“Nỗi đau dân nước, nỗi năm châu”

Câu này dẫn trong bài “Bác ơi” của Tố Hữu viết vào ngày 6-9-1969, những ngày “…đau tiễn đưa/ Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa” . Và nhà thơ viết: “Bác ơi tim Bác mênh mông thế/Ôm cả non sông mọi kiếp người/ Bác chẳng buồn đâu, Bác chỉ đau/ Nỗi đau dân nước, nỗi năm châu”. “Nỗi năm châu” thì đã rõ. Thế còn “nỗi đau dân nước” là nỗi đau gì đây.

Bác Hồ với thiếu nhi – Ảnh TL

Vào buổi ấy, đó là nỗi đau đất nước bị chia cắt, khói lửa chiến tranh thiêu đốt cả hai miền, là nỗi đau của người mẹ, người vợ Việt Nam nhận được tin dữ từ chiến trường, là nỗi đau B52 làm bằng địa nhiều cánh rừng, nhiều dãy phố, là chất da cam đầu độc cuộc sống cỏ cây và con người để lại di chứng cho nhiều thế hệ Việt Nam, là nỗi đau của “chuồng cọp”, trại tập trung và những trận bố ráp, rình rập của lũ chó săn chuyên săn bắt người yêu nước…Vậy thì hôm nay, “nỗi đau dân nước” là nỗi đau gì đây?

Cũng là “nỗi đau”, trong “Muôn vàn tình thân yêu trùm lên khắp quê hương” Việt Phương lại viết :

“Trời đổ mưa, đi viếng Bác, đồng bào chờ, bị ướt
Bác thương đồng bào, con biết Bác không vui”
[ Cửa Mở ]

Câu thơ viết cách nay đã hơn bốn mươi năm mà sao xốn xang tính thời sự. “Thương đồng bào, con biết Bác không vui”! Những ngày này thì trời lại đang nắng gắt. Đài truyền hình vừa đưa tin những vùng đất chuyên canh trồng ngô huyện miền núi ở Lào Cai đang nứt nẻ. Trên màn hình, những khuôn mặt sạm đen khắc khổ nói mà như mếu về nỗi lo đói, vì vụ ngô mất trắng, vì mãi chẳng có giọt mưa nào.

Vậy thì liệu “trời không đổ mưa” như buổi ấy có làm khuây khỏa được nỗi niềm “không vui” của Bác như tác giả của “Cửa Mở” day dứt?

“Thương đồng bào”, niềm thương buổi ấy, “nỗi đau dân nước” buổi ấy giờ đây là gì, khi mà sự nghiệp giải phóng dân tộc hoàn thành, non sông quy vào một mối đã hơn phần ba thế kỷ, bằng thời gian của cả hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc gộp lại? Và gộp lại thời gian thì đồng thời cũng “gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi” tích tụ trong trái tim Hồ Chí Minh. Câu này Bác nói với một nhà báo nước ngoài 50 ngày trước khi mất, lúc “ngừng đập trái tim tột bậc con người” [Việt Phương. Cửa Mở].

Đắm mình trong những miên man suy ngẫm, cứ ngỡ như là Bác đã nói về những điều này, khi trong Di chúc Bác lưu ý đến “cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”! Đây là điều Hồ Chí Minh gọi là “cuộc chiến đấu khổng lồ”, mà để giành thắng lợi thì phải “động viên toàn dân, tổ chức giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”!

“Những cái cũ kỹ, hư hỏng” thì đã quá rõ, vậy những “cái mới mẻ tốt tươi” là gì nếu không phải là dân chủ và tự do? Độc lập đã hoàn thành, vấn đề còn lại phải là dân chủ và tự do. Ai cũng nhớ câu nói của Hồ Chí Minh từ những ngày chính quyền mới thành lập năm 1946: “Nếu độc lập mà dân không được hưởng tự do và hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”.

Dân chủ là tiền đề tất yếu để có tự do và hạnh phúc, là công cụ và phương tiện để đấu tranh giành tự do và xây đắp hạnh phúc. Không ai cho không quyền đó. Máu chảy thành sông, xương chất thành núi để giành độc lập, là nhằm tạo ra điều kiện để đấu tranh cho dân chủ và tự do! Phải chăng đây chính là “cuộc chiến đấu khổng lồ”?

