Tập 7 của bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, công bố những tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày 1 tháng 1 nǎm 1953 đến cuối tháng 6 nǎm 1955.
Nét nổi bật nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn lịch sử này được thể hiện ở những chủ trương đẩy mạnh cuộc kháng chiến, làm chuyển biến lớn cục diện chiến tranh, giành thắng lợi quyết định cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ; ở những luận điểm về sự kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ chống đế quốc với giải phóng giai cấp nông dân khỏi ách bóc lột phong kiến. Tiếp đó là tư tưởng chỉ đạo của Người đối với công cuộc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế và phát triển vǎn hoá, xây dựng an ninh, quốc phòng trên miền Bắc: đấu tranh đòi đối phương thi hành Hiệp định Giơnevơ; củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập, dân chủ trong cả nước.
Về lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tháng 1 nǎm 1953, tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch rõ âm mưu và hành động hiếu chiến của thực dân Pháp trong tình thế thất bại của chúng. Chúng cầu xin Mỹ tǎng thêm viện trợ. Chúng đẩy mạnh càn quét, bắt lính để thực hiện âm mưu dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh. Người nhắc nhở toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta: thắng lợi nhiều nhưng quyết không được chủ quan, khinh địch, cần nhận thức rõ từ nay cuộc chiến tranh giữa ta và địch sẽ gay go, phức tạp hơn.
Người đề ra phương hướng chiến lược chỉ đạo kháng chiến là “Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu để phân tán lực lượng địch và tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng vùng tự do” (tr.13).
Để chiến thắng kẻ thù xâm lược, chúng ta phải xây dựng một quân đội nhân dân thật mạnh và tiến bộ. Phải tiếp tục chỉnh quân để phát triển và củng cố những tiến bộ đã thu được và sửa chữa những khuyết điểm. Cùng với việc tǎng cường bộ đội chủ lực, xây dựng bộ đội địa phương, cần xây dựng những tổ chức dân quân du kích không thoát ly sản xuất.
Với những thắng lợi to lớn của quân dân ta trên các chiến trường, thế và lực của ta ngày càng phát triển mạnh mẽ, cuối nǎm 1953, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương mở cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ. Người lãnh đạo và động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tập trung lực lượng, nêu cao ý chí quyết chiến, quyết thắng, phát huy thế mạnh của ta để giành thắng lợi trong trận quyết chiến chiến lược này.
Trong khi phát huy cao độ sức mạnh đoàn kết chiến đấu của dân tộc ta, Người rất coi trọng công tác tuyên truyền đối ngoại, nhằm tạo nên sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới yêu chuộng hoà bình đối với cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta. Người tán thành và ủng hộ Nghị quyết của Đại hội hoà bình thế giới (11-1953) đòi chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương; Người cảm ơn Đại hội công đoàn thế giới lần thứ ba (10-1953) đã quyết định tổ chức “Ngày đoàn kết với nhân dân Việt Nam anh hùng”. Tháng 10-1953, Người viết thư kêu gọi thanh niên Pháp sát cánh cùng nhân dân Việt Nam đấu tranh kiên quyết chống kẻ thù chung là thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, vì lợi ích chung của nhân dân hai nước là tự do, độc lập, dân chủ và hoà bình.
Trong bài Trả lời một nhà báo Thuỵ Điển (26-11-1953), Người đã nêu rõ cuộc chiến tranh ở Việt Nam là do Chính phủ Pháp gây ra. Nhân dân Việt Nam phải chiến đấu chống xâm lược để bảo vệ nền độc lập và quyền tự do được sống hoà bình. Nếu thực dân Pháp cứ tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược thì nhân dân Việt Nam quyết chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng. Về khả nǎng đàm phán, Người khẳng định: “nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy nǎm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hoà bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng tiếp ý muốn đó”. “Cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nước Việt Nam” (tr.168). Về việc đàm phán với Pháp, Người còn giải thích rõ chủ trương nhất quán
của ta là hoà bình, nhưng vì Pháp xâm lược nước ta, nên ta phải đánh. Nếu không đánh cho giặc thua quỵ, thì giặc không chịu đàm phán.
Để đưa cuộc kháng chiến mau chóng tới thắng lợi, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra chủ trương phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức và tiến hành cải cách ruộng đất.
Trong Báo cáo tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II) (1-1953) và sau đó, trong Báo cáo trước Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà khoá I, Kỳ họp thứ ba (12-1953), Người đã trình bày rõ đường lối, chủ trương cải cách ruộng đất. Người xác định:“Nền tảng của vấn đề dân tộc là vấn đề nông dân, vì nông dân là tối đại đa số trong dân tộc.
