Cách đây hơn một thế kỷ, ngày 19/5/1895, José Martí (Hô-xê Mácti), người Anh hùng dân tộc Cuba đã anh dũng hy sinh khi đang ngồi trên mình ngựa xông ra trận chiến đấu chống quân thực dân Tây Ban Nha. Năm năm trước đó (1890), cũng ngày 19/5, Hồ Chí Minh, con người vĩ đại của nhân dân Việt Nam cất tiếng chào đời. Thân thế và sự nghiệp của José Martí và Hồ Chí Minh đã để lại nhiều dấu ấn trong đời sống chính trị của Hai dân tộc Cuba và Việt Nam.
Thư viện
Bác không đồng ý với Nghị quyết của Bộ Chính trị về tổ chức kỷ niệm Ngày sinh của Người
Câu chuyện sau đây do đồng chí Nguyễn Văn Lương, nguyên uỷ viên Bộ Chính trị, BCH TƯ Đảng kể lại.
Năm 1969, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về việc tổ chức bốn ngày kỷ niệm lớn: Kỷ niệm lần thứ 40 Ngày thành lập Đảng ta, kỷ niệm lần thứ 100 Ngày sinh của Lênin, mừng thọ Hồ Chủ tịch 80 tuổi và kỷ niệm lần thứ 25 Ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Hồi đó, sức Bác đã yếu. Để giữ gìn sức khỏe của Bác, Bộ Chính trị đề nghị: Khi bàn những việc quan trọng của Đảng và Nhà nước thì mời Bác chủ trì, còn khi bàn những việc thứ yếu thì cứ bàn rồi báo cáo lại. Bác cũng đồng ý như vậy. Khi Bộ Chính trị bàn việc tổ chức kỷ niệm bốn ngày lễ lớn thì Bác không dự. Nghị quyết đó ra từ tháng 4. Đến ngày 8-7 thì đăng trên báo Nhân Dân. Mọi việc lớn hay nhỏ, khi Bộ Chính trị đã bàn xong đều báo cáo lại. Riêng việc này, các đồng chí cũng ngại rằng nếu Bác biết thì thể nào cũng không để tổ chức kỷ niệm ngày sinh của mình.
Hôm đó, đọc báo xong, Bác gọi các đồng chí trong Bộ Chính trị vào, Bác chỉ vào tờ báo Nhân Dân để trên bàn và hỏi: Nghị quyết này các chú bàn bao giờ mà tại sao không cho Bác biết? Bác nói đại ý: Tất cả các Nghị quyết của Đảng đều do Bộ Chính trị quyết định tập thể. Gần đây, Bác mệt, có một số cuộc họp không dự được. Đó là khuyết điểm của Bác. Khi đọc Nghị quyết đăng trên báo, Bác tán thành nhiều điểm. Chỉ có việc riêng của Bác, Bác không đồng ý. Ai cũng biết Bác là Chủ tịch Đảng ta. Đọc Nghị quyết này, người ta sẽ nghĩ rằng Bác chủ trì phiên họp Bộ Chính trị để bàn việc tổ chức lễ kỷ niệm ngày sinh của mình cho linh đình. Thế là không đúng. Bác ngừng một lúc, giở tờ báo, chỉ tay vào một đoạn trong nghị quyết và nói: Lênin là bậc thầy của cách mạng thế giới. Bác chỉ là học trò của Lênin? Sao các chú lại đặt việc riêng của Bác ngang với những việc lớn của Đảng và Nhà nước? Bác lại chỉ tay vào một đoạn nữa trong Nghị quyết và hỏi các đồng chí trong Bộ Chính trị: Sao các chú cho in sách của Bác nhiều thế? Bây giờ nước nhà còn thiếu thốn, sách học, giấy học cho các cháu còn thiếu, thế mà sách báo của ta, kể cả sách của Bác, thì in lu bù. Nên bớt đi, cái gì cần lắm hãy in, để giấy cho các cháu học. Nói xong, Bác lại lấy ngón tay dò dò trên tờ báo. Thì ra vẫn chưa hết! Chỉ tay vào một chỗ trong Nghị quyết, ghi việc xây dựng và tu bổ những nhà bảo tàng, nhà lưu niệm của những địa phương cơ sở cách mạng Bác nói: việc này cũng cần thiết, nhưng Bác nghỉ nước ta đang có chiến tranh, nhà cửa của nhân dân bị tàn phá nặng nề, chúng ta nên để dành vật liệu trước hết xây dựng nhà ở cho nhân dân, trường học cho các cháu và nhà giữ trẻ. Khi đời sống nhân dân sung túc, lúc đó ta hãy xây dựng bảo tàng này, bảo tàng nọ.
Từ một Nghị quyết của Bộ Chính trị, Bác chỉ ra nhiều bài học rất thấm thía. Bác rất khiêm tốn, không muốn đề cao cá nhân mình, lúc nào Người cũng chỉ nhận mình là học trò của Lênin vĩ đại. Mỗi việc làm của Bác đều vì dân vì nước. Ngay cả đến khi sắp từ biệt thế giới này, Bác vẫn còn căn dặn: “Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân”.
Nhờ Bác, chúng ta nhớ những lời Bác dạy. Mọi chính sách, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước đều xuất phát từ điều kiện thực tế của đất nước, và luôn đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết.
Trích từ sách: Bác Hồ sống mãi với chúng ta, t.2.
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
Những sinh nhật giản dị của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Để tránh tổ chức, tiếp đón linh đình, dịp sinh nhật Chủ tịch Hồ Chí Minh thường đi thăm chùa, đi công tác hay làm thơ tự trào…
> ‘Người bạn Pháp của Việt Nam’ kể chuyện Hồ Chí Minh / Hồ Chủ tịch qua lời kể của nữ văn công xứ Nghệ
Nhà sử học Dương Trung Quốc vừa xuất bản cuốn “Hồ Chí Minh – Ngày này năm xưa” với mục đích tập trung phản ánh các sự kiện, công việc thường ngày của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Theo ông Quốc, trong “Ngày này năm xưa“, việc sắp xếp sinh nhật của Hồ Chủ tịch theo trình tự thời gian đã giúp người đọc thấy rõ được cách ứng xử rất giản dị, đời thường, tránh hình thức linh đình của người đứng đầu nước. Trong dịp sinh nhật, Hồ Chủ tịch cũng hay làm thơ với giọng tự trào để mọi người coi đây là việc bình thường.
Bác Hồ và đại biểu phụ nữ dân tộc ít người tại Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ III, tháng 3/1961. Ảnh tư liệu.
VnExpress.net trích đăng cuốn sách “Hồ Chí Minh – Ngày này năm xưa“:
Lần đầu tiên, ngày sinh nhật của Chủ tịch Hồ Chí Minh được công bố vào năm 1946, do vậy, ngày 19/5/1946 cũng là lần đầu tiên một hình thức mừng sinh nhật được tổ chức như để biểu thị khối đoàn kết của nhân dân quanh vị nguyên thủ của một quốc gia non trẻ đang đương đầu với những thử thách to lớn liên quan đến vận mệnh quốc gia hơn là một sự sùng bái đối với một lãnh tụ.
Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã ghi lại hình ảnh các cháu thiếu nhi nội ngoại thành thủ đô vốn là trẻ bán báo hay trẻ mồ côi tại ngôi trường Bác đã từng đến thăm… đánh trống ếch mang theo những huy hiệu là các con chữ “i tờ” của phong trào diệt dốt đến tặng Chủ tịch nước và hát những bài ca cách mạng. Tiếp đó là đoàn đại biểu các chiến sĩ Nam bộ từ chiến trường ra công tác và đoàn đại biểu Văn hóa Cứu quốc đến chúc thọ người khởi xướng và lãnh đạo cuộc Cách mạng Giải phóng Dân tộc.
Đáp lại tình cảm của mọi người, Bác nói với các chiến sĩ Nam bộ: “Thật ra, các báo ở đây làm to cái ngày sinh nhật của tôi, chứ tuổi năm mươi sáu chưa có gì đáng được chúc thọ, cũng hãy còn như là thanh niên cả, mà trước các anh, các chị, trước cảnh êm vui ở Bắc đây, tôi thật lấy làm xấu hổ vì trong Nam chưa được thái bình”.
Còn với các chiến sĩ văn hóa đến xin khẩu hiệu cho phong trào “Đời sống mới”, Bác đề xuất câu: “Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” và giải thích: “Hàng ngày ta phải ăn cơm, uống nước, phải thở khí trời mà sống. Những việc đó ngày xưa ông cha ta phải làm, bây giờ chúng ta phải làm, con cháu ta sau này cũng phải làm. Vậy ăn cơm, uống nước và thở khí trời để đem lại cuộc sống cho con người thì đó là những việc không khi nào trở thành cũ cả. “Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” đối với đời sống mới cũng vậy”.
Ngày 19/5/1947, giữa lúc chiến tranh lan rộng ra cả nước, sinh nhật Bác diễn ra tại một địa điểm bí mật trên chiến khu ở Sơn Dương (Tuyên Quang) chỉ với một bó hoa rừng của những người thân cận đang bảo vệ người đứng đầu cuộc kháng chiến. Nhưng Bác đã dành bó hoa ấy để đi viếng người cấp dưỡng của mình vừa qua đời vì sốt rét.
