Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4-2001) khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều hiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại…
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”1.
Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của việc học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thế kỷ XXI văn kiện Đại hội IX viết: “Toàn Đảng nghiêm túc học tập chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Thực hiên chủ trương của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc xuất bản lần thứ ba, sách Hồ Chí Minh Tuyển tập, Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng, thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cùng với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia đã tích cực khẩn trương, hoàn chỉnh bản thảo, để chào mừng kỷ niệm lần thứ 112 năm sinh của Người. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc bộ sách quý: Hồ Chí Minh Tuyển tập.
Hồ Chí Minh tuyển tập được chia thành ba tập bao gồm những bài nói, bài viết, tác phẩm, báo cáo, diễn văn, lời chúc, lời kêu gọi, điện văn, thư… (từ đây xin được viết gọn là các bài và tác phẩm) quan trọng của Hồ Chí Minh từ năm 1919 đến năm 1969, được tuyển chọn từ bộHồ Chí Minh Toàn tập, 12 tập, Nhà xuất bản Chính tả quốc gia, xuất bản năm 2000.
Tập 1 : Các bài và tác phẩm từ năm 1919 đến năm 1945.
Tập 2: Các bài và tác phẩm từ năm 1945 đến năm 1954.
Tập 3: Các bài và tác phẩm từ năm 1954 đến năm 1969.
Mặc dù là tuyển tập nhưng nội dung sách vẫn thể hiện một cách có hệ thống những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh.
*
* *
Cuối thế kỷ XIX, Việt Nam bị biến thành thuộc địa của thực dân Pháp. Không cam chịu kiếp sống nô lệ, nhân dân Việt Nam liên tiếp nổi dậy đấu tranh chống xâm lược Pháp và phong kiến tay sai phản động. Các cuộc đấu tranh theo những xu hướng khác nhau nổ ra ở khắp Bắc –Trung – Nam nhưng tất cả đều bị dìm trong bể máu. Tình hình đất nước đen tối như không có đường ra.
Với tư tưởng “không có gì quý hơn độc lập tự do”, năm 1911 Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước. Người đã để ra gần 10 năm vừa làm thợ kiếm sống vừa tiến hành cuộc khảo sát thực tế khắp các châu lục, từ nhiều nước tư bản, thực dân đế quốc đến các nước thuộc địa. Đến khi bắt gặp chủ nghĩa Mác – Lênin, đặc biệt là Luận cương của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa và tấm gương Cách mạng Tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc đúng đắn, không chỉ cho dân tộc Việt Nam mà còn cho tất cả các dân tộc thuộc địa. Hồ Chí Minh khẳng định: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân toàn thế giới. Con đường cứu nước và giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh là con đường cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới do Đảng Cộng sản lãnh đạo với mục tiêu độc lập dân tộc, người cày có ruộng, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam.
Hồ Chí Minh cho rằng giải phóng dân tộc gắn bó chặt chẽ với giải phóng giai cấp, giải phóng con người, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh chỉ rõ: cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng cốt lõi xuyên suốt toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh qua các thời kỳ, trên tất cả mọi lĩnh vực. Hồ Chí Minh chỉ rõ các bài và tác phẩm của Người chỉ có một “đề tài” là: chống thực dân đế quốc, chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Trong khi giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa”2.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện quy luật phát trển của cách mạng Việt Nam: độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để tiến lên chủ nghĩa xã hội và chỉ có tiến lên chủ nghĩa xã hội mới giữ vững, phát huy những thành quả đã giành được trong cách mạng giải phóng dân tộc. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX trong khi trình bày nội hàm tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”.
Trung thành với tư tưởng Hồ Chí Minh, để giữ vững và phát huy thành quả cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kết hợp chặt chẽ việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng đất nước đi đôi với bảo vệ đất nước. Là người khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam rất coi trọng việc tổng kết những bài học từ sự nghiệp mới mẻ đó. Văn kiện Đại hội IX viết: 15 năm đổi mới (1986-2000) đã cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu. Những bài học đổi mới do các Đại hội VI, VII, VIII của Đảng nêu lên vẫn còn có giá trị lớn mà bài học đầu tiên là: “Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”3.
