, học tập, làm việc, quyền được pháp luật bảo vệ và quyền mưu cầu hạnh phúc. Đó cũng chính là trí tuệ, khát vọng độc lập, tự do, hòa bình và phát triển của nhân dân Việt Nam.

Nhiều ý kiến tâm huyết từ các vị tướng lĩnh từng vào sinh ra tử; từ các nhà khoa học dày công nghiên cứu, chắt lọc tinh hoa Hiến pháp các nước trên thế giới, đến tầng lớp doanh nhân, những cán bộ nghỉ hưu, công nhân, nông dân, tiểu thương và lực lượng vũ trang … Có những ý kiến khác nhau về một vấn đề trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp, nhưng đa số đều có chung mong muốn: Hiến pháp là ý chí, nguyện vọng của dân, phục vụ lợi ích của dân.

Con số 26 triệu lượt ý kiến góp ý vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp chắc chắn chưa hết, nên việc tập hợp, tiếp thu và chọn lọc cần hết sức tỉ mỉ, công phu để có được kết quả tốt nhất. Bởi thực tế chứng minh, đây là diễn đàn rộng rãi để các ý kiến được trao đổi, tranh luận, tìm ra lý lẽ thuyết phục nhất. Chính bởi vậy, tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội gần đây, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã ba lần yêu cầu Ban soạn thảo “phải thật lòng trong tổng hợp, lắng nghe, tiếp thu góp ý của dân”.

Còn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong bản Tổng hợp kiến nghị của cử tri trình bày tại phiên khai mạc kỳ họp thứ 5: “Cử tri kiến nghị Ban soạn thảo tiếp thu nghiêm túc trong quá trình lấy ý kiến góp ý cho dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Nếu điểm nào không tiếp thu thì Ban soạn thảo cũng phải lý giải rõ cho người dân được biết, những vấn đề có ý kiến khác nhau cần tiếp tục thảo luận, làm rõ”.

Quốc hội, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 và các Đại biểu Quốc hội khóa 13 đang gánh vác một trọng trách hết sức nặng nề, nhưng cũng rất vẻ vang. Đó là thay mặt cử tri và nhân dân cả nước sửa đổi Hiến pháp 1992 với rất nhiều nội dung mới. Điều đó đòi hỏi bản lĩnh, trí tuệ, sự lắng nghe và kỹ năng tiếp thu ý kiến của các đại biểu để cho ra đời một bản Hiến pháp có chất lượng, thể hiện đúng nguyện vọng của đại đa số cử tri và nhân dân cả nước./.

Ngọc Năm/VOV-Trung tâm tin
vov.vn

Tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt

Trung Tướng Nguyễn Văn Thanh (Chính Ủy Quân Chủng Phòng Không – Không Quân)
Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam ra đời từ các phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân, được Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức xây dựng, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện, nhằm bảo vệ lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, vì độc lập dân tộc và CNXH bằng bạo lực vũ trang.

Thời gian qua, lợi dụng quá trình đóng góp ý kiến vào bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, nhiều cá nhân, tổ chức, đối tượng thù địch trong và ngoài nước đã đưa ra những ý kiến, quan điểm sai trái, thậm chí đi ngược lại với lợi ích của quốc gia, dân tộc như: Góp ý đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi bỏ Điều 4 của bản Dự thảo Hiến pháp 1992, đòi Việt Nam thực hiện chế độ đa nguyên, đa đảng; đòi tam quyền phân lập; đòi tư hữu hóa đất đai, các nguồn tài nguyên thiên nhiên; họ đòi “phi chính trị hóa” các lực lượng vũ trang nhân dân,… trong đó luận điệu “phi chính trị hóa” quân đội được chúng xác định là một nội dung trọng tâm để chống phá Đảng Cộng sản và Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

Những người ủng hộ quan điểm này còn cho rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ có kinh nghiệm lãnh đạo đất nước trong chiến tranh, không có kinh nghiệm và năng lực lãnh đạo xây dựng, phát triển đất nước trong thời bình; họ cho rằng: Đảng đã “hoàn thành sứ mệnh cao cả”, nay nên trao lại quyền lãnh đạo đất nước cho “lực lượng dân chủ cấp tiến”.

