Tag Archive | Ký sự nhân vật

Lời nói cuối và tượng đài bất tử

Uống nước nhớ nguồn

QĐND– Giữa đại ngàn Chiến khu Đ có một nghĩa trang nhỏ, chừng ba chục ngôi mộ liệt sĩ, một đền thờ, linh thiêng và đặc biệt, nổi bật và trang trọng nhất là tượng đài liệt sĩ bằng đá vừa được xây dựng hơn một năm nay. Tượng đài khắc họa người chiến sĩ hy sinh, nụ cười thể hiện niềm tin chiến thắng vẫn nở trên môi, ngã xuống trong vòng tay đồng đội. Nguyên mẫu của nhân vật trong tượng đài là liệt sĩ Phạm Văn Xem. Câu chuyện về người chiến sĩ ấy đẹp giản dị, thiêng liêng và cảm động như một bài thơ về lý tưởng sống và tình yêu Tổ quốc.

“Đóng giùm tôi đảng phí tháng ba”…

Đó là lời nhắn gửi đồng đội, lời trăng trối cuối cùng của chiến sĩ 23 tuổi Phạm Văn Xem, quê ở Tân Uyên, Bình Dương, là chiến sĩ thông tin thuộc căn cứ thông tin 505 trước khi anh ra đi vĩnh viễn vào ngày 16-3-1966. Vào thời điểm này, tình hình chiến sự ở Miền Đông Nam Bộ bước vào giai đoạn căng thẳng, quyết liệt. Quân đội Sài Gòn được sự chi viện và yểm trợ của Mỹ mở cuộc hành quân mang tên “Thành phố Bạc” (SilverCity) đánh mạnh vào Chiến khu Đ. Nắm được ý đồ của địch, ta bố trí lực lượng tập kích nhằm kìm hãm, đẩy lùi, phá tan chiến dịch hành quân của chúng. Một trong những trận tập kích tiêu biểu diễn ra tại khu Bàu Sắn rạng sáng ngày 16-3. Bị đánh tơi tả, địch kêu gọi chi viện. Vài giờ sau đó, địch điều động máy bay B52 đến rải thảm ở Chiến khu Đ. Đơn vị bị tổn thất nặng nề nhất là căn cứ thông tin 505 (Ban thông tin liên lạc Miền Đông). Chiến sĩ Phạm Văn Xem vừa được đứng vào hàng ngũ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Anh đã chiến đấu anh dũng và bị thương rất nặng. Khi các y tá đến cứu chữa, băng bó vết thương cho anh thì anh xua tay, nói yếu ớt: “Các đồng chí hãy dùng những thứ này để cứu mạng sống cho các chiến sĩ bị thương nhẹ hơn tôi. Tôi biết, mình không qua khỏi được. Nhờ các đồng chí nhắn giùm anh em trong tiểu đội của tôi, lấy tiền sinh hoạt phí tháng ba đóng giùm tôi đảng phí tháng ba”. Nói xong, Phạm Văn Xem ngất lịm vì máu ra quá nhiều. Anh được đồng đội của mình cáng đến dân y viện gần đó. Trên đường đi, Phạm Văn Xem tỉnh lại, kêu khát nước. Hai đồng chí cáng thương, bên lưng vẫn đeo bình tông nước nhưng trả lời trong nước mắt rằng, nước đã hết, bởi các anh biết nếu cho Xem uống nước, cái chết sẽ đến với anh nhanh hơn vì máu càng ra nhiều, không cầm được. Anh Xem nhìn đồng đội mỉm cười với ánh mắt thông cảm và lặp lại: “Các đồng chí nhớ nhắn với tiểu đội lấy tiền sinh hoạt phí đóng giùm tôi đảng phí tháng ba…”. Anh ra đi mãi mãi khi nụ cười chưa kịp tắt trên môi. Thi hài của anh được đồng đội an táng gần vị trí dựng tượng đài hiện nay.

Tượng đài bất tử

Tượng đài ở Chiến khu Đ được xây dựng từ nguyên mẫu liệt sĩ Phạm Văn Xem.

Người có công đầu trong việc xây dựng tượng đài này là đồng chí Bùi Đình Thành, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Đồng Nai. Cảm phục tinh thần, lý tưởng sống và chiến đấu của chiến sĩ Phạm Văn Xem qua lời kể của nhiều đồng đội ngày ấy, đồng chí Bùi Đình Thành đã chỉ đạo ngành văn hóa tỉnh, thực hiện chủ trương xã hội hóa công tác bảo tồn, phát triển di tích lịch sử, vận động xây dựng công trình mang ý nghĩa tâm linh cao đẹp này. Cái chết của người chiến sĩ đã trở thành bất tử. Tượng đài liệt sĩ là biểu tượng của tình đồng chí, đồng đội, thể hiện lý tưởng sống cao đẹp của một thế hệ thanh niên Việt Nam. Dù đã nằm xuống nhưng súng vẫn chắc trong tay, miệng vẫn cười, lạc quan niềm tin chiến thắng.

Trong khi viết bài này, chúng tôi tình cờ đọc được thông tin trên một tờ báo, Ban thi đua truyền thống – Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam đăng thông báo tìm mộ liệt sĩ Phạm Văn Xem. Các thông tin về liệt sĩ trong bản tin trùng khớp với thông tin về liệt sĩ Phạm Văn Xem chúng tôi nêu trong bài viết này. Vậy, xin kính báo và mời đại diện Ban thi đua truyền thống – Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam liên hệ với Ban quản lý Di tích lịch sử – văn hóa Chiến khu Đ tỉnh Đồng Nai để thực hiện các phần việc uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa với hương hồn liệt sĩ và thân nhân, gia đình liệt sĩ Phạm Văn Xem theo tâm nguyện mà quý cơ quan đã bày tỏ.