Những luận điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam vẫn đang được Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam quán triệt, vận dụng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Hồ Chí Minh đặt vấn đề: “Muốn biết ta tiến lên chủ nghĩa xã hội như thế nào thì trước hết phải biết chủ nghĩa xa hội là gì?. “Theo Hồ Chí Minh “chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu nước mạnh”, “mọi người được ăn no mặc ấm, sung sướng, tự do”, là công bằng hợp lý, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng, những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm nom…
Hồ Chí Minh là người đầu tiên chỉ rõ trong sự nghiệp xây dựng đất nước, chúng ta phải phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với năm loại hình kinh tế khác nhau:
– Kinh tế quốc doanh,
– Kinh tế hợp tác xã,
– Kinh tế của cá nhân, nông dân và thợ thủ công,
– Kinh tế tư bản tư nhân,
– Kinh tế tư bản nhà nước.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh trong năm loại ấy để cho nền kinh tế nước ta “phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội” chứ không chệch theo hướng tư bản chủ nghĩa cần phải làm cho kinh tế quốc doanh giữ vai trò lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Để đạt được mục tiêu đó, sự phát triển kinh tế văn hoá phải gắn với chế độ xã hội chủ nghĩa, gắn với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Các bài và tác phẩm trong Hồ Chí Minh tuyển tập thể hiện những quan điểm cơ bản của Người về việc xây dựng những nhân tố chủ yếu bảo đảm thắng lợi cho cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh đặt câu hỏi: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì?” Người chỉ rõ: “Trước hết phải có đảng cách mệnh… Đảng có vững cách mệnh mới thành công”. Để có đảng vững mạnh, làm tròn vai trò tiên phong của mình, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: đảng phải lấy chủ nghĩa Mác – Lênin – chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất, khoa học nhất – làm cốt, làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động; cán bộ đảng viên phải tiền phong gương mẫu, hy sinh tận tụy, gắn bó mật thiết với nhân dân. Chỉ có như vậy Đảng mới là “một đảng to lớn, vững mạnh, chắc chắn, trong sạch, cách mạng triệt để”. Thiên tài của Hồ Chí Minh là ở chỗ khi chủ nghĩa Mác – Lênin, chân lý cách mạng của thời đại còn xa lạ với nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới, Người đã kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa ấy với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, thành lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng, đặc biệt là trong điều kiện đảng cầm quyền là một cống hiến vào kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin. Lần đầu tiên trong các đảng cộng sản cầm quyền, Hồ Chí Minh nêu lên quan điểm đảng phải xứng đáng vừa là người lãnh đạo vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân.
Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm công tác xây dụng đảng, chỉnh đốn đảng. Tầm quan trọng, tính cấp bách của công tác chỉnh đốn đảng thường được Người nhấn mạnh, coi là việc “trước hết”, “trước tiên”, “việc chính”, việc cần kíp”, “việc phải làm ngay”.
Quan điểm cách mạng trước hết phải có đảng, phải đặc biệt coi trọng công tác chỉnh đốn đảng được Hồ Chí Minh đề cập sâu sắc trong Di chúc. Trong mấy lời, mấy việc Người dặn lại trước lúc đi xa thì “trước hết nói về Đảng” và “việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng”.
Trung thành với sự chỉ dẫn của Hồ Chí Minh, các nghị quyết của Đảng ta trong những năm đổi mới đều rất coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng. Điều này được thể hiện tập trung trong Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương sáu lần hai (khoá VIII).
Thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Mục tiêu hàng đầu trong tư duy lý luận và hoạt đông thực tiễn của Hồ Chí Minh là đoàn kết toàn dân trong mặt trân dân tộc thống nhất để kháng chiến và kiến quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Theo Hồ Chí Minh “không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Vai trò chiến lược của khối đại đoàn kết toàn dân được Hồ Chí Minh đúc kết trở thành chân lý, chỉ đạo toàn bộ quá trình xây dựng lực lượng cách mạng ở Việt Nam:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”.
