Tag Archive | Xuân 2012

Những ngày Tết dân tộc của Bác Hồ

Mỗi khi Tết đến, xuân về, không một người Việt Nam nào lại không nhớ đến Bác Hồ – lãnh tụ vĩ đại của Cách mạng Việt Nam, Danh nhân văn hóa thế giới, Anh hùng giải phóng dân tộc đã suốt đời hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Vào những ngày Tết dân tộc, Người vẫn dành trọn các ngày nghỉ của mình để đi thăm và chúc Tết đồng bào, chiến sỹ.

Một bài thơ chúc tết của Bác Hồ

Đối với Bác, việc đi thăm và chúc Tết này đã thành nền nếp bởi Người cho rằng, đây là cơ hội tốt để hiểu được đầy đủ đời sống của người lao động, là niềm vui, hạnh phúc lớn của người “đầy tớ của nhân dân” khi được tiếp xúc và nghe họ nói về mơ ước, khát vọng và niềm tin của mình về một năm mới đang gõ cửa từng nhà. Đã không ít lần Bác tâm sự, là người dân của một nước bị thực dân đô hộ, Người phải ra đi tìm đường cứu nước từ những năm còn niên thiếu và bắt đầu từ làm phụ bếp trên tầu Latusơ Trêvin, đến làm vườn ở Xanh Ađretro và cào tuyết ở Luân Đôn… không biết đến ngày nghỉ lễ, tết, nên khi nước nhà đã độc lập càng thấy quý trọng những ngày Tết dân tộc. Tuy vậy, với Bác, hạnh phúc lớn nhất trong những ngày Tết này lại ở chỗ được chứng kiến không khí mọi người, mọi nhà đoàn tụ và tận hưởng niềm vui trước những thành quả lao động sau một năm làm việc vất vả.

Vì quan niệm về hạnh phúc đơn giản, nhưng sâu sắc ấy mà kể từ ngày Bác đọc Tuyên ngôn khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (trừ những năm ở chiến khu Việt Bắc) đến trước khi đi vào cõi vĩnh hằng, hầu như năm nào, Người cũng đi thăm và chúc Tết đồng bào, chiến sỹ. Chương trình này được Bác chỉ thị cho Văn phòng chuẩn bị ngay từ khi kết thúc năm Dương lịch và được Người đôn đốc, kiểm tra rất kỹ trong những ngày giáp Tết. Có những Tết, mặc dù sức khỏe rất yếu, nhưng Bác vẫn muốn được đi thăm nhiều nơi làm cho Văn phòng phải lúng túng khi sắp xếp chương trình và cuối cùng phải nhờ đến Thủ tướng Phạm Văn Đồng thuyết phục, Người mới chấp nhận một chương trình phù hợp với mình. Bác đến với các gia đình công nhân, viên chức: Nguyễn Đình Kỳ, Mai Đình Cường, Nguyễn Phú Lộc, Giáo sư Tôn Thất Tùng, cụ Phạm Văn Hoan (92 tuổi)… ngay trong thời khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới; đến với công nhân các nhà máy Cơ khí Trần Hưng Đạo, Dệt kim Đông Xuân, nông dân các HTXNN Lỗ Khê (ngoại thành Hà Nội), Văn Phú (Hà Tây), cán bộ và chiến sỹ bộ đội phòng không và không quân ở sân bay Bạch Mai… ngay trong buổi sáng của ngày mồng một Tết. Bác mang theo mùa xuân của đất trời đến với mọi người, truyền thêm sức mạnh và lòng tin cho từng tập thể, người lao động vững bước vào năm mới với năng suất và hiệu quả mới.

Nhiều cuộc gặp gỡ giữa Bác với những người lao động, nhất là lao động nghèo, đã diễn ra đầy xúc động trong giờ phút đáng nhớ của năm mới. Đó là vào đêm giao thừa của Tết đầu tiên sau ngày Độc lập, Bác và đồng chí Thư ký cùng dò dẫm trong một ngõ tối của phố Sinh Từ đến thăm một người từ tỉnh khác về Hà Nội kéo xe không đủ tiền về quê ăn Tết. Bác đứng nhìn người kéo xe đang lên cơn sốt với tất cả sự thương cảm. Bác lặng lẽ đi ra và dặn Thư ký hôm sau mang thuốc, quà của Người đến thăm hỏi. Xe đi được một đoạn, Bác nói: “30 Tết mà không có Tết” như để nhắc nhở mình về trách nhiệm chăm lo Tết cho những người nghèo. Ngay sáng mồng một, Bác đã mời đồng chí Chủ tịch Ủy ban Hành chính Hà Nội lên phê bình không thực hiện thư của Người về tổ chức Tết, làm cho nhiều gia đình không có Tết và yêu cầu đồng chí Chủ tịch phải sửa chữa ngay khuyết điểm này. Và Tết năm sau, hầu hết các gia đình nghèo đều được hưởng Tết do các đội tuyên truyền phối hợp với nhân dân đường phố vận động tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau.


Bác Hồ chúc tết. Ảnh: Tuấn Anh

Đêm giao thừa Tết Đinh Dậu (1957), Bác cùng đón Tết với gia đình anh Nguyễn Văn Tảo và 5 gia đình công nhân khác của nhà máy điện Yên Phụ tại khu lao động vừa được xây dựng trên bãi rác Nghĩa Dũng cũ. Đêm giao thừa, cả khu lao động như trong ngày hội với hai niềm vui lớn: được đón Tết trong các căn hộ mới ở khu lao động do nhà máy xây, có đủ điện, nước sinh hoạt và được vinh dự đón Bác đến thăm. Bác chỉ vào nồi bánh chưng đang sôi của gia đình anh Tảo và hỏi cụ thể số lượng bánh, thịt mà từng hộ đã lo được trong Tết này và cả những khó khăn về đời sống, việc làm hiện nay. Bác rất vui trước những tiến bộ về đời sống, nhất là nhà ở của công nhân nhà máy và thân mật nhắc nhở mọi người: “Thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Cố gắng thi đua làm việc và thực hành tiết kiệm”. Những điều Người căn dặn đã trở thành những câu chuyện có ý nghĩa cả trong các bữa ăn của từng gia đình.

Cảm động nhất là cuộc gặp giữa Bác với chị Nguyễn Thị Tín, một người gánh nước thuê ở ngõ 16 Lý Thái Tổ trong đêm 30 giá rét và mưa phùn của Tết Nhâm Dần năm 1962. Chồng mất sớm, một mình chị Tín gánh nước thuê lấy tiền nuôi 4 con còn nhỏ (đứa lớn nhất mới trên 10 tuổi) và đêm 30 này chị vẫn chưa được nghỉ. Với đôi thùng trên vai, chị vừa ra đến ngõ thì gặp Bác. Quá bất ngờ trước sự xuất hiện của Bác, đôi thùng trên vai chị rơi xuống đất. Tay chị run run nắm lấy bàn tay Bác và nói trong sự xúc động chen lẫn tiếng nấc nghẹn ngào:

– Cháu không ngờ lại được Bác đến thăm.