Thực hiện nội dung cơ bản này, các thế lực thù địch dùng nhiều ngón đòn và các chiêu bài khác nhau, với nhiều giọng điệu khác nhau, khi thì đứng hẳn về phía đối lập ra sức và trực diện chống phá, khi thì như là “người trong cuộc” thể hiện “thiện chí khách quan” tham gia góp ý vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp, họ cố gắng lôi kéo, tìm kiếm, “khuyên nhủ” mọi người nên thế này, thế khác.

Sự thật, từ những năm 90 của thế kỷ XX, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động luôn thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội, đây là một thủ đoạn trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, nhằm tước bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, làm cho quân đội “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” mất phương hướng, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, xa rời bản chất giai cấp công nhân, dẫn đến suy yếu về chính trị, tiến tới làm cho quân đội bị vô hiệu hóa.

Mục tiêu “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch không có gì khác là muốn làm cho quân đội ta dần dần biến chất, từ quân đội của nhân dân, mang bản chất của giai cấp công nhân, trở thành một đội quân phản bội lại lợi ích của Đảng, của nhân dân, bảo vệ cho lợi ích của các tầng lớp, giai cấp tư sản.

Để thực hiện mục tiêu “phi chính trị hóa” quân đội, chúng tập trung phủ nhận học thuyết Mác-Lênin về giai cấp và đấu tranh giai cấp, xuyên tạc tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng về quân sự, quốc phòng, an ninh, về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Chúng rêu rao: “Quân đội phải là một lực lượng trung lập”; “Quân đội phải đứng ngoài chính trị”. Tuy nhiên, thực tiễn khẳng định: Không có một quân đội nào “đứng ngoài chính trị”, là “trung lập”.

Cả lý luận và thực tiễn cho chúng ta thấy những bài học rất sâu sắc về vấn đề này. Đối với nước ta hiện nay, các thế lực thù địch tiếp tục vận dụng “bài học kinh nghiệm” đó. Phải chăng là thủ đoạn thực hiện tinh vi hơn, hình thức đa dạng và khó lường hơn, tính chất nguy hiểm hơn, với ảo tưởng sẽ có được một kết quả tương tự. Âm mưu thật thâm độc! Chỉ có điều Việt Nam hoàn toàn khác, mà họ đang cố tìm cách xâm nhập.

Mặc dù vậy, họ không dễ dàng từ bỏ âm mưu; trái lại, bằng mọi thủ đoạn, họ đã và đang thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ ta, “phi chính trị hóa” quân đội. Nhưng họ có đạt được mục tiêu đó không, nhân tố quyết định không thuộc về những kẻ phản bội đất nước mà do ta.

Quân đội ta là quân đội cách mạng, quân đội của dân, do dân và vì nhân dân, gắn bó “máu thịt” với Đảng, với nhân dân. Mối quan hệ đó được tôi luyện bằng máu và nước mắt qua mấy chục năm chống kẻ thù xâm lược trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.

Vì thế, bất cứ thế lực nào, dù mạnh và hiểm độc đến đâu cũng không thể chia rẽ được quân đội với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Đó là điều tất yếu, đã, đang và sẽ tiếp tục được khẳng định.

Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam ra đời từ các phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân, được Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức xây dựng, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện, nhằm bảo vệ lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, vì độc lập dân tộc và CNXH bằng bạo lực vũ trang.

Quân đội ta không có mục tiêu chiến đấu nào khác là độc lập dân tộc và CNXH để đem lại tự do, bình đẳng và hạnh phúc cho nhân dân lao động. Đó cũng là mục tiêu chính trị cao cả của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Quân đội ta không chỉ mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân mà còn mang đầy đủ tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Bản chất của QĐND Việt Nam thể hiện rõ nét ở sự thống nhất về tính đảng, tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc, được biểu hiện sinh động ở lý tưởng chiến đấu, cơ sở chính trị-xã hội, cơ chế lãnh đạo, chỉ huy và chức năng, nhiệm vụ của quân đội.

Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng trong quân đội. Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch.

Thực hiện vấn đề này, trước hết phải luôn giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với QĐND Việt Nam; tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết 51 của Bộ Chính trị (khóa IX) về hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy, gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong QĐND Việt Nam.

Đồng thời, quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 BCH Trung ương (khóa XI) về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; không ngừng chăm lo xây dựng các tổ chức đảng các cấp trong quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực, suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; những biểu hiện lệch lạc về chính trị trong đội ngũ cán bộ, đảng viên; tiếp tục quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện tốt cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.

Qua đó, xây dựng tổ chức đảng các cấp trong quân đội thật sự trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, lãnh đạo đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống.

Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội thời kỳ hội nhập quốc tế, trước hết cần tập trung cụ thể hóa và tổ chức thực hiện nghiêm túc cơ chế, hệ thống chế định và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang nói chung, của QĐND Việt Nam nói riêng. Cần nhận thức sâu sắc hơn về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của quân đội trong thời kỳ mới; kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội, đòi đa nguyên, đa đảng, coi việc xây dựng quân đội chỉ để dùng trong chiến tranh và lo đối phó với chiến tranh.

Tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN đòi hỏi phải sử dụng hợp lý và phát huy tối ưu vai trò của quân đội trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, trong xử trí các tình huống; ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cán bộ, đảng viên. Thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị của quân đội, sẵn sàng đối phó thắng lợi với mọi tình huống phức tạp có thể xảy ra, bảo đảm cho đất nước luôn chủ động về chiến lược.

Thực hiện điều này cần có những quy định thật rõ ràng, cụ thể về trách nhiệm và thẩm quyền của BCH Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Quân ủy Trung ương, của Tổng Bí thư đồng thời là Bí thư Quân ủy Trung ương, của Chủ tịch nước đồng thời là Thống lĩnh các lực lượng vũ trang đối với các vấn đề tổ chức và hoạt động của các lực lượng vũ trang nhân dân.

Đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội, tiếp tục tăng cường và giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội là vấn đề chiến lược có tính kế thừa những bài học kinh nghiệm trong đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Trong quá trình lãnh đạo, Đảng cần tích cực tổng kết thực tiễn kết hợp với nghiên cứu lý luận để nhận thức ngày càng sâu sắc hơn vai trò lãnh đạo của Đảng, không ngừng bổ sung, hoàn thiện và nâng cao hiệu lực cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, xã hội nói chung và QĐND Việt Nam nói riêng trong thời kỳ mới

N.V.T.
cand.com.vn

Điều đầu tiên trong 6 điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân là xuất phát điểm, phạm trù gốc

PGS.TS Trần Minh Trưởng – Viện Trưởng Viện Hồ Chí Minh, Học Viện CT – HCQG Hồ Chí Minh
Trong 6 điều Bác Hồ dạy CAND, không phải ngẫu nhiên, điều đầu tiên Bác Hồ căn dặn các chiến sĩ Công an: “Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính”, đó là yêu cầu đối với chính mình, là xuất phát điểm, là phạm trù gốc, là cơ sở để thực hiện tốt các nhiệm vụ khác.

Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ vĩ đại của Đảng ta và của dân tộc ta, người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang. Sinh thời Người nói: “Công an và Quân đội là hai cánh tay của nhân dân, của Đảng, của Chính phủ, của vô sản chuyên chính”. Chính vì vậy, ngay từ khi nước nhà mới giành được chính quyền, Người đã quan tâm đến việc thành lập, giáo dục, rèn luyện và luôn dõi theo từng bước trưởng thành của lực lượng Công an cách mạng.

Lựa chọn những cán bộ trung thành với sự nghiệp của Đảng, có năng lực và nhiệt huyết cách mạng nhất để đào tạo thành lực lượng Công an tinh nhuệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở mỗi cán bộ, chiến sĩ (CBCS) Công an phải ý thức đầy đủ vị trí và trách nhiệm của mình trước nhân dân, trước Đảng và Chính phủ. Người chỉ rõ: “Đối với nhân dân, đối với Đảng, với cách mạng XHCN, trách nhiệm của Công an rất lớn, rất nặng nề”, và: “Nhiệm vụ công an thì nhiều, nhưng nói tóm tắt là bảo vệ sự nghiệp XHCN”.

