Tag Archive | Nghị quyết Trung ương 4

Đổi mới và chỉnh đốn Đảng

Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn toàn Đảng: “Việc cần trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân” (1).

82 năm, từ khi ra đời cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, giành được những thành tựu vĩ đại. Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quyết định thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Tuy nhiên, bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, Đảng ta đang đứng trước nhiều thách thức lớn. Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, giáo điều, bảo thủ, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức còn diễn ra nghiêm trọng…”(2). Tình trạng ấy gây nên sự bất bình và lo lắng sâu sắc trong xã hội, làm giảm lòng tin của nhân dân với Đảng, ảnh hưởng xấu đến thanh danh của Đảng là nguy cơ lớn ảnh hưởng đến sự sống còn của Đảng, của chế độ ta.

Bác từng dạy: “Làm cách mạng thì có đúng, có sai. Cố nhiên đúng phải là chính, sai là phụ. Có sai thì chúng ta giúp nhau kiên quyết sửa chữa và cùng nhau hăng hái tiến lên”(3). Bác khẳng định: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính…”(4).

Nhận thức sâu sắc xây dựng, chỉnh đốn Đảng là một trong những vấn đề quan trọng, then chốt để giữ vững chế độ XHCN, Đảng đã thường xuyên đổi mới, chỉnh đốn Đảng. Có rất nhiều văn bản, nghị quyết được ban hành, nhằm củng cố, kiện toàn, chỉnh đốn, đổi mới về nhận thức, tư tưởng, tổ chức nhằm làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là người lãnh đạo, người đày tớ của nhân dân. Mỗi kỳ Đại hội là một lần vấn đề đổi mới, chỉnh đốn, xây dựng Đảng được đặt ra và xác định giải pháp thực hiện. Năm 1986, Đại hội VI của Đảng đã đánh dấu một bước tiến dài của Đảng trong tiến trình đổi mới và phát triển. Nghị quyết Đại hội đề ra những giải pháp nhằm đưa Việt Nam thoát khỏi tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Thế nhưng, sau Đại hội, năm 1987-1988, tình hình kinh tế-xã hội của nước ta vẫn trong tình trạng khủng hoảng trầm trọng, giá cả leo thang, lạm phát ở mức cao (774%), lương thực và hàng tiêu dùng thiếu nghiêm trọng, đời sống nhân dân hết sức khó khăn. Đảng lại bắt tay vào tìm tòi con đường đổi mới, con đường phát triển. Trong đó, Đảng nhận định cần phải giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là trong hoàn cảnh khó khăn này. Tháng 6-1988, Hội nghị lần thứ năm BCHTƯ khóa VI đã họp và ra Nghị quyết về vấn đề cấp bách xây dựng Đảng. Trong đó, hội nghị đã chỉ rõ hai khuyết điểm nghiêm trọng nhất trong công tác xây dựng đảng là: vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, vừa thiếu dân chủ, vừa kém kỷ luật; chậm đổi mới quan điểm và chính sách cán bộ, chậm xây dựng và thực hiện quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt, nhất là cán bộ kế cận. Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên trì đường lối đổi mới, tích cực, kiên trì sửa chữa những hạn chế, khuyết điểm mà Hội nghị đã chỉ ra. Đảng đã có bước trưởng thành mới, có thêm tri thức và kinh nghiệm mới, nhất là về lãnh đạo kinh tế, lãnh đạo Nhà nước. Năm 1989, Việt Nam đã giải quyết thành công vấn đề lương thực và trở thành nước xuất khẩu gạo thứ ba trên thế giới. Năm 1990, hạ lạm phát xuống còn 2 con số (67%)… Đảng và nhân dân tự hào khi: “Lần đầu tiên lương thực đạt tổng sản lượng 21,5 triệu tấn quy thóc, không những đáp ứng nhu cầu của người dân và dự trữ quốc gia mà còn xuất khẩu 1,2 triệu tấn gạo”(5).