Bác vỗ vai an ủi chị:

– Bác không đến thăm những gia đình như cô thì thăm ai…

Bước vào nhà, Bác nhìn căn phòng trống tuềnh toàng và trên bàn thờ tổ tiên chỉ có nải chuối xanh, trong khi 4 đứa con của chị đang chia nhau một gói kẹo, một nét buồn hiện lên trên khuôn mặt hiền từ của Người. Bác lấy kẹo chia cho các cháu và lấy chiếc bánh chưng được chuẩn bị sẵn đặt lên bàn thờ. Chị Tín đứng nhìn Bác trong khi hai hàng nước mắt vẫn lăn trên hai gò má xanh xao. Đối với chị, đây thật sự là hạnh phúc lớn và không gì có thể so sánh được mà Bác đã dành cho gia đình mình.

Hình ảnh gia đình chị Tín giữa Thủ đô Hà Nội sau những năm kháng chiến thắng lợi nay vẫn nghèo khổ gợi cho Bác nhớ lại người phu kéo xe đã gặp trong đêm giao thừa của Tết độc lập đầu tiên, làm cho nỗi buồn không vơi và theo Người suốt cả đêm giao thừa ấy.

Bác đến với những tập thể lao động không những chỉ mang ý nghĩa thăm hỏi, động viên, mà còn là dịp để Người chỉ ra phương hướng lớn về hành động của một năm mới vì mục tiêu phát triển của ngành và mục tiêu kinh tế – xã hội của đất nước. Những câu chuyện thân tình, cởi mở giữa Bác và công nhân các nhà máy: Cơ khí Hà Nội, Cơ khí Trần Hưng Đạo, Dệt kim Đông Xuân và Rượu Hà Nội vào đúng sáng mồng một Tết Tân Sửu (1961) đã làm cho Người rất vui khi được biết đời sống của công nhân ít nhiều đã được cải thiện. Tết này gia đình nào cũng có bánh chưng, có thịt và những người bám máy sản xuất được lãnh đạo nhà máy lo chu đáo về vật chất. Bác khuyến khích mọi người năm mới cố gắng hơn nữa, thi đua tăng năng suất và nâng cao chất lượng sản phẩm để năm tới công nhân và nhân dân ta ăn Tết vui hơn, phấn khởi hơn.

Đến với công nhân khu gang thép Thái Nguyên – công trình lớn đầu tiên của ngành công nghiệp gang thép non trẻ nước ta vào dịp Tết Giáp Thìn (1964), Bác hài lòng khi được chứng kiến không khí vui tươi, phấn khởi đón năm mới và mừng thành tích một năm lao động hết mình của những người lao động trên công trường. Bác khẳng định: “Cán bộ và công nhân có thể tự hào rằng sau hơn 3 năm lao động cần cù, tự tay mình đã ngăn sông, xẻ núi, xây dựng một khu gang thép to lớn đầu tiên của nước ta. Mọi người đã góp phần mình vào công nghiệp hóa XHCN…”. Bác nhấn mạnh: “Để làm ra gang thép tốt thì mỗi người công nhân và cán bộ phải tôi luyện tinh thần cách mạng, lập trường giai cấp và ý thức làm chủ phải cứng rắn như thép, như gang…”. Sâu sắc và chân lý biết nhường nào về những lời dạy của Bác trong những giờ phút thiêng liêng của năm mới đối với công nhân gang thép trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước hiện nay.

Đến Tết này là hơn 40 cái tết, những người lao động không được đón Bác đến thăm và chúc Tết, nhưng hình ảnh Bác cùng những lời dạy của Người từ những mùa xuân ấy vẫn sống mãi trong lòng những người thợ như những điều kỳ diệu của lòng tin, sự biết ơn làm nên sức mạnh để chúng ta cùng Người bước vào một năm mới tràn đầy sức xuân./.

baotanghochiminh.vn

Bài viết đầu tiên của Bác Hồ về Tết trồng cây

Cuối năm 1959, trong phong trào thi đua toàn dân lập thành tích mừng Đảng ta 30 tuổi vào Mùa xuân 1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị tổ chức “Tết trồng cây” cùng với phong trào thi đua đó.

Bac_ho_trong_cay_OK

Ngày 28-11-1959, báo Nhân Dân số 2082 đã đăng bài viết “Tết trồng cây” của Chủ tịch Hồ Chí Minh với bút danh Trần Lực. Hơn một tháng sau, ngày 19-1-1960 báo Nhân Dân ra số 2133 lại đăng tiếp bài “Tết trồng cây đã thắng lợi bước đầu” với bút danh T.L. Đó là những bài viết đầu tiên của Người nhằm động viên toàn dân tham gia vào phong trào bảo vệ môi trường sống của con người. Sau này, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn viết rất nhiều bài động viên phong trào trồng cây của nhân dân ta. Tuy nhiên, ngay ở hai bài báo đầu tiên chúng ta cũng có thể hiểu tư tưởng của Người về việc con người phải ứng xử có văn hóa với thiên nhiên, để thiên nhiên tiếp tục phục vụ lợi ích cho con người. Một trong những biểu hiện văn hóa ấy là việc trồng cây, bao gồm cả cây hoa, cây ăn quả, cây lấy gỗ.

Ở bài viết đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích lợi ích trước mặt của việc trồng cây. Người viết: “…Mấy lâu nay các xí nghiệp, công trường, cơ quan, trường học, đơn vị bộ đội, hợp tác xã nông nghiệp… đang thi đua sôi nổi để lấy thành tích chúc mừng Đảng 30 tuổi… Bên đợt thi đua ấy, chúng tôi đề nghị tổ chức một ngày “Tết trồng cây”. Việc này tốn kém ít mà lợi ích rất nhiều. Ý kiến của chúng tôi tóm tắt thế này: tất cả nhân dân miền Bắc mỗi người phụ trách trồng một hoặc vài cây và chăm sóc cho tốt. Miền Bắc ta có độ 14 triệu, trong số đó 3 triệu là trẻ em thơ ấu, còn 11 triệu người từ 8 tuổi trở lên đều có thể trồng cây. Mỗi Tết trồng được độ 15 triệu cây. Từ năm 1960 đến 1965 (là năm cuối cùng của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất) chúng ta sẽ có 90 triệu cây, vừa cây ăn quả, cây có hoa, vừa cây làm cột nhà… Điều đó sẽ góp phần quan trọng vào việc cải thiện đời sống của nhân dân ta…”.