Để hoàn thành được nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến việc rèn luyện đạo đức của người CAND. Theo Người, tư cách đạo đức là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho lực lượng CAND hoàn thành nhiệm vụ trước Đảng, đáp ứng được lòng tin cậy của nhân dân.

Vì lẽ đó, trong mọi hoàn cảnh, lúc đến thăm các đơn vị Công an cũng như khi viết thư, gửi điện thăm hỏi CBCS Công an, Bác Hồ luôn động viên, nhắc nhở cán bộ Công an phải thường xuyên rèn luyện tư cách, phẩm chất của người Công an cách mạng. Trong đó, tiêu biểu nhất là bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng chí Hoàng Mai – Giám đốc Sở Công an Khu XII, ngày 11/3/1948, nêu rõ 6 lời dạy của Người.

Lời dạy của Người đã trở thành cẩm nang chỉ dẫn cho tất cả CBCS lực lượng CAND đi đến mọi thắng lợi trong suốt chặng đường cách mạng đã qua và sẽ còn soi sáng, chỉ đường cho lực lượng Công an trưởng thành, phát triển trong giai đoạn cách mạng mới.

Bác Hồ đến thăm cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát nhân dân Hà Nội nhân dịp Tết Quý Mão (1963). (Ảnh: Tư liệu).

Trong 6 điều Bác Hồ dạy CAND, không phải ngẫu nhiên, điều đầu tiên Bác Hồ căn dặn các chiến sĩ Công an: “Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính”, đó là yêu cầu đối với chính mình, là xuất phát điểm, là phạm trù gốc, là cơ sở để thực hiện tốt các nhiệm vụ khác.

Người cán bộ Công an khi đã hội tụ đủ phẩm chất: Cần, kiệm, liêm, chính, sẽ luôn nêu cao đức tính tôn trọng, giữ gìn tài sản và của cải của nhân dân. Đặc biệt là: “Không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung sướng, không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá. Chỉ có một thứ ham là: ham học, ham làm, ham tiến bộ”.

Người cán bộ Công an khi thật sự thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ: Cần, kiệm, liêm, chính sẽ đặt việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Đã phụ trách việc gì thì quyết làm cho được, cho đến nơi, đến chốn, không sợ khó khăn, nguy hiểm, việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh: “Vì nước quên thân, vì dân phục vụ”.

Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: “Tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính. Mình không chính mà muốn người khác chính là vô lý”. Do đó Người luôn đề cao phương pháp giáo dục bằng việc nêu gương, Người nói, đối với các dân tộc phương Đông giàu tình cảm, một tấm gương tốt còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền.

Để trở thành tấm gương, đối với lực lượng Công an, công cụ sắc bén của Đảng và Nhà nước, lực lượng trọng yếu trong việc thực thi nhiệm vụ bảo vệ chính quyền và sự bình yên của nhân dân, do đó mỗi CBCS Công an trước hết phải có cái tâm trong sáng, đó chính là đạo đức cách mạng. Đối với cá nhân mỗi chiến sĩ Công an, phải biết được bản thân mình, chỗ mạnh chỗ yếu của mình để không ngừng học tập, rèn luyện: “Phải luôn luôn thi đua nhau trong công tác từ trên xuống dưới, mọi người phải cố gắng nghiên cứu, học tập. Ta chớ giấu dốt, chớ xấu hổ học hỏi lẫn nhau, học hỏi người ngoài”. Kiên trì học tập, thường xuyên học tập, học mọi lúc, mọi nơi, nắm vững chuyên môn, nghiệp vụ, chính là gốc của việc nâng cao trí tuệ, là cơ sở để có thể chiến thắng kẻ thù, dù chúng có âm mưu xảo quyệt đến đâu.