Tháng 6-1992, Hội nghị lần thứ 3 BCH TƯ khóa VII đề ra Nghị quyết về “Một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng”. Nghị quyết nêu rõ: “Đây là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và cấp bách, có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đối với vận mệnh của chế độ ta và Đảng ta”(6). Mục tiêu của đổi mới, chỉnh đốn Đảng là nhằm “nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phù hợp với yêu cầu khách quan của cách mạng trong tình hình mới, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, bảo đảm thực hiện có kết quả các nhiệm vụ chính trị do Đại hội VII Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra, trong đó trọng tâm là phát triển kinh tế, làm cho dân giàu, nước mạnh, giữ vững ổn định chính trị”(7).

Thực hiện Nghị quyết đã củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng trước những diễn biến phức tạp của thế giới, đặc biệt là sự sụp đổ của các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô. Nền kinh tế Việt Nam giành được nhiều thành tựu mới. Tăng trưởng bình quân hàng năm về tổng sản phẩm trong nước (GDP) là 8,2% (kế hoạch là 5,5 – 6,5%), công nghiệp tăng 13%, nông nghiệp tăng 4,5%, kim ngạch xuất khẩu 20%, từ năm 1989 xuất khẩu gạo bình quân 2 triệu tấn/năm. Lạm phát từ 67,1% năm 1991 giảm xuống còn 12,7% năm 1995. Đời sống của người dân được cải thiện, số hộ giàu tăng lên, số hộ nghèo giảm đi. Hệ thống chính trị có một bước đổi mới quan trọng. Vai trò lãnh đạo của Đảng được củng cố và giữ vững, quyền làm chủ của người dân được phát huy.

Công tác xây dựng đảng cắm cột mốc quan trọng với Nghị quyết về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay được thông qua tại Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII (2-1999). Hội nghị đã khẳng định những thành tựu mà Đảng ta đã đạt được trong suốt bảy thập kỷ qua, cũng như thẳng thắn thừa nhận những vấn đề hạn chế trong Đảng. Nghị quyết đã xác định rõ nhiệm vụ của Đảng cần phải: tăng cường sự thống nhất trong Đảng về nhận thức, ý chí và hành động, kiên trì đẩy lùi bốn nguy cơ; đổi mới công tác giáo dục trong Đảng; tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên; tập trung chỉ đạo chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê bình trong Đảng; củng cố tổ chức, tăng cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức trong hệ thống chính trị…

Toàn Đảng tiến hành cuộc vận động “Xây dựng, chỉnh đốn Đảng”, thực hiện tự phê bình và phê bình kỷ niệm 30 năm thực hiện Di chúc của Bác và kỷ niệm 70 năm thành lập Đảng. Công tác đổi mới, chỉnh đốn Đảng được đẩy mạnh nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng ở tất cả các cấp và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu; chống suy thoái về tư tưởng đạo đức, lối sống.

Với nhiệm vụ trọng tâm là tự phê bình và phê bình, cuộc vận động đã góp phần nâng cao nhận thức chính trị cho cán bộ, đảng viên, ngăn ngừa suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ đảng viên, củng cố và kiện toàn thêm một bước bộ máy đảng các cấp. Nhiều vụ việc tiêu cực, nổi cộm đã được phát hiện và xử lý. Góp phần củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng, góp phần giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng.

Hội nghị lần thứ VI Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X ra Nghị quyết số 22-NQ/TW về “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên” chủ động khắc phục những biểu hiện xa rời mục tiêu, phai nhạt lý tưởng; chống chủ nghĩa cơ hội, thực dụng, vụ lợi, cá nhân, trung bình chủ nghĩa; kiên quyết đấu tranh với những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, phản động, góp phần làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Nghị quyết xác định: “Thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Xây dựng tổ chức cơ sở đảng phải kết hợp chặt chẽ với thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, với xây dựng chính quyền, các tổ chức chính trị – xã hội ở cơ sở vững mạnh, với nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là bí thư đảng bộ, chi bộ, người đứng đầu và các cấp ủy viên”(8).