Để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, Hồ Chí Minh tập trung tìm kiếm, vun trồng những điểm tương đồng trong dân tộc. Hồ Chí Minh cho rằng tất cả mọi người sống trên đất nước Việt Nam đều là con Lạc cháu Hồng, con dân nước Việt, con Rồng cháu Tiên, đều có một điểm chung: “Ai cũng có lòng yêu nước, ghét giặc”. Hồ Chí Minh chỉ rõ mục tiêu và đối tượng của đoàn kết: “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc, ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. Để không một người Việt Nam nào nằm ngoài khối đại đoàn kết toàn dân, Hồ Chí Minh thông qua việc đề cao cái chung, coi trọng trước hết cái chung, gắn cái riêng với cái chung và nên có lòng bao dung độ lượng bởi: “năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ”.
Đại đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một tập hợp lực lượng hết sức rộng rãi được xây dựng trên nền tảng khối liên minh công nông vững chắc bởi “công nông là gốc cách mạng”. Trong khối đại đoàn kết toàn dân, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng vai trò của trí thức và sự gắn bó giữa công, nông, trí. Người đòi hỏi, trong quá trình cách mạng “công, nông, trí cần phải đoàn kết chặt chẽ thành một khối”. Theo Hồ Chí Minh, khối đại đoàn kết toàn dân bao gồm tất cả các giai cấp, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo nhưng không phải là một tập hợp ngẫu nhiên lỏng lẻo mà phải được tổ chức thành Mặt trận dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phương pháp để đi đến đại đoàn kết của Hồ Chí Minh là vận động, thuyết phục, nêu gương. Người đòi hỏi cán bộ đảng viên “cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”.
Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh, cùng với tấm gương trân trọng nâng niu, giữ gìn sự đoàn kết của Người thực sự trở thành một nhân tố có ý nghĩa quyết định trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc rộng rãi, vững chắc ở nước ta. Tư tưởng và tấm gương đó luôn được Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam học tập vận dụng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới. Điều này được chứng minh ở chủ đề của Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam: “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
Với Hồ Chí Minh, đoàn kết tập hợp lực lượng là để đấu tranh giành độc lập tự do, để xây dựng đất nước và bảo vệ vũng chắc những thành quả cách mạng đã giành được. Vì vậy, trong hệ thống tư tưởng Hồ Chủ Minh thì tư tưởng của Người về quốc phòng toàn dân và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân chiếm vị trí rất quan trọng và có những điểm đặc sắc, độc đáo.
Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, tư tưởng nhất quán ở Hồ Chí Minh là “cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”. Bởi vì: “Chế độ thực dân tự bản thân nó đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu”. Phù hợp với quan điểm mácxít chiến tranh là sự kế tục của chính trị bằng thủ đoạn bạo lực, Hồ Chí Minh nhấn mạnh quân sự phải phục tùng chính trị, quân sự không có chính trị như cây không có gốc.
Từ quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Hồ Chí Minh cho rằng bạo lực cách mạng bao gồm lực lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân và sự kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị. Người đòi hỏi tùy tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu tranh cách mạng thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, để giành thắng lợi cho cách mạng.
Nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân là toàn dân đánh giặc, toàn dân kháng chiến với tất cả mọi thứ vũ khí, phương tiện có trong tay. Năm 1946, toàn quốc bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Hồ Chí Minh kêu gọi: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng sung. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”. Phương châm ấy được Người tiếp tục phát triển trong những năm chống Mỹ: “31 triệu đồng bào ta ở cả hai miền bất kỳ già, trẻ, gái trai phải là 31 triệu chiến sĩ anh dũng diệt Mỹ, cứu nước”. Hồ Chí Minh cho rằng dân khí mạnh thì quân thù nào, vũ khí nào cũng không chống lại nổi. Với tư tưởng ấy trong xây dựng căn cứ địa và hậu phương chiến tranh, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Căn cứ hậu phương vững chắc nhất là lòng dân”.