Kêu gọi toàn dân tham gia trồng cây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã là người thực hiện trước. Ngày 11-1-1960, Người đã đến trồng cây doi tại Công viên Bảy Mẫu (nay là Công viên Thống Nhất). Tại đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói chuyện với nhân dân và cán bộ tham gia lao động, Người căn dặn phải trông nom, chăm sóc, bảo vệ cây trồng. Thủ đô Hà Nội tự hào là địa phương mở đầu phong trào “Tết trồng cây” trong cả nước.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trồng cây là biểu hiện cụ thể, thiết thực nhất của tấm lòng yêu thiên nhiên. Sinh thời, ở những nơi Người sống và làm việc, bất kỳ trong hoàn cảnh nào, thời chiến hay thời bình, ở nơi đó đất không bao giờ bị bỏ hoang mà luôn có rau xanh, hoa trái bốn mùa tươi tốt. Chúng ta có không ít những hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh trồng rau, chăm sóc nương ngô ở Chiến khu Việt Bắc, Người cuốc đất trồng rau trong vườn Phủ Chủ tịch ở Hà Nội, Người trồng cây ở nhiều địa phương trên đất nước ta.

Cũng ở trong bài viết đầu tiên về “Tết trồng cây”, chúng ta thấy rõ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã là người đi trước thời đại, trong việc con người phải chủ động tác động để điều hòa khí hậu của thiên nhiên. Người nói rằng, chính việc trồng cây cũng sẽ làm cho nước ta “phong cảnh sẽ ngày càng tươi đẹp, khí hậu điều hòa hơn”. Lời nói của Người từ vấn đề bảo vệ môi sinh và môi trường đang là vấn đề không chỉ riêng đối với một quốc gia nào.

Mọi người đều biết thế giới hiện tại đang đứng trước một thảm họa sinh thái do sự phát triển các hệ thống kinh tế theo chiều rộng, do tác động độc hại của các chất thải công nghiệp, do sự khai thác có tính chất hủy diệt các tài nguyên thiên nhiên và do sự thoái hóa về đạo đức của một xã hội tiêu thụ. Chính trong bối cảnh cuộc đấu tranh chống thiên tai, cuộc chiến đối phó với sự biến đổi của khí hậu hiện nay chúng ta càng thấy giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về sự tác động của con người đối với thiên nhiên. Phong trào trồng cây mà Người phát động từ hơn nửa thế kỷ trước suy cho cùng đó chính là biểu hiện cụ thể tình yêu của con người đối với thiên nhiên, cũng là trách nhiệm của con người đối với nền văn hóa, văn minh của nhân loại.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người khởi xướng, phát động phong trào và là người tích cực tham gia phong trào trồng cây. Người còn luôn quan tâm theo dõi, động viên, duy trì phong trào đạt hiệu quả thiết thực; đồng thời kịp thời uốn nắn để phong trào trồng cây không “đầu voi đuôi chuột”, không chạy theo hình thức, không chạy theo số lượng. Trong bài viết “Tết trồng cây đã thắng lợi bước đầu” đăng trên báo Nhân Dân ngày 19-1-1960, Người đã nêu gương một số địa phương làm tốt việc vận động nhân dân tham gia phong trào, bên cạnh đó Người không quên nhắc nhở phải “xem trọng chất lượng” tức là trồng cây nào ăn chắc cây ấy, không nên tham trồng quá nhiều mà không ra sức bảo vệ và trông nom cây. Trong bài viết này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị phải duy trì phong trào trồng cây cùng với kế hoạch trồng cây rừng của Nhà nước một cách “liên tục, bền bỉ và vững chắc”.

Tết Nguyên Đán Canh Tý 1960 là Tết đầu tiên nhân dân ta hưởng ứng lời kêu gọi “Tết trồng cây” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó cũng là Tết mở đầu một tập quán tốt đẹp của nhân dân ta trong mỗi dịp vui Tết đón xuân. Chúng ta đã có các phong trào “Tết trồng cây”, “Tết trồng cây vì miền Nam ruột thịt”, “Tết trồng cây đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, rồi đến ngày nay chúng ra có “Tết trồng cây làm theo lời Bác”, “Tết trồng cây đời đời nhớ ơn Bác Hồ” là những dấu ấn đậm nét về quyết tâm làm theo lời Bác của nhân dân ta.

Lúc sinh thời, năm nào Bác Hồ cũng tham gia “Tết trồng cây”, Người viết nhiều bài động viên phong trào và Người đã thưởng hàng trăm huy hiệu của Người cho những tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc trong phong trào trồng cây nói chung, và “Tết trồng cây” nói riêng. Cây đa Bác Hồ trồng vào mùa xuân cuối cùng của cuộc đời năm 1969 ở đồi Vật Lại, huyện Ba Vì, Hà Nội và hàng chục cây đa Người đã trồng ở nhiều địa phương trên miền Bắc không chỉ là những kỷ niệm thiêng liêng, mà còn là những dấu ấn sâu sắc về tư tưởng của một Nhà Văn hóa kiệt xuất.

Mùa xuân là Tết trồng cây
Làm cho đất nước càng ngày càng xuân

Câu thơ ấy đã đi vào lòng mỗi người dân Việt Nam. Mỗi độ xuân về, nhân dân cả nước lại nô nức cùng nhau đi trồng cây để bảo vệ thiên nhiên, môi trường sống và để tưởng nhớ về một con người vĩ đại – Chủ tịch Hồ Chí Minh.

TS Nguyễn Thị Tình – Nguyên Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh

hoidisan.vn

Những bài thơ chúc Tết của Bác Hồ

Chủ tịch Hồ Chí Minh có lẽ là vị lãnh tụ của một đất nước duy nhất trên thế giới thường xuyên có thơ Xuân, thơ chúc Tết vào mỗi dịp Tết cổ truyền của dân tộc.

Những bài thơ chúc Tết của Bác Hồ Bác Hồ nói chuyện với các cháu thiếu nhi trong dịp Người về thăm, chúc Tết đồng bào Hà Tĩnh (Xuân Đinh Mùi – 1967). (Ảnh: Tư liệu)

Kể từ bài thơ chúc Tết đầu tiên khi Người trở về nước sau nhiều năm bôn ba tìm đường cứu nước năm 1942 cho đến lúc ra đi, Người đã sáng tác tổng cộng 24 bài thơ chúc Tết. Dễ nhớ, dễ thuộc là điều dễ nhận thấy trong các bài thơ chúc Tết của Bác, nhưng điều khiến cho mỗi bài thơ Tết của Bác trở lên đặc biệt hơn những lời chúc Tết thông thường là bởi đó không chỉ là tấm lòng của Bác với nhân dân, đất nước mà còn là lời hiệu triệu, cổ vũ, động viên và cả sự tiên đoán thần kỳ tiền đồ tươi sáng của cách mạng.