Đáp lại những lời chúc mừng sinh nhật vào năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư cảm ơn Quốc hội, Chính phủ, các đoàn thể và các tầng lớp nhân dân. Thư có đoạn: “Đồng bào yêu mến chúc thọ tôi, tôi biết lấy gì, nói gì để báo đáp lại lòng thân ái ấy? Tôi chỉ có một cách báo đáp là kiên quyết cùng đồng bào chịu cực, chịu khổ, quyết cùng đồng bào kháng chiến cho đến thắng lợi hoàn toàn, quyết cùng đồng bào tranh lại thống nhất và độc lập thật sự cho Tổ quốc, quyết cùng đồng bào làm thế nào cho con cháu chúng ta và muôn đời về sau được sung sướng và tự do”.
Bác Hồ đến thăm hội nghị phổ biến máy cấy công cụ cải tiến ở Từ Liêm, Hà Nội, tháng 7/1960. Ảnh tư liệu.
Vào dịp 19/5/1949, đáp lại đề nghị tổ chức lễ sinh nhật, Bác làm bài thơ “Không đề”: “Vì nước chưa nên nghĩ đến nhà / Năm mươi chín tuổi vẫn chưa già / Chờ cho kháng chiến thành công đã / Bạn sẽ ăn mừng sinh nhật ta”. Sau ngày sinh nhật, Bác gửi thư cảm ơn các tầng lớp nhân dân đã mừng thọ và hẹn: “Đến ngày toàn quốc ăn mừng hoàn toàn thắng lợi, trong cuộc kỷ niệm to ấy, tôi sẽ vui vẻ tiếp đồng bào và chiến sĩ, kèm thêm một kỷ niệm nhỏ là Ngày sinh nhật của tôi”.
Ngày 19/5/1950, trong một cuộc họp cán bộ các cơ quan Trung ương ở Thác Dẫng (Tuyên Quang), đáp lại tình cảm của mọi người, Bác làm một bài thơ tự cảm về tuổi tác của mình: “Sáu mươi tuổi hãy còn xuân chán / So với ông Bành vẫn thiếu niên / Ăn khỏe ngủ ngon, làm việc khỏe / Trần mà như thế kém gì tiên!”.
Đến dịp 63 tuổi (19/5/1953), Bác làm bài thơ chữ Hán “Thất cửu”: “Nhân vị ngũ tuần thường thán lão / Ngã kim thất cửu chính khang cường / Tự cung thanh đạm, tinh thần sảng / Tố sự thung dung nhật nguyệt trường”. (Nhà thơ Xuân Thủy dịch: “Chưa năm mươi đã kêu già / Sáu ba, mình vẫn nghĩ là đang trai / Sống quen thanh đạm nhẹ người / Việc làm tháng rộng ngày dài ung dung”).
Ngày 19/5/1954, lễ mừng sinh nhật hòa chung với không khí đón mừng chiến thắng Điện Biên Phủ bằng cuộc gặp gỡ của Bác với đại biểu là những chiến sĩ có thành tích tiêu biểu từ chiến trường trở về chiến khu. Bác đã gắn huy hiệu cho chiến sĩ trẻ bắt sống tướng De Castries. Và trong cuộc gặp còn có một vị khách đặc biệt là nhà điện ảnh Xô viết Roman Karmen, người đang thực hiện những bộ phim về Điện Biên Phủ và cuộc kháng chiến của nhân dân ta.
Sau ngày hòa bình, Bác thường vắng mặt ở nhà để tránh những cuộc tiếp mừng sinh nhật. Ngày 19/5/1958, Bác đi thăm chùa Hương; Dịp sinh nhật năm 1959, Bác đi thăm chùa Tây Phương.
Bác Hồ và các cháu thiếu nhi vui liên hoan văn nghệ nhân ngày Quốc tế thiếu nhi, tháng 5/1969. Ảnh tư liệu.
Từ năm 1960 đến 1967, vào trung tuần tháng 5, Bác thường sang Trung Quốc để làm công tác ngoại giao, tranh thủ nước bạn ủng hộ cuộc kháng chiến đang diễn ra ngày càng ác liệt ở trong nước.
Riêng ngày 19/5/1965, trong dịp sang Trung Quốc, Bác thăm Khúc Phụ, quê hương của Khổng Tử và làm bài thơ “Phỏng Khúc Phụ”: “Ngũ nguyệt thập cửu phỏng Khúc Phụ / Cổ tùng cổ miếu lương y hy / Khổng gia thế lực kim hà tại / Chỉ thặng tà dương chiếu cổ bi”. (Đặng Thai Mai dịch: “Mười chín tháng năm thăm Khúc Phụ / Miếu xưa vẫn dưới bóng tùng xưa / Uy quyền họ Khổng giờ đâu nhỉ? / Lấp loáng bia xưa chút ánh tà”).
Ngày 19/5 của 2 năm cuối cùng (1968 và 1969), vào khoảng thời gian từ 9 đến 10h sáng, Bác đều dành để xem và sửa lại “Di chúc”, sau đó tiếp chị Phan Thị Quyên (vợ liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi) và chị Nguyễn Thị Châu (cán bộ Hội Liên hiệp Thanh niên và Sinh viên giải phóng khu Sài Gòn – Gia Định). Dường như vào thời điểm chiến tranh còn gian khổ và nước nhà chưa thống nhất, những tình cảm sâu nặng nhất Bác luôn muốn dành cho miền Nam ruột thịt.
Tiến Dũng ghi
vnexpress.net
Những suy nghĩ về Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh
Giản dị, khiêm tốn, quên mình vì dân, vì nước là những phẩm chất cao đẹp ở Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ thuở thiếu thời, khi làm người phụ bếp trong một chuyến tàu ra đi tìm đường cứu nước đến khi làm người thầy truyền đạt tri thức cho học trò và đến lúc đảm nhận trọng trách Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ở cương vị nào Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn giữ cuộc sống thanh bạch, giản dị, khiêm tốn và hết sức tiết kiệm.
Với tinh thần của người cộng sản, Hồ Chí Minh đặt lợi ích dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, dành trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng đất nước, phấn đấu thực hiện “ham muốn tột bậc” làm cho “Đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, đất nước độc lập, nhân dân thoát khỏi ách nô lệ, được sống cuộc sống tự do, bắt tay xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng cuộc sống thanh bạch của vị Chủ tịch nước vẫn không có gì thay đổi. Người không đòi hỏi bất kỳ những gì riêng tư cho mình, kể cả trong những dịp kỷ niệm Ngày sinh của Người.
Dõi theo những lần sinh nhật của Bác vào ngày 19-5, khi miền Bắc có điều kiện kỷ niệm, chúng ta càng thấy rõ nhân cách cao thượng của Người.
Từ sau ngày chiến thắng Điện Biên Phủ đến ngày Bác về với các Cụ Các Mác, Cụ Lênin (15 năm), có lẽ, để tránh những nghi lễ, 6 năm (1960, 1961, 1962, 1964, 1966, 1967) vào dịp sinh nhật của mình, trong đó có sinh nhật lần thứ 70, Bác ra nước ngoài công tác.
Nhiều lần trong dịp kỷ niệm ngày sinh, Bác không ở Hà Nội mà về thăm nhân dân các địa phương. Ngày 19-5-1957, Bác đi Quốc Oai, Hà Tây. Ngày 19-5-1958 Bác đến Chùa Hương (Mỹ Đức, Hà Tây), căn dặn nhân dân tích cực trồng cây, bảo vệ rừng. Ngày 19-5-1959, Bác đi thăm cán bộ, nhân dân các dân tộc Tây Bắc.
Là người lịch lãm, nhân ái, Bác luôn tôn trọng người xung quanh, không quên cảm ơn những người chúc mừng Bác. Ngày 19-5-1956, Bác gửi thư cho cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc. Trong thư có đoạn viết: “Bác nhận được rất nhiều thư chúc thọ của các cô, các chú… Bác gửi thư này cảm ơn chung”.
Cả cuộc đời vì nước, vì dân, Bác đau đáu vì miền Nam chưa được giải phóng, Bắc – Nam chưa được sum họp một nhà, nhiều gia đình ngày Bắc, đêm Nam. Ngày 19-5-1963, Quốc hội có ý tặng Bác Huân chương Sao Vàng – huân chương cao quý nhất của Nhà nước Việt Nam, Bác nói: “Tôi xin tỏ lòng biết ơn Quốc hội. Nhưng Quốc hội cho phép tôi chưa nhận, vì tôi tự thấy chưa xứng đáng… Chờ đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đồng bào miền Nam tặng thì tôi xin nhận”. Bác mất đi, trên ngực không một tấm huân chương. Nhưng tấm huân chương cao quý nhất mà nhân dân cả nước trao tặng Bác là niềm tin tuyệt đối, tình cảm yêu quý Bác. Ngay trong bom đạn, kìm kẹp của kẻ thù, không có tỉnh nào ở miền Nam không có đền thờ Bác. Miền Nam trong trái tim Bác và Bác ở trong mỗi trái tim người dân miền Nam. Đây là một nguyên nhân làm nên chiến thắng 30-4 lịch sử.
Là lãnh tụ của Đảng, với tầm nhìn xa, trông rộng, Bác căn dặn việc đảng, việc nước, việc dân phòng khi Bác đi xa. Dịp kỷ niệm 75 năm Ngày sinh, đúng 9 giờ sáng, giờ đẹp nhất của ngày 10-5-1965, Bác đặt bút viết dòng đầu tiên của tài liệu “Tuyệt đối bí mật” – Di chúc.
