Chủ tịch nước Trương Tấn Sang kết thúc tốt đẹp chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ:
Từ ngày 23 tới ngày 26/7, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã sang thăm chính thức Hoa Kỳ theo lời mời của Tổng thống Barack Obama.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang kết thúc tốt đẹp chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ:
Từ ngày 23 tới ngày 26/7, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã sang thăm chính thức Hoa Kỳ theo lời mời của Tổng thống Barack Obama.
Quá trình lấy ý kiến về bản dự thảo Hiến pháp, mọi người được tự do thể hiện quan điểm, chính kiến của mình về mọi quy định trong dự thảo và có thể đề xuất phương án sửa đổi, bổ sung đối với những quy định này.
TS Vũ Văn Hiền, Trưởng Khoa Mác – Lênin, Học Viện Cảnh Sát Nhân Dân
Năm 2013, lực lượng Công an nhân dân (CAND) kỷ niệm 65 năm học tập và thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy.
65 năm qua, những lời dạy của Bác đã trở thành kim chỉ nam định hướng, soi đường cho công tác xây dựng lực lượng Công an nói chung, quá trình tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp của mỗi cán bộ, chiến sỹ CAND nói riêng.
“… Đối với nhiều người thường nói là ra thăm Trường Sa, còn riêng em dù chưa một lần được đặt chân tới Trường Sa, nhưng trong trái tim em Trường Sa là quê hương thứ hai của mình, Tổ quốc của chúng ta trên biển. Mà đã là quê hương thì phải là trở về…”.
Trở về Trường Sa
Từ quân cảng Cát Lái (TP Hồ Chí Minh), tôi lên tàu HQ 571 để ra thăm Trường Sa. Tàu HQ 571 là tàu khách mới được đưa vào sử dụng, làm nhiệm vụ đưa đón cán bộ, chiến sĩ và các đoàn công tác ra thăm và làm nhiệm vụ ở Trường Sa. Tất cả trang thiết bị trên tàu HQ 571 vẫn còn mới tinh, sạch sẽ, hiện đại. Anh bạn cùng phòng tôi tên Trần Văn Phúc thốt lên: Nói không ngoa tý nào, HQ 571 giống như một tàu du lịch cao cấp từ phòng ở đến giường ngủ, phòng tắm. Tôi háo hức đi khắp HQ 571 để khám phá vẻ hiện đại của con tàu.
Khi vừa đặt chân lên boong tàu, thấy một thanh niên trạc 30 tuổi đang mải miết ghi chép vào cuốn sổ tay. Tôi lại gần bắt chuyện. Tên anh là Trần Anh Tuấn, phóng viên Thông tấn xã Việt Nam. Trong cuốn sổ tay, Tuấn ghi: …7h30 xuống tàu, nhận phòng, sắp xếp đồ đạc xong xuôi. Chỉ còn ít phút nữa thôi, tàu sẽ nhổ neo rời bến, bỗng dưng mình cảm thấy bồi hồi, háo hức được trở về Trường Sa… Tôi thắc mắc hỏi Tuấn:
– Em ghi là trở về Trường Sa, vậy em ra Trường Sa mấy lần rồi?
Tuấn giải thích ngay: “Đối với nhiều người thường nói là ra thăm Trường Sa, còn riêng em dù chưa một lần được đặt chân tới Trường Sa, nhưng trong trái tim em Trường Sa là quê hương, Tổ quốc của chúng ta trên biển. Mà đã là quê hương thì phải là trở về, tìm về quê phải không anh?”.
Cách giải thích của Tuấn khiến tôi thoáng chút ngạc nhiên, nhưng trong lòng lại vô cùng xúc động. Một đứa con xa xứ trở về thăm lại mảnh đất thiêng mà biết bao thế hệ cha ông ta đã đổ máu xương để gìn giữ, khẳng định chủ quyền. Trường Sa, quê hương Tuấn, quê hương của tôi và là quê hương tất cả những người mang trong mình dòng máu Lạc Hồng.
Trò chuyện với Tuấn, tôi chợt nhớ đến những câu thơ trong bài “Tổ quốc nhìn từ biển” của tác giả Nguyễn Việt Chiến mà tôi rất thích: …Thương đất nước trên ba ngàn hòn đảo/Suốt ngàn năm bóng giặc vẫn chập chờn/Máu đã đổ ở Trường Sa ngày ấy/Bạn tôi nằm dưới sóng mặn vùi thân/Nếu Tổ quốc neo mình đầu sóng cả/Những chàng trai ra đảo đã quên mình/Một sắc chỉ về Hoàng Sa thuở trước (*)/Còn truyền đời con cháu mãi đinh ninh/Nếu Tổ quốc nhìn từ bao mất mát/Máu xương kia dằng dặc suốt ngàn đời/Hồn dân tộc ngàn năm không chịu khuất/Dáng con tàu vẫn hướng mãi ra khơi.
Khoảng xanh trên đảo chìm
Trong chuyến đi Trường Sa và nhà giàn DK1 lần này, Đoàn chúng tôi tổ chức hai buổi Lễ tưởng niệm những cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh để bảo vệ chủ quyền biển đảo và thềm lục địa phía Nam của Tổ quốc: Một buổi ở Trường Sa, một buổi ở bãi Tư Chính (nơi có nhà dàn DK1-14). Cả hai buổi Lễ tưởng niệm đều được tổ chức rất trang trọng, thành kính, chu đáo, đem đến cho tôi và các thành viên trong Đoàn những cảm xúc không bao giờ quên. Tất cả các thành viên trong Đoàn ai nấy đều xúc động, nhiều người không cầm được nước mắt.
Buổi lễ tưởng niệm tại bãi Tư Chính, khi những nén hương thơm vừa được thắp lên, con tàu HQ 571 bỗng dưng nghiêng lắc, khiến tất cả mọi người phải vịn vào nhau để khỏi ngã. Lạ thật! Biển đang êm đềm, cớ sao con tàu lại đột nhiên chao đảo. Chỉ vài chục giây sau, con tàu thôi không còn nghiêng lắc nữa.
Sau buổi lễ, có người trong Đoàn bảo: Anh linh các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh trên biển, đảo đã về chứng kiến lòng thành kính, tưởng nhớ của Đoàn công tác và cả những người con đất Việt đang sống hôm nay. Vâng! Tổ quốc Việt Nam sẽ mãi mãi không bao giờ quên sự hy sinh của các anh. Tôi không khóc mà sao nước mắt cứ trào ra.
Chúng tôi cùng nhau thả vòng hoa và lễ vật xuống biển với mong muốn các cán bộ, chiến sĩ Hải quân năm xưa đang yên nghỉ trong lòng biển quê hương luôn theo sát thế hệ hôm nay và mai sau, mãi giữ vững biển đảo thân yêu của Tổ quốc…
Hai bố con, hai vợ chồng cùng ra đảo
Anh Nguyễn Văn Thanh, quê ở huyện Tiên Lãng, Hải Phòng, một doanh nhân hiện đang sinh sống tại thành phố Lép-dích, Cộng hòa Liên bang Đức (đoàn Đảng bộ ngoài nước) hồ hởi khoe: “Năm trước, con gái tôi về nước và được đi thăm Trường Sa, cháu thích lắm. Cháu kể nhiều chuyện về Trường Sa, về cuộc sống của cán bộ, chiến sĩ, nhân dân trên các đảo. Sau chuyến đi, con gái tôi đã hiểu hơn về Trường Sa, về Tổ quốc Việt Nam. Nghe con gái kể chuyện, gia đình rất xúc động. Tôi ao ước một ngày được tới thăm Trường Sa. Năm nay, khi nhận được thông tin từ Đảng bộ ngoài nước về chuyến thăm Trường Sa và nhà dàn DK1, tôi vội sắp xếp công việc để trở về nước”.
Tới thăm Trường Sa và nhà giàn DK1 lần này, tận mắt chứng kiến cuộc sống của cán bộ, chiến sĩ và người dân trên các đảo và nhà giàn, tôi vô cùng khâm phục. Mặc dù, cuộc sống của họ còn thiếu thốn, vất vả, khó khăn nhưng rất hiếu khách. Điều khiến tôi thực sự bất ngờ là mình ra thăm để động viên anh em nhưng không ngờ anh em lại động viên lại mình.
Khi được trò chuyện với cán bộ, chiến sĩ, người dân trên đảo, tôi cảm nhận họ luôn vượt lên mọi khó khăn, gian khổ. Trong họ luôn tràn đầy ý chí quyết tâm bảo vệ vùng biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Họ chẳng hề nói về những khó khăn, vất vả ở nơi đảo xa hay những đòi hỏi cho bản thân mình mà chỉ muốn nhắn nhủ đất liền rằng hãy tin tưởng ở họ: Đất liền là điểm tựa để họ chắc tay súng bảo vệ vùng biển đảo của Tổ quốc.