Có một món quà luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh dành tặng đồng bào mình vào mỗi dịp Tết cổ truyền, đó là những bài thơ chúc Tết giản dị nhưng rất đỗi thân thương của Người. Mỗi bài thơ không chỉ là sự tổng kết thành quả của cách mạng trong năm cũ mà còn là chỉ dẫn cho những chặng đường tiếp theo của cách mạng. Bài thơ chúc Tết năm 1969 cũng là bài thơ chúc Tết Người đã tự đọc – món quà cuối cùng cũng lời tiên đoán thần kỳ về con đường giải phóng đất nước trước lúc Người đi xa.

Nghệ sỹ Linh Nhâm, nguyên diễn viên đoàn Ca múa Tổng cục Chính trị, người từng ngâm thơ Bác xúc động nhớ lại, kỷ niệm lớn nhất trong cuộc đời của bà chính là được ngâm những bài thơ chúc Tết của Bác. Ở vào cái tuổi xưa nay hiếm, người nghệ sỹ gạo cội vẫn không thể giấu được xúc động khi nhớ đến giây phút ngâm bài thơ chúc Tết cuối cùng của Bác trên sóng phát thanh Đài Tiếng nói Việt Nam Tết năm ấy.

“Bài thơ Xuân 1969 của Bác là bài thơ gắn với kỷ niệm rất sâu sắc mà tôi đang biểu diễn ở Hải Phòng được triệu về để ngâm bài thơ cuối cùng của Bác. Tất cả các bài thơ mà tôi đã được ngâm thơ của Bác tôi đều rất trân trọng, từng câu, từng chữ của Bác đều là những hiệu lệnh, những lời kêu gọi của Bác với Tổ quốc”, nghệ sỹ Linh Nhâm nói.

Từ bài thơ chúc Tết đầu tiên viết trên chiếc bàn đá ở Hang Pắc Pó (Cao Bằng) cho đến lúc về cõi vĩnh hằng, Người đã viết tổng cộng 24 bài thơ Xuân, thơ chúc Tết. Những bản thảo còn lưu giữ tại bảo tàng Hồ Chí Minh cho thấy, viết mỗi bài thơ Người cũng dày công và kỹ lưỡng như thế nào. Có thể vì thế, những bài thơ chúc Tết của Người luôn vượt qua khuôn khổ những bài thơ chúc Tết đơn thuần.

Bà Nguyễn Thúy Đức, Phó Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh chia sẻ: “Tôi có nhớ câu nói của một nhà cách mạng Cuba về Bác là: Bác Hồ lãnh đạo cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chính bằng thơ. Tiếc thay, kẻ thù của dân tộc Việt Nam lại không đọc những vần thơ đó. Đấy là điều có lẽ rất đặc biệt, đặc biệt chính là lãnh đạo bằng thơ. Nếu như chúng ta phân tích và hiểu thì thấy rằng lãnh đạo bằng thơ không chỉ là chất thép của người chiến sỹ, mà còn là cái gì đó rất đỗi dung dị, nhân văn của một con người, của một dân tộc”.

Những mùa xuân kháng chiến của dân tộc dường như luôn có sự khởi đầu bằng những vần thơ chúc Tết của Bác… Thành quả cuối cùng của sự nghiệp giải phóng dân tộc đã không nằm ngoài sự tiên đoán trong bài thơ chúc Tết cuối cùng của Người. Đó là khi Bắc Nam sum họp xuân nào vui hơn!

Tác giả : Quang Đông

vtv.vn

Nhớ Tết cuối cùng của Bác Hồ

Năm nay, tròn 40 năm Bác Hồ đi xa. Tết cuối cùng của Bác cũng là cái Tết Bác làm bài thơ Xuân cuối cùng.,. TS giới thiệu bài viết của TS Trần Viết Hoàn, nguyên là cảnh vệ của Người.

Theo truyền thống dân tộc, mỗi khi Xuân về, trong phút giao thừa của năm cũ và năm mới, ta cảm ơn trời đất Việt Nam đã cho ta tiết trời xuân tươi đẹp. Ta đón Xuân, mời Xuân, mừng Xuân, đưa Xuân vào tâm hồn ta để thêm ấm tình yêu thương đồng bào, quê hương, bạn bè, bà con láng giềng…

Từ Xuân năm 1942, ta cảm ơn Bác Hồ đã cho ta những phút giây thiêng liêng nhưng đầy tình thân ái: nhân năm mới, nhân Tết cổ truyền của dân tộc, Bác Hồ gửi tới mỗi người, mỗi gia đình những vần thơ chúc Tết với những tư tưởng, tình cảm sâu sắc. Và, cũng bắt đầu từ đây, vào ngày cuối cùng của năm cũ, ai nấy đều mong phút giao thừa tới để được nghe thơ chúc Tết của Bác – những vần thơ rung động mọi con tim.

Ngày 16/2/1969 (mồng 1 Tết), Bác Hồ trồng cây ở xã Vật Lại, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội) nhân Tết Kỷ Dậu.

Thơ chúc Tết của Bác Hồ được viết rất giản dị nhưng hàm súc, thể hiện rõ ràng đường lối cách mạng, bộc lộ sâu sắc lòng yêu nước, yêu dân, tin dân, tin cách mạng, tin vào thắng lợi, mang tính thời sự nóng hổi, bức thiết, rất giàu tình cảm và đậm đà bản sắc dân tộc. Những vần thơ chúc Tết năm 1969 của Bác cho chúng ta được hưởng lại những tình cảm ấy của Người.

Năm qua thắng lợi vẻ vang,
Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to.
Vì độc lập, vì tự do
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào.
Tiến lên! Chiến sĩ, đồng bào,
Bắc Nam sum họp, Xuân nào vui hơn“.

Ngày 28/2/1969, tiếp đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam ra thăm miền Bắc, Người nói:

“Thưa các cụ, các cô, các chú, trong thơ chúc Tết năm nay, tôi có nói là:

Tiến lên! Chiến sĩ, đồng bào
Bắc – Nam sum họp, Xuân nào vui hơn!

Trong lúc viết thì như thế, tôi cũng không chắc là câu thơ đó được thực hiện sớm trong năm nay. Hôm nay, bác sĩ Phùng Văn Cung cùng phái đoàn ra đây, đồng bào miền Bắc rất sung sướng. Để hoan nghênh phái đoàn miền Nam ruột thịt, thì nói mấy trăm câu, mấy nghìn câu, mấy vạn câu cũng không thể hết được. Tôi xin phép chỉ nói một câu thôi:

Bao giờ Nam Bắc một nhà,
Việt Nam đại thắng chúng ta vui mừng”.