Ngày 19-5-1968, Bác xem và sửa lại tài liệu “Tuyệt đối bí mật” và có bài thơ :
“Bảy mươi tám tuổi chưa già lắm
Vẫn vững hai vai việc nước nhà
Kháng chiến dân ta đang thắng lợi
Tiến bước ta cùng con em ta” .
Ngày 19-5-1969, đúng 9 giờ sáng Bác tiếp tục sửa chữa bản Di chúc. Đây là kỷ niệm sinh nhật lần thứ 79 – kỷ niệm sinh nhật cuối cùng của Bác.
Hồ Chí Minh cả cuộc đời không một phút riêng tư, “nâng niu tất cả chỉ quên mình ”, đúng như nhà thơ Tố Hữu đã viết:
“Một đời thanh bạch chẳng vàng son
Mong manh áo vải, hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn”.
Ngày nay, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, chúng ta cần nâng cao nhận thức và quyết tâm quét sạch chủ nghĩa cá nhân, thực hiện nguyện ước của Bác: Xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, sánh vai các cường quốc năm châu.
Đó cũng chính là thực hiện Di chúc thiêng liêng của Người.
Trần Quý Cử
Theo Tạp chí Xây dựng Đảng
Tâm Trang (st)
bqllang.gov.vn
Gương sáng Hồ Chí Minh còn mãi
(Chinhphu.vn) – Trong lịch sử nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta, nhân dân ta có được niềm tự hào xứng đáng là Tổ quốc Việt Nam đã sinh ra một con người vĩ đại, vừa là anh hùng giải phóng dân tộc, vừa là nhà văn hóa lớn có tầm vóc thời đại, được nhân loại tiến bộ thừa nhận, là Hồ Chí Minh, người mang ánh sáng soi đường cho mọi con người, mọi đất nước cùng phát triển đi tới Tự do, Bình đẳng và Hạnh phúc.

Con người tiến bộ vẫn tiếp tục khám phá và tìm về Hồ Chí Minh như tìm về lòng tốt của con người, tình bạn, lòng nhân ái.
GS. Sử học Hungari Zogiô Lôxangô đã đánh giá cao những cống hiến của Hồ Chí Minh: “Ngày nay, trong phong trào thế giới, không có nhân vật lịch sử nào có thể so sánh với Hồ Chí Minh. Đó là tầm vóc của một con người có phẩm giá, mà tên gọi gợi lên một lòng kính trọng bất di bất dịch của không những từ các bạn bè mà cả chính những đối thủ của Người. Đó là tầm vóc những hoạt động mà với tư cách là nhà cách mạng, nhà chính khách, Người được mọi người tôn kính khi còn sống cũng như khi đã qua đời, không những trên đất nước xứ sở của người mà cả trên toàn thế giới”.
Cho đến ngày nay, khi nhân loại đã bước sang thế kỷ XXI, trong hoàn cảnh thế giới có đổi thay, nhưng tư tưởng và cuộc đời hoạt động phong phú của Người vẫn là ánh sáng soi đường cho mọi người nắm chắc mục tiêu mà đi tới.
Bà Macxêla Lômbácđô, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu triết học và tư tưởng chính trị xã hội Mexico, khẳng định: “Rõ ràng là những sự kiện đang xảy ra hiện nay cho thấy thế giới bước sang thiên niên kỷ thứ III, sự đối đầu không chỉ là bằng vũ khí mà bằng cả sức mạnh tư tưởng. Cũng rõ ràng là con người tiến bộ vẫn tiếp tục khám phá và tìm về Hồ Chí Minh như tìm về lòng tốt của con người, tình bạn, lòng nhân ái. Một con người không nghĩ đến mình, giản dị, khiêm tốn, không tự giam mình trong tháp ngà, một con người của quần chúng, sống cho hạnh phúc của quần chúng”.
Trong khi trăn trở về một thế giới đang đứng trước thảm họa vật chất, con người và xã hội vận động theo quy luật đồng tiền, bị xô đẩy vào một cuộc cạnh tranh khốc liệt tiêu diệt lẫn nhau để giành lấy lợi nhuận và giành lấy quyền bá chủ, khiến cho thế giới không thể ổn định, bình yên, nhà sử học người Mỹ G.Xtensơn nhận xét: “Trong khi một số đông người đã tha hóa, chạy theo lối sống hưởng thụ vật chất, bất chấp cả nhân phẩm, đạo đức, thì nhân loại lại phải tìm về tấm gương sáng chói nhân cách của Hồ Chí Minh, một tấm gương cho mọi thế hệ tiếp sau”.
Lãnh tụ Cuba Phiđen Caxtơrô đánh giá rằng: “Đồng chí Hồ Chí Minh thuộc lớp người đặc biệt mà cái chết là mầm mống của sự sống và là nguồn cổ vũ đời đời bất diệt”.
Ngày nay, nghĩ nhớ về Bác, là chúng ta nghĩ nhớ về một thời mà được sự dìu dắt của Bác và của Đảng, nhân dân ta đánh giặc ngoại xâm nhưng không ai bị đói, không ai không được học; trong khi trai tráng ra chiến trường, phụ nữ ở lại làng mạc, nhiều người đã trở thành Chủ tịch xã, Xã đội trưởng, Bí thư Đảng ủy; nhiều thanh niên ưu tú đã được Nhà nước gửi đi học nước ngoài ngay trong thời chiến để đến khi hòa bình vừa được lập lại, đã trở thành những chiến lược gia kinh tế, những kỹ sư, công trình sư có năng lực, kịp thời phát triển ngay những ngành công nghệ, kỹ thuật hiện đại như dầu khí, cơ khí, công nghệ thông tin và các ngành khoa học kỹ thuật khác, đủ nhân lực để bước vào thực hiện công cuộc Đổi mới từ năm 1986.
Ngày nay, nghĩ nhớ về Bác là chúng ta phải nghiêm túc nhận rõ những thiếu sót của thế hệ chưa thực hiện được những gì Bác mong muốn, chưa làm được những gì Bác đã chỉ đường, chưa noi theo những gì Bác nêu gương.
“Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn”, như Tố Hữu đã nói bằng một câu thơ quá đẹp.
Trần Thái Bình
baodientu.chinhphu.vn
Bốn phương lồng lộng Thủ đô gió ngàn
Kỷ niệm 122 năm Sinh nhật Bác và 65 năm Ngày Bác Hồ về An toàn khu Định Hóa (Thái Nguyên)
Đường vào ATK Định Hoá hôm nay xanh mướt mát, ATK Định Hóa hôm nay đã trở thành Di tích Quốc gia Đặc biệt. 65 năm đã trôi qua, vẫn còn nguyên nơi đây những tên bản, tên núi, tên sông lịch sử, gắn liền với các hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của cách mạng Việt Nam.
Bác Hồ tại Điềm Mặc (Định Hóa, Thái Nguyên) vào mùa hè 1947
Việc chọn Việt Bắc làm căn cứ địa cách mạng đã được Bác Hồ với tầm nhìn chiến lược, từ rất sớm đã tính đến. Tháng 10-1946, trước khả năng cuộc kháng chiến sẽ bùng nổ, Bác cử đồng chí Nguyễn Lương Bằng và Trần Đăng Ninh lên Việt Bắc để chuẩn bị căn cứ địa. Ít ngày sau, kháng chiến bùng nổ, các cơ quan lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội lần lượt rời Thủ đô Hà Nội di chuyển về Việt Bắc.
Ngày 20-5-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh có mặt tại ATK Định Hóa (Thái Nguyên). Cũng từ tháng 5 năm ấy, những cơ quan trọng yếu của Đảng, Nhà nước, Chính phủ theo kế hoạch đã lần lượt đến đứng chân ở mảnh đất này. Nơi ở và làm việc của Bác được đặt tại khu rừng Khau Tý (thôn Điềm Mặc, xã Thanh Định, huyện Định Hóa). Nhưng để đảm bảo bí mật, trong những ngày ở ATK Định Hóa, Bác Hồ thường qua lại mấy xã liền kề, như Phú Đình, Định Biên, Thanh Định… Từ đây, có đường sang Sơn Dương, lên Chợ Đồn, ra Phú Lương, xuống Đại Từ.
Vậy là ATK Định Hóa trở thành nơi đặt đại bản doanh của Trung ương Đảng, Chính phủ, Mặt trận Liên Việt (nay là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam), Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Quốc phòng… cũng là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các nhà cách mạng cao nhất như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Quốc Việt, Tôn Đức Thắng, Văn Tiến Dũng… ở và làm việc trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp gian khổ và hào hùng.
Tại ATK Định Hóa, Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Tổng Tư lệnh đã ra nhiều quyết định quan trọng trong việc mở các chiến dịch lớn như chiến dịch Thu Đông năm 1947, chiến dịch Biên Giới năm 1950, chiến dịch Tây Bắc, chiến dịch đường 18, Hà Nam Ninh, chiến dịch Hòa Bình. Đặc biệt là tại ATK, Bác Hồ và Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954.
Nhà tưởng niệm Bác Hồ tại ATK Định Hóa
Cũng tại đây còn diễn ra nhiều sự kiện quan trọng khác như Hội nghị tuyên dương các anh hùng và chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất; Lễ phong hàm cấp tướng đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp và 10 tướng lĩnh khác.
Một tháng sau khi đặt chân đến ATK Định Hóa, Bác Hồ đã ra Lời kêu gọi nhân kỷ niệm nửa năm kháng chiến toàn quốc. Trong Lời kêu gọi, Bác đã khẳng định: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta nhất định thắng lợi. Vì đó là cuộc kháng chiến chính nghĩa, vì đồng bào ta đoàn kết một lòng, vì tướng sĩ ta dũng cảm, vì chiến lược của ta đúng đắn, vì ta có nhiều bầu bạn.