Nền tảng của cách mạng dân chủ cũng là vấn đề nông dân, vì nông dân là lực lượng cách mạng đông nhất chống phong kiến, chống đế quốc” (tr.15).
Có vấn đề đặt ra là vì sao cho đến nǎm 1953, Đảng và Nhà nước mới tiến hành cải cách ruộng đất? Người giải thích rõ: “Mấy nǎm trước, vì hoàn cảnh đặc biệt mà ta chỉ thi hành giảm tô, giảm tức, như thế là đúng” (tr.15). Nhưng đến lúc này, lệnh giảm tô tuy đã được Chính phủ ban hành từ sau khi Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, nơi thì giảm không đúng mức, nơi thì chưa giảm. Cho nên đồng bào nông dân không được hưởng quyền lợi chính đáng của họ.
Do yêu cầu giành thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và thực hiện nhiệm vụ dân chủ của cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân thì “phải thiết thực nâng cao quyền lợi kinh tế và chính trị của nông dân, phải chia ruộng đất cho nông dân” (tr.16). Mục đích của cải ruộng đất là thủ tiêu chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến, thực hiện người cày có ruộng, giải phóng sức sản xuất ở nông thôn, phát triển sản xuất, đẩy mạnh kháng chiến.
Theo dõi tiến trình phát động quần chúng triệt để giảm tô và cải cách ruộng đất, người đã kịp thời chỉ ra những ưu điểm, khuyết điểm và sai lầm “tả” khuynh và hữu khuynh, thực hiện sai chính sách của Đảng và Chính phủ. Người nhắc nhở các địa phương sửa chữa những sai lầm đó.
Thắng lợi bước đầu của cải cách ruộng đất đã làm cho quần chúng nông dân thêm phấn khởi, dốc sức người, sức của cho kháng chiến, góp phần cùng với các chiến sĩ ta làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, buộc đối phương phải ký Hiệp định Giơnevơ, chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Theo đó, nền độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam được công nhận. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới. Tháng 7 nǎm 1954, tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích những biến chuyển của tình hình thế giới và trong nước đi tới nhận định:
“Mỹ không những là kẻ thù của nhân dân thế giới, mà Mỹ đang biến thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Việt, Miên, Lào” (tr.314).
Người chỉ rõ: “Hiện nay, tình hình đã đổi mới, nhiệm vụ của ta do đó cũng có thay đổi, chính sách và khẩu hiệu cũng phải thay đổi, cho phù hợp với tình hình mới” (tr. 315). Đế quốc Mỹ đang biến thành kẻ thù chính của ta, do đó phải chĩa mũi nhọn đấu tranh vào đế quốc Mỹ. “Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt. Các công tác phải phối hợp và liên hệ với nhau, bộ phận phối hợp với toàn cục, v.v..” (tr. 319-320).
Về công cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà, ngay từ tháng 7 nǎm 1954, sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, trong Lời kêu gọi gửi đồng bào cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định rõ cuộc đấu tranh củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ cũng là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ. Để giành thắng lợi, Người kêu gọi toàn thể nhân dân, quân đội, cán bộ từ Bắc đến Nam cần phải đoàn kết chặt chẽ, tư tưởng phải thống nhất, hành động phải nhất trí.
Người chỉ rõ những khó khǎn, phức tạp do có việc điều chỉnh khu vực đóng quân, có vùng tự do cũ nay địch đến tạm đóng, có vùng mới giải phóng, nhưng Trung Nam Bắc đều là bờ cõi của ta, nước ta nhất định sẽ thống nhất. Vì vậy, cần phải làm tốt công tác tư tưởng, làm cho đồng bào phân biệt được lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích bộ phận và lợi ích toàn bộ để không bi quan, tiêu cực. “Nếu ta không chuẩn bị sẵn sàng, không kịp thời lãnh đạo, thì tư tưởng sẽ hỗn loạn, hành động sẽ hỗn loạn” (tr. 318). Người cũng dự kiến những tư tưởng sai lầm “tả” khuynh và hữu khuynh có thể xảy ra để chủ động giải quyết. Người đề ra ba nhiệm vụ và 10 công tác, bao quát các lĩnh vực tư tưởng, đấu tranh ngoại giao, tǎng cường lực lượng quân đội, tiếp thu vùng mới giải phóng, chuyển hướng
công tác trong vùng địch tạm đóng quân, tiếp tục củng cố vùng tự do cũ, đẩy mạnh việc thực hiện cải cách ruộng đất, tǎng cường công tác kinh tế tài chính, củng cố tổ chức Đảng trong vùng mới giải phóng, tiếp tục giúp đỡ cách mạng Lào và Campuchia với tinh thần giúp nhân dân nước bạn cũng tức là tự giúp mình.