Bài và ảnh: Thanh Kim Tùng
qdnd.vn

Nỗi nhớ của mẹ

Bà mẹ Việt Nam anh hùng

QĐND-Trong một ngôi nhà bé nhỏ trên sườn đồi, Bà mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Nhứt ngồi trên chiếc ghế gỗ, đôi mắt sâu thẳm nhìn ra những bụi cúc quỳ cuối mùa ánh lên sắc vàng sậm đến nao lòng. Mẹ kể chuyện về những đứa con của mình.

Xuân Sơn, xã Xuân Trình, huyện Cầu Đất, tỉnh Lâm Đồng là một thôn nằm trên sườn núi. Những mái nhà giản dị, bình yên. Người dân Xuân Sơn hiền lành, cần cù, chân chất. Ngày tôi gặp, mẹ Nguyễn Thị Nhứt đang sống trong ngôi nhà ở Đà Lạt nhưng tâm hồn mẹ đã gởi lại mảnh đất chôn nhau cắt rốn ở Xuân Sơn.

Thời con gái của mẹ có biết bao kỷ niệm gắn bó ở Xuân Sơn. 17 tuổi, mẹ Nhứt đã là cô y tá giỏi nghề, tháo vát. Năm 18 tuổi, mẹ kết hôn với một chiến sĩ vệ quốc. Mẹ Nhứt không có điều kiện sống gần chồng. Năm 1954, đôi vợ chồng trẻ mới được sống bên nhau dưới nếp nhà lá ẩn dưới rặng cây xanh. Họ sinh những đứa con. Nhưng chiến tranh đã lan rộng đến cái thôn trên sườn núi xa xôi, hẻo lánh ấy. Mẹ lại tiễn chồng đi làm cách mạng.

Mẹ ở lại Xuân Sơn đào hầm bí mật nuôi cán bộ. Dưới lớp áo của một nông dân chăm chỉ làm ăn, mẹ nắm tình hình địch, báo cho “Đội Công tác đặc biệt”. Mẹ là một hộp thư mật giữa thôn trên sườn núi. Kẻ thù dù có lê máy chém khắp nơi, ra sức dồn dân vào ấp chiến lược, o ép mọi bề nhưng người Xuân Sơn vẫn ngoan cường, quật khởi. Mẹ Nhứt lại lần lượt tiễn đưa các con: Lê Thị Diệu Minh, Lê Văn Tân, Lê Hùng Việt ra trận. Hết con ruột đến con nuôi, con rể tương lai. Tự tay mẹ gói cho đứa con nuôi Trà Văn Thắng bộ quần áo, nắm cơm gia nhập “Giải phóng quân”. Mẹ lại tiễn đưa anh Phạm Thanh Tấn, người yêu của chị Diệu Minh vào “Đội Công tác đặc biệt”.

Khi bị địch phong tỏa, lương thực cho bộ đội trở thành khan hiếm. Mẹ đã dành dụm từng quả mít, nồi cơm nếp, từng chùm bánh lá để sẵn nơi bìa rừng đã quy ước điểm tiếp tế. Ngày hôm sau mẹ quay trở lại với mớ bắp luộc, khoai sắn luộc… Mẹ nhìn vào gốc cây. Nếu như những bọc thức ăn có người lấy đi rồi, mẹ thở phào nhẹ nhõm vì vui mừng. Nhưng có những lúc mẹ lặng người nhìn những gói thức ăn còn nguyên đó. Xa xa, có tiếng súng nổ, bọn địch bố ráp ngăn chặn mọi con đường. Nước mắt mẹ chảy trên má. Mẹ dõi theo hướng tiếng súng, ngực đau thắt vì lo âu. Dự cảm đó của mẹ là đúng. Bao nhiêu lần mẹ đã chít khăn tang lên mái đầu điểm bạc.

Bà mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Nhứt.

Chị Lê Thị Diệu Minh hy sinh năm 1971 trên dòng sông Sài Gòn. Kể lại những ký ức về đứa con gái thân yêu, tim mẹ vẫn đau nhức. Chị Diệu Minh thoát ly công tác năm 1971 khi mới ngoài 20 tuổi. Chị phục vụ ngành dân y tỉnh. Chị cũng có người yêu là bộ đội, nhưng anh đã hy sinh trong một trận công đồn. Đồng đội chỉ mang được cho chị Minh chiếc áo thủng đầy vết đạn của anh. Chị Diệu Minh hy sinh trong chuyến công tác cuối cùng, trước khi được lệnh ra Hà Nội học bác sĩ. Chiếc xuồng gồm 8 người chở đầy lương thực, thuốc men, hàng hóa rơi vào phục kích của bọn giặc. Chiếc xuồng chở quá tải lại lướt quá nhanh nên bị lật úp. Chị Diệu Minh bị dòng nước cuốn trôi. Chính Giám đốc Bệnh viện Đơn Dương hiện nay đã an táng chị Diệu Minh bên bờ sông Sài Gòn, cùng với chiếc áo đầy vết đạn của người yêu chị mang bên mình. Mãi sau này, đồng đội chị mới tìm được mộ, đưa hài cốt chị về Nghĩa trang liệt sĩ Lâm Đồng. Họ mang về cho mẹ Nhứt chiếc cặp ba lá của cô con gái thương yêu.

Mẹ Nhứt còn giữ nguyên quyển nhật ký của anh Lê Hùng Việt. Nhập ngũ năm 1968, anh Việt hy sinh năm 1972. Đồng đội của anh Việt mang về cho mẹ quyển nhật ký đựng trong chiếc ba lô của anh. Anh ghi lại những bài thơ, bài hát rừng rực bầu nhiệt huyết một thời. Chính những bài thơ ấy đã thôi thúc anh ra đi.