Mỗi độ Xuân về, Tết đến, Bác Hồ chẳng những gửi thơ chúc Tết đến toàn dân, mà Người còn đi thăm, chúc Tết đồng bào, chiến sĩ ta. Từ Tết Đinh Mùi (1967), do sức khỏe có phần giảm, Bác Hồ đề nghị Bác Tôn và Thủ tướng Phạm Văn Đồng thay Bác đi thăm, chúc Tết nhân dân.

9h45 ngày 6/2/1969, trong phòng khách nhỏ ở Phủ Chủ tịch, Bác Hồ đọc lời chúc mừng năm mới. Đài Tiếng nói Việt Nam đến thu thanh

Đến Tết Kỷ Dậu (1969), có lẽ linh cảm đây là cái Tết cuối cùng của mình nên dù sức khỏe giảm sút nhiều, Bác Hồ vẫn đặt chương trình đi thăm, chúc Tết nhiều nơi và đi trồng cây.

Để không ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của Bác, các đồng chí ở văn phòng phục vụ Bác đã khéo sắp xếp theo mong muốn của Bác là đi thăm, chúc Tết và trồng cây. Sáng ngày 16/2/1969 (tức ngày mồng 1 Tết Kỷ Dậu), Bác đi thăm bộ đội Quân chủng Phòng không – Không quân ở Bạch Mai và đến đồi trồng cây “Đón Bác Hồ” và trồng cây đa ở xã Vật Lại, huyện Ba Vì.

Nói chuyện và chúc Tết nhân dân địa phương, Bác nói: “Các cụ thì biết chuyện cũ, chuyện mới nhưng các cháu ngày nay chỉ biết chế độ dân chủ cộng hòa. Đất nước bây giờ là của ta, cho nên cần phải thi đua sản xuất giỏi, trồng cây giỏi“.

Những người trực tiếp phục vụ Bác Hồ có kể lại rằng, hôm ấy, trồng cây xong đã gần trưa, đồng chí Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã đã xin mời bác ăn bữa cơm Tết cùng địa phương. Bác bảo, Bác cảm ơn, vì những người giúp việc đã chuẩn bị cơm cho Bác rồi. Và Bác mời đồng chí Bí thư, Chủ tịch, chị Phó Chủ tịch xã sang ăn cơm cùng Bác.

Việc Bác không ăn cơm với xã có nguyên do. Chả là lần Bác về thăm tỉnh Hưng Yên, lãnh đạo tỉnh mời Bác ăn cơm, Bác nhận lời. Nhưng rồi sau đó tỉnh có làm bản thanh toán tài chính ghi rõ: “Thịt một con bò”.

Từ đó mỗi khi về địa phương làm việc, Bác thường ăn cơm từ nhà mang theo để tránh tiếng, như Bác đã nói: Hôm đó về thăm, Bác ăn có vài miếng thịt bò mà họ quyết toán chiêu đãi Bác cả con bò; Hay, Bác Hồ về thăm cũng làm một bữa cơm sang, cũng điều người này người khác từ giao tế sang, chuẩn bị cả buổi, như thế Bác Hồ bao che cho cái chuyện xôi thịt. Và sáng mồng 1 tết Kỷ Dậu năm 1969, Bác cũng không để có ngoại lệ.

Đây là lần cuối cùng và là cây cuối cùng Bác trồng để gieo mầm cho sự sống đời sau, và cũng là bữa cơm ngày tết cuối cùng của Bác khi về địa phương.

Cũng trong dịp Tết trồng cây năm Kỷ Dậu ấy, Bác Hồ đã thưởng huy hiệu của Người cho những cụ già có thành tích xuất sắc trong phong trào trồng cây gây rừng. Đây là những người cuối cùng được nhận huy hiệu của Bác về phong trào Tết trồng cây: cụ Trần Văn Cựu, xã Đức Lập, Đức Thọ, Hà Tĩnh; cụ Kiều xã Tứ Mỹ, Quảng Bình; cụ Trương Đình Gióng, xã Yên Tiến, Ý Yên, Nam Định; cụ Dương Thị Na, hợp tác xã Ức Sơn, xã Hương Sơn, Phú Bình, Thái Nguyên.

Xuân mới, lịch mới năm Kỷ Sửu 2009 tới, ôn lại những vần thơ chúc Tết năm Kỷ Dậu 1969 của Bác, những việc làm, tình cảm ở những ngày xuân cuối cùng của Người dành cho mỗi chúng ta, để mỗi chúng ta “sắp đặt kế hoạch hoạt động sống còn cho cả năm” với khẩu hiệu “Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, đó là kế hoạch vừa là thực hiện cuộc vận động lớn của Đảng “Học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, vừa là hành động thiết thực kỷ niệm 40 năm thực hiện di chúc của Bác Hồ (1969-2009).

Thế là “năm mới thì người ta có những cuộc vui vẻ sung sướng cho xứng đáng với Xuân và để mừng Xuân” đúng như điều “Chào Xuân” của Bác.

TS. Trần Viết Hoàn (nguyên Giám đốc Khu di tích Phủ Chủ tịch)
Việt Báo (Theo_VietNamNet)

Những đêm giao thừa Bác đến với người nghèo

Xuân Tân Tỵ, năm 1941, Bác mới được đặt chân trở về giữa lòng Tổ quốc thân yêu sau đúng 30 năm trời ra đi tìm đường cứu nước (1911-1941). Hành trang theo Bác trở về vẻn vẹn chỉ có một chiếc va ly xách tay bằng mây, trong đựng hai bộ quần áo đã cũ và tập tài liệu Con đường giải phóng tập hợp những bài giảng trong lớp huấn luyện ở Nậm Quang (Quảng Tây, Trung Quốc) do Bác phụ trách vừa mới kết thúc trước Tết mấy hôm.

Tấm thiệp chúc tết cuối cùng của Bác Hồ

Mùa Xuân năm ấy, từ hang Pác Bó đã ra đời một bài thơ xuân tuyệt đẹp của Bác Hồ:

“Non xa xa, nước xa xa
Nào phải thênh thang mới gọi là
Đây suối Lênin, kia núi Mác
Hai tay xây dựng một sơn hà”

Chỉ hơn bốn năm sau, ngày 2-9-1945, sơn hà của Tổ quốc đã được thu về một mối, từ Lạng Sơn đến mũi Cà Mau. Hồ Chí Minh trở thành vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Và mùa Xuân độc lập đầu tiên, Xuân Bính Tuất năm 1946 đã trở về trên toàn cõi đất nước với một sắc màu khác lạ làm gợi nhớ đến một thời Nghiêu Thuấn xa xưa. Vào thời khắc mọi gia đình quây quần bên nhau chuẩn bị đón giao thừa thì vị Chủ tịch nước xắn quần, bước thấp bước cao đến các ngõ hẻm ở phố Sinh Từ, phố Hàng Lọng… để được chính mắt nhìn thấy cảnh Tết vừa, Tết nghèo của bà con lao động Hà Nội mới vừa thoát khỏi ách thực dân phong kiến.

