Nhạc sĩ Phạm Tuyên: Sức mạnh của niềm tin và hy vọng

“Hai bài hát ra đời trong 12 ngày đêm Điện Biên Phủ trên không, tôi viết lúc ấy là để nói lên tình cảm của mình là chính, nhưng đồng thời nó cũng rất hòa nhập với tình cảm của người dân Hà Nội lúc ấy. Có một thực tế, người Hà Nội lúc đó rất kiên định, ứng xử với nhau có tình có nghĩa, rất quý mến mảnh đất này. Những gia đình còn lại ở đó không khóa cửa, người dân động viên nhau cùng vượt qua khó khăn…  Bên cạnh những công lao rất vĩ đại của lực lượng Phòng không – Không quân, dân quân tự vệ, thì có sức mạnh của nhân dân”.

Xác máy bay B52 Mỹ bị bắn
rơi tại đường Hoàng Hoa Thám, Hà Nội

Ảnh: TL

Những ngày này, khi cả nước kỷ niệm chiến thắng “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không”, người ta nhắc nhiều hơn đến những nhạc sĩ đã cho ra đời kịp thời thứ “vũ khí sắc bén” bằng âm nhạc, để giữa những ngày Hà Nội đạn bom vẫn vang lên tâm hồn và ý chí Hà Nội bất diệt,  góp phần vào chiến thắng vang dội ấy. 40 năm sau, một buổi sáng Hà Nội mưa phùn, trong căn phòng tràn ngập những sách vở và các kỷ vật liên quan tới cuộc đời âm nhạc gắn liền với những mốc lịch sử dân tộc, nhạc sĩ Phạm Tuyên đã trò chuyện về một thời Hà Nội kiêu hùng, một thời “tiếng hát át tiếng bom”.

Nhạc sĩ Phạm Tuyên
Ảnh: Hoàng Long

Nhập vào cuộc sống của nhân dân

Thưa nhạc sĩ, được biết, những ngày “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không”, ông đang công tác tại Đài Tiếng nói Việt Nam – một mục tiêu quan trọng mà B52 của Mỹ rất muốn xóa bỏ?

– Trong chiến tranh, làn sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam là vô cùng quan trọng, thông tin cho toàn thế giới, không chỉ phát tin tức mà còn các chương trình nghệ thuật. Hồi đó, Đài cũng là kênh duy nhất chuyển tải được âm thanh. Người lính, người dân khi đó chủ yếu thuộc bài hát qua Đài Tiếng nói Việt Nam. Vì thế dễ hiểu những trọng điểm Mỹ muốn phá hủy là các trạm phát sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam, để không có thông tin nào phát được ra với nhân dân, với toàn thế giới và như thế thất bại của ta sẽ trông thấy rõ.

Vậy nhưng giữa những đợt bom B52 dải thảm, vẫn vang lên trên sóng phát thanh những lời ca tức khắc thúc giục và động viên quân và dân Hà Nội?

– Dù bom đạn ác liệt đến đâu chúng tôi vẫn kiên quyết bám trụ cơ quan, hoàn thành nhiệm vụ của mình. Chúng tôi ý thức rất rõ về tác dụng của lời thơ, tiếng nhạc trên làn sóng trong những ngày cuối năm 1972 ấy đối với đồng bào cả nước, nhất là chiến sĩ và đồng bào lớn ở tiền tuyến lớn miền Nam. Bên cạnh những bài hát động viên các lực lượng ở miền Bắc, chúng tôi còn có riêng chuyên mục “Tiếng hát gửi về Nam”, nói lên tình cảm của cả nước. Có bất cứ bài nào của miền Nam gửi ra đều được dàn dựng, các bài của nhạc sĩ Trần Hoàn lúc đó ở Bình Trị Thiên gửi ra, rồi của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước gửi ra được dựng ngay và đưa lên làn sóng, qua đó âm nhạc đến với mọi người nhanh hơn. Cũng chính vì đã sống trong những ngày tháng khốc liệt đó mà rất nhiều nhạc sĩ đã viết được những ca khúc rất hào sảng, như nhạc sĩ Phan Nhân có “Hà Nội niềm tin và hi vọng” với những giai điệu rất tuyệt vời: “Hà Nội đó niềm tin yêu hy vọng, của núi sông hôm nay và mai sau/ Chân ta bước lòng ung dung tự hào, kìa nòng pháo vẫn vươn lên trời cao (…) Hà Nội chúng ta vọng lời thiết tha, át tiếng bom rền”.

Trường hợp của tôi cũng có cái duyên nợ. Trong mấy chục năm tôi làm việc ở Đài Tiếng nói Việt Nam, tố chất nhà báo cũng có ở trong cái chức trách văn nghệ sĩ của mình. Vì ở Đài, mọi diễn biến của xã hội, thăng trầm của đất nước cũng đều tác động đến mình, tự nhiên dù muốn hay không khi mình nhập vào cuộc sống của nhân dân sẽ tạo cảm hứng để viết lên những tác phẩm âm nhạc. Khi tôi bước vào cuộc đời sáng tác trên mặt trận văn nghệ, về mặt tình cảm mà nói, tôi chỉ sáng tác khi nào tình cảm của người viết đồng cảm với mọi người thì sẽ có sức lan tỏa. Hai bài hát ra đời trong 12 ngày đêm Điện Biên Phủ trên không, tôi viết lúc ấy là để nói lên tình cảm của mình là chính, nhưng đồng thời nó cũng rất hòa nhập với tình cảm của người dân Hà Nội lúc ấy. Có một thực tế, người Hà Nội lúc đó rất kiên định, ứng xử với nhau có tình có nghĩa, rất quý mến mảnh đất này. Ít nơi nào trên thế giới, dưới bom đạn giặc Mỹ mà lại bình tĩnh được như vậy. Đi qua Bạch Mai, qua phố Khâm Thiên, các bà, các mẹ chít khăn tang vẫn dọn dẹp nhà cửa, thu dọn các đống gạch vụn trên phố… Những gia đình còn lại ở đó không khóa cửa, người dân động viên nhau cùng vượt qua khó khăn… Nhưng cuộc chiến thắng 12 ngày đêm này là cuộc chiến thắng của nhân dân. Bên cạnh những công lao rất vĩ đại của lực lượng Phòng không – Không quân, dân quân tự vệ, thì có sức mạnh của nhân dân.