Những đứa con nuôi của mẹ: Anh Trà Văn Thắng, con rể Phạm Thanh Tấn cũng lần lượt hy sinh. Mẹ nói bằng giọng đẫm nước mắt: “Con ruột, con nuôi, con rể, đứa nào cũng là con. Nghe nó hy sinh, ruột mẹ như đứt ra từng đoạn”. Nhưng mẹ đã nén lại đau thương, len lỏi trong hàng ngũ binh lính địch, dùng lời lẽ phải trái để thuyết phục, vận động họ giải ngũ, cung cấp súng đạn cho cách mạng. Dường như có một thứ ánh sáng được soi rọi từ tâm linh để mẹ vượt qua những thứ giết người, hoàn thành công tác liên lạc, dẫn đường tiếp tế của mình. Mẹ nói: “Năm đứa con tôi (ba người con ruột, hai người con nuôi) đã yên nghỉ ở mảnh đất này. Nhưng còn bao nhiêu người con khác, của những bà mẹ khác không tìm được hài cốt. Con chết lòng người mẹ đau đớn khôn lường, đó là lẽ đương nhiên. Nhưng nếu ai cũng sợ nỗi mất mát này thì làm sao có được ngày hòa bình”. Trong đôi mắt của bà mẹ Xuân Sơn còn ẩn chứa một niềm khắc khoải không nguôi. Bìa rừng này, nơi ngày xưa mẹ mang thức ăn cho những đứa con, những chiến sĩ Giải phóng quân vẫn còn đây. Nhưng các anh giờ ở đâu?

Bài và ảnh: Trầm Hương
qdnd.vn

Một đời tận tụy với đất nước

Luật sư Phan Anh

QĐND – Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, với chủ trương đại đoàn kết dân tộc, cầu hiền dựng nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thu hút được đông đảo các nhân sĩ, trí thức danh tiếng để xây dựng chính quyền mới: Huỳnh Thúc Kháng, Bùi Bằng Đoàn, Nguyễn Văn Tố, Phan Kế Toại, Phạm Ngọc Thạch, Hoàng Minh Giám, Nguyến Xiển, Tạ Quang Bửu, Vũ Đình Hòe, Nguyễn Văn Huyên, Trần Duy Hưng, Nghiêm Xuân Yêm, Vũ Đình Tụng…

Luật sư Phan Anh là một người trong số đó

Phan Anh sinh năm 1911 tại làng Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ (Hà Tĩnh), một miền đất hiếu học sản sinh nhiều nhân tài cho đất nước. Mẹ ông mất sớm. Bố ông-cụ đồ Phan Điện là một nhà nho nghèo nên anh em Phan Anh từng phải đi ở, làm thuê. Nhưng trong hoàn cảnh khó khăn ấy, ông và người em trai của mình là Phan Mỹ (sau này là Bộ trưởng, Chánh văn phòng Chủ tịch nước) đã quyết tâm học thành tài. Phan Anh vào học trường Bưởi (Hà Nội) từ năm 1926, khi tốt nghiệp đã dạy học ở trường Thăng Long, đồng thời theo học luật ở Trường Đại học Đông Dương năm 1937. Tốt nghiệp, ông được cấp học bổng sang Pháp tiếp tục học lên thạc sĩ, tiến sĩ…

Từ một luật sư nổi tiếng dưới thời Pháp thuộc, con đường nào dẫn Phan Anh đến với Chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh? Ông kể: Sau khi học ở Pháp về, ông làm nghề luật sư bào chữa cho nhiều vụ án cách mạng Việt Minh. Cách mạng Tháng Tám thành công, ông được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh lần đầu tiên ở Hà Nội. Trong cuộc gặp đó, ông nhớ câu nói của Bác Hồ: Tin vào trí thức và động viên khuyến khích trí thức tham gia cách mạng bằng mọi cách có thể được.

Luật sư Phan Anh (1911-1990).

Sau cuộc gặp mặt đó, Bác Hồ đã giao cho Phan Anh nhiệm vụ tập hợp anh em trí thức lập một tổ chức gọi là “Hội đồng kiến thiết quốc gia” và chỉ định ông làm Chủ tịch. Sau đó ít lâu, Tổng tuyển cử đã bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Để bầu Chính phủ mới thực sự đoàn kết, chống nguy cơ quân Tàu Tưởng ở lỳ và quân Pháp quay trở lại, cần phải có một Chính phủ hợp pháp, tiêu biểu cho sự đoàn kết quốc gia. Một vấn đề khó giải quyết là giữa phía Việt Minh và phía đối lập không bên nào nhường bên nào hai bộ: Bộ Quốc phòng và Bộ Nội vụ, nên cuối cùng đi đến thỏa thuận là để hai bộ đó cho người trung lập nắm giữ. Chính trong hoàn cảnh đó, Bác Hồ đã giao cho Phan Anh làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ngày 3-5-1946 ở phiên họp khai mạc Quốc hội. Việc Bác giao những nhiệm vụ quan trọng cho ông và những trí thức khác thể hiện lời nói với hành động của Người là nhất quán: Luôn tin vào trí thức. Nhớ lại sự kiện này, luật sư Phan Anh viết: “Tôi rất xúc động và cảm kích trước tấm lòng bao dung của Bác. Bác đã không lấy việc tôi tham gia chính phủ Trần Trọng Kim làm điều, mà vẫn cho tôi là một trí thức yêu nước và trọng dụng. Thấm sâu tinh thần của Bác: Đoàn kết, đại đoàn kết và cảm ơn tri ngộ, tôi đã nhận nhiệm vụ Bác giao với một ý thức trách nhiệm sâu sắc” (Phan Anh- “Tôi đã tham gia Chính phủ Liên hiệp kháng chiến như thế nào?”-Tạp chí Lịch sử quân sự, số 36, tháng 12-1988, tr.9). Đáp lại niềm tin của Bác, ông cũng như bao trí thức khác đã đem hết khả năng, trí tuệ và nhiệt tình để đi theo Bác phục vụ Cách mạng từ những ngày đầu khó khăn gian khổ cho đến suốt hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc.