Mỗi cán bộ Công an phải biết tự rèn luyện mình, nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức của người cán bộ cách mạng, kiên quyết quét sạch tư tưởng cá nhân chủ nghĩa. Kiên quyết đấu tranh gạt bỏ những tính toán vụ lợi, tư tưởng chia rẽ, bè phái, ích kỉ, nhỏ nhen ra khỏi đời sống sinh hoạt hằng ngày.

Lực lượng Công an phải nâng cao tinh thần kỷ luật, nghiêm túc đấu tranh bằng biện pháp phê bình và tự phê bình một cách thẳng thắn, xây dựng và trách nhiệm; coi tự phê bình và phê bình là phương thuốc hữu hiệu nhất để trị căn bệnh nguy hiểm nhất mà sinh thời Hồ Chí Minh gọi là “giặc nội xâm” tức là chủ nghĩa cá nhân, kẻ thù giấu mặt có ở trong tất cả chúng ta. Đồng thời thường xuyên lắng nghe, tiếp thu ý kiến của nhân dân, thực hành dân chủ ở mọi lúc, mọi nơi.

Tóm lại, điều đầu tiên Hồ Chí Minh dạy lực lượng Công an cách mạng là phải nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, kiên quyết loại trừ thứ “giặc nội xâm” có ở trong mỗi con người, tích cực học hỏi để trở thành người cán bộ vừa có đức, vừa có tài.

Bởi vì như Người nói: “Muôn việc thành? công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém. Đó là một chân lý nhất định”. Cho nên: Cần, kiệm, liêm, chính là những tiêu chí, phẩm chất đạo đức đầu tiên và quan trọng nhất mà mỗi người cán bộ Công an phải có, làm được điều đầu tiên này, làm cơ sở để thực hiện tốt 5 điều sau đó.

Tất nhiên, khi dạy lực lượng CAND điều đầu tiên: “Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính”, tức là “ít lòng ham muốn vật chất”, không phải Bác Hồ không biết đến những cám dỗ vật chất đời thường và những tác động mọi mặt của đời sống xã hội đến tâm lý, tình cảm của người chiến sĩ. Nhưng người cán bộ cách mạng nói chung và chiến sĩ Công an nói riêng, phải khác người bình thường ở chỗ, ngoài những ham muốn vật chất nhất thời, họ có trọng trách theo đuổi và thực hiện mục tiêu cách mạng cao cả.

Trong bức thư gửi luật sư Vũ Trọng Khánh – Giám đốc Tư pháp Liên khu X, Bác Hồ đã viết: “Ai chẳng muốn no cơm ấm áo. Nhưng sinh hoạt vật chất hết đời người là hết, còn tiếng tăm xấu hay tốt còn truyền đến ngàn đời sau”.

Tháng 9/1945, trên đường từ Việt Bắc trở về Hà Nội, Bác Hồ ghé thăm CBCS một đơn vị quân đội đang dự lớp học “Tám chính sách, mười điều kỷ luật”, chuẩn bị vào tiếp quản Thủ đô. Người nhắc nhở các chiến sĩ yêu quý của mình phải vững phẩm chất của người chiến sĩ cách mạng, cảnh giác trước những cám dỗ vật chất nơi đô thị. Người chỉ rõ hai thứ giặc thời bình: tham ăn ngon, thích các hàng xa xỉ. Lương không đủ, lấy ở đâu? Một là ăn cắp, hai là bị mua chuộc! Bom đạn không ngã mà lại ngã vì đồng tiền, gái đẹp. Muốn chiến thắng, theo Người, phải dùng 4 viên thuốc đặc trị: Cần, kiệm, liêm, chính.

Cần, kiệm, liêm, chính và tận tụy với công việc luôn là phẩm chất hàng đầu của mỗi cán bộ chiến sỹ Công an. (Trong ảnh: Công an quận Hoàn Kiếm – Hà Nội hướng dẫn một tiệm vàng lắp thiết bị cảnh báo an ninh) (Ảnh: Duy Hiển).