Đại hội XI của Đảng nhận định: “… công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tăng cường, đạt một số kết quả tích cực. Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đạt được một số kết quả bước đầu. Đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, vào công cuộc đổi mới và triển vọng phát triển của đất nước”(9). Tuy nhiên, công tác xây dựng đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Trong đó, vấn đề cấp bách hiện nay là “đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên” là trọng tâm, cấp bách nhất, cần tập trung chỉ đạo chặt chẽ và thường xuyên.

Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TW “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Nghị quyết yêu cầu các tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở, bắt đầu từ Bộ Chính trị, Ban Bí thư, mỗi cấp ủy viên, đảng viên phải dũng cảm tự soi xét lại mình, đơn vị mình, tìm ra được những ưu điểm để phát huy, những sai lầm, yếu kém, khuyết điểm để có kế hoạch, biện pháp sửa chữa.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở: “Mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi ngày tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt”. Bởi vì: “Mục đích của phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ. Vì vậy, phê bình mình cũng như phê bình người phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm”(10). Trong Di chúc, Bác căn dặn: “Trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh thực hiện tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”.

Nghị quyết Trung ương 4 đòi hỏi thực hiện kiên quyết, đồng bộ, bắt đầu từ Trung ương, thực sự hiệu quả, để Đảng ta luôn “là đạo đức, là văn minh”.

———————————-

(1). Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, 2002, tập 11, tr. 373-374.
(2). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006, tr. 48.
(3). Bác Hồ với Đại hội Đảng, Nxb CTQG, 2006.
(4). Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, tập 5, tr. 261.
(5). Đảng Cộng sản Việt Nam chặng đường qua hai thế kỷ, Nxb CTQG, 2006, tr. 473.
(6), (7). Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ III BCHTW khóa VII, 6-1992.
(8). Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ VI BCHTW khóa X, 2008.
(9). Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XI, 2000, tr. 17.
(10). Sửa đổi lối làm việc, X.Y.Z.

Tô Nài Não
xaydungdang.org.vn

Advertisement

Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh – giải pháp quan trọng thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng Đảng

Xét theo nội dung, cơ sở lý luận và thực tiễn để thực hiện các giải pháp được đề ra trong Nghị quyết Trung ương lần thứ 4, việc thực hiện Chỉ thị 03-CT/TƯ về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” của Bộ Chính trị có tác động trực tiếp và giúp thực hiện tốt tất cả các nhóm giải pháp nêu trên. Điều ấy được khẳng định bởi chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng ta.

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 4 khóa XI đã thảo luận và ra Nghị quyết về công tác xây dựng Đảng. Ngày 16/1/2012, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TƯ: “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4 có tầm quan trọng đặc biệt trong việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XI về công tác xây dựng Đảng, một nhiệm vụ được xác định là “then chốt” trong công cuộc đổi mới đất nước. Nghị quyết đã chỉ rõ, đây là nhiệm vụ vừa cơ bản, vừa lâu dài, phải thực hiện thường xuyên, có hiệu quả, đồng thời chỉ ra ba vấn đề có tính cấp bách trong công tác xây dựng Đảng, cần tập trung giải quyết: Một là, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và của nhân dân đối với Đảng. Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Ba là, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.

Nghị quyết đã nêu 4 nhóm giải pháp chủ yếu để giải quyết những vấn đề cấp bách nêu trên: 1- Nhóm giải pháp về tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của cấp trên; 2- Nhóm giải pháp về tổ chức, cán bộ và sinh hoạt đảng; 3- Nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách; 4- Nhóm giải pháp về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo Chỉ thị 03-CT/TƯ của Bộ Chính trị được xác định là giải pháp đầu tiên trong nhóm giải pháp về công tác giáo dục chính trị tư tưởng.

1- Xét theo nội dung, cơ sở lý luận và thực tiễn để thực hiện các giải pháp được đề ra trong Nghị quyết Trung ương lần thứ 4, việc thực hiện Chỉ thị 03-CT/TƯ “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” của Bộ Chính trị có tác động trực tiếp và giúp thực hiện tốt tất cả các nhóm giải pháp nêu trên. Điều ấy được khẳng định bởi chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Quán triệt tư tưởng và những lời dạy của Người về xây dựng Đảng, trong đó có nội dung chuyên đề học tập năm 2010 “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, là đạo đức, là văn minh”, các tác phẩm “Đường Kách mệnh”, “Sửa đổi lối làm việc”, “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, “Di chúc” của Bác giúp thực hiện tốt các giải pháp nêu ra trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4.