Hồi ấy, chỉ huy về quân đội và các lực lượng vũ trang trong cả nước thuộc về Quân sự ủy viên hội do đồng chí Võ Nguyên Giáp đứng đầu, còn Bộ Quốc phòng chủ yếu tập trung về vấn đề chính trị, công tác quản lý hành chính quân sự như chỉ đạo xây dựng tổ chức, biên chế, trang bị và cấp dưỡng trong quân đội. Nhận nhiệm vụ Bác giao, Phan Anh bắt tay vào công tác tổ chức quân đội với sự cộng tác nhiệt tình của Thứ trưởng Tạ Quang Bửu và các cộng sự khác. Các kiến nghị của Bộ Quốc phòng được Bác Hồ duyệt và ban hành. Các sắc lệnh về tổ chức quân đội, về việc bổ nhiệm những người phụ trách đã ra đời. Rồi sắc lệnh 33/QP ngày 23-3-1946 xác định Vệ quốc đoàn là quân đội quốc gia nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Việc thành lập trường Võ bị Trần Quốc Tuấn cũng được Phan Anh đề đạt và được Bác Hồ thông qua.

Việc quyết định mời một luật sư nổi tiếng đảm nhiệm cương vị Bộ trưởng Quốc phòng đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa của Chủ tịch Hồ Chí Minh làm nhiều người ngạc nhiên, nhưng thực tế Bác đã rất hiểu con người Phan Anh. Trước tháng 8-1945, luật sư Phan Anh cùng giáo sư Tạ Quang Bửu thành lập Trường Thanh niên Tiền tuyến ở Huế. Đây thực chất là trường đào tạo các chỉ huy quân sự nhằm “mục đích quốc gia và mục đích xã hội”. 43 học viên của trường này đa số đều là tú tài của Trường Quốc học Huế, rồi ra Hà Nội học lên cử nhân. Có người như Lê Thiệu Huy là học sinh giỏi nhất Đông Dương, con của Giải nguyên Hán học Lê Thước. Nhiều người trong số họ là con nhà “danh gia vọng tộc” như Lê Quang Long là cháu ngoại vua Thành Thái, gọi Bảo Đại bằng cậu; Tôn Thất Hoàng là con Thượng thư Tôn Thất Quảng: Võ Sum là con Án sát Võ Chuẩn, Đặng Văn Việt con trai Tổng đốc Nghệ An…Thế mà họ học ở Thanh niên tiền tuyến một thời gian, được Luật sư Phan Anh và Giáo sư Tạ Quang Bửu dìu dắt, với dòng máu yêu nước thương nòi luôn chảy trong huyết quản, nhiều người đã đi theo Cách mạng trọn đời, phụng sự Tổ quốc và nhân dân. Trong số đó, có 8 vị đã trở thành tướng lĩnh của Quân đội nhân dân Việt Nam: Trung tướng Cao Văn Khánh, các Thiếu tướng Phan Hàm, Đoàn Huyên, Nguyễn Thế Lâm, Vũ Quang Hồ, Đào Hữu Liêu, Nguyễn Thế Lương (Cao Pha), Mai Xuân Tần.

Hồ Chủ tịch và phái đoàn Chính phủ Việt Nam dự Hội nghị Phông-ten-nơ-blô (Fontainebleau) ở Bi-a-rít (Biarritz). (Luật sư Phan Anh ngồi hàng đầu, thứ tư từ trái sang).

Tháng 7-1946, Luật sư Phan Anh tham gia phái đoàn Việt Nam đàm phán với chính phủ Pháp ở Phông-ten-nơ-bơ-lô (Fontainebleau) với tư cách là Tổng thuyết viên của đoàn Việt Nam do đồng chí Phạm Văn Đồng dẫn đầu. Từ đầu năm 1947 cho đến năm 1976, ông được cử giữ chức vụ Bộ trưởng các bộ: Kinh tế, Công Thương, Ngoại thương. Ông liên tục được bầu là đại biểu Quốc hội từ khóa 2 (1960) đến khóa 8 (1987).

Từ một luật sư dưới chế độ cũ, ông đã trở thành chính khách của nước Việt Nam mới, với 30 năm giữ cương vị Bộ trưởng, 30 năm là đại biểu Quốc hội, thành viên ủy ban Pháp luật của Quốc hội, Phó chủ tịch Quốc hội khóa 8.

Học vấn uyên bác, sự nhạy cảm về chính trị, tâm hồn, đạo đức trong sáng, suốt đời là “công bộc của nhân dân” theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh là những yếu tố giúp Phan Anh thành công trong hoạt động chính trị trong nước và quan hệ với chính khách nước ngoài.

Năm 1955, Hội luật gia Việt Nam được thành lập. Trong 35 năm trên cương vị Chủ tịch hội (1955-1990), Luật sư Phan Anh từng bước đưa tổ chức nghề nghiệp mang tính chính trị, xã hội từng bước trưởng thành, lớn mạnh. Hoạt động của Hội Luật gia Việt Nam và bản thân Luật sư Phan Anh đã vượt ra ngoài biên giới quốc gia nhằm bảo vệ lợi ích dân tộc, chủ quyền quốc gia, đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam.