Về mặt quân sự, theo chỉ đạo của Bác, các lực lượng vũ trang như bộ đội chủ lực, dân quân du kích từng bước được hình thành và phát triển mạnh trong phạm vi toàn quốc. Từ ATK Định Hóa, nhiều mệnh lệnh của cách mạng được chuyển đi các chiến trường trong cả nước, chỉ đạo các bước đi của đội quân Tây Tiến, cách đánh địch ở đường 5, chiến trường Bình Trị Thiên, chỉ đạo cuộc chiến tranh du kích ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ.
Về mặt đối ngoại, Đài Tiếng nói Việt Nam đóng tại ATK đã nhiều lần phát đi các bức điện của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm phê phán lập trường ngoan cố của chính quyền thực dân Pháp, khẳng định thái độ thiện chí của ta trong việc giải quyết vấn đề chiến tranh Việt Nam.
Lán Khuôn Tát – nơi Bác Hồ làm việc ở ATK Định Hóa
Cũng trong những ngày ở ATK Định Hóa, với phương châm “Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, Bác Hồ và Trung ương Đảng đã quan tâm chỉ đạo phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, từng bước cải thiện đời sống của nhân dân. Do vậy, ATK Định Hóa ngày ấy thực sự là Thủ đô kháng chiến, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần kháng chiến của cả nước, nơi nuôi dưỡng chí bền gan chiến đấu của dân tộc.
Từ ATK Định Hóa đến chiến dịch Điện Biên Phủ là một hành trình cách mạng gian khổ và nhất định thắng lợi. Điều đáng nói là trong những năm kháng chiến đầy gian khổ hy sinh ấy, nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên đã hết lòng bảo vệ cách mạng, bảo vệ Bác Hồ. ATK Định Hóa trở thành quê hương của cách mạng Việt Nam.
Trong những ngày tháng 5 lịch sử này, để ca ngợi công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, đồng thời phát huy những giá trị, ý nghĩa to lớn của ATK Định Hóa trong lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc, giáo dục truyền thống cách mạng cho các thế hệ hôm nay và mai sau, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Thái Nguyên tổ chức các hoạt động kỷ niệm 65 năm Ngày Bác Hồ về ATK Định Hóa lãnh đạo cuộc kháng chiến (20-5-1947 – 20-5-2012) và đón nhận Bằng xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt: Khu di tích lịch sử ATK Định Hóa. Đây là một sự kiện chính trị, văn hóa quan trọng của tỉnh Thái Nguyên thể hiện lòng biết ơn của các thế hệ con cháu quyết tâm vững bước đi theo con đường mà Bác Hồ đã chọn, xây dựng quê hương Thái Nguyên ngày càng giàu mạnh và phồn vinh.
T. Vĩnh
daidoanket.vn
“ATK Thái Nguyên hát mãi tên Người”
Tối 19-5, tại Trung tâm tổ chức sự kiện Khu Du lịch sinh thái Hồ Núi Cốc, TP Thái Nguyên, Đảng bộ, chính quyền, quân và dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên long trọng tổ chức Lễ Kỷ niệm 65 năm ngày Bác Hồ về ATK Thái Nguyên lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược; 122 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh và đón nhận Bằng xếp hạng Di tích Quốc gia Đặc biệt cho Khu di tích lịch sử ATK Định Hoá.
Ảnh: Xuân Hòa
Phát biểu với đồng bào các dân tộc tỉnh Thái Nguyên, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang khẳng định: “Đảng bộ và nhân dân Thái Nguyên đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an toàn tuyệt đối Bác Hồ và các cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến. Định Hóa, Thái Nguyên đã trở thành khu di tích lịch sử cách mạng. Việc trao tặng cho ATK Định Hóa Bằng xếp hạng di tích lịch sử quốc gia đặc biệt là sự ghi nhận, đánh giá cao của Đảng, Nhà nước về ý nghĩa lịch sử khu di tích”.
Trần Ngọc Kha
daidoanket.vn
Nhân dân thủ đô Hà Nội lần đầu tiên kỷ niệm sinh nhật Hồ Chủ tịch
Ngày18-5-1946, báo Cứu Quốc, cơ quan ngôn luận của Tổng bộ Việt Minh (nay là báo Đại Đoàn Kết) xuất bản ở Hà Nội, chính thức thông báo ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh: ngày 19-5-1890. Chính ngày này đã ra đời một người đặc biệt của đất nước Việt Nam: Hồ Chí Minh”.
Tinh thần hoạt động của hầu hết các chiến sĩ Việt Nam đều do bộ óc tài tình của Người xây dựng nên. Ngày 19-5-1890, ngày Người nhìn thấy bầu trời Việt Nam là ngày rất quan hệ đến vận mệnh dân tộc Việt Nam.
“…Chúng ta dân tộc Việt Nam, chúng ta đi từ giai đoạn một nước nô lệ đến giai đoạn một nước tự do là nhờ có Hồ Chí Minh”. Cùng cả nước, nhân dân Thủ đô Hà Nội lần đầu tiên tổ chức kỷ niệm lần thứ 56 ngày sinh của vị Cha già dân tộc với tất cả tấm lòng thành kính, biết ơn. Chiều ngày 18-5-1946 TP. Hà Nội bừng lên trong rừng cờ biểu ngữ. Gia đình nào cũng treo ảnh chân dung Hồ Chủ tịch ở nơi trang trọng nhất. Các ngành, các đoàn thể, các giới ở Hà Nội đều gửi điện văn lên chúc thọ Hồ Chủ tịch bày tỏ lòng tin tưởng tuyệt đối với lãnh tụ tối cao của dân tộc, sẵn sàng tuân theo mọi mệnh lệnh của Chính phủ.
Tại Bắc Bộ Phủ, từ sáng sớm các em thiếu nhi đã tụ tập ở Ấu Trĩ Viên. Theo tiếng trống ếch các em tiến vào Bắc Bộ Phủ. Bác hiền từ giản dị trong bộ quần áo vẫn mặc hàng ngày tươi cười đón các em.
Thay mặt các bạn, em Nga, 8 tuổi đọc bài chúc thọ Bác trong khi các em khác thi nhau gắn huy hiệu “Măng non mọc thẳng” lên ngực áo Bác, kính tặng Bác huy hiệu hình quả tim có chữ “i”, chữ “t” tập bài hát và điều lệ Hội Nhi đồng cứu quốc. Đồng chí Khuất Duy Tiến, Bí thư Thành bộ Việt Minh mang cây bách tán tới. Bác Hồ trao cây cho các em thiếu nhi. Người nói: “Bác có cây này tặng các cháu. Mai sau cái cây sẽ mọc ra một trăm cái tán. Các cháu về chăm lo cho cây lớn, cây tốt, thế là các cháu yêu Bác lắm đấy”. Các em sung sướng được Bác cho quà, đồng thanh hát bài “Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn các em nhi đồng”. Bác chụp ảnh chung với các em.
Tiếp đó, các đoàn đại biểu Hướng đạo, thiếu niên Tiền phong, đại biểu Nam Bộ, vệ quốc quân, Ban bảo vệ thành, Ban Cứu thương, đại biểu các ngành các giới, các đoàn thể, các tôn giáo, thân hào, nhân sĩ… đến chúc thọ Bác. Đại biểu UBND TP. Hà Nội kính biếu Bác một tháp rùa khổng lồ làm bằng bánh ngọt. Đại biểu Phật giáo dâng Bác quyển Kinh Dược sư.
19 giờ, tại chùa Quán Sứ, Hội Phật tử đã tổ chức buổi lễ long trọng cầu trường thọ cho Hồ Chủ tịch.
Trong ngày kỷ niệm sinh nhật 56 năm của mình, Bác vẫn không quên nhắc nhở cán bộ khi đến chúc thọ Người thực hiện khẩu hiệu “Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư”, vì đó là những điều không bao giờ cũ cả, tựa như cơm ăn, nước uống hàng ngày để sống vậy”.
Lễ kỷ niệm sinh nhật Hồ Chủ tịch đầu tiên được tổ chức ở Thủ đô Hà Nội trong bối cảnh vô cùng gay go phức tạp: quân Tưởng chưa rút hết, quân Pháp ngày càng có nhiều hành động bội ước vi phạm Hiệp định sơ bộ 6/3. Vì thế, lễ kỷ niệm sinh nhật Hồ Chủ tịch không chỉ biểu lộ lòng tôn kính, tin tưởng tuyệt đối của nhân dân vào vị lãnh tụ tối cao của dân tộc mà còn là dịp biểu dương lực lượng to lớn, biểu thị tinh thần đoàn kết, quyết tâm giữ vững độc lập của nhân dân Hà Nội và đồng bào cả nước.
Lê Quang Cảnh
(Biên tập theo báo Cứu Quốc số 243 ngày 18-5-1946 và 244 ngày 20-5-1946)
daidoanket.vn
Bác Hồ: Tấm gương sáng về tập luyện thể dục thể thao
Cứ đến ngày này (19-5) cả nước lại hướng về ngày sinh của Bác. Với riêng ngành Thể dục – Thể thao, ngoài tấm lòng yêu nước thương dân, Bác còn là tấm gương sáng về tập luyện thể dục thể thao. Kỷ niệm 120 năm ngày sinh của Người, chúng ta thật xúc động và tự hào nhắc lại tấm gương rèn luyện thân thể bảo vệ sức khoẻ, tăng cường thể lực để phục vụ cách mạng và nhân dân.