Những công dân nhí của huyện đảo Trường Sa. Ảnh: Nguyễn Trung
Anh Thanh tâm sự với chúng tôi, mặc dù ra nước ngoài sinh sống được 25 năm nhưng bao giờ anh cũng tự nhủ mình là người Việt Nam. Anh luôn nghĩ rằng đã là người Việt Nam, dù ở bất cứ nơi đâu đều phải có trách nhiệm đóng góp tham gia bảo vệ chủ quyền vùng biển đảo mà cha ông để lại. Món quà 2000 ơ-rô do anh và một số người Việt Nam đang sinh sống tại Đức đóng góp gửi tặng quân dân trên đảo là tình cảm của những người con xa xứ đối với Trường Sa thân yêu. Anh Thanh luôn mong muốn những người Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài ngày càng có nhiều hành động cụ thể, thiết thực hơn nữa để hướng về Trường Sa, góp phần cùng quân và dân cả nước xây dựng và bảo vệ vững chắc quần đảo Trường Sa. Anh Thanh quả quyết: “Tôi ước mong được trở lại Trường Sa nhiều lần nữa”.
Trong chuyến đi công tác tại Trường Sa lần này, điều làm tôi bất ngờ nữa chính là việc hai vợ chồng cùng ra đảo trên một chuyến tàu. Đó là vợ chồng anh Võ Thành Nhân (ca sĩ) và chị Phan Thị Quỳnh (diễn viên múa) thuộc Đoàn nghệ thuật tỉnh Quảng Bình. Trò chuyện với tôi, anh Nhân bảo: Được đi Trường Sa là niềm mơ ước bao lâu nay của vợ chồng tôi. Bây giờ mơ ước ấy mới thành hiện thực. Được đến Trường Sa biểu diễn là một dấu ấn nghề nghiệp của đời mình. Trước khi đi, hai vợ chồng tôi luyện tập nhiều tiết mục để biểu diễn phục vụ cán bộ, chiến sĩ ở Trường Sa. Chúng tôi muốn mang hơi ấm của đất liền, của người Quảng Bình đến với anh em chiến sĩ ngoài đảo xa. Chúng tôi thấy cuộc sống của người lính đảo dù vẫn rất vất vả nhưng thấy đoàn công tác tới, họ rất nhiệt tình. Đến mỗi đảo mình lại có cảm giác khó tả. Đêm biểu diễn ở đảo Sơn Ca, tôi hát bài “Lính đảo đợi mưa” sáng tác nhạc của nghệ sĩ Quỳnh Hợp, thơ Trần Đăng Khoa. Các chiến sĩ hái tặng anh em nghệ sĩ chúng tôi hoa bàng quả vuông-loài hoa chỉ nở về đêm. Món quà nhỏ, giản dị nhưng chúng tôi vô cùng xúc động, bởi đấy là những tình cảm chân thành của người lính đảo. Chúng tôi muốn biểu diễn đến tận sáng, nhưng vì quy định của đảo, nên không thể thực hiện được. Đây là buổi biểu diễn đáng nhớ của cuộc đời tôi. Sau chuyến đi này, chúng tôi sẽ xây dựng nhiều tiết mục mang ý tưởng về biển đảo, ca ngợi những người chiến sĩ đang ngày đêm canh giữ, bảo vệ vùng biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc để khán giả, người dân ở đất liền thêm hiểu và luôn hướng đến Trường Sa…
(Còn nữa)
Ghi chép của Nguyễn Kiểm
Thanh Huyền (st)
Góp ý kiến vào “Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992”
Thượng Tướng, Viện Sĩ, TS KHQS Nguyễn Huy Hiệu Nguyên Ủy Viên BCH TW Đảng, Nguyên Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng
Hiến pháp là văn kiện chính trị pháp lý cao nhất của một nhà nước. Khác với các nước tư bản chủ nghĩa, Hiến pháp của nước ta thể hiện được mối quan hệ giữa ba đại diện là nhân dân, Đảng Cộng sản cầm quyền và Nhà nước pháp quyền.
Với mưu đồ xuyên tạc Điều 4 của bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, một số phần tử phản động lập luận rằng, Hiến pháp các năm 1946 và 1959 không có điều nào quy định Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, nhưng Đảng “vẫn lãnh đạo nhân dân đánh thắng thực dân đế quốc xâm lược và hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thì cũng không nhất thiết phải xác nhận lại vai trò lãnh đạo của Đảng như trong Hiến pháp hiện tại”(!). Lập luận này là lập lờ, thiếu toàn diện, không có quan điểm lịch sử cụ thể. Sở dĩ Hiến pháp năm 1946 không có quy định vai trò lãnh đạo của Đảng, vì trước đó ngày 11/11/1945, thời điểm lịch sử do tình thế đặc biệt của cách mạng, Đảng ta đã ra tuyên bố tự giải tán, nhưng sự thật là rút vào hoạt động bí mật, giữ vững vai trò lãnh đạo.
Trên cơ sở Điều 4 Hiến pháp năm 1992, Điều 4 của bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 xác định: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy Chủ nghĩa Mác – Lê-nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; “Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”; “Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Việc quy định Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội không chỉ là tư tưởng xuyên suốt, nhất quán để khẳng định vị trí, vai trò độc tôn lãnh đạo của Đảng, mà còn là một nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam, phù hợp với thể chế chính trị – xã hội mà Việt Nam đã lựa chọn. Bởi vậy, Điều 4 Hiến pháp năm 1980 xác định “Các tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp”, thì Điều 4 Hiến pháp năm 1992 đã bổ sung: “Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Tiếp tục tinh thần đó, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 còn quy định thêm về việc tuân thủ, thi hành Hiến pháp và pháp luật đối với mọi đảng viên.
Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội không chỉ bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức và kiểm tra; mà phần cốt yếu là thông qua đội ngũ tiền phong của mình là những cán bộ, đảng viên tiêu biểu về bản lĩnh, trí tuệ, phẩm chất và năng lực. Vì vậy, Điều 4 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 khẳng định “Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” nhằm bảo đảm cho Đảng giữ vững bản chất, mục tiêu, lý tưởng của mình, đồng thời là giải pháp quan trọng hàng đầu để phòng, chống, ngăn ngừa mọi nguy cơ thoái hóa, biến chất có thể xảy ra trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền ở nước ta. Mặt khác, việc xác định trách nhiệm của các đảng viên trong việc tự giác, gương mẫu thực hiện, chấp hành Hiến pháp và pháp luật cũng không ngoài mục đích làm cho “đội ngũ tiên phong của Đảng” phải thường xuyên nêu cao ý thức, thái độ, trách nhiệm cả về tư tưởng, hành động trong cuộc sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, làm gương cho nhân dân noi theo.
Muốn hiểu được bản chất của một đảng cầm quyền, phải nhận thức rõ mục đích hoạt động của đảng đó mang lại lợi ích cho ai. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác”. Vì vậy, Điều 4 của bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã bổ sung: “Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”. Để sửa chữa những khuyết điểm của mình, nhiều lần Đảng đã tiến hành tự chỉnh đốn, mà gần đây nhất là đợt kiểm điểm tự phê bình và phê bình của các cấp ủy, tổ chức Đảng trong toàn Đảng theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” bước đầu mang lại nhiều hiệu quả tích cực, được nhân dân đồng tình, ủng hộ.
Đối với nhân dân Việt Nam, nói đến Đảng là nói đến tình cảm thiêng liêng, là thể hiện niềm tin và tình yêu son sắt của nhân dân dành cho Đảng. Có một sự thật mà hầu như mọi người Việt Nam ai cũng biết đó là: Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Như vậy, khác với những quan điểm tư sản, sự khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được quy định trong bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 chính là thể chế hóa vai trò lãnh đạo của Đảng, khẳng định Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là sự thể hiện ý chí, lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân. Ý chí, lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích cơ bản của nhân dân lao động và cả dân tộc, đó là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Việc hiến định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thành quy định trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 chính là thể hiện ý chí của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam
N.H.H.
Nguồn: cand.com.vn
Vkyno (st)
Bảo vệ Tổ quốc là một trong những chế định quan trọng trong những bản Hiến pháp từ trước tới nay.
Trong Hiến pháp năm 1992, Bảo vệ Tổ quốc được quy định trong Chương IV gồm 5 điều, quy định về nguyên tắc, nhiệm vụ cơ bản trong lĩnh vực bảo vệ Tổ quốc, quyền hạn và trách nhiệm cụ thể của Nhà nước, của lực lượng vũ trang, của các cơ quan, tổ chức, công dân nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trao đổi với phóng viên Báo CAND về vấn đề này, Đại tá, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Vi Dân, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Công an cho biết:
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 quy định về bảo vệ Tổ quốc tại Chương IV (từ Điều 69 đến Điều 73).