65 năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ gửi thư cho lực lượng CAND và 6 điều Người căn dặn CBCS Công an, những lời dạy đó đến nay vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc.

Trong bối cảnh tình hình hiện nay, các thế lực thù địch, chống đối vẫn luôn rình rập, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, tuyên truyền xuyên tạc, chống phá đường lối lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN, gây mất ANTT, phương hại đến chủ quyền quốc gia và đời sống bình yên của nhân dân.

Mặt khác, những vấn đề tiêu cực nảy sinh từ mặt trái của cơ chế thị trường, buộc CBCS CAND đang ngày đêm phải đối mặt với sự thật khắc nghiệt của nó. Kẻ địch với đủ các loại tội phạm mới, tham ô, tham nhũng, đục khoét ngân sách nhà nước, làm phai nhạt niềm tin của nhân dân.

Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển như vũ bão của các ngành khoa học, công nghệ, những loại tội phạm mới cũng hình thành. Hơn bao giờ hết, người cán bộ Công an phải chịu đựng những thử thách ghê gớm bởi sự cám dỗ, mua chuộc vật chất, cài bẫy lôi kéo cán bộ vào vòng sa đọa, tội lỗi, đòi hỏi người CAND chẳng những phải có đạo đức trong sáng: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, mà còn phải có trình độ chuyên môn cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới.

Học tập, quán triệt 6 lời dạy của Bác, lực lượng CAND, mỗi CBCS Công an phải ra sức rèn luyện đạo đức, liên hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào dân để xây dựng thế trận lòng người, đoàn kết với đồng chí, đồng đội, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn để có thể chiến thắng bất cứ kẻ thù nào, nhất là những cám dỗ vật chất, những “viên đạn bọc đường” của chủ nghĩa cá nhân.

Ghi nhớ và thực hiện đúng 6 điều Bác dạy, lực lượng CAND sẽ tiếp tục phát huy những thành tích đã đạt được để tiến lên giành những thắng lợi mới, xứng đáng với niềm tin của Đảng và nhân dân

T.M.T.
cand.com.vn

Bàn về phẩm chất tuyệt đối trung thành với Đảng, kính trọng, lễ phép với nhân dân – đối với việc xây dựng “Tư cách người Công an cách mệnh”

PGS.TS. Đỗ Ngọc Ninh (Học Viện Xây Dựng Đảng)
Trong lịch sử đấu tranh giành độc lập và tự do của dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân tinh hoa của văn hoá dân tộc và nhân loại. Người đã để lại cho Đảng và dân tộc ta tài sản tinh thần to lớn – Tư tưởng Hồ Chí Minh.

Trong quá trình giáo dục, rèn luyện Đảng ta và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhất là từ khi Đảng ta trở thành đảng cầm quyền, mỗi lời nói, mỗi việc làm của Người đều tác động mạnh mẽ đến cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đó là sự thể hiện những phẩm chất đạo đức cơ bản của đạo đức cách mạng: tuyệt đối trung thành với Đảng; tận tụy, kính trọng và lễ phép với nhân dân, yêu thương con người; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tinh thần quốc tế trong sáng.

CAND là một công cụ chuyên chính trọng yếu của Đảng và Nhà nước ta. Trong điều kiện hiện nay, để xứng đáng với vai trò đó, lực lượng CAND phải được xây dựng trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại.

Việc chăm lo giáo dục, rèn luyện cho CBCS về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, trước hết là trung thành tuyệt đối với Đảng, Nhà nước và kính trọng, lễ phép với nhân dân là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Để phẩm chất này, thực sự là một nội dung cốt yếu của tư cách CBCS Công an trong điều kiện hiện nay, xin trao đổi một số ý kiến về giải pháp thực hiện như sau:

Thứ nhất, nhận thức sâu sắc, có quyết tâm chính trị cao trong rèn luyện phẩm chất tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước Việt Nam XHCN.

“Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành” là một trong 6 điều Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy CAND, được nêu lên trong thời điểm Đảng ta tạm thời không công khai hoạt động. Vì vậy, tuyệt đối trung thành với Chính phủ đã bao hàm sự tuyệt đối trung thành với Đảng. Đây là biểu hiện phẩm chất hàng đầu của người cộng sản, người cách mạng, đi theo lý tưởng của Đảng.