Chính trong cuộc “vi hành” đêm Ba mươi Tết của mùa Xuân độc lập đầu tiên đó, Bác Hồ đã chứng kiến cảnh gia đình một người đạp xích lô “Tết mà không có Tết” ngoài một nén hương đang cháy dở trên bàn, còn chủ nhà thì đang đắp chiếu nằm mê mệt vì ốm. Bác đã xúc động lấy khăn lau nước mắt, lặng lẽ bước ra khỏi nhà, bảo đồng chí thư ký ghi lại địa chỉ để hôm sau báo cáo cho đồng chí Chủ tịch Hà Nội biết.

Cũng đêm Ba mươi Tết Bính Tuất đó, đúng giờ giao thừa, khi Đài Tiếng nói Việt Nam truyền khi khắp đất nước lời chúc mừng năm mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thì chính Người lại đang vui Xuân cùng nhân dân ở đền Ngọc Sơn, trong vai một cụ già cùng cháu đi hái lộc.

Lần đầu tiên nhân dân Hà Nội, nhân dân cả nước, được hưởng một mùa Xuân mới mẻ, giao thừa nghe đọc thư chúc Tết của Bác Hồ:

“Hỡi đồng bào cả nước!

Hôm nay là mùng một Tết năm Bính Tuất, ngày Tết đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tôi thay mặt Chính phủ chúc đồng bào năm mới muôn sự tốt lành” .

Cuối thư là một bài thơ ngắn:

Trong năm Bính Tuất mới
Muôn việc đều tiến tới
Kiến quốc chóng thành công
Kháng chiến mau thắng lợi

Kể từ mùa Xuân đầu tiên đó, suốt 24 năm làm Chủ tịch nước, mỗi lần Tết đến, Xuân về, Bác lại nghĩ đến dân, lo sao cho dân có một mùa xuân ấm no, hạnh phúc. Thường thì trước Tết ba tháng, Bác đã nhắc các cơ quan, các ngành chuẩn bị Tết cho dân. Riêng Bác cũng tự mình chuẩn bị sớm ba việc. Tìm ý thơ cho bài thơ mừng năm mới, nhắc văn phòng chuẩn bị thiếp “Chúc Mừng Năm Mới” để kịp gửi đến những nơi xa xôi nhất, kể cả bộ đội ở các vùng rừng núi, hải đảo xa xôi và cán bộ công tác ở nước ngoài.

Và cuối cùng là một chương trình đi thăm dân không thể thiếu đối với Bác, một chương trình riêng mà chỉ Bác và các đồng chí cảnh vệ biết.

Tối Ba mươi Tết năm 1960, Bác đến thăm gia đình mẹ con chị Tín, một lao động nghèo ở phố Hàng Chĩnh, Hà Nội. Chiều mùng hai Tết năm 1961, Bác đến Văn Miếu dự buổi bình thơ Xuân của các cụ. Mùng hai Tết năm 1962, Bác đến thăm các cháu học sinh miền Nam ở Hải Phòng. Chiều 29 Tết năm 1963, Bác cải trang thành một cụ già theo cháu đi chợ hoa và chợ Đồng Xuân… Tất cả đều bí mật bất ngờ và do đó bao giờ cũng tạo hiệu quả lớn.

Như Tết năm 1960, nếu Bác chỉ đến thăm các gia đình theo chương trình của các cơ quan đã bố trí thì làm sao Chủ tịch nước biết được gần đến giao thừa rồi mà chị Tín vẫn còn phải đi gánh nước thuê đổi gạo để sáng mai mùng một Tết có cơm ăn cho bốn đưa con của mình. Gặp Bác, chị Tín xúc động để rơi cả đôi thùng gánh nước xuống đất, run run cầm lấy bàn tay của Bác:

– Cháu không ngờ lại được Bác đến thăm…

Chỉ nói được vậy, chị đã oà lên khóc nức nở.

Vị Chủ tịch nước đã an ủi chị:

– Bác không đến thăm những gia đình như cô thì thăm ai…

Và Bác đã vào nhà thăm hỏi khá lâu năm mẹ con chị Tín. Gọi là nhà nhưng đâu có phải là nhà mà là một cái chái như một túp lều. Chồng chị Tín là công nhân khuân vác ở bến Phà Đen đã mất cách đó bốn năm, còn chị thì cho đến lúc này vẫn chưa có việc làm ổn định. Cảnh nghèo của gia đình đã phũ phàng hiện ra trước mắt Bác. Trên chiếc bàn gỗ mục chỉ có một nải chuối xanh và một gói kẹo. Đúng là “Ba mươi Tết mà không có Tết”. Cách đây 15 năm, Tết độc lập đầu tiên, Bác đã đau lòng chứng kiến cảnh một gia đình “Tết mà không có Tết” ở ngõ hẻm Sinh Từ. Đó là khi đất nước mới thoát khỏi vòng nô lệ. Còn bây giờ, kháng chiến đã thắng lợi, hoà bình đã sáu năm, mà lại còn cái cảnh này sao? Không phải ở đâu xa mà ở ngay Thủ đô Hà Nội… Vậy còn bao nhiêu gia đình như thế này ở khắp mọi miền đất nước? Cứ ngồi nghe báo cáo thì đâu cũng là no ấm, tươi vui…

Đêm ấy, trên đường về, ngồi trên xe, Bác Hồ trầm ngâm suy nghĩ. Vẻ đăm chiêu thoáng hiện trên gương mặt của Người. Bác đã từng tâm sự với các đồng chí phục vụ: “Một ngày dân chưa đủ ăn, áo chưa đủ mặc, các cháu chưa được học hành, mọi người còn khổ thì Bác ăn không ngon, ngủ không yên”.

Về đến nhà, các đồng chí Bộ Chính trị đang chờ Bác để chúc mừng năm mới. Mọi người băn khoăn khi thấy Bác không vui. Bác kể lại hoàn cảnh gia đình chị Tín cho mọi người nghe. Cuối câu chuyện Bác nói “Ta có chính quyền trong tay, nhưng chính quyền đó chưa thực sự là do dân, vì dân. Một số lãnh đạo các địa phương còn quan liêu và nặng về hình thức. Họ không chịu đi sâu, đi sát quần chúng, nên phục vụ quần chúng chưa tốt. Nếu chúng ta chỉ nghe báo cáo của họ thì sẽ không bao giờ nắm được chính xác tình hình để có chủ trương, nghị quyết đúng đắn. Đảng quan liêu, chính quyền quan liêu, thực sự là một nguy cơ đối với đất nước chúng ta.