Nhạc sĩ Phạm Tuyên

Gác lại những mất mát riêng tư

Thưa nhạc sĩ, ông vừa nói tới hai bài hát ra đời trong tháng Chạp năm 1972. Ở bài “Hà Nội những đêm không ngủ”, ông gửi gắm rất nhiều tâm sự cá nhân trong đó mà cũng nói lên tình cảm chung của rất nhiều người?

– Có thể nói đúng là như vậy. Ngày 19-12-1972, Mỹ bắt đầu ném bom. Trưa hôm đó, địch lại ném bom trạm phát sóng ở Bạch Mai và khu tập thể Đại La của chúng tôi ở. Sáng sớm ngày 22-12, B52 lại ném bom rải thảm, lần này chúng đã biến khu tập thể của chúng tôi thành một đống gạch vụn. Vợ con tôi lúc đó đã đi sơ tán. Nhà của tôi cũng dính bom tan tành, cây đàn piano vỡ tung, tủ sách cũng cháy nham nhở, chỉ thấy còn một chiếc cặp sách rớt lại. Lúc đó tự dưng trong tôi trào dâng một cảm giác rất lạ: vừa đau thương, xót xa nhưng lại cũng rất đỗi tự hào. Tôi không còn nghĩ đến những mất mát riêng tư nữa. Đêm hôm ấy, trong một đợt báo động kéo dài, ngồi trong căn hầm ở ngay khu vực trọng điểm, tôi đã viết bài hát “Hà Nội những đêm không ngủ” để ghi lại hình ảnh của mình trong những ngày đầu của đợt tập kích của địch, thầm gửi tình yêu thương nhớ nhung đến vợ con lúc đó đang ở nơi sơ tán đêm đêm vẫn nhìn về vầng lửa đạn đang bao trùm cả Thủ đô.

Và ở bài “Hà Nội – Điện Biên Phủ” ông đã cất lên tiếng nói đầy quyết liệt của người Hà Nội?

– Đêm 26-12, Mỹ lại ném bom dữ dội ở Hà Nội, buổi sáng giao ban của Đài Tiếng nói Việt Nam ngày hôm sau (27-12), đồng chí Trần Lâm thông báo Quân ủy Trung ương đã có ý kiến chỉ đạo là phải quyết tâm giành một trận Điện Biên Phủ trên không. Nghe từ “Điện Biên Phủ” lúc đó tôi thấy nó có một ý nghĩa rất khác, có sức lay động kì lạ. Đêm hôm ấy tôi đã ngồi trong hầm ở 58 Quán Sứ viết bài “Hà Nội – Điện Biên Phủ” với âm điệu hoàn toàn không du dương như bài “Hà Nội những đêm không ngủ” tôi đã viết mấy ngày trước đó, mà rất quyết liệt: “B52 tan xác cháy sáng bầu trời/ Hào khí Thăng Long ánh lên ngời ngời/ Rồng ta lao vút tới vây bắt lũ hung thần khát máu/ Ý chí chúng ta đây mạnh hơn ngàn lần họng súng quân thù/ Một Điện Biên nay sẽ vùi mộng xâm lăng…/ Hà Nội đây! Đế quốc Mỹ có nghe chăng câu trả lời của Hà Nội chúng ta/ Đâu chỉ vì non nước này phất ngọn cờ sao chiến đấu”…

Tiếng hát át tiếng bom
Ảnh: T.L

Bài hát này ngay sau đó đã được in trên báo Nhân dân, được truyền đi qua làn sóng phát thanh trong chương trình Tiếng hát về Nam đã cổ vũ to lớn cho tinh thần chiến đấu của nhân dân ta. Ông có thể chia sẻ cảm xúc của mình khi ấy?

– Tôi rất cảm động khi thấy bản nhạc đã được in trên báo Nhân dân ngày 29-12, giữa lúc địch còn chưa chấm dứt cuộc leo thang đánh phá, với nét chữ chép tay rất đẹp của nhạc sĩ Phan Nhân. Những ngày sau đó, ca khúc “Hà Nội – Điện Biên Phủ” được các đoàn văn công, các đoàn dân quân tự vệ hát rất hào hùng. Sau này, tôi có nghe nhạc sĩ, nhà báo Nguyễn Thụy Kha kể lại, anh em ở Quảng Trị đã khóc vì sung sướng, xúc động khi nghe bài hát này. Mấy nhà báo trong TP.HCM ra phỏng vấn tôi có nói là hồi đó, đêm 29-12-1972 nghe bài hát trên sóng phát thanh đã biết là Hà Nội sẽ chiến thắng.

Trân trọng cảm ơn ông!

Hoàng Thu Phố (thực hiện)
daidoanket.vn

Advertisement