Bác Hồ rèn luyện thân thể hàng ngày
Trong Lời kêu gọi toàn dân tập thể dục của Hồ Chủ tịch được đăng tải trên tờ Cứu quốc (Tiền thân của Báo Đại Đoàn Kết) tháng 3-1946. Bác Hồ đã viết: “ Tự tôi ngày nào tôi cũng tập”. Hồ Chủ tịch là tấm gương trong sáng về nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trí tuệ lỗi lạc, lối sống lành mạnh và tinh thần rèn luyện thân thể để giữ gìn sức khoẻ và nâng cao thể lực nhằm phụng sự Tổ quốc và nhân dân.
Sau Tổng tuyển cử ngày 6-1-1946, khi Chính phủ liên hiệp kháng chiến được thành lập, Hồ Chủ Tịch thay mặt Chính phủ mới ký sắc lệnh số 38 (vào ngày 27-03-1946) về việc thành lập Nha Thanh niên và Thể dục gồm Phòng thanh niên Trung ương và Phòng thể dục Trung ương. Bác am hiểu sâu sắc và có lòng tin mãnh liệt vào phương pháp bảo vệ sức khoẻ bằng tập luyện thể dục thể thao (TDTT). Chẳng hạn, ở nước Nga, trong mùa Đông, Bác Hồ vẫn đều đặn dậy sớm tập thể dục tay không, kết hợp với tập các loại tạ và dây thun… Chủ tịch Hồ Chí Minh có thói quen tránh ăn quá no, rèn luyện thân thể vào buổi sáng, không ngủ trưa, và buổi chiều Người đi làm vườn, cho đồng bào trong xóm… Các vị lão thành cách mạng còn kể lại, thời kỳ chuẩn bị Hội nghi Trung ương Đảng lần thứ 8 năm 1941, sáng nào, Cụ Hồ cũng đi đến các lán gọi mọi người cùng dậy tập thể dục bên dòng Khuổi Nậm, rồi dành một lúc tăng gia và đi tắm suối rồi sau đó mới bắt tay vào công việc nghiên cứu, viết tài liệu.
Lúc ở Liễu Châu (Trung Quốc) Bác Hồ vẫn tập luyện thể dục đều đặn, nhiều hôm Bác tập Thái Cực quyền và chạy bộ 4-5 km. Đồng chí Vũ Kỳ kể rằng: Bác Hồ có kiểu tập nhảy “dậm chân tại chỗ” thật lạ và thú vị. Số là “Phòng Chủ tịch nước”- nơi làm việc của Bác cách các lán khác thường từ dăm chục mét đến ba bốn trăm mét. Đường đi lên lán hay xuống suối, đến nhà ăn đều được Bác cho đặt những rào chắn cao từ 10 – 15cm, mức cao nhất trên 40cm. Mỗi khi đi qua, Bác và mọi người phải chụm chân nhảy không được lấy đà. Tập sức bật tại chỗ như vậy khá “trường kỳ” nhưng rõ ràng đạt hiệu quả. Cách rèn luyện “vượt chướng ngại vật” như thế, giúp Bác có thêm sức khoẻ dồi dào. Đồng chí Vũ Kỳ kể tiếp: “Hồi đó mỗi ngày Bác tập hành quân từ 5 đến 10km có hôm tăng lên tới 20km đường rừng, băng đèo, vượt sông. Bác cũng đeo ba lô nặng 25kg”. Là người khai sinh ra nền TDTT nước nhà, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chủ tịch luôn luôn quan tâm, dành thời gian theo dõi, chỉ đạo, chăm sóc phát triển ngành TDTT. Dù rất bận việc Nhà nước nhưng Bác luôn cố gắng có mặt tại các sự kiện thể thao trong nước. Đặc biệt, Bác luôn gặp mặt và động viên các VĐV thi đấu đạt thành tích tại các giải quốc tế (danh thủ Trần Oanh – bắn súng, Trần Hữu Chỉ – điền kinh, Vũ Thị Sen – bơi…). Hồ Chủ Tịch căn dặn: “Đánh giặc Mỹ gian khổ khó khăn như vậy, nhưng quân và dân ta có quyết tâm đánh thắng. Các cháu phải quyết tâm đạt thành tích cao hơn nữa. Muốn vậy phải đoàn kết, giúp đỡ nhau trong tập luyện và thi đấu, phải cố gắng thật nhiều để xứng đáng là những VĐV của dân tộc anh hùng”. Nhớ lời Bác dặn, ngành TDTT và giới TDTT cả nước càng nhớ Bác, phấn đấu làm theo lời Bác Hồ dạy và noi theo tấm gương đạo đức của Người.
AN CHI (tổng hợp)
daidoanket.vn
Tháng năm hành trình theo chân Bác
(GD&TĐ) – Những ngày đầu tháng 5 lịch sử, trong không khí chuẩn bị lễ kỷ niệm 65 năm Bác Hồ và Bộ Chính trị về Định Hóa lập thủ đô kháng chiến, chúng tôi làm một cuộc hành trình về thăm những địa danh và những di tích nơi xưa kia, trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, Bác Hồ chọn là nơi dừng chân để chuẩn bị cho chiến lược lâu dài. Theo bước chân của Người, chúng tôi được trở về với không khí của những tháng năm gian khổ mà nghĩa tình nơi Việt Bắc thiêng liêng.
Nơi thắp lửa cuộc Tổng khởi nghĩa
Hướng về vùng núi rừng Việt Bắc, nơi xưa kia Bác và Bộ Chính trị chọn là “Thủ đô kháng chiến”, chúng tôi dừng chân ở Chợ Chu Định Hóa, cách thành phố Thái Nguyên 50 km.
Cây đa cùng biển di tích trước cửa chợ Chu
Cách thị trấn Chợ Chu khoảng 2km, chợ Chu nằm giữa ngã ba xóm Đồng Chùa, cạnh hai cây đa tỏa rộng bóng mát. Theo người già ở đây, chợ Chu được thực dân Pháp xây dựng từ trong vòng 10 năm từ 1915 đến 1925, khi chúng tiến hành xâm lược Việt Nam và chọn Định Hóa là phên giậu tiến hành những cuộc càn quét và xây dựng nhà tù. Chợ Chu được xây dọc thành nhiều gian với nhiều cột to, xù xì, chạy dọc theo một khu đất rộng. Chợ Chu không đơn thuần là một khu chợ để mua bán và sinh hoạt cộng đồng mà còn là nơi diễn ra những cuộc đàn áp đẫm máu của thực dân Pháp với những cộng sản yêu nước thời bấy giờ.
Theo cuốn Lịch sử Định Hóa của tác giả Lê Nhâm, người dày công viết lịch sử cách mạng của quê hương, chợ Chu là địa điểm đặc biệt quan trọng, là nơi khởi đầu cho cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945. Vẫn còn đây, trước cửa chợ Chu là hai cây đa lịch sử ghi dấu ấn ngày 28 tháng 3 năm 1946. Tại đây, đúng ngày này, đã diễn ra cuộc mít tinh lịch sử với hàng ngàn quần chúng tham gia. Trong cuộc mít tinh này, Việt Minh huyện Định Hóa đã tuyên bố xóa bỏ ách thống trị của thực dân Pháp và chính quyền phong kiến tay sai. Từ đây, ngọn lửa cuộc Cách mạng Tháng Tám bùng lên mạnh mẽ, Mặt trận Việt Minh tiến về Hà Nội cướp chính quyền.
Ngày nay, chợ Chu của thị trấn được xây dựng khang trang hơn ở một khu mới, song vẫn còn đó chợ Chu thời Pháp cùng hai cây đa tọa lạc ngay giữa ngã ba đường. Tuy có chợ mới nhưng người dân khu vực này hàng ngày vẫn lấy chợ Chu cũ là nơi họp chợ, bày bán hàng hóa.
Cùng hướng đường đến chợ Chu, chúng tôi đến khu di tích nhà tù Chợ Chu trên đỉnh núi cao cách thị trấn hơn 1 km.
Di tích nhà tù Chợ Chu nằm trên đồi cao ở xóm Vườn Rau. Theo sử sách, năm 1889 thực dân Pháp chiếm đóng đã xây dựng đồn bốt. Năm 1894 chúng đặt cơ quan đại lý cai trị vùng này. Đến năm 1916 tiến hành xây dựng nhà tù.
Nhà tù Chợ Chu ban đầu được làm bằng tre, gỗ, đơn sơ, chủ yếu giam tù thường phạm. Nhà tù Chợ Chu giam giữ các chiến sỹ yêu nước tham gia cuộc khởi nghĩa của binh lính Thái Nguyên (1917) và khởi nghĩa Yên Bái(1930). Năm 1940 cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn bùng nổ, bị thực dân Pháp đàn áp dã man, nhiều chiến sỹ cách mạng và thân nhân bị bắt và đem về giam giữ tại nhà tù Chợ Chu. Đến năm 1942 nhà tù được xây dựng lại kiên cố, bằng gạch ngói, xi măng, có thể giam giữ 200 người một lúc…
Đài tưởng niệm liệt sỹ Chu Hóa
Cuối năm 1944 tình hình cách mạng nước ta phát triển mau lẹ, Trung ương Đảng chủ trương lấy cán bộ ở các nhà tù ra để xây dựng lực lượng, chi bộ nhà tù Chợ Chu đã nhất trí cử 12 đồng chí vượt ngục. Được sự chỉ đạo chặt chẽ của Xứ uỷ và tổ chức khôn khéo, bí mật của các đồng chí trong tù, ngày 2/10/1944 các đồng chí đã vượt ngục thành công xây dựng được một vùng căn cứ địa hết sức quan trọng ở huyện Định Hoá, Đại Từ (Thái nguyên) và Sơn Dương (Tuyên Quang). Thành lập cơ quan chỉ huy chiến khu Nguyễn Huệ do đồng chí Song Hào làm bí thư, xây dựng căn cứ đón Bác Hồ và Trung ương Đảng về Tân Trào lãnh đạo toàn dân ta khởi nghĩa giành chính quyền 8/1945 thành công.