Thực hiện giải pháp đẩy mạnh tự phê bình, phê bình trong Đảng, quán triệt tư tưởng và lời dạy của Hồ Chí Minh giúp chúng ta thấy rõ hơn vai trò của tự phê bình, phê bình. Hồ Chí Minh coi tự phê bình và phê bình là một trong những nguyên tắc xây dựng Đảng; là quy luật phát triển của Đảng; là công việc thường xuyên, “như người ta rửa mặt hằng ngày”. Người chỉ rõ, mục đích của tự phê bình và phê bình là làm cho phần tốt trong mỗi con người nẩy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi; làm cho các tổ chức Đảng luôn luôn trong sạch, vững mạnh… Phê bình và tự phê bình để tăng cường đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng; để các tổ chức Đảng và đảng viên luôn luôn hoàn thiện mình, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ Tổ quốc và nhân dân giao cho. Về phương pháp, Người yêu cầu tự phê bình phải thành khẩn, thành tâm, không “giấu bệnh, sợ thuốc”. Phê bình phải trung thực, “không đặt điều”, “không thêm bớt”; ”không nể nang”, kiên quyết, “ráo riết”; nhưng phải có tính xây dựng, “có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”(1). Quán triệt tư tưởng và những lời dạy trên đây của Bác trong kiểm điểm, tự phê bình và phê bình theo Kế hoạch của Bộ Chính trị để đánh giá, chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm, các mặt còn yếu kém, phức tạp; làm rõ nguyên nhân trở ngại trong việc lãnh đạo thực hiện các nghị quyết của Trung ương về xây dựng Đảng, trách nhiệm của các tổ chức đảng, của mỗi cán bộ, đảng viên, từ các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương đến cơ sở, sẽ góp phần làm cho việc tự phê bình, phê bình có kết quả tích cực và hiệu quả cao hơn.

Quán triệt nguyên tắc nêu gương trong thực hành đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh giúp thực hiện tốt hơn yêu cầu nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của cấp trên được đề ra trong Nghị quyết Trung ương lần thứ 4. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi nêu gương là một nguyên tắc trong thực hành đạo đức, một phương pháp lãnh đạo của Đảng. Người viết: “Muốn người ta theo mình thì mình phải làm gương trước”. Theo Người, ai cũng phải nêu gương, nhưng nhấn mạnh người có vị trí cao hơn về chức vụ, nhiều hơn về vị thế, tuổi tác thì phải nêu gương trước, nói đi đôi với làm. Người yêu cầu, đảng viên nêu gương cho quần chúng, lãnh đạo nêu gương cho nhân viên… Phát huy tính tự giác, gương mẫu và thực hiện quy định về sự nêu gương của cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp theo tinh thần Chỉ thị 03-CT/TƯ để thực hiện Nghị quyết Trung ương lần thứ 4 có hiệu quả hơn.

Về giải pháp xây dựng tổ chức và cán bộ nêu trong Nghị quyết Trung ương lần thứ tư, việc quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng nêu trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, một tác phẩm nổi tiếng về xây dựng Đảng của Người đã được giới thiệu và tổ chức học tập trong những năm qua, có ý nghĩa rất tích cực. Trong tác phẩm này, Hồ Chí Minh chỉ rất rõ vai trò và vị trí của cán bộ và công tác cán bộ. Người viết: “Cán bộ là cầu nối giữa Đảng, Chính phủ và nhân dân”; “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”; “Muôn việc thành công hay thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Người yêu cầu, cán bộ cách mạng phải hội đủ các tiêu chuẩn đức và tài, phẩm chất và năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phong cách, phương pháp công tác tốt, trong đó phẩm chất đạo đức phải là yếu tố hàng đầu, là gốc, là nền tảng. Người coi công tác cán bộ là công tác gốc của Đảng; là một vấn đề rất trọng yếu, rất cần kíp. Thực chất công tác cán bộ là “nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta”. Để thực hiện tốt công tác cán bộ, cần quan tâm đầy đủ đến các mặt: huấn luyện cán bộ; dạy cán bộ và dùng cán bộ; lựa chọn cán bộ; bồi dưỡng cán bộ; thực hiện chính sách đối với cán bộ…