Bác Hồ đến thăm và chúc Tết cán bộ, chiến sỹ Cảnh vệ (Xuân Quý Mão 1963).

Trong điều kiện đấu tranh giành chính quyền, kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, mỗi người dân là một chiến sĩ với khẩu hiệu hành động “Tất cả để chiến thắng” với phẩm chất tuyệt đối trung thành với Đảng, hành động chiến đấu, công tác là hành động “vì nước quên thân”, “vì nhân dân phục vụ”, không sợ hy sinh, gian khổ.

Để phẩm chất trung thành với Đảng được thể hiện bằng hành động cách mạng thực tiễn trong điều kiện hiện nay, CBCS Công an cần học tập một cách nghiêm túc, nhận thức sâu sắc nội dung tấm gương phẩm chất đạo đức “Suốt đời phấn đấu quên mình vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì ấm no, hạnh phúc của nhân dân” trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.

Từ đó, có nhận thức đúng đắn, sâu sắc phẩm chất vì nước quên thân trong điều kiện hiện nay: Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có sự nhất trí cao, niềm tin sắt đá vào đường lối, nghị quyết và sự lãnh đạo của Đảng…

Thứ hai, thường xuyên rèn luyện tinh thần gương mẫu, sự cần cù, bền bỉ trong công tác, chiến đấu, gắn bó mật thiết với nhân dân.

Tinh thần gương mẫu, sự cần cù, bền bỉ trong công tác, chiến đấu là một trong những nội dung cơ bản của phẩm chất đạo đức người Công an cách mạng. Điều này chỉ có thể được hình thành, củng cố và phát triển qua học tập, rèn luyện bền bỉ, lâu dài trong thực tiễn học tập, công tác và gắn bó mật thiết với nhân dân.

Qua đó, mỗi CBCS gần dân, hiểu dân và thương yêu nhân dân hơn, học tập được nhiều điều bổ ích từ nhân dân, được nhân dân rèn giũa phẩm chất, đạo đức cách mạng, việc kính trọng, lễ phép với nhân dân ngày càng phát triển và củng cố.

Để rèn luyện tinh thần gương mẫu, sự cần cù, bền bỉ trong công tác, chiến đấu, kính trọng, lễ phép với nhân dân, mỗi CBCS cần xác định động cơ, thái độ đúng đắn trong học tập, công tác và trong tiếp xúc, quan hệ với nhân dân; chấp hành nghiêm chỉnh sự phân công của tổ chức; chủ động, sáng tạo vượt qua khó khăn thách thức, nhất là những tác động của mặt trái kinh tế thị trường, những cám dỗ của vật chất; đặc biệt cảnh giác với những luận điệu phản động và những “viên đạn bọc đường” của các thế lực thù địch, tuyên truyền, giáo dục nhân dân cảnh giác với những âm mưu, thủ đoạn ấy.

Đồng thời, cần hành động cụ thể tỏ rõ sự gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa vào dân để tiến hành công việc, vì nhân dân phục vụ, nguyện làm “người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.

Sinh viên Học viện ANND nỗ lực học tập, rèn luyện để trở thành những sỹ quan giỏi chuyên môn, tận tụy và trung thành. (Ảnh: Duy Hiển).

Thứ ba, nâng cao nhiệt tình cách mạng đi liền với ra sức học tập nâng cao trình độ trí tuệ, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao là thước đo quan trọng hàng đầu phẩm chất tuyệt đối trung thành với Đảng, kính trọng, lễ phép với nhân dân

Trách nhiệm, ý chí quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao là sự thể hiện phẩm chất, đạo đức tuyệt đối trung thành với Đảng, kính trọng, lễ phép với nhân dân của CBCS Công an.

Trách nhiệm, ý chí quyết tâm ấy phải được biến thành nhiệt tình cách mạng trong giai đoạn hiện nay. Nhiệt tình cách mạng sẽ thôi thúc, cổ vũ CBCS dồn trí tuệ, sức lực vượt qua khó khăn gian khổ, thách thức quyết liệt, thắng không kiêu, bại không nản.