Được bầu vào cơ quan lãnh đạo Hội luật gia dân chủ quốc tế, Phan Anh đã đại diện cho giới luật gia Việt Nam tham gia nhiều Đại hội Hội Luật gia dân chủ quốc tế ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Ông còn tham gia các hoạt động của Hội đồng hòa bình thế giới với cương vị Phó chủ tịch Hội đồng. Trên mặt trận này, là một trí thức yêu nước, một luật gia lỗi lạc, ông đã thuyết phục được các đồng nghiệp nước ngoài về tính chính nghĩa cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam và tranh thủ sự đồng tình của các đại biểu tham gia Đại hội ủng hộ nhân dân ta. Đánh giá về luật sư Phan Anh, ông Rô-mét Chan-đra (Romesh Chandra), Chủ tịch danh dự Hội đồng Hòa bình thế giới viết: “Luật sư Phan Anh là tấm gương sáng chói và đã chiếm được cảm tình của hàng nghìn người bằng sự khiêm tốn và lòng thiết tha chống đế quốc. Đối với cá nhân tôi, Phan Anh luôn là người chỉ dẫn, người thầy giáo, một biểu tượng của nhân dân Việt Nam anh hùng”.

Ông rất quan tâm đến việc tập hợp đội ngũ luật gia Việt Nam phục vụ công cuộc xây dựng đất nước. Trong những năm cuối đời (1987-1990), cùng với Ban dân chủ-Pháp luật của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mà ông là Trưởng ban, Luật sư Phan Anh đã góp ý kiến về nhiều văn bản pháp luật quan trọng như Bộ luật Tố tụng Hình sự (1987), Pháp lệnh Tổ chức Luật sư (1987). Ông nhấn mạnh vai trò của luật sư trong nhà nước Việt Nam, khẳng định vị trí và tầm quan trọng của tổ chức này trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng một nên tư pháp của dân, do dân và vì dân.

Như vậy, trong suốt cuộc đời sôi nổi của mình, Luật sư Phan Anh được Đảng và Bác Hồ trao nhiều trọng trách. Nhiệm vụ nào ông cũng tận tâm, tận lực, tận tụy phục vụ đất nước và để lại dấu ấn quan trọng. Phan Anh không phải là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng ông sống, lao động và chiến đấu như một người cộng sản. Bởi lẽ, thời đại của ông sống là một thời đại lịch sử rất vẻ vang mà trung tâm là cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân và thống nhất toàn vẹn lãnh thổ. Thời đại ấy đã làm nên những phẩm chất của một đội ngũ trí thức Việt Nam yêu nước, thương nòi, sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc, vì nhân dân. Và điều quan trọng là thời đại ấy được dẫn dắt bởi một con người đã hoàn toàn chinh phục trái tim và khối ốc đội ngũ trí thức như ông. Đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trần Thiên
qdnd.vn

Chí sĩ Tượng Phong Ngô Quang Đoan

Chuyện xưa nay

QĐND-Làng Trình Phố thuộc xã An Ninh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, xưa có hai gò cây thiêng, tên là Gò Cá (Ngư Phong) và Gò Voi (Tượng Phong).

Địa danh trở thành danh hiệu, khi bậc danh sĩ ở thế kỷ 19 của làng là Ngô Quang Bích: Đình nguyên Hoàng giáp Tiến sĩ – Tuần phủ Hưng Hóa triều Tự Đức, Lễ bộ Thượng thư – Hiệp biện Đại học sĩ – Hiệp thống Bắc Kỳ, quân vụ đại thần triều Hàm Nghi, chọn lấy “Ngư Phong” làm tên hiệu của mình. Còn người con trai là Ngô Quang Đoan thì noi theo cha, dùng nốt danh hiệu “Tượng Phong” để tự gọi.

Ngô Quang Đoan, 18 tuổi vào năm 1890, đang nổi tiếng ở quê nhà về sự học hành chữ nghĩa giỏi giang, sức vóc và tài cưỡi ngựa múa đao mạnh như thần, đàn dịch ca ngâm càng điêu luyện, thì tin dữ đã từ căn cứ Tôn Sơn ở giữa vùng rừng núi Yên Lập (Phú Thọ) – nơi đặt đại bản doanh chỉ huy phong trào yêu nước Cần Vương (giúp vua Hàm Nghi) chống thực dân Pháp xâm lược trên miền Tây Bắc đất nước và cả xứ Bắc Kỳ của cha mình bay về: Thủ lĩnh Ngô Quang Bích lâm trọng bệnh, đã từ trần!

Lập tức, Ngô Quang Đoan lội bộ một mạch từ Trình Phố lên Tôn Sơn. Để vừa làm lễ tế viếng cha trước nấm mồ mới đắp bên chân núi, giữa rừng già, vừa gặp gỡ các thuộc tướng trung thành của vị thủ lĩnh Cần Vương quá cố – những Đề Kiều, Đốc Ngữ, Lãnh Vân, Lãnh Hoan, Lãnh Gáo, Đốc Đen… lừng danh trận mạc đang trông chờ người kế vị ngôi chủ tướng để kế tục sự phát triển phong trào. Nhưng dứt khoát chối từ chuyện “cha truyền con nối”, lấy cớ mình còn ít tuổi, chưa có gì đóng góp cho phong trào, Ngô Quang Đoan chỉ xin được sát cánh cùng các thuộc tướng của cha mình, rèn tập việc chiến đấu, đấu tranh.

Tượng phong-Ngô Quang Đoan 1872-1945.