Về phát huy dân chủ trong Đảng, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do”; “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi”… Người chỉ ra cho chúng ta mục đích và yêu cầu thực hành dân chủ trong Đảng, mở rộng dân chủ “để tất cả mọi đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình”. “Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý. Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân… Ra sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân – tức là phục tùng chân lý”(2). Quán triệt tư tưởng trên đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thực hiện Nghị quyết Trung ương lần thứ tư giúp chúng ta phát huy dân chủ thật sự trong Đảng, thực hiện tốt các giải pháp cụ thể được đề ra, như Quy chế chất vấn trong Đảng; lấy phiếu tín nhiệm để đánh giá, nhận xét cán bộ; thí điểm bố trí cán bộ chủ chốt ở cấp tỉnh, cấp huyện không phải người địa phương; kê khai tài sản; định kỳ tổ chức để nhân dân góp ý kiến xây dựng Đảng thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội…

Về các giải pháp xây dựng cơ chế, chính sách, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định rõ trách nhiệm của Đảng và Chính phủ, khi coi “dân đói”, “dân rét”, “dân ốm” là Đảng, Chính phủ có lỗi để đặt ra yêu cầu phải không ngừng xây dựng, hoàn thiện chính sách phát triển kinh tế – xã hội, không ngừng cải thiện đời sống nhân dân. Trong bản “Di chúc” bất hủ, Người yêu cầu: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế, văn hóa, không ngừng cải thiện đời sống nhân dân”. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh để rà soát, loại bỏ các cơ chế, chính sách đã lạc hậu, xây dựng, ban hành đồng bộ các chính sách để đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ; rà soát cơ chế, chính sách và ban hành văn bản quy phạm pháp luật để quản lý, kiểm soát chặt chẽ vốn và tài sản nhà nước; thực hiện cải cách hành chính nhà nước và cải cách hành chính trong Đảng; đẩy nhanh việc cải cách, thực hiện sớm chế độ tiền lương, nhà ở, chống bình quân, cào bằng; đồng thời chống đặc quyền, đặc lợi; gắn với tinh giảm biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức…, tạo nên sự “không cần”, “không dám”, “không thể” tham ô, tham nhũng, qua đó mà xây dựng đội ngũ cán bộ, để ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay.

Trong nhóm giải pháp về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ ra cho chúng ta ý nghĩa, tầm quan trọng, nội dung và phương pháp học tập lý luận chính trị. Từ cuốn “Đường Kách mệnh” năm 1927 đến “Sửa đổi lối làm việc” năm 1947, Hồ Chí Minh đã luôn luôn nhấn mạnh vai trò của lý luận, của thực tiễn và quan hệ giữa lý luận với thực tiễn. Người khẳng định, lý luận có vai trò rất to lớn, nó như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế; không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi. Người yêu cầu cán bộ, đảng viên, phải nâng cao hiểu biết cả về lý luận; “có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như một mắt sáng, một mắt mờ”… Theo Hồ Chí Minh, hiểu lý luận là “đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính”.

Về phương pháp học tập lý luận, Người yêu cầu lý luận phải liên hệ chặt chẽ với thực tiễn. Người nói, “lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng ngàn, hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết đem ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách”. Lý luận và thực hành có quan hệ qua lại; lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhìn theo lý luận. Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn. “Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung cũng như không có tên”.

Về đẩy mạnh học tập lý luận, Người dạy, “phải chữa cái bệnh kém lý luận, khinh lý luận và lý luận suông”…

Quán triệt tư tưởng và những lời chỉ dẫn của Hồ Chí Minh, những nội dung đã được thể hiện rõ trong 7 chuyên đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh những năm qua và hiện đang là những tài liệu quan trọng để tổ chức thực hiện Chỉ thị 03-CT/TƯ, giúp thực hiện tốt hơn, có hiệu quả hơn các giải pháp về xây dựng Đảng nêu ra trong Nghị quyết Trung ương 4.