Đến tháng 3 nǎm 1955, tại Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trước những biến đổi của tình hình, Người bổ sung và nhấn mạnh bốn công tác: Tiếp tục thi hành đúng Hiệp định Giơnevơ, củng cố hoà bình, đấu tranh để thực hiện thống nhất nước nhà bằng tổng tuyển cử tự do; củng cố miền Bắc về mọi mặt, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh công tác ở miền Nam; mở rộng, củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất; kiện toàn tổ chức và lề lối làm việc, nâng cao tính tổ chức, tính kỷ luật và đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên.
Người cũng nêu rõ những nhiệm vụ cụ thể của các tầng lớp nhân dân, của đồng bào miền Bắc, miền Nam, của quân đội, công an nhân dân. Đặc biệt, Người đã dành cho đồng bào miền Nam những lời khen ngợi về tinh thần hy sinh chiến đấu oanh liệt, về gương kháng chiến đầu tiên, một lòng một dạ trung thành với Tổ quốc, với dân tộc. Người tin rằng, đồng bào sẽ đặt lợi ích cả nước trên lợi ích địa phương, lợi ích lâu dài trên lợi ích trước mắt, mà ra sức cùng đồng bào toàn quốc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc.
Để tiến hành thắng lợi các nhiệm vụ nặng nề, gian khổ và mới mẻ trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải tǎng cường công tác xây dựng Đảng về tư tưởng và tổ chức.
Về tư tưởng, Người yêu cầu mọi cán bộ, đảng viên phải làm đúng như lời tuyên bố của Đảng Lao động Việt Nam là phụng sự nhân dân lao động, chí công vô tư, gương mẫu trong công tác kháng chiến và kiến quốc.
Sau khi hoà bình được lập lại, Người nhận định: số đông cán bộ vẫn giữ vững truyền thống cách mạng tốt đẹp, cần cù, chất phác, bền bỉ đấu tranh, làm tròn nhiệm vụ. Song có một số cán bộ lầm tưởng hoà bình là thái bình, thờ ơ với đạo đức cách mạng và mắc các khuyết điểm như: muốn nghỉ ngơi, sợ gian khổ, ngại công việc khó, không ham học tập, thiếu cảnh giác, kém kỷ luật, muốn tiêu xài rộng rãi, thích phô trương, lãng phí, tham ô, hủ hoá, ghen tị địa vị, quan liêu, bao biện, không tin vào lực lượng quần chúng… Người chỉ rõ nguồn gốc của những khuyết điểm đó là chủ nghĩa cá nhân; không nhận thức rõ phải, trái; không giữ vững lập trường.
Để sửa chữa những khuyết điểm trên, cán bộ, đảng viên cần phải học tập lý luận, trau dồi đạo đức, nhận rõ điều gì phải thì cố gắng làm, điều gì trái thì kiên quyết tránh, phải cố gắng thực hiện cho kỳ được cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, thật thà tự phê bình và phê bình.
Nhằm nâng cao trình độ lý luận chính trị của cán bộ, đảng viên, Người viết tác phẩm Thường thức chính trị, lý giải những vấn đề cơ bản về giai cấp và các chế độ xã hội, về đánh giá vai trò, vị trí của các giai cấp trong cách mạng Việt Nam, về chế độ Nhà nước dân chủ cộng hoà và chuyên chính dân chủ nhân dân, về Đảng Lao động Việt Nam … Người chú trọng giải đáp nhiều vấn đề quan trọng về chính trị, kinh tế. Để giúp người đọc hiểu rõ vì sao giai cấp công nhân Việt Nam với số lượng ít lại lãnh đạo được cách mạng Việt Nam, Người viết: “Lãnh đạo được hay là không, là do đặc tính cách mạng, chứ không phải do số người nhiều ít của giai cấp”; “Đặc tính cách mạng của giai cấp công nhân là: kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật. Lại vì là giai cấp tiền tiến nhất trong sức sản xuất, gánh trách nhiệm đánh đổ chế độ tư bản và đế quốc, để xây dựng một xã hội mới, giai cấp công nhân có thể thấm nhuần một tư tưởng cách mạng nhất, tức là chủ nghĩa Mác – Lênin. Đồng thời, tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp khác”. (tr.212).