Và thế là 10 năm của giai đoạn đầu sự nghiệp nhà yêu nước tuổi 20 Ngô Quang Đoan, từ đây mở ra. Sự trẻ trung và sự tráng cường đã khiến người con trai của cố thủ lĩnh Cần Vương Ngô Quang Bích nhanh chóng dội vang những thành tích sôi nổi: Hết đánh những trận diệt thù ở Khả Cửu cùng tướng Đề Kiều; ở Suối Rút cùng các tướng Lãnh Vân, Lãnh Hoan; ở Nam Định cùng các tướng Lãnh Gáo, Đốc Đen… lại cầm đầu đoàn tải lương sang tận Trung Quốc mua sắm vũ khí, vận chuyển về cho nghĩa quân. Đặc biệt, lấy danh nghĩa con trai thủ lĩnh Cần Vương Tây Bắc và cả Bắc Kỳ, Ngô Quang Đoan đã nhiều lần vượt đường trường và hàng rào vây hãm của kẻ địch, vào sâu các vùng đồng bào thiểu số, đến tận căn cứ các dư đảng Cần Vương: Hương Khê, Bãi Sậy…, cả Yên Thế của Đề Thám nữa, nhóm lại và thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh anh hùng. Đương thời, nhiều người yêu nước đều rất ấn tượng về một vị tướng trẻ Cần Vương (và “hậu Cần Vương”) cao lớn, tài hoa, hoạt động không biết mệt mỏi ở khắp nơi. Và, đi tới đâu thì để lại… thơ đến đấy. Như những vần điệu tráng chí nổi tiếng (dịch từ Hán Ngữ) khi vào tận Vũ Quang gặp Phan Đình Phùng:

Lòng son cứu nước tim ngời sáng

Gươm báu diệt thù chí ngút trời

Cha tôi ngày trước dựng cờ nghĩa

Ngày nay tôi tới nối cơ ngơi…

Nhưng đến những năm cuối cùng của thế kỷ 19, phòng trào Cần Vương rồi cũng bị kẻ thù dập tắt. Sang tới những năm đầu thế kỷ 20, sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc chuyển tiếp thành những hình thế mới. Ngô Quang Đoan lúc này đã vào tuổi 30, trưởng thành mà hòa mình được vào những trào lưu mới ấy: Duy Tân, Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Việt Nam Quang Phục… Một gương mặt từ thời Cần Vương, bây giờ sáng lên cùng với những Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lương Văn Can, Tăng Bạt Hổ… của thời kỳ đấu tranh mới. Chí sĩ Ngô Quang Đoan, khi thì nấp dưới hầm than tàu thủy chạy từ Hải Phòng sang Hương Cảng, tóe máu chân trong đôi hài sảo rơm băng rừng tìm gặp tướng quân Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc, cạo răng trắng thành “Bạch xỉ chân nhân” hộ tống hoàng thân Cường Để đi Nhật, bí mật trở về nước để cùng các sĩ phu, nhà tân học, làm thơ hỏi sông Bạch Đằng:

“Hồng giang trùng khởi lãng

Sát tặc thị hà thi?”

(Sóng Hồng gầm vang dội

Giết giặc đợi ngày nào?)

Hoặc lên tận đền Hùng, xin với vua Hùng:

Tinh linh phảng phất, Lăng còn đó

Đất nước tan tành, Tổ biết không?

Cầu khẩn xin cho soi xét lại

Mau mau cứu vớt giống Tiên Rồng !

Có đến hai lần bị giặc bắt nhốt cũi sắt, phải chứng kiến cảnh chúng chặt đầu người cùng hoạt động ở ngay bên cạnh nhưng Ngô Quang Đoan – đến khi các phong trào đấu tranh đầu thế kỷ bị một lần nữa thoái trào vẫn kiên trì bền bỉ, cả gan góc nữa, dấn mình tiếp vào sự nghiệp đấu tranh cứu nước. Ở về những thập kỷ thứ hai, thứ ba của thế kỷ 20, khi nhà chí sĩ đã đến tuổi năm, sáu mươi, có một sự nghiệp được giao từ thời Đông Kinh Nghĩa Thục, mà chỉ còn một mình Ngô Quang Đoan lúc này thực hiện được. Ấy là: Tận tụy, miệt mài, lặn lội lên các vùng núi rừng thượng du, đồi gò trung du, khai hoang lập ấp trại, tạo cơ sở hậu cần cho những chiến sĩ bí mật hoạt động cách mạng. Hết ở Luống, Ngòi Lao (Phú Thọ) lại Tam Lộng, Bàn Long, Đạo Hoàng (Vĩnh Yên)… Các trang thực chất là doanh trại của nhà chí sĩ, hết bị hoang vu thú dữ, nước độc và bệnh tật tàn phá, lại bị giặc giã đánh sập…

Đến tuổi sắp “cổ lai hy”, chí sĩ Tượng Phong đã có 5 lần mất trại, lại 5 lần gây dựng tiếp. Và vào một đêm, giữa mịt mù hoang vắng trong căn nhà tre nứa giữa trại Đạo Hoàng dưới chân Tam Đảo, nhà chí sĩ với tay lấy trên vách xuống cây nguyệt cầm tự tạo. Và vừa gẩy mấy ngón đàn diệu vợi, vừa ngâm nga mấy câu thơ sầu lụy:

Trốn tránh bao năm sống chẳng an

Đêm thâu trằn trọc lệ tuôn tràn

Trăng hờn khuất bóng, mây mờ hận

Sương buốt gieo cành, gió khóc than…

Bất chợt nghe thấy có tiếng động bên ngoài. Và tiếng ngón tay gại vào vách nứa. Rồi một giọng nói thầm thì lọt qua khe cửa:

– Chúng tôi là các nhà cách mạng đi hoạt động qua đây. Nghe giọng đàn và tiếng thơ, biết ngay là bậc chí sĩ. Xin cho được vào bái kiến…

Đó là các đồng chí Xứ ủy viên Bắc Kỳ của Đảng Cộng sản Bùi Lâm, Trần Đình Long. Và tin vui liên tiếp báo: Mặt trận Việt Minh đã ra đời! Trào lưu cách mạng mới – Tân Trào – đang lên tới cao trào!

Chí sĩ Tượng Phong Ngô Quang Đoan từ đấy trở thành cơ sở cách mạng. Với những vần thơ hào sảng:

Bóng cờ Độc Lập bay rạng đất

Tiếng súng Liên Minh dậy khắp trời

Hùng hồn cổ vũ:

Cờ nghĩa đỏ tươi chờ gió mới

Kiếm mài sáng lóa giục đông qua

Và đoán chắc:

Trời Nam vùng dậy rợp cờ

Nước non còn mất bây giờ là đây

Cùng nhau diệt lũ khuyển Tây

Anh hùng thời thế ra tay chuyển vần!