Qua nghiên cứu, về cơ bản, chế định bảo vệ Tổ quốc đã tiếp tục kế thừa những quy định của Hiến pháp 1992 và các bản Hiến pháp trước đây còn phù hợp như quy định về tính chất và nguyên tắc chỉ đạo công cuộc bảo vệ Tổ quốc; thể chế hóa tư duy đổi mới của Đảng về quốc phòng, an ninh trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng xác định nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống chính trị.
Làm rõ hơn nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; tiếp tục khẳng định mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực đang có nhiều thay đổi và diễn biến phức tạp, khó lường; âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch, phản động nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vẫn không thay đổi; tình hình tội phạm, trật tự, an toàn xã hội còn diễn biến phức tạp, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”.
Theo đó, cần thiết sửa đổi các điều, khoản trong chế định bảo vệ Tổ quốc như sau:
Về Điều 69, đề nghị bổ sung cụm từ “trật tự, an toàn xã hội” vào sau cụm từ “giữ vững an ninh quốc gia” ở khổ đầu điều này và chỉnh sửa như sau: “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội là sự nghiệp của toàn dân”.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trên thực tế đã, đang là sự nghiệp của toàn dân. Nhận thức đầy đủ vấn đề này từ trước tới nay, Đảng ta luôn quan tâm, chỉ đạo nhiệm vụ bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong nhiều nghị quyết, chỉ thị, đặt yêu cầu bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong mối quan hệ chặt chẽ với bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng tiếp tục xác định: “Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt”.
Nếu Hiến pháp không ghi nhận bảo đảm trật tự, an toàn xã hội là sự nghiệp của toàn dân là chưa cụ thể hóa và quán triệt đầy đủ quan điểm của Đảng về bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong tình hình hiện nay, không phù hợp với những đòi hỏi thực tiễn đặt ra cho công tác này dưới phương diện cơ sở pháp lý.
Về Điều 70, việc bổ sung quy định lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng là phù hợp và cần thiết vì:
Lực lượng vũ trang ở đâu và bao giờ cũng là công cụ bạo lực của một giai cấp, một nhà nước nhất định, mang bản chất của giai cấp và nhà nước tổ chức ra nó; nhằm phục vụ cho mục đích chính trị của giai cấp, của nhà nước tổ chức, nuôi dưỡng và sử dụng lực lượng vũ trang, không có và không bao giờ có lực lượng vũ trang “trung lập về chính trị”, “đứng ngoài chính trị”, “phi giai cấp”.
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt là nguyên tắc cơ bản, được xác định nhất quán từ Đại hội lần thứ nhất của Đảng đến nay. Qua các thời kỳ cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định quyền lãnh đạo lực lượng vũ trang thuộc về một đảng duy nhất – Đảng Cộng sản Việt Nam, không thể phân chia quyền lãnh đạo này cho bất cứ một giai cấp, một đảng phái nào khác.
Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập, tổ chức, xây dựng, giáo dục, rèn luyện. Sự trưởng thành, lớn mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam gắn liền với sự lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện, tổ chức, xây dựng của Bác Hồ và Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam luôn trung thành bảo vệ Tổ quốc, Đảng, Nhà nước và nhân dân. Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam không chỉ là công cụ bạo lực, lực lượng chính trị tin cậy của Đảng, Nhà nước, mà còn là công cụ bạo lực tổ chức vũ trang của nhân dân, chiến đấu vì độc lập, tự do của đất nước.
Thực tiễn trên thế giới cho thấy, ở những nước có nhiều đảng phái chính trị, thực hiện cái gọi là “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, đang phải đối mặt với tình trạng mâu thuẫn, xung đột, bất ổn chính trị – xã hội gia tăng, thậm chí tạo nên sự hỗn loạn trong xã hội. Luận điểm “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang thực chất là muốn tách lực lượng vũ trang ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng để lực lượng vũ trang dần dần biến chất về chính trị, xa rời chính trị của giai cấp công nhân.
Về Điều 73 đề nghị bổ sung thuật ngữ “Công an” sau cụm từ “hậu phương Quân đội”, thay thuật ngữ “an ninh” bằng thuật ngữ “Công an” sau cụm từ “nhân viên quốc phòng”. Nghiên cứu thấy giải trình của Ủy ban dự thảo về việc không tiếp thu các góp ý nêu trên vào Điều 73 là chưa thuyết phục.
Thực tiễn đấu tranh cách mạng của lực lượng Công an nhân dân từ khi được thành lập đến nay cho thấy ở mọi thời kỳ cách mạng, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội luôn là cuộc đấu tranh đầy hy sinh, gian khổ. Ngay trong thời bình, vẫn có những chiến sĩ Công an hy sinh.
Tuy nhiên, cần xác định bất cứ người chiến sĩ Công an nhân dân nào cũng sẵn sàng đối diện với hy sinh, mất mát vì cuộc sống bình yên và hạnh phúc của nhân dân.
Vì vậy, cần khẳng định rằng sau trận tuyến bảo vệ an ninh, trật tự, đấu tranh phòng, chống tội phạm, hậu phương Công an đã và đang tồn tại, đóng góp rất quan trọng vào thành công của Công an nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự.
Tuy nhiên, do chưa được ghi nhận trong Hiến pháp nên có ý kiến cho rằng đây là vấn đề mới cũng là dễ hiểu. Như vậy, việc bổ sung vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp là rất cần thiết, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho phép quan tâm một cách đầy đủ tới cán bộ, chiến sĩ Công an đang trực tiếp chiến đấu bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội
Nguyễn Hưng (ghi)
Nguồn: cand.com.vn
Vkyno (st)
Có người tự nhận mình là “nhà báo” chống cộng ở hải ngoại, đã nói rằng: Đã là nhà báo hành nghề ở địa bàn, môi trường nào là phải viết hay, viết tốt về nơi đó. Tuyệt đối không đưa những thông tin “nhạy cảm”, “trái chiều” lên báo. Bù lại, anh sẽ nhận được sự đối đãi “tử tế” của các tổ chức chống cộng cực đoan (CCCĐ), các hội đoàn ma trơi, các đảng phái, mang hơi hướng chống cộng?!
Đó là một thực tế đã và đang tồn tại ở hải ngoại, đặc biệt ở xứ Bu (Mỹ) này. Tuy nhiên hiểu như vậy là chưa đúng, ý nghĩ đó chỉ dành cho những kẻ mạo danh “nhà báo”, “ký giả” mà chúng ta gọi chung là lũ “vịt trời” hành nghề cái được gọi là “nhà truyền thông”. Trong bài này chúng tôi không đi vào khía cạnh những ma mãnh của giới truyền thông cờ vàng CCCĐ. Ở đây chúng tôi đi vào nội dung nguyên nhân và tác động dẫn đến các món mà cờ vàng CCCĐ đã “xào nấu” đổi trắng thay đen như thế nào?
Xin thưa với các vị rằng: Nghề báo là một nghề đặc thù.
Đã dấn thân, anh bắt buộc phải chấp nhận đủ thứ rủi ro, nguy hiểm. Anh sẽ phải chấp nhận những tai ương, lạnh nhạt, lảng tránh, tính mạng. Chấp nhận cái nhìn thiếu thiện cảm hay thái độ bất hợp tác. “Nghề báo bạc lắm”. Nó không phải trò chơi của mấy ông thất nghiệp, chơi nổi, theo đóm ăn tàn mà mấy ông vỗ ngực xưng danh “Nhà báo” ở cái xứ Mỹ này.
Họ đâu có cần hội đủ các điều kiện sơ đẳng nhất để bước vào công cuộc “hành nghề”. Họ làm báo, rất đơn giản, chỉ cần thông thạo tiếng mẹ đẻ (viết sai chính tả cũng ok), độc giả sẽ tự luận ra hết; phải có thẻ hành nghề? Ồ, chuyện đó có quan trọng gì, ta tự cấp cho ta một cái “Cạc”, vậy là xong!
Nhiều vị là “nhà báo” cực đoan chống cộng ở xứ người không hiểu một chút gì về cái nghề này. Phương châm của người làm báo đích thực là “mắt sáng, lòng trong, bút sắc” thì anh phải viết đúng, viết khách quan, viết theo lẽ phải. Anh phải đấu tranh cho sự công bằng, đấu tranh đẩy lùi cái ác, cái xấu và những tiêu cực xã hội. Còn một căn bệnh phổ biến trong giới những ông “làm báo” này là họ làm theo cách của những kẻ chẳng hiểu, hay cố tình không hiểu công việc mình làm là cái gì? Các ông tự phong “nhà báo”, “ký giả”, vậy có hiểu làm báo là gì không? Ngắn gọn là làm báo là làm một liên kết xã hội, một sản phẩm báo chí, nó thông đạt một sự kiện vừa mới xảy ra tới với mọi người, nó thu hút sự quan tâm của nhiều người vào một điểm xác định. Vậy cơ sở nào để các anh “cờ vàng” viết báo có quyền mổ xẻ, cắt nghĩa, lý giải, đánh giá, nhận định sai lệch một sự kiện? Các anh chỉ lớn tiếng, cao giọng, chỉ trích hơn một chính kiến?