Nghĩ kỹ về cuộc “chiến đấu khổng lồ” mà Bác viết trong Di chúc quả là có dáng dấp của những lời tiên tri. Tiên tri? Đúng như vậy. Có người gọi đó là “những dự cảm thiên tài” của những tầm vóc vĩ nhân. Xin gợi lại vài cứ liệu lịch sử để hiểu thêm về điều đó. Năm 1941, trong cuốn sách nhỏ Bác viết làm tài liệu tuyên truyền về “Lịch sử nước ta” bằng thơ lục bát, ở cuối có mục “Những năm tháng quan trọng”, Bác viết: “1945-Việt Nam độc lập”! Trong Hồi ký của mình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho biết, lúc ấy “Anh em có người nói sớm, kẻ nói muộn. Bác nghe trao đổi chỉ nói :” Để rồi xem”. Một ví dụ khác: trong diễn văn đọc tại lễ mừng Quốc khánh 2-9-1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Toàn dân ta đoàn kết nhất trí, bền bỉ đấu tranh, thì chậm lắm là 15 năm nữa, Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất, Bắc-Nam nhất định sẽ sum họp một nhà”. Trong bút tích bản thảo in trên báo “Nhân Dân” số ra ngày 30-4-1985 cho thấy: Bác gạch dưới những chữ “chậm lắm là 15 năm nữa”! Rồi chuyện Bác từng căn dặn Tư lệnh bộ đội Phòng không-Không quân: “Mỹ nhất định thua, nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội”!

Phải chăng những dấu ấn của thiên tài ấy là sự thăng hoa kỳ diệu của bản lĩnh Hồ Chí Minh. Bản lĩnh dám đặt ra và giải quyết những vấn đề lý luận có ý nghĩa thực tiễn. Vì mục tiêu trước sau như một là giải phóng dân tộc, đem lại độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân mà Hồ Chí Minh dám có quyết định táo bạo, sáng suốt, là tuyên bố Đảng tự giải tán chính vào lúc giành được chính quyền vào năm 1945. Làm được như vậy vì “Hồ Chí Minh có sự nhạy cảm đặc biệt đối với lịch sử, thấu hiểu cuộc sống con người, có nhận thức sâu về vận mệnh dân tộc, về hướng đi của thời đại”. Không phải chiếc ghế nguyên thủ quốc gia mà chính là sự “nhạy cảm”, sự “thấu hiểu”, “sự nhận thức” đó khiến cho Hồ Chí Minh được lịch sử chọn làm lãnh tụ của nhân dân ở vào thời điểm có ý nghĩa nhất, đáp ứng đòi hỏi của cuộc sống đất nước cần bước vào quỹ đạo chung của thời đại.

Trong dòng chảy bất tận của thời gian, có những thời điểm xuất hiện những con người đáp ứng một cách tuyệt vời đòi hỏi đã chín muồi của lịch sử, người ta gọi đó là sự xuất hiện của thiên tài. Điều này cho thấy thiên tài không ra đời từ những cuộc tranh bá đồ vương để giành nhau chiếc ghế quyền lực. Đành rằng trong lịch sử không thiếu những nhân vật cũng đã bước vào lịch sử bằng con đường như vậy như những hôn quân, bạo chúa, những gian thần, nghịch tướng bán nước, bán chúa cầu vinh. Nét bi hài của lịch sử là có sự trộn lẫn chính tà ấy để giúp cho nhân dân có dịp nhận ra chuyện vàng thau lẫn lộn. Đó cũng là cách để cho nhân dân tự vượt lên chính mình, biết tự “xoay chung quanh mặt trời của chính mình” mà không để bị những ngón đòn lừa mị, ru ngủ của bọn thống trị, mà C.Mác đã từng chỉ ra. Và đó cũng là lý do trong Di Chúc, Hồ Chí Minh đòi hỏi phải “động viên toàn dân, tổ chức giáo dục toàn dân”.

Điều cần nói rõ là thiên tài Hồ Chí Minh không đứng cao vời vợi tách khỏi cuộc sống bình thường của người dân mà ngược lại. Thiên tài Hồ Chí Minh, bản lĩnh Hồ Chí Minh được hun đúc từ cuộc sống của nhân dân mình. Mỗi người Việt Nam đều có thể nhìn thấy mình trong sự nghiệp Hồ Chí Minh, trong trái tim của Hồ Chí Minh. Cái làm nên thiên tài Hồ Chí Minh, rèn đúc nên bản lĩnh ấy là vì nhịp đập của trái tim “Người Yêu Nước Hồ Chí Minh” luôn gắn quyện với nhịp đập của cuộc sống đất nước, nơi mà người ấy gửi gấm một “ham muốn, ham muốn đến tộc bậc” là làm sao đem lại cuộc sống ấm no cho con người, đem lại tự do và hạnh phúc cho mọi tầng lớp nhân dân.