Tư tưởng nhất quán của Hồ Chí Minh trong xây dựng lực lượng vũ trang là: từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, xây dựng ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ làm nòng cốt cho lực lượng chính trị toàn dân và nền quốc phòng toàn dân. Sự phong phú, sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân được thể hiện nổi bật qua đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, kháng chiến đi đôi với kiến quốc, hậu phương thi đua với tiền phương… Chính sự phong phú, sáng tạo ấy là nhân tố hàng đầu tạo nên những thắng lợi lịch sử của Cách mạng Tháng Tám 1945 và đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc.
Bước sang thế kỷ XXI, tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân tiếp tục soi đường chỉ lối cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX viết: “Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng”4.
Chính quyền nhà nước là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Các bài và tác phẩm trong Hồ Chí Minh Tuyển tập cho thấy những quan điểm cơ bản và sự chăm lo của Hồ Chí Minh trong xây dựng nhà nước kiểu mới về mọi mặt.
Tư tưởng nhất quán, xuyên suốt chi phối mọi hoạt động của Hồ Chí Minh về nhà nước là xây dựng một nhà nước dân chủ – nhà nước của dân, do dân, vì dân. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ là của quý báu nhất của dân ta, dân chủ có nghĩa là dân làm chủ, trong một nhà nước dân chủ, người dân được đặt ở vị trí tối thượng. Hồ Chí Minh viết:
“Nước ta là nước dân chủ.
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân…
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra”.
Hồ Chí Minh cho rằng quá trình xây dựng nhà nước dân chủ không thể tách rời việc thực hiện chuyên chính đối với âm mưu và hành động của các thế lực thù địch tìm cách chống phá Nhà nước ta. Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân, chuyên chính là cái khoá, cái cửa đề phòng kế phá hoại, nếu hòm không có khoá, nhà không có cửa thì sẽ mất cắp hết. Cho nên có cửa phải có khoá, có nhà phải có cửa. Thế thì dân chủ cũng cần phải có chuyên chính để giữ lấy dân chủ”. Hồ Chí Minh còn đòi hỏi dân chủ phải gắn với kỷ cương, quyền lợi công dân không tách rời nghĩa vụ công dân.
Đối với Hồ Chí Minh trong xây dựng nhà nước vấn đề có tính nguyên tắc phải tuân thủ là đi đôi với việc giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, cần coi trọng tính dân tộc, tính nhân dân của nhà nước kiểu mới ở Việt Nam.
Từ rất sớm Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề cần thiết phải xây dựng một nhà nước pháp quyền mạnh mẽ và sáng suốt. Người đòi hỏi nhà nước phải quản lý xã hội bằng pháp luật và mọi công dân đều sống, làm việc theo hiến pháp và pháp luật. Đối với Hồ Chí Minh trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội, việc đề cao pháp quyền gắn bó chặt chẽ với tăng cường giáo dục đạo đức.
Hồ Chí Minh quan tâm sâu sắc đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ công chức nhà nước có đức, có tài, am hiểu pháp luật thông thạo chuyên môn, nghiệp vụ để cho “các cơ quan của chính phủ từ toàn quốc đến các làng đều là đày tớ của nhân dân”.
Đối với Hồ Chí Minh xây phải đi đôi với chống. Để có được một nhà nước trong sạch vững mạnh, Hồ Chí Minh đòi hỏi phải chống những tiêu cực như quan lieu, tham ô, lãng phí… nảy sinh trong bộ máy nhà nước và từ cán bộ công chức.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân là sự kế thừa và phát triển sáng tạo học thuyết Mác – Lênin về nhà nước. Đó còn là những kết quả, những kinh nghiệm mà Hồ Chí Minh đã rút ra được qua mấy chục năm trên cương vị đứng đầu Nhà nước Việt Nam mới. Tư tưởng đó đã và đang chỉ đạo toàn bộ quá trình xây dựng Nhà nước ta.