Vũ Kỳ – Thư ký Bác Hồ kể chuyện.

VIỆT NAM – HỒ CHÍ MINH

Nhớ Bác Hồ trồng cây năm xưa…

Hàng năm, cứ mỗi độ xuân về, trong không khí rộn ràng, phấn khởi những ngày đầu năm mới, nhân dân khắp mọi miền Tổ quốc lại nhớ tới lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Mùa xuân là Tết trồng cây, làm cho đất nước càng ngày càng xuân”. Từ lời kêu gọi của Người năm xưa, đến nay, Tết trồng cây đã trở thành một truyền thống tốt đẹp của cả đất nước, cả dân tộc.

Nhà sàn Bác Hồ luôn ngập tràn màu xanh thiên nhiên (Nguồn: Internet)

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất yêu và gần gũi với thiên nhiên. Nơi ở của người, đâu đâu cũng thấy bóng mát của cây cối, hương thơm cây cỏ, âm thanh muôn loài. Người trồng cây, nuôi chim, đào ao thả cá. Người sống và làm việc giữa những người bạn thiên nhiên tâm giao thân thiết, giữa những suy nghĩ cho vận mệnh nước nhà là những phút thả hồn vào muôn hoa vạn vật…

Cuối năm 1959, đầu 1960, nhân dịp cả nước thi đua lập nhiều thành tích mừng xuân, mừng Đảng tròn 30 tuổi, Bác Hồ đã phát động Tết trồng cây trong toàn dân với lời dạy “Việc này ít tốn kém mà lợi ích nhiều”. Bác nói: “Trong 10 năm nữa, phong cảnh nước ta sẽ ngày càng tươi đẹp, khí hậu sẽ hiền hoà hơn, cây gỗ sẽ đầy đủ hơn. Điều đó sẽ góp phần quan trọng vào việc cải thiện đời sống của nhân dân ta”.

Bác Hồ chăm sóc cây Vú sữa của đồng bào miền Nam tặng (Nguồn: Internet)

Ngày 5/01/1961 (ngày 9 tháng Chạp năm Canh Tý), Bác Hồ về thăm Hợp tác xã Lạc Trung, tỉnh Vĩnh Phúc – nơi có phong trào trồng cây hai bên đường và trên các bãi đất trống. Bác ôm ghì 2 đồng chí lãnh đạo của xã thật chặt và hỏi: “Các chú có thấy khó chịu không?”. Rồi Bác ôn tồn bảo: “Cây cũng như người, nó phải có khoảng cách để sống và phát triển, các chú cần hướng dẫn nhân dân trồng cây theo kỹ thuật, trồng cây nào tốt cây đó”.

Hàng năm, cứ mỗi độ Tết đến, xuân về, Bác vừa viết báo nhắc nhở nhân dân thực hiện Tết trồng cây, vừa đi thăm và tham gia trồng cây cùng với nhân dân. Người luôn biểu dương những địa phương, đơn vị, cá nhân trồng cây tốt và nhắc nhở những địa phương, những hợp tác xã chưa quan tâm đến việc tổ chức “Tết trồng cây”. Người đặc biệt lưu ý phải liên hệ chặt chẽ “Tết trồng cây” với kế hoạch trồng cây gây rừng, “trồng cây nào, chắc cây ấy”. Người còn lưu ý: “Có nơi nhầm cho rằng Tết trồng cây chỉ một đợt và một năm thôi; chứ không hiểu rằng Tết trồng cây cũng là một kế hoạch kinh tế lâu dài và liên tục…”, “Sở dĩ Tết trồng cây đã trở nên một phong trào quần chúng mạnh mẽ, là vì mọi người đều thấy lợi ích thiết thực và lâu dài của nó”.

Còn nhớ, trên báo Hà Đông ra ngày 20/1/1965, trong bài “Hãy nhiệt liệt tổ chức Tết trồng cây”, Bác viết: Muốn xây dựng nông thôn mới, việc đầu tiên của nông thôn mới là xây dựng lại nhà ở cho đàng hoàng. Muốn vậy thì ngay từ bây giờ phải trồng cây nhiều và tốt để lấy gỗ. Chỉ có việc đó cũng đủ thấy cần phải đẩy mạnh phong trào Tết trồng cây…

Bác Hồ cùng cán bộ, nhân viên trồng cây trong Phủ Chủ tịch (Nguồn: Internet)

Trong những lần thăm nước bạn hoặc tiếp đón các vị nguyên thủ quốc gia đến thăm Việt Nam, Bác đều tổ chức trồng cây lưu niệm. Người đã trồng cây Đại ở Ấn Độ, trồng cây sồi ở Nga và tặng chúng những cái tên thân mật là “những cây hữu nghị”. Theo thời gian, cây cối lớn dần lên cũng giống như tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với bạn bè thế giới ngày càng thêm thân tình, gắn bó. Những năm chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ ở miền Bắc, Bác Hồ vẫn kêu gọi nhân dân trồng cây, giữ lấy màu xanh của đất nước. Bác viết: “Mùa xuân là Tết trồng cây, làm cho đất nước càng ngày càng xuân”.

Bác trồng cây Đa cùng bà con xã Vật Lại (huyện Ba Vì, Hà Tây) mùa xuân năm Kỷ Dậu (Nguồn: Internet)

Trong bài viết cuối cùng của mình về Tết trồng cây ngày 5/2/1969, Bác nhắc tới “ích lợi to lớn cho kinh tế quốc phòng” của việc trồng cây gây rừng, và nhắc nhở “đồng bào các địa phương phải biến đồi trọc thành vườn cây”. Ngày mùng một Tết Kỷ Dậu (16.2.1969), trong mùa xuân cuối cùng của cuộc đời, Bác đã tự tay trồng một cây đa trên đồi cây xã Vật Lại, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội).

Ngay cả khi nằm trên giường bệnh, Bác vẫn không quên nhắc nhở Đảng bộ Nghệ An cần “có kế hoạch trồng cây bảo vệ rừng”. Di chúc của Người cũng không quên nhắc nhở nhân dân ta phải tiếp tục trồng cây gây rừng. Người viết: “Nếu có kế hoạch trồng cây trên đồi, ai đến thăm thì trồng 1 cây làm kỷ niệm. Trồng cây nào phải tốt cây ấy. Lâu ngày cây nhiều thành rừng, sẽ tốt cho phong cảnh và lợi cho công nghiệp”.