Đề cập tới các thành phần kinh tế ở nước ta (trong vùng tự do) và chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ, Người nêu ra 5 thành phần kinh tế: kinh tế địa chủ phong kiến; kinh tế quốc doanh; kinh tế hợp tác bao gồm hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp có tính chất nửa xã hội chủ nghĩa, các hội đổi công ở nông thôn; kinh tế tư bản tư nhân và tư bản quốc gia. Về kinh tế tư bản quốc gia (tư bản nhà nước), Người giải thích: “Kinh tế tư bản quốc gia là Nhà nước hùn vốn với tư nhân để kinh doanh và do Nhà nước lãnh đạo. Trong loại này, tư bản của tư nhân là chủ nghĩa tư bản. Tư bản của Nhà nước là chủ nghĩa xã hội” (tr.221).
Về tổ chức, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ tại Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (3-1955): Tổ chức của Đảng cần phải kiện toàn hơn; lề lối làm việc cần phải tiến bộ hơn, lãnh đạo phải sát thực tế hơn, phải tǎng cường lãnh đạo tập thể, nâng cao trình độ tổ chức và trình độ lý luận của toàn Đảng cho thích hợp nhiệm vụ và công tác mới… Người
nhắc nhở, trong lúc thắng lợi, Đảng càng cần thấy rõ khuyết điểm của mình và điều đó chứng tỏ bản chất cách mạng chân chính của Đảng. Người nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của sự đoàn kết trong Đảng, nhất là đoàn kết chặt chẽ giữa các đồng chí cán bộ lãnh đạo. Khối đoàn kết đó được xây dựng trên cơ sở thống nhất về tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ. Đồng thời cần tiến hành phê bình và tự phê bình một cách rộng rãi, nhất là cần tổ chức cho nhân dân phê bình cán bộ. “Phải thật sự mở rộng dân chủ trong cơ quan. Phải luôn luôn dùng cách thật thà tự phê bình và thẳng thắn phê bình, nhất là phê bình từ dưới lên. Phải kiên quyết chống cái thói “cả vú lấp miệng em”, ngǎn cản quần chúng phê bình. Một đảng viên ở địa vị càng cao, thì càng phải giữ đúng kỷ luật của Đảng, càng phải làm gương dân chủ” (tr.269).
Về Mặt trận dân tộc thống nhất, để tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng ta chủ trương mở rộng hơn nữa khối đại đoàn kết dân tộc. Tại Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên – Việt toàn quốc (1-1955), Người nói: “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ” (tr.438).
Quan điểm đoàn kết dân tộc của Người là đoàn kết rộng rãi, lâu dài và “Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị” (tr.438), đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc và để xây dựng nước nhà. Trong chính sách đại đoàn kết, cần chống hai khuynh hướng sai lầm: cô độc hẹp hòi và đoàn kết vô nguyên tắc; phải lấy công tác mà củng cố đoàn kết, lấy đoàn kết mà đẩy mạnh công tác.
Một vấn đề quan trọng thường được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập tới là vấn đề chống tham ô, lãng phí, quan liêu để xây dựng một nhà nước trong sạch, vững mạnh và tạo ra một đội ngũ cán bộ nhà nước xứng đáng là đày tớ trung thành và tận tuỵ của nhân dân.
Ngoài những vấn đề chủ yếu nêu trên, bạn đọc còn có thể tìm thấy trong tập sách này nhiều luận điểm quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, vǎn hoá, giáo dục, dân tộc, tôn giáo…
Hồ Chí Minh Toàn tập Tập 7 xuất bản lần này, ngoài những tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được công bố trong lần xuất bản lần thứ nhất, còn được bổ sung thêm 54 tác phẩm mới được khai thác từ các kho lưu trữ của Đảng và Nhà nước, từ báo chí và các ấn phẩm khác. Tất cả các tác phẩm trên đều đã được giám định lại một cách thận trọng. Tuy đã có nhiều cố gắng, song chắc rằng lần xuất bản này vẫn không tránh khỏi thiếu sót, mong bạn đọc góp ý để lần xuất bản sau, tập sách sẽ đạt chất lượng cao hơn.
VIỆN NGHIÊN CỨU CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN
VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Bạn muốn download trọn bộ Hồ Chí Minh toàn tập
Tập 7 (1953 – 1955) hãy nhấn vào đây Down load
Bạn phải đăng nhập để bình luận.