Di tích nhà tù chợ Chu, biểu tượng sinh động của người chiến sỹ cách mạng nguyện hiến dâng cuộc sống, chiến đấu hi sinh vì độc lập tự do của tổ quốc. Trong nhà tù Chợ Chu nhiều đồng chí đã nêu cao tấm gương sáng về tinh thần học tập, trưởng thành qua thực tiễn đấu tranh bất khuất, đóng góp xứng đáng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Đường về Chu Hóa
Cái nắng oi ả cùng tiếng ve râm ran đầu tháng năm trên con đường trải nhựa phong quang đưa chúng tôi về Chu Hóa, một xã vùng ven thành phố Việt Trì (Phú Thọ). Qua tấm biển chỉ dẫn và chỉ đường của người dân, chúng tôi tới được khu nhà tưởng niệm Bác Hồ ở Chu Hóa. Được biết, Chu Hóa là nơi trong những năm kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp Bác và nhiều đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng đã về làm việc trong 11 ngày trên đường lên Việt Bắc chỉ đạo kháng chiến.
Học sinh trường THCS Chu Hóa chăm sóc Khu đền thờ lưu niệm chủ tịch Hồ Chí Minh ở Chu Hóa
Tại đây, chúng tôi được tiếp xúc với ông Nguyễn Kim Đức, người dày công tìm hiểu và sưu tầm những tư liệu về Bác Hồ trong những ngày ở Chu Hóa. Đồng thời, qua cuốn “Bác Hồ với Phú Thọ Phú Thọ làm theo lời Bác” đã đưa chúng tôi trở về không khí của những ngày đầu khi Bác Hồ dừng chân nơi đây. Đầu tháng 12-1946, đồng chí Trần Đăng Ninh, phụ trách đội công tác TƯ về Phú Thọ trực tiếp giao nhiệm vụ cho đồng chí Nguyễn Đức Thắng, Bí thư Tỉnh ủy chuẩn bị sẵn một số địa điểm để Bác và cơ quan Trung ương đến ở và làm việc khi cần thiết. Nơi Bác ở phải đạt yêu cầu là: “Có phong trào quần chúng tốt, đường ra lối vào thuận tiện nhưng kín đáo, bảo đảm được bí mật”.
Thi hành chỉ thị cấp trên, Tỉnh ủy Phú Thọ đã khẩn trương chuẩn bị. Mọi địa điểm đều được đồng chí Trần Đăng Ninh và các đồng chí lãnh đạo tỉnh Phú Thọ xem xét cẩn thận và quyết định chọn 3 xã ở 3 huyện là xã Cổ Tiết, huyện Tam Nông; xã Chu Hóa, huyện Lâm Thao (nay về Việt Trì) và xã Yên Kiện, huyện Đoan Hùng. Cả 3 xã này đều là nơi có phong trào cách mạng sớm, chính quyền và các đoàn thể quần chúng vững, lại nằm gần quốc lộ, thuận tiện giao thông nhưng lại kín đáo, đảm bảo được bí mật. Để đảm bảo tuyệt đối an toàn và yên tĩnh cho Bác làm việc, theo yêu cầu của đội công tác, chủ nhà các gia đình Bác ở đều vui vẻ nhường hẳn nhà cho cơ quan Trung ương, chuyển gia đình sang nhà khác ăn ở tạm một thời gian.
Khu nhà trưng bày trong khu di tích Chu Hóa
Cũng trong thời gian dừng chân ở Chu Hóa, Bác đã ký và soạn thảo nhiều văn kiện quan trọng như: Ký 8 sắc lệnh liên quan đến tổ chức, bộ máy, bổ nhiệm cán bộ, đảm bảo quyền tự do của nhân dân; Điện chúc mừng Hội nghị liên Á; viết thư trả lời các nhà báo Pháp về cuộc chiến tranh phi nghĩa của Thực dân Pháp tại Việt Nam; gửi thư cho Báo Vệ quốc quân nói về 12 điều răn với chiến sỹ Vệ quốc quân và sau này trở thành 12 điều kỷ luật của Quân đội; hoàn thành tác phẩm “Đời sống mới”; viết thư cho đồng bào miền Nam sau đúng 100 ngày toàn quốc kháng chiến; Bác cũng viết thư gửi Thủ tướng Ấn Độ Nêru.. trong cuốn tài liệu Lịch sử Đảng bộ xã Chu Hóa thì những ngày Bác ở đây, nhiều đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước như: Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Nguyễn Lương Bằng… thường xuyên đến làm việc và xin chỉ thị của Bác. Do phải giữ bí mật nên những ngày ở Chu Hóa, Bác không trực tiếp gặp cán bộ, đảng viên và nhân dân xã, nhưng Bác thường xuyên nghe các đồng chí phục vụ báo cáo về tình hình mọi mặt của địa phương, đồng thời có những chỉ thị giúp đỡ nhân dân.
Ngày nay, Chu Hóa đã đổi thay nhiều, cuộc sống của người dân nơi đây ngày càng đi lên. Để tưởng nhớ và ghi dấu những ngày tháng Bác về Chu Hóa, Đảng bộ và nhân dân nơi đây đã xây dựng khu nhà lưu niệm Bác ngay trong căn nhà Bác ở năm xưa. Hiện trong nhà lưu niệm của Bác, nhân dân vẫn giữ được chiếc mâm gỗ, bộ trường kỷ bằng tre cùng nhiều văn bản, bản sao của Bác ở Chu Hóa. Ngày ngày, các em học sinh trường THCS, Tiểu học Chu Hóa thay nhau đến chăm sóc, quét dọn và trồng hoa trong khuôn viên nhà lưu niệm Bác. Đồng thời, nơi đây đã trở thành điểm đến tâm linh của du khách mọi nơi trong hành trình về nguồn.
Như Bác vẫn còn đây
Dời nhà tù Chợ Chu, chúng tôi đến thăm chùa Hang phía bên kia sườn núi đá cao sừng sững. Ngôi chùa được “thiên tạo” trong lòng đá, cách thị trấn Chợ Chu 2km.
Ngôi đền thờ chủ tịch Hồ Chí Minh ở Chu Hóa
Theo sư thầy Thích Thanh Thắng, nhà sư trụ trì nhiều năm ở chùa này thì ngôi chùa có từ lâu rồi, sư thầy, người dân nơi đây không biết rõ ngôi chùa có từ khi nào. Họ chỉ biết, khi lớn lên đã thấy có một ngôi chùa trên vách núi đá, trong hang sâu.
Lần theo những bậc đá uốn lượn dẫn lối lên cổng chùa, chúng tôi đặt chân lên chùa Hang. Đây là ngôi chùa có cấu trúc đặc biệt, không giống với cấu trúc của những ngôi chùa thông thường. Chùa được “thiên tạo” trong hang đá. Bước vào cửa chùa là một vòng tròn cửa hang khá rộng và thoáng mát, bên trong là một hang sâu với vòm mái cao, phẳng được “sắp xếp” bởi nhiều hình khối khác nhau của đá. Không gian chùa có hai gian. Gian trên gần cửa hang và gian dưới thấp hơn gần cửa sau của chùa. Phía bên trong nữa là hang sâu chưa được khám phá.
Bước chân vào không gian chùa Hang, du khách được sống trong không khí yên tĩnh, thanh tịnh, trầm mặc và linh thiêng chốn cửa Thiền. Cái độc đáo ở ngôi chùa này có lẽ không gian có sự chan hòa giữa tuyệt phẩm của thiên nhiên với không khí tâm linh và thiện tâm từ bi của chúng sinh. Chính vì vậy mà sư thầy Thích Thanh Thắng đã khẳng định: “ Đến với chùa Hang là đến với chốn bình yên nơi tiên cảnh, thoát hẳn với bụi trần”.
Thế hệ trẻ Chu Hóa hôm nay
Trong những năm kháng chiến chống Thực dân Pháp, những ngày đầu khi cách mạng còn trong “trứng nước” vô cùng khó khăn, gian khổ, chùa Hang còn là một căn cứ cách mạng quan trọng. Trong tình thế giặc Pháp truy lùng, càn quét lực lượng cách mạng, nhất là cơ quan đầu não của Đảng ta, chùa Hang là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh ở và làm việc bí mật, luận bàn những kế sách quan trọng chuẩn bị cho chiến dịch Thu Đông năm 1950.
Vì vậy, ngày nay, cùng với ban thờ Phật, chùa Hang còn có ban thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh rất thiêng liêng và tôn kính. Điều đặc biệt, ban thờ Bác Hồ được đặt ngang với ban thờ Phật trong không gian chùa. Khi được hỏi về điều này, sư thầy Thích Thanh Thắng nhấn mạnh: “ Trong lòng dân, Bác Hồ là một vị Phật nhân từ, bác ái, nên đặt ban thờ như vậy là một niềm tôn kính vô cùng”. Đến thăm chùa Hang, không khí linh thiêng hòa cùng không khí cách mạng năm xưa làm cho lòng người không khỏi dưng dưng cảm xúc.