Trước diễn biến phức tạp của tình hình chính trị thế giới và sự chống phá quyết liệt, điên cuồng của các thế lực thù địch, những biến đổi phức tạp và khó khăn tạm thời của đất nước hiện nay, mỗi CBCS Công an cần có niềm tin sắt đá vào sự lãnh đạo của Đảng, thắng lợi của công cuộc đổi mới, sự tất thắng của CNXH, từ đó có suy nghĩ và hành động đúng đắn theo quan điểm, đường lối của Đảng, cùng toàn Đảng, toàn dân vượt qua khó khăn thách thức đưa công cuộc đổi mới tiếp tục phát triển.

Để phẩm chất tuyệt đối trung thành với Đảng, kính trọng, lễ phép với nhân dân được củng cố và phát triển trong điều kiện hiện nay, mỗi CBCS còn phải có trình độ trí tuệ và phải biết đưa trình độ trí tuệ đó vào hoạt động hằng ngày, thể hiện bằng các hoạt động đạt kết quả cao về thực hiện nhiệm vụ được giao. Đó là, tri thức về khoa học của Chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng; khoa học xã hội – nhân văn, khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ chuyên ngành, kinh tế thị trường, luật lệ quốc tế…

Nhiệt tình cách mạng kết hợp với trình độ trí tuệ của mỗi CBCS Công an phải được thể hiện bằng hành động thực tế hoàn thành tốt nhiệm vụ được Đảng và nhân dân giao cho, là thước do quan trọng hàng đầu phẩm chất tuyệt đối trung thành với Đảng, kính trọng, lễ phép với nhân dân của mỗi CBCS.

Thứ tư, xây dựng các tổ chức đảng và đơn vị cơ sở trong CAND trong sạch vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, đủ sức định hướng suy nghĩ và hành động cho CBCS.

Để phẩm chất tuyệt đối trung thành với Đảng, kính trọng, lễ phép với nhân dân được thể hiện bằng hành động cách mạng thực tiễn phụ thuộc rất lớn và được quyết định chủ yếu bởi mỗi cán bộ, đảng viên được chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết, song các tổ chức đảng và đơn vị cơ sở cũng có vai trò và trách nhiệm không nhỏ.

Hoạt động của CBCS gắn liền với hoạt động của cơ quan, tổ chức đảng ở nơi đảng viên học tập, công tác và một phần gắn với tổ chức đảng nơi cư trú. Các tổ chức đảng, nhất là trong CAND trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao sẽ định hướng đúng đắn sự suy nghĩ và hành động của mỗi CBCS, phân công công việc đúng sở trường, năng lực, thế mạnh của mỗi người; lãnh đạo các tổ chức, đoàn thể ở đơn vị hoạt động có hiệu quả; tổ chức và duy trì các phong trào cách mạng của quần chúng; tạo điều kiện thuận lợi và động viên CBCS tự tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng…

Đây là môi trường thuận lợi để CBCS rèn luyện phẩm chất đạo đức tuyệt đối trung thành với Đảng, kính trọng và lễ phép với nhân dân.

Với trách nhiệm cao cả trước vận mệnh của đất nước và dân tộc, tình cảm thiêng liêng đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi CBCS CAND các cấp đã xác định quyết tâm chính trị cao thực hiện nghiêm túc 6 điều dạy của Người đối với CAND.

Điều này, có ý nghĩa rất quan trọng đối với lực lượng CAND trong việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và thực hiện Nghị quyết số 12 – NQ/TW (Hội nghị Trung ương 4, Khóa XI) về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” trở thành nền nếp, có hiệu quả, thể hiện phẩm chất tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, tận tụy, kính trọng và lễ phép với nhân dân; góp phần tích cực cùng toàn dân tộc phấn đấu xây dựng thành công CNXH, đưa đất nước Việt Nam từng bước tiến đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh

Đ.N.N.
cand.com.vn