Chỉ tiếc là người anh hùng – tự mình làm chiếc cầu nối từ lịch sử phong trào Cần Vương tới lịch sử Cách mạng Tháng Tám – đã không kịp trông thấy ngày Cách mạng thành công.

Nạn đói đầu năm Ất Dậu (1945), tuổi tác và đau yếu đã khiến nhà chí sĩ Tượng Phong Ngô Quang Đoan – ở năm thứ 74 của cuộc đời đã phải lìa đời để đi gặp và lần này thì gặp được người cha Ngư Phong Ngô Quang Bích, ở trên cõi Vĩnh Hằng.

Hôm ấy là ngày 8-7-1945. Một tháng trước ngày bùng nổ cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám.

Viết nhân ngày giỗ cụ ở Tiền Hải.

GS. Lê Văn Lan
qdnd.vn

Đại tướng Chu Huy Mân, người bạn thủy chung của nhân dân Lào

QĐND – Chúng tôi thường gọi Đại tướng Chu Huy Mân với cái tên thân mật “anh Hai Mạnh”. Nhiều người cho rằng, anh “mạnh cả về quân sự lẫn chính trị”, có người lại nói rằng, anh “mạnh cả về tài năng và đức độ”.

Đại tướng Chu Huy Mân sinh năm 1913, xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo tỉnh Nghệ An. Trong cao trào Xô-viết Nghệ-Tĩnh, anh tham gia đội Tự vệ đỏ, là đội phó đội Tự vệ kiêm bí thư chi bộ xã, sau đó là bí thư phân huyện ủy Hưng Nguyên. Bị giặc Pháp bắt giam ở trại giam Kon Tum, vượt ngục năm 1943, trở về Quảng Nam, anh được phân công làm phó bí thư tỉnh ủy Quảng Nam. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, anh tham gia quân đội, làm Chính trị viên tỉnh đội Quảng Nam rồi được điều ra Huế, làm Chủ tịch Ủy ban quân chính Khu C gồm 4 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam. Cuối năm 1945, anh được điều sang làm Chính trị viên mặt trận Đường 9 – Sa-van-na-khẹt. Trong mặt trận này, Liên quân Lào-Việt cùng phối hợp tác chiến suốt từ Đông Hà qua Nam Lào đến Sa-van-na-khẹt.

Trong các năm 1946, 1947, 1948, anh đảm nhận nhiệm vụ làm Trưởng ban kiểm tra Đảng, Đảng ủy viên Quân khu Việt Bắc, Trung đoàn trưởng kiêm bí thư Đảng ủy các Trung đoàn 72 (Cao Bằng), 74 (Bắc Kạn) rồi Chính ủy Trung đoàn 174 (Cao-Bắc-Lạng).

Ngày 1-5-1951, Đại đoàn 316 thành lập, anh được điều về làm Bí thư Đảng ủy kiêm phó Chính ủy rồi Chính ủy Đại đoàn, tham gia các chiến dịch Trung du, Hoàng Hoa Thám, Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào rồi chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954.

Trưởng đoàn Cố vấn quân sự Việt Nam tại Lào

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, anh Chu Huy Mân với bí danh “Thao Chăn” được bổ nhiệm làm Trưởng đoàn kiêm bí thư Đảng ủy Đoàn Cố vấn quân sự Việt Nam tại Lào. Trước lúc lên đường, anh được đến gặp Hồ Chủ tịch. Suốt thời gian bên Lào, anh luôn nhớ, làm đúng theo lời Bác căn dặn: “Giúp bạn là tự giúp mình nhưng phải bồi dưỡng bạn làm chủ từng việc cho đến làm chủ toàn diện, không bao biện làm thay”.

Năm 1956 Tổng bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Lào Cay-xỏn Phôm-vi-hản và vợ, con đến thăm Trưởng đoàn Cố vấn quân sự Việt Nam Chu Huy Mân (trái).

Từ tháng 8-1950, Chính phủ kháng chiến Lào được thành lập do Hoàng thân Xu-pha-nu-vông làm Chủ tịch, đồng chí Cay-xỏn Phôm-vi-hản làm Phó chủ tịch kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Ngoài những buổi làm việc, đồng chí Cay-xỏn thường hay đến thăm người bạn Việt Nam chung thủy Chu Huy Mân, tâm sự về những tình cảm của mình với Việt Nam từ khi học ở trường Bưởi, Trường Đại học Luật ở Hà Nội, đến nhiều chuyện đời tư khác của đồng chí sau này. Những mối quan hệ đó đã tạo điều kiện để đồng chí Chu Huy Mân làm việc tốt ở Lào. Ngày 8-8-1960, Đại úy Koong Le, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn dù 2 quân đội Vương quốc Lào làm đảo chính lật đổ chính phủ phản động Phủi Xa-na-ni-con. Từ ngày 26 đến ngày 30-9-1960, quân tình nguyện Việt Nam và quân giải phóng Pa-thét Lào giải phóng toàn bộ tỉnh Sầm Nưa. Thời gian này, Chính phủ Liên hiệp Vương quốc Lào đã thành lập, nhiều lần cử các đoàn cấp cao sang thăm Việt Nam, trong đó có đoàn của Hoàng thân Thủ tướng Su-va-na Phu-ma. Cuối năm 1960, lực lượng phản động Lào tập trung quân nhằm chiếm lại Thủ đô. Chính phủ Vương quốc Lào đã cử đặc phái viên sang Hà Nội xin viện trợ để chiến đấu bảo vệ Viêng Chăn. Một lực lượng pháo binh gồm một đại đội lựu pháo 105mm, một đại đội súng cối 120mm và các đồng chí chuyên gia Nguyễn Duy Trác, Đỗ Bá Bút, Nguyễn Trí Năng cùng một số chiến sĩ pháo binh đi máy bay cấp tốc sang giúp bạn Lào. Ngày 14-12-1960, lực lượng pháo binh Việt Nam này đã lập chiến công xuất sắc trong trận đầu tiên chống quân phản động Phu-mi Nô-xa-vẳn.