Từ một người yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh chăm chú tiếp thu và vận dụng sáng tạo quan điểm mácxít về chủ nghĩa quốc tế. Theo Hồ Chí Minh có những lời mà hàng triệu người nhắc đi nhắc lại hàng triệu lần vẫn luôn luôn thích hợp và không bao giờ thừa. Một trong số những lời đó là khẩu hiệu lịch sử do Mác – Ăngghen nêu lên: “Vô sản tất cả các nước, liên hợp lại”.
Hồ Chí Minh cho rằng Việt Nam là một bộ phận của thế giới, tình hình trên thế giới liên quan chặt chẽ tới Việt Nam và ngược lại. Đây là cơ sở để Hồ Chí Minh nêu cao chủ trương và kiên trì thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở mỗi người Việt Nam cần phát huy cao độ tinh thần độc lập tự chủ, tự lực cánh sinh “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác đến giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cho rằng sự đoàn kết giúp đỡ quốc tế là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Vấn đề đoàn kết quốc tế của Việt Nam được Hồ Chí Minh đề cập với nhiều bình diện, cấp độ rất phong phú: đoàn kết với nhân dân các nước thuộc địa; đoàn kết giữa cách mạng giải phóng thuộc địa với cách mạng ở chính quốc; đoàn kết với cả nhân dân Pháp, nhân dân Mỹ; đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa; đoàn kết với các lực lượng đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ; đoàn kết với các nước trong khu vực… Với mỗi đối tượng, lực lượng nêu trên, Hồ Chí Minh đều có chủ trương, biện pháp để hạn chế sự khác biệt, bất đồng, tranh thủ tìm kiếm mọi sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế đối với Việt Nam.
Với phương châm “giúp bạn là tự giúp mình”, Hồ Chí Minh không chỉ quan tâm tranh thủ đến mức cao nhất sự ủng hộ giúp đỡ quốc tế mà Người còn chủ trương nhân dân Việt Nam phải làm hết sức mình cho các mục tiêu cách mạng của thời đại: hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Tư tưởng Việt Nam sẵn sàng “làm bạn với tất cả các nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”, do Hồ Chí Minh nêu lên cách đây hơn nửa thế kỷ, đang được Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng trong thế kỷ XXI. Văn kiện Đại hội IX viết: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”.
Các bài và tác phẩm trong Hồ Chí Minh Tuyển tập cho thấy Hồ Chí Minh là một lãnh tụ rất quan tâm và bàn nhiều đến đạo đức, đạo đức cách mạng. Quan niệm về đạo đức cách mạng đã được Hồ Chí Minh nêu lên một cách toàn diện, sâu sắc. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là “suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng”, “tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân”, “hoà mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng”, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Với quan niệm đó, Hồ Chí Minh dạy: sông phải có nguồn, không có nguồn thì sông cạn, cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo, người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm gốc, làm nền tảng mới hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang. Vì vậy, suốt đời mình Hồ Chí Minh chăm lo giáo dục để mỗi cán bộ, đảng viên có được những phẩm chất đạo đức cách mạng cơ bản: trung với nước, hiếu với dân; thương yêu quý trọng con người; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Người viết trong Di chúc: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, và “phải chăm lo, giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên và thanh niên”.