Sự thực là không phải vài ba cái tin, bài bới móc, vụn vặt, chạy theo tâm lý chống cộng theo đám đông, thỏa mãn tâm lý tò mò của nhóm người nào đó, sự cổ vũ của đám người cực đoan của vài ba trang mạng xã hội sặc mùi bài xích chế độ cầm quyền ở Việt Nam là anh đã oai lắm rồi, tự vỗ ngực xưng tên là nhà này, nhà nọ? Họ đã nhận mình là “nhà báo” dám “động chạm”, “bình loạn” vung trên truyền thông? Bởi vậy truyền thông ở hải ngoại giống như trời đất đảo điên, thực hư lẫn lộn, nhân tâm xáo trộn trong đống thông tin mịt mù trước những “bình loạn” mà các “nhà báo” cờ vàng đang làm.
Không ai buộc các vị phải viết theo cái lối ngược ngạo như vậy, mà đây là sự lợi dụng cái gọi là “tự do báo chí” để trục lợi về chính trị của “nhà báo” cờ vàng cực đoan mà thôi. Nếu các vị là nhà báo chân chính, tốt cho nơi mình đang đảm trách nhiệm vụ “truyền thông”, càng không có ai có thể cấm các vị viết những bài có tính chất “chống cái xấu”, “phản biện xã hội”, bảo vệ lẽ phải. Cái chính là các vị viết thế nào mới là điều đáng bàn. “Nhà báo” cờ vàng CCCĐ viết không phải bằng lập luận, không phải bằng điều tra, không phải bằng những chứng lý cụ thể, không viết bằng cái “tâm sáng” mà viết theo “cảm tính”, anh viết theo “đơn đặt hàng chống cộng”, viết theo ý kiến cá nhân, viết không khách quan, viết thiếu trung thực thì các vị đã đi ngược lại lịch sử, đi ngược lại tâm tư nguyện vọng của đa số người dân.
Chưa bao giờ như bây giờ, những “nhà báo” tự phong ở hải ngoại phát triển đông đến chóng mặt, “ra ngõ là gặp nhà báo”. Đa phần những “nhà báo” này là “tay ngang”. Có nghĩa là xuất phát điểm anh không hề “học” về báo chí, anh chưa hề làm báo. Ta thường nghe mấy vị này cao giọng tôi làm báo, đưa tin “khách quan” nghe vậy chắc nhiều người đồng tình về thái độ này, nhưng không phải vậy. Nếu không hiểu đúng nghĩa của từ “khách quan” rất dễ người ta xoá đi cái “tôi” của bản thân mình, nhưng các vị lại chuyển sang một cái “tôi” khác.
Không khó khăn gì để nhận diện đằng sau lời hô hào của các vị “nhà báo” này đó là kiểu làm báo với thái độ trốn tránh trách nhiệm, các vị sợ hãi những phản ứng của các thế lực CCCĐ khi các vị viết trung thực. Nếu viết đúng những gì ở bên Việt Nam thì gây ra sự bùng nổ, sự chống đối của các băng đảng CCCĐ, các vị làm gì có đủ dũng khí đối đầu. Nếu các vị có đủ can đảm có đủ nội lực để viết trung thực thì còn gì phải bàn cãi nữa? Nhưng đáng tiếc các “nhà báo” cờ vàng CCCĐ, hoặc thiếu một trong hai yếu tố này, hoặc thiếu cả hai. Chính vì thế mà việc đưa thông tin không chính xác, việc bình luận về thông tin theo kiểu “hóng hớt”, “nghe hơi nồi chõ” đã trở thành “chuyện thường ngày ở huyện” trong làng báo Việt ngữ ở hải ngoại.
Thực tế ở hải ngoại đa số người làm báo không hiểu nhiều về báo chí, có người đơn thuần chỉ là người cung cấp tin, có người viết lách với động cơ thiếu trong sáng, có người viết tin, bài… lấy nhuận bút kiếm sống, có người thậm chí không biết làm nghề gì nữa thì đi làm báo chơi.
Các vị “nhà báo” hải ngoại lúc nào cũng cao giọng tính “khách quan” của cơ quan truyền thông mà các vị đang nắm giữ, nhưng thực ra các vị không hiểu hết được nội hàm của nó thành ra nó dẫn đến những tình huống trớ trêu.
“Nghề báo là một nghề luôn được đánh giá cao ngay từ khi mới ra đời. Mục đích quan trọng nhất của nghề báo là cung cấp cho bạn đọc những thông tin thời sự chính xác và đáng tin cậy mà họ cần để có thể hành xử tốt nhất trong cuộc sống xã hội. Tuy nhiên, do môi trường kinh tế, môi trường dân tộc, môi trường chính trị… mỗi quốc gia khác nhau nên nghề báo mỗi nơi đều có những đặc thù riêng. Năm 1996, Tổ chức Các nhà báo chuyên nghiệp Mỹ đã loại bỏ khái niệm “khách quan” ra khỏi những nguyên tắc đạo đức của mình. Họ cho rằng nhà báo Mỹ là con người và đã là con người thì phải có những quan điểm cá nhân. Cho nên người làm báo càng phải cẩn trọng trong nghề để đưa ra những thông tin hữu ích cho dân tộc mình, quốc gia mình và cho nhân loại”.
Nói như vậy để thấy rằng, nguyên nhân dẫn đến tình trạng “cáo đội lốt sư tử” mang danh truyền thông mà không hiểu mình đang làm gì, từ hiểu sai, từ cố chấp, từ nhận thức. Và, cuối cùng là: vi phạm đạo đức nghề nghiệp nhà báo.
Cổ nhân từng nói “bể học mông mênh”, không ai có thể tự tin vỗ ngực rằng mình cái gì cũng biết.
Thời đại bùng nổ thông tin, thông tin lên ngôi. Nhưng, cũng vì vậy, có quá nhiều người tự xưng, giả danh “nhà báo” ở xứ cờ vàng chống cộng này để lừa đảo, xuyên tạc sự thật,… đủ mọi nhẽ. Hè nhau “truy hoan”, “tự sướng” trên sự xuyên tạc về những việc tiêu cực xảy ra ở Việt Nam sau khi chôm chỉa và cắt xén nội dung, ý nghĩa của mục đích bài viết. “Nhà báo” cờ vàng chống cộng là như vậy đó, họ sẽ bị đào thải!
Amari TX (Việt kiều Mỹ)
Theo cand.com.vn
Vkyno (st)
Góp ý kiến vào “Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992”
Thiếu Tướng, PGS, TS Trần Minh Thư.
Ngay khi mới thành lập (1930), Đảng ta đã thấy được Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo và các loại hình tín ngưỡng, tín đồ các tôn giáo là nhân dân lao động, có tinh thần yêu nước, chống giặc ngoại xâm. Vì vậy, ngay trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định đồng bào các tôn giáo là một bộ phận của lực lượng cách mạng Việt Nam và có nhiều chủ trương, chính sách đoàn kết các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc để tiến hành thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trên cơ sở quan điểm của Đảng về tôn giáo, Nhà nước đã xác định: Tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của công dân được hiến định ngày càng hoàn thiện trong các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và đảm bảo thực hiện trong cuộc sống.Tuy nhiên, một số quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong Hiến pháp năm 1992 vẫn còn một số điểm cần bổ sung, hoàn thiện. Cụ thể là:
1. Nội dung giáo lý của các tôn giáo tuy có khác nhau nhưng đều mang tính hướng thiện là răn dạy con người làm điều tốt, sống nhân ái, yêu thương, giúp đỡ nhau, tránh xa các thói hư, tật xấu, chống lại cái ác và những bất công trong xã hội. Những mặt tích cực đó của giáo lý các tôn giáo có tác dụng rất lớn đối với việc điều chỉnh hành vi đạo đức của quần chúng tín đồ và một bộ phận dân cư ở nước ta. Trong công tác đối với tôn giáo, Đảng ta đã thấy rõ điều đó và có nhiều chủ trương để phát huy những mặt tích cực của các tôn giáo trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng nếp sống ở các khu dân cư, đấu tranh với những ai lợi dụng tôn giáo để chống lại dân tộc và cuộc sống bình yên của nhân dân. Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị về “Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới” đã xác định: “Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với việc xây dựng xã hội mới”. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã chỉ rõ cần “phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Những năm qua, do tác động tiêu cực của kinh tế thị trường đã làm tha hóa đạo đức, lối sống của một bộ phận nhân dân trong đó có tín đồ các tôn giáo. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình hình tội phạm, các tệ nạn xã hội gia tăng, đạo đức xã hội xuống cấp, gây tâm lý lo lắng trong nhân dân. Trong bối cảnh đó, các cấp, các ngành chức năng cần có biện pháp phát huy những giá trị đạo đức văn hóa tốt đẹp của các tôn giáo trong việc giúp đỡ, động viên tín đồ, chức sắc các tôn giáo tích cực thực hiện chương trình phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng quê hương giàu mạnh và đấu tranh với các loại tội phạm, tệ nạn xã hội, góp phần xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Vì vậy, đề nghị bổ sung thêm nội dung: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo” vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
2. Khoản 3, Điều 25 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 quy định: “Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”. Nội dung quy định này có 2 ý, thứ nhất là: Không ai được xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, điều này là hoàn toàn phù hợp. Ý thứ hai là: Không ai được lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật. Như vậy được hiểu là: Chỉ nghiêm cấm những ai lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo với mục đích vi phạm pháp luật. Song, trên thực tế những người lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta từ trước đến nay không phải mục đích để vi phạm pháp luật, mà mục đích của họ là để chống phá chế độ hoặc trục lợi cá nhân. Hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo thường diễn ra rất tinh vi, xảo quyệt. Nhiều trường hợp, chủ thể thực hiện hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo chống chế độ nhưng được che đậy bằng các thủ đoạn rất tinh vi dưới chiêu bài bảo vệ đạo hoặc hoạt động tôn giáo nên các cơ quan chức năng không xử lý được về mặt hình sự, vì hành vi đó chưa cấu thành tội phạm. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung phát triển năm 2011) của Đảng đã xác định: “Đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”. Vì vậy, khoản 3, Điều 25 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đề nghị sửa lại như sau: “Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”.