*****

Hơn 40 năm kể từ ngày Bác đi xa, đất trời đã bước vào nhiều mùa xuân mới. Tết trồng cây đã trở thành một truyền thống tốt đẹp được nhân dân ta gìn giữ qua nhiều đời. Từ lời Người dạy, phong trào trồng cây, gây rừng, phủ xanh đất trống đồi trọc luôn được toàn Đảng, toàn dân ta ra sức hưởng ứng bằng nhiều hành động cụ thể. Mỗi độ Tết đến, xuân về, nhìn những bóng cây xanh mát khắp các ngả đường từ Nam tới Bắc, lại càng nhớ lời Người dạy năm xưa:

Mùa xuân là Tết trồng cây
Làm cho đất nước càng ngày càng xuân

Thu Hiền (Tổng hợp)

backan.gov.vn

Kỷ niệm bảo vệ Bác Hồ thăm chợ Tết

Hôm ấy là ngày 24/1/1963, tức 30 Tết, các đồng chí bảo vệ hóa trang cho Bác thành một công nhân già đi sắm Tết. Bác đeo kính trắng mắt tròn, gọng kính nhỏ như kính lão các cụ đồ thường dùng.

Khoảng một tuần trước Tết Quý Mão (1963), Bác Hồ nhắc Văn phòng Chủ tịch nước báo cho Bộ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Hoàn, Tết này Bác muốn thăm chợ Đồng Xuân – khu thương mại sầm uất, nhộn nhịp nhất ở Hà Nội.

Người được phân công trực tiếp đi theo bảo vệ Bác là ông Phan Văn Xoàn, sau này là Thiếu tướng Tư lệnh – Bộ Tư lệnh Cảnh vệ. Ông hồi tưởng lại vào dịp giáp Tết năm ấy, người mua kẻ bán khắp nơi đổ về Hà Nội rất đông nên công tác bảo vệ có phần khó khăn. Nếu để Bác đi công khai thì nhân dân ai cũng biết, và sẽ ùa tới chào đón Người. Như vậy việc bảo vệ lại càng phức tạp, khó khăn hơn.

Sau khi nghiên cứu cụ thể, lãnh đạo Cục Cảnh vệ đã báo cáo lãnh đạo Bộ Công an phương án bảo vệ, trong đó có biện pháp Bác hóa trang thành một công nhân già đi sắm Tết.

Hôm ấy là ngày 24/1/1963, tức 30 Tết. Sáng hôm đó, Bác rất vui, các đồng chí bảo vệ hóa trang cho Bác. Bác đeo kính trắng mắt tròn, gọng kính nhỏ như kính lão các cụ đồ thường dùng. Bác mặc quần áo cũ vải gụ đã bạc và khoác chiếc áo mưa vải bạt có vài chỗ đã sờn, cổ quàng chiếc khăn len màu tối, quấn nhiều vòng để vừa ấm cổ, vừa che bớt chòm râu, đầu đội mũ cát trắng, chân mang tất màu cỏ úa, đi đôi dép cao su đen.

Theo phương án, ba người cùng đi chợ Tết với mối quan hệ gia đình. Bác là bố, đồng chí Xoàn là con, đồng chí Phan Đĩnh, vệ sỹ trực tiếp là cháu của Bác. Khoảng 9h sáng, ôtô đưa Bác theo đường Phan Đình Phùng đến phố Hàng Đậu dừng lại một lúc, Bác xuống xe rồi đi bộ theo phố Nguyễn Tiệp, rẽ qua phố Hàng Khoai, lẽo đẽo theo sau là “nguời cháu” xách chiếc làn mây đi chợ. Bác cháu hòa lẫn trong dòng người đông vui giữa phiên chợ sáng 30 Tết.

Thiếu tướng Phan Văn Xoàn nhớ lại, lúc ấy khi ba Bác cháu đi đến cửa sau chợ Đồng Xuân, trước khi vào chợ như hành trình đã định, bỗng nhiên Bác dừng lại, với dáng vẻ thư thái, Người đứng ngắm quanh cảnh nhộn nhịp, tấp nập người mua kẻ bán chen chúc nhau ở đầu chợ Bắc Qua, rồi Bác ngoặt vào chợ. Thấy vậy, cả tổ bảo vệ rất lo. Đồng chí Xoàn làm như vẻ thấy bố mình đi nhầm chỗ, bèn gọi: “Bố ơi, đường này cơ mà, đường đó chật lắm không đi được đâu bố ạ”.

Nghe vậy, Bác quay lại mỉm cười khẽ nói: “Bố con ta đi vào đây đã”. Chợ Bắc Qua lúc này đông nghẹt. Sau một lúc quan sát cảnh hàng hóa chợ Tết bày la liệt, đồng bào vui vẻ mua bán sắm sửa, Bác tỏ ý rất vui, sau đó mới qua chợ Đồng Xuân.

Vào trong chợ, Bác dừng lại hồi lâu trước một số quầy tạp hóa, đồ dùng gia đình, quần áo may sẵn… để biết giá cả và sức mua của dân.

Sau một hồi quan sát trong chợ, đồng chí Xoàn mời Bác sang thăm quầy bán hoa tươi cạnh đó. Cạnh các quầy hoa là mấy cụ đồ áo dài the, khăn xếp đen, đeo mục kỉnh, ngồi chấm phá những câu đối bằng mực tàu trên những khổ giấy đỏ dài. Bác rảo bước tới một quầy bán hoa huệ gần đấy, chọn một bó huệ rất đẹp, đưa lên ngắm nhìn tỏ vẻ rất vừa ý, rồi hỏi chị hàng hoa: “Chị ơi, bó huệ này bao nhiêu? “Dạ thưa cụ 5 hào”.

Lúc này đồng chí Đĩnh đứng sát sau lưng Bác. Thấy Bác ngồi lâu sợ bị lộ vì Bác trực tiếp trao đổi mua bán, e rằng những người tinh ý sẽ phát hiện ra Bác nên đồng chí Xoàn vội bước tới nói với Bác: “Bố để con mua cho” rồi mặc cả bó hoa với giá hai hào. Thiếu tướng Xoàn kể lại: “Sở dĩ lúc ấy tôi trả với giá thấp cốt để chị hàng hoa không bán, lấy cớ mời Bác đi về cho an toàn”.

Khi nghe chị hàng hoa trả lời không bán, Bác liền đứng dậy, một thoáng nhìn theo bó huệ rồi đi ngay. Ra chỗ vắng Bác quay lại nói: “Chú trả như vậy thì đi chợ cả ngày cũng chẳng mua được gì” và trên mặt phúc hậu của Người lộ nét trầm lặng không vui.

Xuân này qua xuân khác, mỗi lần chuẩn bị đón năm mới, khi kể với anh em bảo vệ và các nhà báo chuyện này, Thiếu tướng Xoàn vẫn bùi ngùi với cả nỗi niềm thương nhớ vời vợi. Câu chuyện Bác hồi đi chợ Tết hơn 40 năm trước vẫn luôn đọng sâu trong lòng ông.

(Ghi theo lời kể của Thiếu tướng Phan Văn Xoàn)
(Theo An Ninh Thủ Đô)

vnexpress.net