2- Về các giải pháp đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo Chỉ thị 03-CT/TƯ của Bộ Chính trị, đưa việc học tập và làm theo Bác trở thành công việc thường xuyên quan trọng, gắn với các nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan, đơn vị hiện nay để thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, cần thực hiện tốt các hướng dẫn của Trung ương.

Trong năm 2012, thực hiện Hướng dẫn 32-HD/BTGTƯ của Ban Tuyên giáo Trung ương, cần chú ý làm tốt các công việc sau:

Một là, cần tiếp tục quán triệt các chuyên đề về tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong 4 năm triển khai cuộc vận động, các tài liệu học tập theo chủ đề hằng năm để tổ chức nghiên cứu, trao đổi, thảo luận tại các chi bộ trong từng tháng, từng quý, gắn với kế hoạch nghiên cứu quán triệt nghị quyết và tổ chức kiểm điểm, liên hệ theo kế hoạch của Bộ Chính trị.

Hai là, xây dựng các chuẩn mực đạo đức cụ thể, sát hợp với đặc điểm tình hình, nhiệm vụ chính trị của ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị, với tổ chức thực hiện Điều lệ Đảng, quy định các điều đảng viên không được làm, các quy định chung của cơ quan, đơn vị. Các chuẩn mực đạo đức được xây dựng theo tư tưởng, tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh phải trở thành một trong những cơ sở để mỗi cán bộ, đảng viên đăng ký thực hiện, để liên hệ, kiểm điểm theo Kế hoạch thực hiện nghị quyết Trung ương 4 của Bộ Chính trị và trong sinh hoạt chi bộ, kiểm điểm cuối năm theo hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương.

Ba là, phát huy vai trò nêu gương của cán bộ lãnh đạo các cấp, cán bộ, đảng viên trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống. Ở các ngành, địa phương, Ban Thường vụ cấp ủy, trực tiếp là Bí thư cấp ủy có trách nhiệm tổ chức việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong cơ quan, đơn vị mình và gương mẫu thực hiện các giải pháp đề ra để làm gương cho mọi người noi theo. Căn cứ quy định chung về trách nhiệm nêu gương, các ngành, địa phương cần cụ thể hóa thêm để giúp cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo theo đó tự giác và gương mẫu thực hiện.

Bốn là, để việc triển khai thực hiện Chỉ thị 03-CT/TƯ trở nên thiết thực hơn, tạo niềm tin trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, cấp ủy chỉ đạo và lựa chọn một số vấn đề nổi lên, được dư luận quan tâm, đưa ra trao đổi, thảo luận trong đơn vị, bàn giải pháp và tập trung sức giải quyết với những kết quả cụ thể. Điều đó giúp giải quyết các vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng và trong quan hệ với nhân dân ở cơ sở, làm cho việc thực hiện Nghị quyết mang tính thiết thực hơn.

Năm là, phát huy vai trò của quần chúng nhân dân trong công tác xây dựng Đảng. Ban Thường vụ cấp ủy tổ chức để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tham gia giám sát việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, thực hiện tốt Quy định về đảng viên các cơ quan sinh hoạt hai chiều với nơi cư trú…

Sáu là, đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, phát hiện, phổ biến, nhân rộng những cách làm hay, những sáng kiến tốt ở cơ sở. Chỉ đạo báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng tăng cường các hoạt động tuyên truyền về thực hiện Nghị quyết, biểu dương những điển hình người tốt, việc tốt, nhân rộng các điển hình tiên tiến, động viên cán bộ, đảng viên học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Quản lý tốt các hoạt động báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ, góp phần động viên thực hiện Nghị quyết và hạn chế những mặt tiêu cực trong các lĩnh vực hoạt động này./.

PGS.TS Ngô Văn Thạo
Theo tuyengiao.vn
Thu Hiền (st)

———————

(1). Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 1995, t.2, tr.510
(2). Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.CTQG, H, 1996, t.8, tr. 216.

bqllang.gov.vn