3. Khoản 2, Điều 25 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nơi thờ tự của tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ”. Theo quy định này thì pháp luật chỉ bảo hộ: chùa, nhà thờ, thánh đường, đền, đình, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ và những cơ sở thờ tự khác (được xác định là nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo). Trong khi đó, cơ sở tôn giáo ngoài những nơi thờ tự còn có trụ sở các tổ chức tôn giáo, cơ sở đào tạo của tổ chức tôn giáo, những cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo hợp pháp khác, kinh bổn, đồ dùng thờ cúng. Những nơi này đều được pháp luật của nhà nước ta bảo hộ (quy định tại Điều 4, Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo). Vì vậy, quy định: “Nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ” như dự thảo là chưa đầy đủ, chưa phù hợp với tình hình tôn giáo ở nước ta. Đề nghị nội dung ở khoản 2, Điều 25 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 nên sửa lại như sau: “Cơ sở của tín ngưỡng, tôn giáo hợp pháp được pháp luật bảo hộ”
T.M.T.
Theo cand.com.vn
Vkyno (st)
Đại Tá, PGS, TS KHQS Trần Nam Chuân
Có nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó, vấn đề cơ bản nhất là chưa có cơ chế hợp lý để huy động được sức mạnh tổng hợp từ nhân dân tham gia sự nghiệp BVTQ. Do vậy, Điều 48 Hiến pháp 1992 cần được bổ sung cơ chế hợp lý, nhằm huy động được sức mạnh cao nhất từ nhân dân phục vụ cho sự nghiệp BVTQ.
Cả lý luận và thực tiễn trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc Việt Nam đều khẳng định: Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (BVTQ).
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI thông qua năm 2011, đã khẳng định: “Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển, đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh”, Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội 2011, Tr. 233.
Đảng ta nêu ra định hướng về mục tiêu, nhiệm vụ BVTQ là rất cơ bản và toàn diện, bao gồm cả việc xác định phạm vi, đối tượng bảo vệ và xác định mức độ, tính chất BVTQ là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững hoà bình, ổn định chính trị và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Chỉ đạo chặt chẽ việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, gắn với thế trận an ninh nhân dân và thế trận biên phòng toàn dân trên các địa bàn chiến lược biên giới, biển đảo, góp phần quan trọng vào quản lý bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới của Tổ quốc.
Thực tế chỉ ra rằng, từ khi Đảng ta ra đời cũng như trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, chưa bao giờ các thế lực thù địch từ bỏ âm mưu, hoạt động nhằm gạt bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiến tới lật đổ chính quyền, xóa bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam. Trong Hiến pháp nêu rõ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp BVTQ là cơ sở pháp lý không chỉ đảm bảo quyền lãnh đạo của Đảng mà còn để trừng trị những cá nhân, tổ chức có âm mưu đòi xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp năm 1992 của Nhà nước ta, xóa bỏ chế độ Nhà nước của dân, do dân và vì nhân dân.
Bởi vậy, Cương lĩnh 2011 (bổ sung, phát triển) tăng cường vai trò lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với nhiệm vụ BVTQ trong sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cần xác định những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, kiên định nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh và lực lượng vũ trang nhân dân. Cần tiếp tục thể chế hóa, hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc cơ chế, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các lực lượng vũ trang nhân dân.
Thứ hai, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng một cách tuyệt đối, trực tiếp và toàn diện đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Hoàn thiện sửa đổi Hiến pháp 1992, ngoài giữ Điều 4 Hiến pháp năm 1992 cần khẳng định: “Quân đội nhân dân, Công an nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước”.
Thứ ba, cần quy định cụ thể trong Hiến pháp trách nhiệm, nghĩa vụ của mọi công dân, tổ chức, cơ quan đối với sự nghiệp BVTQ. Quan điểm nhất quán của Đảng ta là: “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia là sự nghiệp của toàn dân”.
Theo Cương lĩnh 2011 thì “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt”. Vì vậy, cần bổ sung những nội dung mới của Cương lĩnh 2011 vào Điều 44 để xác định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội là sự nghiệp của toàn dân”.
Chính vì vậy trong Hiến pháp sửa đổi, bổ sung cần xác định trách nhiệm của công dân, tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp trong việc tham gia BVTQ, góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân cũng như thể chế hóa việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp với thế trận an ninh nhân dân.
Thứ tư, Hiến pháp sửa đổi, bổ sung cần khẳng định nội dung: Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo đảm gắn kết chặt chẽ hiệu quả giữa tăng cường quản lý của Nhà nước, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN.
Quan điểm này cần được quán triệt trong sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 nhằm nâng cao hiệu quả quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với nhiệm vụ BVTQ theo hướng bổ sung vào các chương, điều những nội dung như: tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về quốc phòng, an ninh; xây dựng hoàn thiện cơ chế, chính sách, phương án, Chiến lược quốc phòng, Chiến lược an ninh quốc gia; xây dựng tổ chức bộ máy Nhà nước theo hướng tập trung thống nhất và xây dựng tiềm lực quốc phòng BVTQ.
Thứ năm, về phát huy sức mạnh của nhân dân tham gia sự nghiệp BVTQ, Điều 48 Hiến pháp 1992 có ghi rõ: “Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân; giáo dục quốc phòng cho toàn dân;…”. Thực tế trong thời gian qua, chúng ta cơ bản đã phát huy được vai trò của nhân dân trong sự nghiệp BVTQ, song không phải lúc nào cũng huy động được 100% sức mạnh này.
Có nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó, vấn đề cơ bản nhất là chưa có cơ chế hợp lý để huy động được sức mạnh tổng hợp từ nhân dân tham gia sự nghiệp BVTQ. Do vậy, Điều 48 Hiến pháp 1992 cần được bổ sung cơ chế hợp lý, nhằm huy động được sức mạnh cao nhất từ nhân dân phục vụ cho sự nghiệp BVTQ.
Bổ sung, sửa đổi Hiến pháp 1992 là việc làm đặc biệt hệ trọng và cần thiết, đòi hỏi các tổ chức chính trị – xã hội, mọi tầng lớp nhân dân trên phạm vi cả nước cần phát huy trí tuệ, sáng tạo, góp phần thiết thực xây dựng “đạo luật gốc” tương xứng với tầm vóc phát triển của đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế
T.N.C.
Theo cand.com.vn
Vkyno (st)
Quốc hội tiếp tục thảo luận Dự thảo Hiến pháp 1992 sửa đổi:
Khẳng định vị trí, vai trò của Đảng trong quá trình lịch sử, sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân tộc, quyền công dân; vị trí, vai trò lực lượng vũ trang… Đó là những nội dung cơ bản tại buổi thảo luận ngày 4/6 dự thảo Hiến pháp 1992 sửa đổi.
Khẳng định sức mạnh đại đoàn kết
“Dự thảo Hiến pháp sửa đổi lần này có nhiều đổi mới, những nguyện vọng chính đáng của nhân dân được đáp ứng. Hiến định hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước, thể hiện là đạo luật cơ bản của đất nước trong thời kỳ xây dựng đất nước…” – đại biểu Châu Thị Thu Nga (Hà Nội) đánh giá.