Đối với Hồ Chí Minh, nâng cao đạo đức cách mạng phải đi đôi với quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Theo Hồ Chí Minh những người sa vào chủ nghĩa cá nhân khi làm “bất kỳ việc gì cũng xuất phát từ lòng ham muốn danh lợi, địa vị cho cá nhân mình chứ không nghĩ đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân”, “tự cho mình cái gì cũng giỏi”, “không muốn học hỏi quần chúng mà chỉ muốn làm thầy quần chúng”, Hồ Chí Minh khẳng định chủ nghĩa cá nhân đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm: tham ô, lãng phí, tham danh, trục lợi, thích địa vị, quyền hành, tự cao, tự đại, bè phái, độc đoán, chuyên quyền… Do đó, “thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân”. Hồ Chí Minh lưu ý mọi người đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là “giày xéo lên lợi ích cá nhân”. Tính hoàn chỉnh của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh còn được thể hiện ở chỗ Người đã chỉ ra những nguyên tắc, phương pháp xây dựng, rèn luyện để có được đạo đức mới, đạo đức cách mạng: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
Nét đặc sắc của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là luôn có sự gắn bó giữa đạo đức với chính trị, đạo đức và tài năng, đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường, lời nói với việc làm. Hồ Chí Minh tự mình là tấm gương sáng nhất, trọn vẹn nhất tư tưởng đạo đức do mình nêu lên. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cùng với tấm gương đạo đức của Người có sức sống mãnh liệt, được các thế hệ và mọi người Việt Nam, trước hết là cán bộ, đảng viên học tập, vận dụng và nêu cao. Văn kiện Đại hội IX viết: “Môi cấp uỷ, mỗi chi bộ có kế hoạch định kỳ kiểm điểm việc thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân”.
Theo Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc, đưa đất nước đến lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là một quá trình khó khăn lâu dài, “đời này làm chưa xong thì đời sau nối theo, làm thì phải xong”. Vì vậy, sự quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh là chăm lo, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.
Tư tưởng chăm lo, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau trở thành chiến lược “trồng người” qua câu nói nổi tiếng của Hồ Chí Minh: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.
Trong tư tưởng và sự nghiệp của mình, Hồ Chí Minh luôn hướng vào mục tiêu tất cả do con người, vì con người “vô luận việc gì, đều do con người làm ra và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả”.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh đều coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực. Khi đất nước bước vào thời kỳ xây dựng, Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”.
Chiến lược “trồng người” của Hồ Chí Minh trở nên hoàn chỉnh, có ý nghĩa lâu dài đối với cách mạng Việt Nam, khi Người viết trong Di chúc: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”.
Các bài và tác phẩm trong Hồ Chí Minh Tuyển tập thể hiện đậm nét cuộc đời sự nghiệp của một danh nhân văn hoá. Hồ Chí Minh đi vào văn hoá trở thành danh nhân văn hoá thế giới bởi Người sớm đề xuất những quan điểm văn hoá đúng đắn, sáng tạo và có những đóng góp xuất sắc trong hoạt động văn hoá.
Cách đây hơn nửa thế kỷ, Hồ Chí Minh đã trình bày sáng tỏ quan niệm về văn hoá và nêu lên những đặc điểm của văn hoá dân tộc. Trước hết văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng. Mục tiêu hàng đầu của Hồ Chí Minh là giành lại cuộc sống làm người, cuộc sống có văn hoá cho đất nước và nhân dân Việt Nam. Hồ Chí Minh khẳng định: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Hồ Chí Minh sớm có ý thức về động lực to lớn của văn hoá trong phát triển đất nước, chấn hưng dân tộc. Ngay sau Tuyên ngôn độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời Người nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Đối với Hồ Chí Minh, sự thịnh, suy của đất nước, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế phụ thuộc phần lớn vào văn hoá.
Với Hồ Chí Minh việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân tùy thuộc vào sự phát triển kinh tế và văn hoá. Trước khi qua đời, Hồ Chí Minh căn dặn Đảng ta: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”. Cũng với quan điểm văn hoá là động lực của sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh nói văn hoá soi đường cho quốc dân đi, văn hoá có tác động sửa đổi tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ.
Để văn hoá đóng vai trò ngày càng to lớn trong sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh cho rằng việc giữ vững bản sắc cốt cách, truyền thống văn hoá dân tộc cần gắn bó chặt chẽ với tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Hồ Chí Minh là hiện thân của sự kết hợp giao lưu văn hoá dân tộc và nhân loại, phương Đông và phương Tây.
Nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá là quan điểm của Người cho rằng văn hoá nghệ thuật là một mặt trận, người hoạt động văn hoá nghệ thuật là chiến sĩ trên mặt trận ấy. Người nói: cái bút là vũ khí sắc bén, bài báo là tờ lịch cách mạng, kháng chiến hoá văn hoá, văn hoá hoá kháng chiến.
Theo Hồ Chí Minh, “nền văn hoá Việt Nam có các tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng”. Khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền văn hoá có “nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá là kim chỉ nam cho việc xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Văn kiện Đại hội IX nhấn mạnh: “Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội”.
Thắng lợi của cách mạng không chỉ do tư tưởng, đường lối đúng đắn, sáng tạo mà còn đòi hỏi phải có phương pháp cách mạng thích hợp. Là lãnh tụ cách mạng vĩ đại, Hồ Chí Minh là bậc thầy của phương pháp cách mạng Việt Nam. Phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh là sự vận động của tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn, là hệ thống các cách thức, biện pháp, phương tiện, quy trình để hướng dẫn, điều chỉnh hành động của các lực lượng cách mạng trong đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo phương pháp cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, kế thừa, phát triển lên một tầm cao mới phương pháp dựng nước, giữ nước của dân tộc Việt Nam phù hợp với thời đại ngày nay.
Phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh là một hệ thống được thể hiện đa dạng, phù hợp với các thời kỳ, các giai đoạn khác nhau của cách mạng Việt Nam. “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” thể hiện tính đặc sắc, độc đáo của phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh. Với Hồ Chí Minh, độc lập, thống nhất của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của nhân dân, nói cách khác độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là bất biến. Để đạt được mục tiêu đó phải biết ứng biến, linh hoạt mềm dẻo, uyển chuyển, phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể. Với phép biện chứng của sáng tạo cách mạng, Hồ Chí Minh đòi phải biết ứng biến nhưng không được từ bỏ nguyên tắc cách mạng xa rời cái bất biến.
Với những nội dung cơ bản và phong phú nêu trên, Hồ Chí Minh Tuyển tập, xuất bản lần thứ ba là một bộ sách kinh điển quý báu, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với Đảng ta và dân tộc ta.
Hơn 70 năm qua, dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Hiện nay dân tộc Việt Nam tiếp tục vững bước tiến vào thế kỷ XXI dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội – ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh.
Bước sang thế kỷ XXI, việc học tập, vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin, trở thành đòi hỏi, nhu cầu cơ bản, thường xuyên của mỗi người Việt Nam. Hồ Chí Minh Tuyển tập ra đời góp phần đáp ứng yêu cầu đó. Đọc Hồ Chí Minh Tuyển tập,mỗi chúng ta sẽ tăng thêm lòng tin, niềm tự hào về Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, vững tin vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Hồ Chí Minh Tuyển tập là một công trình khoa học của tập thể các cán bộ giảng dạy và nghiên cứu của Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng, thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, dưới sự chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Hội đồng xuất bản Hồ Chí Minh Tuyển tập. Song do khối lượng công việc lớn, phải hoàn thành trong một thời gian ngắn và do trình độ hạn chế của tập thể tác giả, chắc chắn bộ sách không tránh khỏi những thiếu sót.
Nhân dịp Hồ Chí Minh Tuyển tập xuất bản lần thứ ba được công bố, Hội đồng xuất bản cám ơn các cán bộ giảng dạy và nghiên cứu các cộng tác viên, biên tập viên đã khắc phục khó khăn để bộ sách quý kịp đến với bạn đọc.
HỘI ĐỒNG XUẤT BẢN
HỒ CHÍ MINH TUYỂN TẬP
___________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.83-84.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết của Bộ Chính trị số 09-NQ/TW, ngày 18-2-1995 “Về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay”.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.81.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.117.
Nguồn: dangcongsan.vn
Vkyno (st)
Bạn phải đăng nhập để bình luận.