Hành trình của chúng tôi chỉ dừng chân ở ba khu di tích, còn nhiều địa điểm khác trong cuộc hành trình của Bác, song, Chợ Chu, Chu Hóa và chùa Hang đã có thể làm cho chúng tôi thêm hiểu về những ngày tháng cách mạng gian khổ mà Bác và Bộ Chính trị phải trải qua. Mỗi địa điểm như một nét son lịch sử, như một “Việt Bắc” để mỗi người dân trông về để thêm yêu lãnh tụ và bền sâu ý chí trong cuộc sống hôm nay.
Nguyễn Thế Lượng
gdtd.vn
Viên kẹo của Bác Hồ
– Gương mặt Bác thoáng buồn, Bác nói với tôi mà như nói với chính mình: “Còn hàng triệu cháu như các cháu, giờ này chưa có được một viên kẹo nào đâu…”
TIN BÀI KHÁC
- Làng Sen khai hội mừng sinh nhật Bác
- Picasso: “Có một họa sĩ Nguyễn Ái Quốc”
- Người mê sưu tầm tư liệu Bác Hồ, tướng Giáp
- Gặp người trẻ sở hữu 60 đầu sách về Bác Hồ
- Phát ngôn cực ấn tượng về nghề báo
Những mẩu chuyện nho nhỏ về Bác Hồ đã được nhiều người Việt Nam thuộc nằm lòng, trong đó có những câu chuyện Bác tặng quà cho trẻ em Việt Nam cũng như trẻ em quốc tế: “Quả táo của Bác Hồ“, hay “Ai ngoan sẽ được thưởng“.
Là một trí thức cấp tiến, một người say mê lao động, một chiến sĩ cách mạng, một lãnh tụ giải phóng dân tộc, một nhà báo, nhà thơ, họa sĩ…, con người rộng lớn và sâu thẳm của Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục được nhiều thế hệ khám phá và học hỏi. Qua cảm nhận của các nghệ sĩ về Người ghi lại trong bộ tác phẩm 11 cuốn “Hồ Chí Minh với văn nghệ sĩ – Văn nghệ sĩ với Hồ Chí Minh(NXB Văn học), Người còn hiện lên là một Con Người tha thiết nhất với con người.
Dưới đây là một câu chuyện ít người biết đến, được kể bởi nghệ sĩ H’ben (Quang Tuệ ghi), một người con của dân tộc Bahnar, Việt Nam – được trích trong tập sách nói trên.
*****
Bác Hồ chia kẹo
Tôi sinh năm 1933 ở làng Đé Đơng, xã Yang Trung, huyện Kông Chro – một cái làng nghèo khó của người Bahnar.
Khi tôi bắt đầu lớn lên, Đé Đơng là một làng nô lệ nên sự khổ nhục của con người không thể kể xiết…. Khi đã có nhận thức, biết thương người làng mình, cũng là lúc tôi biết làng tôi có cán bộ chống Pháp đang ở.
Một hôm, cán bộ người Kinh vào làng nói, bây giờ tôi vẫn còn nhớ đại ý: Hiện nay có Bác Hồ là người lãnh đạo nhân dân đứng lên đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược. Đánh được Pháp rồi, người làng ta và cả dân các làng Tây Nguyên rộng lớn này sẽ được sung sướng, tự do…
Hồi đó, tôi không hiểu biết những lời ấy. Nhưng cuộc sống hiện tại cực quá, nên chẳng riêng tôi mà cả làng ai cũng muốn đứng lên đánh Pháp, đứng lên làm cách mạng. Vả lại, từ trong sâu thẳm suy nghĩ của mỗi người nói đến Bác Hồ là nói đến lẽ phải, sự công bằng nên ai ai cũng ưng, cũng muốn đi theo con đường của Bác…
Một ngày của năm 1956, Bác đến thăm trường Dân tộc Trung Ương đóng tại Gia Lâm, Hà Nội. Lần đầu tiên, tôi được biểu diễn văn nghệ cho Bác và các cán bộ cùng đi theo. Xem xong, Bác xoa đầu tôi và ân cần hỏi.
– Cháu dân tộc gì?
– Thưa Bác, dân tộc Bahnar – Tôi trả lời Bác.
Bác hỏi tiếp:
– Cháu ở đây ăn cơm có no không?
– Thưa Bác, có no ạ – Tôi thưa.
Bác lại hỏi:
– Cháu có nhớ nhà không?
– Thưa Bác, có ạ – tôi trả lời Bác.
Bác thoáng đăm chiêu “ừ” rồi nói với tôi:
– Cháu cố gắng học cho giởi rồi sau này sẽ trở về quê hương Tây Nguyên phục vụ đồng bào…
Nhưng rồi chiến tranh đã không cho tôi những như bao người khác trở về nơi chôn rau cắt rốn của mình như điều người ta vẫn hằng mong đợi… Là diễn viên của Đoàn văn công giải phóng, sống ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa, nhớ lời Bác dặn tôi càng cố gắng phấn đấu để biểu diễn phục vụ ở Phủ Chủ tịch và Nhà khách của Bác thêm một lần nữa. Có lần chúng tôi còn được biểu diễn phục vụ một “người khách đặc biệt” của Bác Hồ, ông Xu-các-nô.
Ấn tượng sâu sắc nhất của tôi là hôm biểu diễn lần cuối cùng cho Bác xem ở Phủ Chủ tịch năm 1967. Kết thúc buổi biểu diễn, Bác gặp riêng các diễn viên. Bác cho kẹo và hỏi từng người;
– Cháu xin Bác bao nhiêu?
Ai cũng nhanh nhẩu xin Bác cho nhiều nhiều. Đến lượt tôi, Bác hỏi:
– Thế cháu xin Bác bao nhiêu?
Tôi thật thà đáp:
– Thưa Bác, cháu chỉ xin một viên thôi ạ.
Bác cười to và nói:
– À, cháu này ngoan lắm!
Nhưng rồi gương mặt Bác thoáng buồn. Bác nói với tôi, với mọi người xung quanh mà như nói với chính mình, với những người đang ở xa:
– Còn hàng triệu cháu như các cháu, giờ này chưa có được một viên kẹo nào đâu..
Chúng tôi lặng đi trong xúc động. Chúng tôi hiểu trái tim mênh mông của Bác khi ấy, cũng như bất cứ lúc nào khác vẫn đang hướng về miền Nam còn ngập chìm trong lửa đạn. Trước ngày mất không lâu, Bác có nói một lời tưởng như đơn giản, nhưng nghĩ ra thì mới thấy thấm sâu về ý nghĩa: miền Nam luôn ở trong trái tim tôi….
Bác Hồ ở chiến dịch biên giới 1950 – Đinh Đăng Định.
Bác Hồ chẻ củi
Bác Hồ kéo lưới với bà con ngư dân Thanh Hóa năm 1960
“Con tàu đưa Nguyễn Tất Thành đi khắp mọi miền đất lạ, cho anh cơ hội tiếp xúc với đủ mọi loại người, để cuối cùng anh tự giác ngộ ra rằng, ở đâu, người lao động cũng tốt, cũng thống khổ như nhau” (trích bài GS, TS Hoàng Chí Bảo)
Dưới con mắt quan sát của một nhà thơ Việt Nam, nhà thơ Huy Cận, thì “Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải là người của một quyển sách, một nền văn hóa duy nhất“. Từ tuổi nhỏ, Người đã học chữ Hán và văn học cổ điển Trung Quốc. Người cũng tiếp thu nền văn hóa Ấn Độ qua ảnh hưởng của đạo Phật và qua sự tiếp xúc với rất nhiều người bạn Ấn Độ quen thân trong cuộc chiến đấu. Tại Liên Xô, vào những năm 20, Bác khám phá ra nền văn học Nga của thế kỉ XIX. Người đọc nhiều Turgenev, Tolstoi và cũng đọc một vài tác phẩm của Chekhov. Tại Pháp, “thế kỉ ánh sáng” đã chiếu rọi ánh sáng vào tâm trí Người. Ham đọc Voltaire và Rousseau, và cũng đọc nhiều Victor Hugo, Anatole France, Người thật sự đã hấp thụ được tinh thần của cách mạng Pháp ngay từ nguồn. Suốt đời Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn mang dấu ấn của lòng ham mê đầu tiên ấy về những lý tưởng tự do và bác ái. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một ấn tượng sâu sắc cho những người có dịp gặp Người: người ta tưởng được tiếp kiến một lãnh đạo Nhà nước, một lãnh tụ cách mạng, thì người ta lại được gặp một con người. Người đấu tranh giành độc lập, tự do, bảo vệ nhân phẩm cho đồng loại. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người hiền vĩ đại, bởi vì Người đã tin tưởng ở con người, ở những dân tộc, bởi Người đã tin vào những khả năng vô tận của con người để tự cải thiện tâm hồn và cuộc sống của chính mình. Trên báo Ogoniok (Liên Xô trước đây), số 39, ra ngày 23-12-1923, nhà thơ đồng thời là nhà báo Xô-viết nổi tiếng O.Mandenxtam đã viết như sau: “Dáng dấp con người đang ngồi trước mặt tôi đây, Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa Châu Âu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai“. Thời gian ấy Bác đang học tập tại trường Đại học Phương Đông tại Moscow, mới bước sang tuổi ba mươi. Nhà thơ viết: “Dân An Nam làm một dân tộc giản dị và lịch thiệp. Qua phong thái thanh cao, trầm ấm của Nguyễn Ái Quốc, chúng ta như thấy ngày mai, như thấy sự yên tĩnh mênh mông của tình hữu ái toàn thế giới… |
Vân Sam
vietnamnet.vn
“Cụ Hồ ở giữa lòng dân”
(GD&TĐ) – Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890 – 1969) là vị lãnh tụ, là người lãnh đạo cao nhất của Đảng, nhà nước và nhân dân Việt Nam chúng ta. Người được tổ chức Văn hoá, khoa học và giáo dục của Liên Hợp Quốc (Unesco) tôn vinh là anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới. Hình tượng Bác Hồ đã đi vào thơ ca, nhạc, họa, và được thể hiện đặc biệt sinh động trong ca dao, dần tạo nên một kho tàng “Ca dao Việt Nam về Bác Hồ”.