Nhiều đại biểu cho rằng, tiến bộ ở dự thảo Hiến pháp là không chỉ lắng nghe, tiếp thu ý kiến góp ý của nhân dân, các nhà khoa học mà đây còn là đợt sinh hoạt chính trị của nhân dân. Tài liệu đã được gửi tới từng hộ gia đình để góp ý, lắng nghe nhân dân, sự phản biện của nhân dân trong từng vấn đề… “Nhân dân đồng tình với Dự thảo Hiến pháp, đã khẳng định duy nhất sự lãnh đạo của Đảng. Bản chất Nhà nước của dân, do dân, vì nhân dân. Tôi cho rằng đó là kết quả cao nhất”, đại biểu Nguyễn Văn Sơn (Hà Tĩnh) nói.
Sự đồng thuận của nhân dân sẽ tạo nên sức mạnh, đó là truyền thống quý báu ngàn đời của dân tộc Việt Nam.Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm cho rằng, nước ta là nước dân chủ, quyền lực thuộc về nhân dân. MTTQ có vai trò quan trọng, xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh và phồn vinh. Tín ngưỡng tôn giáo đã được pháp luật bảo vệ (điều 25).
Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc được khẳng định nhưng khối liên minh công-nông-trí còn thiếu bóng dáng của đội ngũ doanh nhân. Cần phải bổ sung vai trò của lực lượng doanh nhân trong xây dựng đất nước. Đa số các đại biểu đề nghị giữ nguyên điều 10, công đoàn là tổ chức chính trị xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động.
Quyền con người được bảo vệ
Về quyền công dân, quyền con người, đa số các đại biểu cho rằng, qua mỗi bản Hiến pháp quyền con người được mở rộng, tiếp tục khẳng định. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị giới hạn trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng (khoản 2, điều 15). Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội… “Con người là trung tâm của sự phát triển, quan tâm tới con người là quan tâm sự phát triển của đất nước”, đại biểu Nguyễn Thị Thanh Hòa (Bắc Ninh) nói về sự cần thiết của quyền con người trong sự phát triển của xã hội.
Bà Hòa đề nghị cần bổ sung, quy định xây dựng con người Việt Nam sống có tình nghĩa, truyền thống đoàn kết và chống lại sự vô cảm đang tồn tại trong đời sống xã hội hiện nay. Về người cao tuổi, một số ý kiến đề nghị bổ sung đối tượng người lao động cao tuổi bởi ở nước ta có 8,6 triệu người cao tuổi, trong đó, 80% người cao tuổi vẫn đang tham gia vào các lĩnh vực. Cần bổ sung chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi, phát huy vốn tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng phong phú của lớp người này. “Nên bổ sung người cao tuổi có quyền được gia đình, nhà nước, xã hội bảo vệ và phát huy vai trò trong xã hội”, đại biểu Cù Thị Hậu (Hưng Yên) đề nghị.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng với các đại biểu Quốc hội trong giờ giải lao. Ảnh: TTXVN.
Bổ sung chính sách hậu phương
Các ý kiến tán thành quy định lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế (điều 70). Trong những cuộc kháng chiến, lực lượng vũ trang đã thực hiện thắng lợi nhiều nhiệm vụ.
“Khi đất nước hòa bình, đấu tranh giữ gìn trật tự an toàn xã hội không kém phần cam go. Trong cuộc chiến với tội phạm, nhiều cán bộ, chiến sĩ Công an đã hy sinh xương máu”, đại biểu Bùi Văn Phương (Ninh Bình) đánh giá. Và ông Phương đề nghị, cần nghiên cứu chính sách hậu phương, đặc biệt trong đấu tranh với tội phạm côn đồ, băng nhóm. “Sự hy sinh của các chiến sĩ Công an là lặng lẽ, trong mỗi ngày vui, lễ tết mọi gia đình đoàn tụ yên vui đầm ấm thì các chiến sĩ Công an lặng lẽ “thức cho dân ngủ, gác cho dân vui chơi”, ông Phương giải thích. Nhiều đại biểu đồng cảm với những vất vả hiểm nguy của lực lượng Công an khi đất nước đã bình yên mà máu các chiến sĩ vẫn đổ. Có đại biểu đề nghị, cần phát triển công nghệ an ninh quốc gia. “Mọi công dân có quyền và trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc. Phải được khẳng định cụ thể hơn”, đại biểu Nguyễn Viết Nhiên (Hải Phòng) đề nghị. Không thể “từng bước” tinh nhuệ, chính quy hiện đại, mà phải khẳng định cần tinh nhuệ ngay, đại biểu Ngô Văn Minh (Quảng Nam) đề nghị.
Đại biểu Nguyễn Thị Quyết Tâm (TP Hồ Chí Minh): Kinh tế Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô Kinh tế Nhà nước không thể ngang hàng với các thành phần kinh tế khác. Cần hiến định nền kinh tế nhà nước, tránh vì lợi ích khác mà làm ảnh hưởng nền kinh tế. Các doanh nghiệp Nhà nước giữ vai trò then chốt đặc thù, doanh nghiệp Nhà nước chỉ là cấu thành trong kinh tế Nhà nước. Kinh tế Nhà nước đủ sức ổn định kinh tế vĩ mô. Đại biểu Lê Thị Nga (Thái Nguyên): Lúc tách lúc nhập không khoa học Mô hình tổ chức chính quyền địa phương cần phải đổi mới. Các cơ quan hành chính đang bình quân, chưa có mô hình bứt phá, ta lãng quên “mô hình kinh tế đặc thù”. Các đơn vị đang có nhiều chính sách kém phát triển, đề nghị “cởi trói”. Vừa qua đã có cơ chế chính sách ưu đãi như Côn Đảo nhưng nhiều địa phương có tình trạng xé rào. Về pháp lý không nên để tiếp tục tình trạng này, không minh bạch, không công bằng mà ảnh hưởng đến quốc gia. Cần ghi trong Hiến pháp giữa chính quyền đô thị và nông thôn. Về tiêu chí xác định đơn vị hành chính chưa thực sự khoa học, xảy ra tình trạng khi thì ồ ạt nhập, lúc lại tách ra như cũ… Đại biểu Bùi Văn Xuyền (Thái Bình): Phải “trưng mua” đất Tôi đồng tình với việc thu hồi đất phục vụ phát triển kinh tế – xã hội và quốc phòng – an ninh. Thu của người sản xuất lại giao cho người kinh doanh khác, thực chất là chủ thể này sang chủ thể khác. Đất đai là nguồn sống của người nông dân, phải “trưng mua”, phải có bồi thường công khai minh bạch khi đất bị thu hồi. |
Kim Quý – Vũ Hân
Theo cand.com.vn
Vkyno (st)
Sự thật về những người ở Thái Bình có tên trong bản kiến nghị sửa đổi Hiến pháp trên mạng Internet
Thời gian qua, trên một số trang mạng xuất hiện cái gọi là“Dự thảo Hiến pháp 2013” và một số ý kiến ký tên tập thể, góp ý bản sửa đổi Hiến pháp 1992 đòi bỏ điều 4 Hiến pháp năm 1992, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện chế độ đa nguyên, đa đảng; đề nghị tam quyền phân lập; áp dụng quyền sở hữu tư nhân về đất đai… Trong bản danh sách này có nhiều người ở tỉnh Thái Bình. Vậy, thực chất người ký tên ủng hộ bản kiến nghị được nêu là thật hay là giả?
Theo đăng tải trên các trang mạng xã hội, đã có rất nhiều nông dân, học sinh, sinh viên ở các tỉnh Hà Tĩnh, Nghệ An, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình… ký tên vào bản kiến nghị này.
Tuy nhiên, tên của những người này chỉ được giới thiệu một cách chung chung, không hề có địa chỉ cụ thể. Lãnh đạo tỉnh Thái Bình đã chỉ đạo các ngành chức năng tiến hành kiểm tra, xác minh tại những địa phương được cho là có nhiều người ký tên vào “bản kiến nghị ma” này.
Qua tìm hiểu trong số hơn 100 người có tên trong bản danh sách thì có tới 3/4 tên không có địa chỉ. Những người nông dân ở Thái Bình khi được hỏi đều không hề hay biết rằng việc họ đã ký tên vào một bản kiến nghị Hiến pháp mà họ không biết đó là gì? Họ đều cho rằng họ không có điều kiện truy cập Internet và nếu có thì việc nắm Hiến pháp còn rất hạn chế.
Bà con nông dân ở Thái Bình phần đông không thạo việc truy cập mạng. Nếu biết thì cũng chẳng có thời gian cho việc này vì còn bận rộn việc sản xuất, làm ăn, chưa nói đến việc có thời gian tìm hiểu rồi ký tên ủng hộ hay phản đối điều này điều khác. Những người nông dân “một nắng hai sương” của mảnh đất giàu truyền thống cách mạng Thái Bình đã và đang tham gia góp ý đầy trách nhiệm vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, đều đánh giá cao vai trò lãnh đạo của Đảng, tính ưu việt của chế độ ta.