Không có trái tim ấy, không thể có bản lĩnh ấy. Vì rằng, “ở đâu nội dung của sự tất yếu phổ biến không nhất trí được với trái tim, thì sự tất yếu ấy – xét về nội dung- không là gì cả, và phải nhường chỗ cho quy luật của trái tim” như Hêghen nói. Có lẽ thực chất của “quy luật trái tim” mà Hégel nói đây trước hết là sự trung thực với chính mình, là bản sắc cá nhân được thể hiện một cách chân thực. Vì nói cho đến cùng, quy luật của trái tim là sự phản ánh chân thực nhất biện chứng của cuộc sống với tất cả những sắc thái phong phú và phức tạp của nó. Vì vậy, những gì mà trái tim thờ ơ thì mắt cũng không nhìn thấy được ! Không thường trực “nỗi đau dân nước” trong tim thì mọi cao đàm khoát luận giảng giải hàng ngày không sao đến được với lòng dân mà chỉ tạo ra những phản cảm.

Cho nên,với Hồ Chí Minh, “Khi đã quyết rất kiên cường mạnh mẽ/ Đốt cháy Trường Sơn đánh Mỹ cũng không sờn” nhưng “Bác không bằng lòng gọi trận đánh chết nhiều người là “đánh đẹp”/Con xóa chữ “đẹp” đi như xóa sự cạn hẹp trong lòng con/ Thêm hiểu lòng người đối với quân thù như sắt thép/ Mà tình thương mênh mông ôm hết mọi linh hồn”. [ Việt Phương. nt]

Với Hồ Chí Minh, “tình thương mênh mông ôm hết mọi linh hồn” ấy trước hết là thương dân, trọng dân vì nhận thức rõ sức mạnh bất tận của dân. Đây là điểm cốt lõi trong tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh. Nói học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh mà không trước hết vận dụng một cách thiết thực tư tưởng cơ bản này thì chỉ là nói suông.

Đặc biệt, cần lưu ý điều mà Hồ Chí Minh khẳng định rất dứt khoát: “nếu cán bộ không phụ trách trước nhân dân, tức là không phụ trách trước Đảng và Chính phủ, tức là đưa nhân dân đối lập với Đảng và Chính phủ”. Cần nhớ rằng, điều này được nhắc nhở vào năm 1947 khi Bác phê phán gay gắt lối “Đóng cửa lại mà đặt kế hoạch, viết chương trình rồi đưa ra cột vào cổ dân chúng, bắt dân chúng theo… Làm theo cách quan liêu đó, thì dân oán. Dân oán, dù tạm thời may có chút thành công, nhưng về mặt chính trị, là thất bại!”

Việc “đưa nhân dân đối lập với Đảng và Chính phủ” là điều tối kỵ đối với người cầm quyền. Có phải khi nói đến điều này, như vẫn thường làm, Bác đã nhắc đến luận điểm của Mạnh Tử : “Vua coi dân như cỏ rác thì dân coi vua như cừu thù” và lên án việc đẩy dân đến chỗ là “cừu thù” rồi dùng hình phạt hà khắc để trừng trị họ “khác nào đặt lưới bẫy dân”.

Hồ Chí Minh đòi hỏi “phải đưa chính trị vào giữa dân gian” phải “tin vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết. Chúng ta có khuyết điểm, thì thật thà thừa nhận trước mặt dân chúng”. Làm được điều ấy chính là đi đúng vào quỹ đạo của tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh, điều mà hiện nay đang được thường xuyên giảng giải. Cho nên, lắng nghe tiếng nói của dân, tiếp nhận nguồn sức mạnh từ dân chính là điều Hồ Chí Minh thiết tha căn dặn.

Nói theo ngôn từ và hình tượng thơ thì như tác giả “Cửa Mở” đã viết từ những năm 60 thế kỷ trước, đó là: “Nơi sự thật chỉ cần là sự thật/ Nơi lương tâm đến gặp tấm gương soi/ Lời hàn huyên có màu trời hương đất/ Bỗng sáng bừng chân lý hiện tinh khôi”![Việt Phương. Cửa Mở].

GS Tương Lai
daidoanket.vn

Advertisement