Với mỗi người dân Việt Nam, Bác Hồ thân yêu và gần gũi như ruột thịt. Nhà thơ Tố Hữu đã viết:
“Người là Cha, là Bác, là Anh
Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ”
Để nói lên tâm tư, tình cảm của mình, nhân dân ta thường sáng tác ca dao. Trong kho tàng ca dao Việt Nam, có nhiều câu ca dao ca ngợi Bác Hồ. Những câu ca dao này nói lên tình cảm kính yêu Bác của mọi lứa tuổi, mọi tầng lớn nhân dân trên các vùng miền đất nước.
Đối với nhân dân ta, Bác Hồ là tên gọi đẹp nhất, sáng chói nhất, lung linh nhất:
“Tháp Mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”
Công ơn trời biển của Bác Hồ đối với đất nước, đối với dân tộc và toàn thể nhân dân ta là không gì có thể so sánh được:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Bác Hồ hơn mẹ hơn cha
Ơn cao, nghĩa nặng bao la biển trời
Vì dân chiến đấu suốt đời
và:
Trên trời có ông sao Rua
Việt Nam ta có cụ Hồ, em ơi!
ánh sao Rua sáng ngời một góc
Gương cụ Hồ tỏ khắp năm châu.
Nhân dân ta đã dùng những hình anh so sánh cổ truyền để nói lên công ơn vĩ đại của Bác:
Đố ai đếm được trời sao
Đố ai đếm được công lao Bác Hồ
Đố ai lên được trời cao
Đố ai đáp được công lao Bác Hồ
Nhân dân ta cũng dùng những hình ảnh cụ thể, những sự vật cụ thể để ghi ơn công đức Bác, của Đảng.
Ngày xưa bưng lấy bát cơm
Nhớ thầy, nhớ mẹ phong sương cấy cày
Ngày nay bưng bát cơm đầy
Ơn Bác, ơn Đảng ngày ngày không quên.
Bác Hồ để lại muôn vàn tình thương yêu cho nhân dân, cho đất nước. Đất nước ta, nhân dân ta cũng kính yêu người với tình cảm sâu sắc, bao la:
Lòng Bác rộng khắp bao la
Lòng dân, lòng Bác chan hoà nước non
Các cháu thiếu nhi thì luôn luôn ghi nhớ
“Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn thiếu niên nhi đồng”
và luôn luôn các cháu mong đợi”
Bao giờ được Bác về chơi
Để cho các cháu khắp nơi đón mừng.
Trải qua những ngày kháng chiến đầy khó khăn, gian khổ. Trải qua những ngày hậu phương tiền tuyến cùng góp sức, góp công, góp của chiến thắng khẻ thù xâm lược quỷ quyệt, tàn ác, nhân dân ta càng thấm thía công ơn của Bác:
Trèo đèo mới biết đèo cao
Có đi tiếp vận mới biết công lao Cụ Hồ.
Càng nhớ ơn Bác Hồ, mọi người, mọi tầng lớp nhân dân càng quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ được cách mạng phân công, giao phó:
Cụ Hồ với dân
Như chân với tay
Như chày với cối
Như cội với cành
Toàn dân dốc một lòng thành
Làm tròn nhiệm vụ, đáp tâm tình Cụ thương dân.
Nhân dân vùng mỏ Quảng Ninh đã bao đời cực khổ vì bọn thống trị thực dân, bọn chủ mỏ bóc lột, áp bức:
Ăn cơm với cá mòi he
Lấy chồng Cẩm Phả đun xe suốt đời
Họ mong ngày kháng chiến thắng lợi, ngày ánh sáng của Đảng, của Bác Hồ về với vùng mỏ:
Bao giờ mà Cụ về đây
Bao nhiêu đau khổ một ngày sạch không
Ăn cơm với cá mòi bông
Lấy chồng Cẩm Phả sướng hơn ông chủ nhì
Nhân dân Nam Bộ với gậy tầm vông, với mã tấu, với lựu đạn đã đứng lên anh dũng chiến đấu chống đội quân xâm lược nhà nghề có vũ khí hiện đại cũng mong đợi:
Bài thơ Nam Bộ của Người, Người ơi
Có vần, có điệu đủ rồi
Còn đợi bóng Người in giữa bài thơ
Bao giờ độc lập Người vô
Bấy giờ là lúc bài thơ hoàn thành
Nhân dân Liên khu 5 trong những tháng ngày kháng chiến gian lao và trường kỳ luôn luôn nhận được tình thương bao la của Bác Hồ, trong lòng luôn luôn tâm niệm và mong ước:
Ai ngoài muôn dặm trùng dương
Cũng thường nhận được tình thương Bác Hồ
Mong ngày độc lập Cụ vô
Thoả lòng mong đợi, ước mơ đêm ngày.
“Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn thiếu niên nhi đồng” (ảnh TL)
Nhân dân cả nước ta thấm thía công ơn của Đảng, của Bác Hồ. Có Bác Hồ, có Đảng, nhân dân cả nước mới có độc lập, tự do, có điều kiện để xây nền hạnh phúc cho bản thân mình và cho muôn đời con cháu mai sau. Người nông dân càng thấm thía công ơn của Bác mang lại ruộng đất, được làm chủ ruộng đồng, làm chủ quê hương. Công ơn Bác, hình ảnh Bác đi liền với hạnh phúc, ấm no:
Ơn Người lúa lại vàng tươi
Sắn khoai lại biếc mây trời lại xanh.
Đồng bào miền Nam khi tiễn con em ra miền Bắc tập kết theo Hiệp định Giơ – ne – vơ năm 1954 đã nhắn nhủ:
Con ra thưa với Bác Hồ
Đất này chỉ một ngọn cờ vàng sao
Bác Hồ ở giữa lòng dân, Bác Hồ sống mãi trong lòng nhân dân cả nước. Hình ảnh Bác Hồ thật cao quý, thiêng liêng nhưng lại rất thân thiết, gẫn gũi:
Cụ Hồ ở giữa lòng dân
Tuy xa xa lắm mà gần, gần ghê
Mỗi khi thư Cụ gửi về
Rộn ràng khắp chợ cùng quê đón mừng.
Bác Hồ là lãnh tụ cách mạng, là hình ảnh của toàn dân tộc. Bác Hồ đem lại sự đổi đời cho đất nước, cho toàn dân, nhưng Bác Hồ cũng là người ông, người cha, người anh thân thiết của mỗi gia đình người Việt Nam chúng ta. Bác Hồ là người dẫn đường, là tấm gương sáng, là ngọn đuốc lung linh soi sáng cho nhân dân cả nước đi lên trên con đường tới độc lập, tự do và hạnh phúc. Bác Hồ là cả một chân trời:
Cụ Hồ là vị cha chung
Là sao Bắc Đẩu, là vừng thái dương
Chúng con đi giữa đêm trường
Nhờ cha dìu dắt, dẫn đường chúng con
Ơn cha như nước, như non
Như gương Hồ Thuỷ, như hòn Thái Sơn
“Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ người trồng cây” đó là truyền thống đạo đức của nhân dân ta. Được sống trong đất nước hoà bình, độc lập, tự do, nhân dân ta càng thấm thía, càng ghi sâu công ơn và tấm gương đạo đức trong sáng, cao quý của Bác Hồ:
Uống nước là nhớ đến nguồn
Cơm no áo ấm nhớ ơn Bác Hồ
Ơn Bác Hồ sâu hơn Nam Hải
Công Bác Hồ bằng dải Trường Sơn
Nam Hải sâu ta đo cũng được
Trường Sơn dài ta vượt cũng qua
Công ơn của Bác bao la
Nhân dân kể đến bao giờ cho xong
Làm sao kể hết công lao của Bác Hồ và làm sao kể hết những câu ca dao của nhân dân ta viết về Bác Hồ vì nhân dân vẫn không ngừng sáng tác những câu ca dao, những bài cao dao ca ngợi công ơn của Bác. Các nhà văn, nhà thơ, các nhà nghiên cứu và cả nhân dân vẫn tiếp tục sáng tác, sưu tầm, nghiên cứu… về Người. Và công việc ấy sẽ còn tiến hành mãi mãi…Đó là mạch nguồn cảm hứng vô tận, như nghĩa tình tha thiết dân Việt hướng về vị Cha già dân tộc kính yêu.
Đặng Trần Tụy
(Hội Văn Nghệ Dân gian Hà Nội)
gdtd.vn
Bạn phải đăng nhập để bình luận.