Với nhiều người nông dân quanh năm chân lấm tay bùn ở Thái Bình, không hiểu biết nhiều về mạng Internet, thế nhưng lại ký tên trên mạng để ủng hộ cho một bản kiến nghị mà theo họ là đi ngược lại với lợi ích của dân tộc, của đất nước thì quả là điều hết sức phi lý!
Đây thực sự chỉ là những con số ảo không có thực, là một sự giả mạo, ngụy tạo, được tạo nên theo cách có chủ đích với dã tâm xấu nhằm thực hiện những mưu đồ đen tối của một số người.
Trong bản danh sách ký vào bản kiến nghị có tên “Linh mục Phạm Nguyên Hồng”, Giáo xứ chính tòa, thành phố Thái Bình. Về việc này, Linh mục Nguyễn Phúc Hạnh, Chánh xứ nhà thờ chính tòa Thái Bình, linh mục Nguyễn Văn Thoan, Chủ tịch Hội đồng giáo xứ nhà thờ chính tòa Thái Bình đều khẳng định, từ trước tới nay ở Thái Bình không có ai là linh mục Phạm Nguyên Hồng, rằng các chức sắc Công giáo địa phận Thái Bình đều rất bức xúc trước những thông tin bịa đặt trên.
Đại đức Thích Thanh Hòa, Ủy viên Ban Trị sự Phật giáo Trung ương, Trưởng ban Trị sự Phật giáo tỉnh Thái Bình cho biết: “Trong thời gian qua, trên một số trang mạng, nhiều kẻ đã lợi dụng, mạo danh các chức sắc tôn giáo, có những tiếng nói đi ngược lại với lợi ích của đất nước, của nhân dân. Chúng tôi hoàn toàn phản đối và đề nghị các cơ quan chức năng làm sáng tỏ sự việc và vạch trần bộ mặt những kẻ lợi dụng sự kiện chính trị góp ý vào bản Hiến pháp sửa đổi năm 1992 để làm xấu đi hình ảnh của đất nước, làm giảm vai trò, uy tín lãnh đạo của Đảng đối với dân tộc Việt Nam… Đề nghị các cơ quan bảo vệ pháp luật ở Thái Bình điều tra, xác minh làm rõ và xử lý nghiêm minh những đối tượng này”.
Về việc có gần 30 tên trong danh sách là giảng viên, sinh viên, học sinh Trường Đại học Công nghiệp TP Hồ Chí Minh (chi nhánh Thái Bình), thầy giáo Vũ Thanh Hải, Trưởng khoa Công nghệ Trường Đại học Công nghiệp TP Hồ Chí Minh cơ sở phía Bắc, xã Tân Bình, TP Thái Bình nói: “Nhà trường chúng tôi đã rà soát tất cả danh sách cán bộ, đảng viên và sinh viên. Chúng tôi khẳng định tập thể cán bộ giáo viên, sinh viên của nhà trường không có bất kỳ ai có tên và có ý kiến trái chiều đi ngược lại với chủ trương đúng đắn của Đảng, pháp luật của Nhà nước, với lợi ích của đất nước, dân tộc”.
Theo Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Thái Bình, hiện các tổ chức thành viên từ tỉnh đến cơ sở đã cơ bản hoàn thành việc tổ chức lấy ý kiến các đoàn viên, hội viên góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến Pháp 1992.
Tính đến ngày 10/3/2013, tỉnh đã tổ chức trên 3.000 hội nghị lấy ý kiến, với trên 120.000 cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên tham gia, đóng góp trên 23.000 lượt ý kiến. Trong đó không có một ý kiến nào từ các tầng lớp nhân dân trong tỉnh đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo đất nước của Đảng trong Dự thảo Hiến pháp sửa đổi 1992 cũng như đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, đòi phi chính trị hóa Quân đội, Công an…
Không những thế còn có hàng nghìn ý kiến đề nghị nêu rõ trong Hiến pháp: “Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo duy nhất Nhà nước và toàn xã hội Việt Nam”…
Như vậy, việc giả mạo, ngụy tạo tên người dân kiến nghị sửa đổi Hiến pháp 1992 hiện đang phát tán trên một số trang mạng nhằm tạo sức ép với Đảng và Nhà nước, bộc lộ thủ đoạn làm méo mó, biến dạng việc dân chủ lấy ý kiến đóng góp cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, là động cơ chính trị đen tối. Sự lừa dối thâm độc đó cần phải được vạch trần, lên án và xử lý nghiêm minh.
![]() “Trong thời gian qua, trên một số trang mạng, nhiều kẻ đã lợi dụng, mạo danh các chức sắc tôn giáo, có những tiếng nói đi ngược lại với lợi ích của đất nước, của nhân dân. Chúng tôi hoàn toàn phản đối và đề nghị các cơ quan chức năng làm sáng tỏ sự việc và vạch trần bộ mặt những kẻ lợi dụng sự kiện chính trị này làm xấu đi hình ảnh của đất nước, làm giảm vai trò, uy tín lãnh đạo của Đảng đối với dân tộc Việt Nam… Đề nghị các cơ quan bảo vệ pháp luật ở Thái Bình điều tra, xác minh làm rõ và xử lý nghiêm minh những đối tượng này”. Linh mục Nguyễn Phúc Hạnh – Chánh xứ nhà thờ chính tòa Thái Bình: “Chúng tôi rất bức xúc với thông tin có một số chức sắc công giáo ở Thái Bình ký tên vào bản kiến nghị sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Đó là sự bịa đặt, gian dối trắng trợn. Các chức sắc và bà con có đạo ở Thái Bình luôn tâm niệm phấn đấu sống tốt đời đẹp đạo, kính Chúa yêu nước, chấp hành tốt các chính sách của Nhà nước, của địa phương… Chúng tôi đề nghị chính quyền và các cơ quan hữu trách phải làm sáng tỏ sự thật, lôi những kẻ có mưu đồ đen tối ra trước pháp luật và trừng trị thích đáng…”.
“Đảng ủy và Ban Giám hiệu nhà trường luôn làm tốt công tác nắm tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên, giáo viên, sinh viên. Những năm qua nhà trường chúng tôi đã có nhiều đóng góp tích cực, hiệu quả đối với sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nói chung và sự nghiệp giáo dục nói riêng. Không có chuyện giảng viên, sinh viên của trường ký tên vào bản kiến nghị sửa đổi Hiến pháp năm 1992 như một số trang mạng đăng tải. Chúng tôi kịch liệt phản đối và lên án hành động lừa bịp đó…”. |
Hồ Tuyên
Theo cand.com.vn
Vkyno (st)
Thiếu Tướng, GS.TS Nguyễn Xuân Yêm
Trong thời gian vừa qua, lợi dụng quá trình đóng góp ý kiến vào bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, một số cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí trong và ngoài nước đã đưa ra những ý kiến, quan điểm sai trái, thậm chí đi ngược lại với lợi ích của quốc gia, dân tộc, như: đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi bỏ Điều 4 của Hiến pháp năm 1992, đòi Việt Nam thực hiện chế độ đa nguyên, đa đảng; đòi tam quyền phân lập; đòi tư hữu hóa đất đai, các nguồn tài nguyên thiên nhiên; họ đòi “phi chính trị hóa” các lực lượng vũ trang nhân dân…
Trong đó, luận điệu “phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân và Công an nhân dân được họ xác định là một nội dung trọng tâm để chống phá Đảng và Nhà nước.
Bản chất của luận điểm “phi chính trị hóa lực lượng vũ trang” là quân đội và công an phải trung lập, đứng ngoài chính trị; quân đội, công an không thuộc một đảng phái chính trị nào. Quân đội, công an chỉ trung thành với quốc gia, dân tộc, với nhân dân, có nhiệm vụ chống ngoại xâm bảo vệ đất nước, bảo vệ chính quyền nhà nước, bảo vệ hiến pháp, chứ không trung thành với một đảng chính trị nào.
Lịch sử thế giới đương đại cho chúng ta những bài học rất sâu sắc về vấn đề này. Vào những thập niên cuối thế kỷ XX, sau khi những người lãnh đạo Đảng, Nhà nước Liên Xô tuyên bố xóa bỏ Điều 6 Hiến pháp quy định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô, chấp nhận đa nguyên, đa đảng và sau đó là chấp nhận xóa bỏ cơ chế lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô đối với quân đội, an ninh, nội vụ làm cho Quân đội Xôviết, cơ quan An ninh, nội vụ Xôviết bị “phi chính trị hóa” và bị vô hiệu hóa. Đó là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới sự sụp đổ và tan rã của chế độ xã hội chủ nghĩa Liên Xô vào cuối năm 1991.
Để hiểu rõ vấn đề này, cần xem xét về nhà nước và quân đội, công an trong bộ máy nhà nước. Nhà nước, xét về bản chất trước hết là bộ máy trấn áp đặc biệt của giai cấp này đối với giai cấp khác, là một bộ máy duy trì sự thống trị giai cấp. Quân đội, công an là lực lượng đặc biệt của một giai cấp, là công cụ bạo lực vũ trang chủ yếu của nhà nước nhằm thực hiện mục đích chính trị và cuối cùng là mục đích kinh tế của giai cấp. Quân đội, công an xuất hiện và tồn tại gắn liền với chính trị, bị chi phối bởi chính trị, là công cụ thực hiện mục tiêu chính trị ấy.
Mọi hoạt động của quân đội, công an đều bị quy định bởi chính trị và phụ thuộc vào chính trị. Chính trị quy định bản chất, chức năng, nhiệm vụ, các mối quan hệ cơ bản của quân đội, công an như quan hệ với giai cấp, với chế độ xã hội, với nhân dân, dân tộc. Quân đội, công an bao giờ cũng gắn chặt với giai cấp, nhà nước đã sinh ra nó, mang bản chất giai cấp sâu sắc. Những người hô hào quân đội, công an chỉ là của nhà nước, nên cần “phi chính trị, đứng ngoài chính trị” đã cố tình bỏ qua bản chất giai cấp của nhà nước, quân đội, công an…
Trong tác phẩm nổi tiếng “Nguồn gốc của gia đình, chế độ tư hữu và của Nhà nước”, Ph.Ănghen đã viết: “thành lập một đội cảnh binh là cần thiết… Nó không phải chỉ gồm những người được vũ trang mà còn gồm những công cụ vật chất phụ thêm nữa, như nhà tù và đủ các loại cơ quan cưỡng bức mà xã hội thị tộc không hề biết đến” (C.Mác, Ph.Ănghen: Tuyển tập, tập VI, NXB Sự thật, Hà Nội 1984, tr.184). Ph.Ănghen còn khẳng định tiếp: “Không có cảnh sát, nhà nước không thể tồn tại được” (Sách đã dẫn, trang 184).
Theo V.I.Lenin, sự nghiệp cách mạng “Cần có một quân đội cách mạng vì những vấn đề lịch sử vĩ đại chỉ có thể được giải quyết bằng vũ lực mà trong cuộc đấu tranh hiện đại thì tổ chức vũ lực có nghĩa là tổ chức quân sự”. Sau Cách mạng Tháng Mười, trước sự đòi hỏi cấp thiết của tình hình, V.I.Lenin đã ký sắc lệnh thành lập Hồng quân công nông và thành lập cơ quan công an kiểu mới mang tên Cơ quan đặc biệt toàn Nga (Vtreca): “Để bảo vệ chủ quyền toàn vẹn cho quần chúng lao động và trừ bỏ mọi khả năng phục hồi chính quyền của bọn bóc lột”. Người coi quân đội, công an cách mạng là “trụ cột của chính phủ cách mạng”, là công cụ để quần chúng nhân dân sử dụng giải quyết những cuộc xung đột vĩ đại trong lịch sử.
Trong thực tiễn, V.I.Lenin luôn quan tâm xây dựng Hồng quân, cơ quan công an vững mạnh, đặc biệt là về chính trị. Người vạch rõ bản chất phản động của luận điệu “quân đội đứng ngoài chính trị”, coi đó là “cái giáo lý tầm thường”, “giả nhân, giả nghĩa và dối trá”. V.I.Lenin khẳng định một cách dứt khoát không có quân đội, công an trung lập về chính trị: “Quân đội không thể và không nên trung lập. Không lôi kéo quân đội vào chính trị – đó là khẩu hiệu của bọn tôi tớ giả nhân giả nghĩa của giai cấp tư sản và của chế độ Nga hoàng, bọn này trong thực tế bao giờ cũng đã lôi kéo quân đội vào chính trị phản động”.
Quan điểm “phi chính trị hóa lực lượng vũ trang” thường xuất hiện ở những nền chính trị có cấu trúc đa đảng đối lập, nhất là khi sự tranh giành quyền lực giữa các đảng phái chính trị diễn ra gay gắt, dẫn đến khủng hoảng chính trị. Về thực chất, những người đưa ra quan điểm đó muốn quân đội, công an đứng ngoài cuộc đấu tranh của các đảng phái chính trị nhằm giành quyền kiểm soát các cơ quan quyền lực nhà nước, nhưng trong thực tế không có quân đội, công an đứng ngoài chính trị. Kinh nghiệm ở Hoa Kỳ, các nước tư bản chủ nghĩa cho thấy tất cả các đảng phái cầm quyền đều cố gắng giành lấy sự ủng hộ của quân đội và công an.
Đối với Quân đội nhân dân Viêt Nam, Công an nhân dân Việt Nam, các thế lực thù địch đã và đang sử dụng mọi biện pháp, cả về lý luận, tư tưởng lẫn hành động để thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa lực lượng vũ trang” với mục tiêu cao nhất là xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân. Mục tiêu của họ là nhằm phủ nhận nguyên tắc “Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, hướng tới làm tê liệt, vô hiệu hóa vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội, Công an.
Trong hành động thực tiễn, chúng hạ thấp, đi đến đòi xóa bỏ hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị cùng hệ thống cán bộ chính trị và cơ quan chính trị trong Quân đội, Công an; xuyên tạc các sự kiện lịch sử có Quân đội, Công an tham gia, thổi phồng khuyết điểm của một vài cá nhân, đơn vị Quân đội, Công an cụ thể, hòng qua đó làm cho Quân đội, Công an mất uy tín trong nhân dân, hạ thấp vị thế của Quân đội, Công an trong xã hội. Đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy trong Quân đội, Công an, chúng kích động tư tưởng công thần, địa vị, cá nhân chủ nghĩa, đòi hỏi đãi ngộ vào bộ phận cán bộ có nhiều cống hiến trong các cuộc kháng chiến…, hòng làm ly gián nội bộ, phá hoại mối quan hệ đoàn kết, đoàn kết quân dân. Lợi dụng cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực để gây mâu thuẫn giữa lãnh đạo, chỉ huy với chiến sỹ trong nội bộ Quân đội nhân dân, Công an nhân dân.
Ở nước ta, Quân đội nhân dân, Công an nhân dân là do Đảng Cộng sản thành lập. Các tiền thân của Công an và Quân đội ngay từ ngày thành lập đã thực hiện các nhiệm vụ như: trừ gian, hộ lương diệt ác, bảo vệ xóm làng… Đây là những nhiệm vụ bảo vệ xã hội và nhân dân thời bấy giờ trong cuộc cách mạng mà Đảng Cộng sản Việt Nam đang lãnh đạo. Ngay từ khi mới ra đời, Công an và Quân đội đã là lực lượng chính bảo vệ nhân dân, bảo vệ xã hội, bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ, biên giới quốc gia. Và cho đến nay, hai lực lượng này vẫn luôn tiên phong trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Để phòng, chống khuynh hướng “phi chính trị hóa lực lượng vũ trang”, nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống “tự diễn biến” trong Quân đội nhân dân Việt Nam, Công an nhân dân Việt Nam, theo chúng tôi cần tập trung vào các giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, Công an nhân dân Việt Nam vừa là nguyên tắc cơ bản vừa là quy luật cơ bản trong việc xây dựng Quân đội, Công an kiểu mới của dân, do dân, vì dân.
Thứ hai, tăng cường đấu tranh phòng chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch hòng làm Quân đội nhân dân Việt Nam, Công an nhân dân Việt Nam “tự diễn biến” theo khuynh hướng “phi chính trị hóa”. Đẩy mạnh xây dựng Quân đội, Công an vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nền tảng để xây dựng vững mạnh toàn diện, để Quân đội, Công an không đi chệch mục tiêu chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân.
Thứ ba, tăng cường xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam, Công an nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị, củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, chăm lo xây dựng Quân đội, Công an, củng cố và tăng cường sức mạnh đoàn kết quân dân, góp phần giữ gìn và phát huy hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ, người Công an cách mạng trong xã hội, trong nhân dân.
Thứ tư, thường xuyên đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, chiến sỹ Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, tạo những chuyển biến tích cực trong đời sống văn hóa – tinh thần, khắc phục các biểu hiện tiêu cực trong đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, chiến sỹ, góp phần phát huy những phẩm chất tốt đẹp của Bộ đội Cụ Hồ, người Công an cách mạng trong tình hình mới.
Quân đội, Công an là một hiện tượng chính trị – xã hội, từ khi xuất hiện cùng với quá trình tồn tại của nó đều gắn bó với chính trị. Không và không thể có Quân đội, Công an “phi giai cấp” hoặc “siêu giai cấp”, Quân đội, Công an “phi chính trị” hoặc “đứng ngoài chính trị”. Đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa lực lượng vũ trang” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch gắn chặt với việc giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Quân đội nhân dân, Công an nhân dân. Đây là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, mọi cấp, mọi ngành trong giai đoạn hiện nay
N.X.Y.
Theo cand.com.vn
Vkyno (st)
Bạn phải đăng nhập để bình luận.