Sau này, anh Chu Huy Mân đã kể lại một số chuyện ở Lào thời gian ấy: Pháo và đạn của Việt Nam vừa chuyển bằng máy bay sang sân bay Vát-tày ngày 12-12-1960, Chuyên gia pháo binh Việt Nam mới bay sang Viêng Chăn ngày 13-12-1960 thì ngày 14-12-1960 đã chiến đấu. Nếu chỉ dùng pháo binh tiêu diệt các mục tiêu địch trên đất Lào, tấn công vào Viêng Chăn thì không có gì phải đắn đo suy nghĩ. Nhưng trong các mục tiêu định bắn của bạn Lào, có một trận địa trọng pháo đặt tại Noọng Khai nằm trên đất Thái Lan thường bắn chi viện cho quân phản động Phu-mi Nô-xa-vẳn. Khi các đồng chí chuyên gia pháo binh Việt Nam báo cáo ý định này của Đại úy Koong Le, anh Chu Huy Mân cân nhắc, suy nghĩ kỹ rồi cuối cùng đã quyết định: Để gây uy thế cho Chính phủ Liên hợp Vương quốc Lào, có thể bắn trong một thời gian rất ngắn vào trận địa pháo Noọng Khai. Phải bắn thật chính xác. Không được để đạn lạc vào dân lành. Và rồi trận chiến đấu đầu tiên của pháo binh ta hôm đó đã thắng lợi tốt đẹp.

Cũng năm 1960, Liên quân Lào-Việt đã chiến đấu bảo đảm cuộc vượt ngục của Hoàng thân Xu-pha-nu-vông thoát khỏi trại giam Phôn Khênh về căn cứ địa an toàn.

Một kỷ niệm khó quên trong thời gian Chu Huy Mân công tác bên Lào được Bác Hồ tặng chiếc đồng hồ Wyler, mặt sau có khắc chữ “Hồ Chí Minh”. Khi trao tặng, Bác nói: “Bác tặng chiếc đồng hồ này cho chú vì chú có thành tích giúp Đảng Nhân dân cách mạng Lào xây dựng lực lượng vũ trang. Các chú cần luôn luôn thấy rằng giúp bạn là tự giúp mình”.

Chính những lời căn dặn và những kỷ niệm đặc biệt của Bác Hồ đó đã giúp Chu Huy Mân hoàn thành tốt các nhiệm vụ khi làm cố vấn quân sự Việt Nam tại Lào.

Tư lệnh kiêm Chính ủy Mặt trận Tây nguyên, Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 5

Sau thời gian làm Trưởng đoàn Cố vấn quân sự Việt Nam tại Lào, anh Chu Huy Mân nhận quyết định làm Tư lệnh kiêm Chính uỷ Quân khu 4. Với những tình cảm đặc biệt Việt-Lào vốn có, anh đã cử nhiều đoàn quân tình nguyện Việt Nam ở Quân khu 4 sang Lào tham gia chiến đấu thắng lợi ở Lào.

Tháng 8-1965, anh Hai Mạnh nhận nhiệm vụ làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Mặt trận B3 – Tây Nguyên. Từ năm 1967 đến năm 1975 là Tư lệnh, Phó bí thư Đảng ủy Quân khu 5, Chính ủy chiến dịch Huế – Đà Nẵng. Từ năm 1975 đến năm 1976, anh là Tư lệnh kiêm Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Quân khu 5.

Sau này mỗi lần gặp nhau, các chiến sĩ pháo binh Quân giải phóng Mặt trận Tây Nguyên và Trung Trung Bộ thường nhắc lại những kỷ niệm với anh Hai Mạnh những năm tháng ở chiến trường thời gian ấy.

Trên Tây Nguyên, Tư lệnh kiêm Chính ủy Chu Huy Mân đã trực tiếp làm Tư lệnh kiêm Chính ủy chiến dịch Plây-me, hạ lệnh nổ súng từ 19 giờ ngày 19-10-1965, chỉ huy chiến dịch cho đến ngày toàn thắng vào ngày 26-11-1965. Tại Trung Trung Bộ, trong chiến dịch Nông Sơn-Thượng Đức, khi Trưởng phòng pháo Tô Thuận báo cáo số đạn bắn còn ít, Tư lệnh Hai Mạnh quyết định: “Bổ sung ngay đạn, nhưng pháo binh phải cố gắng diệt mỗi hoả điểm chỉ cần 2 phát đạn”. Tư lệnh Chu Huy Mân đã trực tiếp chỉ đạo chiến dịch từ ngày 17-7 bắt đầu nổ súng đến ngày kết thúc ngày 25-8-1974, giải phóng hoàn toàn một địa bàn rộng lớn ở Nông Sơn-Thượng Đức.

Sau mỗi chiến dịch, về căn cứ, Tư lệnh Hai Mạnh lại thân mật như anh em trong nhà, đánh bóng chuyền, học hát, tham gia đồng ca với anh chị em quân khu.

Sau này, khi Đại tướng Chu Huy Mân đã là Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị; Ủy viên Bộ Chính trị; Phó bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương; đại biểu Quốc hội; Phó chủ tịch Hội đồng Nhà nước cho đến khi nghỉ hưu (tháng 12-1986) và ít ngày trước khi anh vĩnh biệt bạn bè và người thân về với cõi Vĩnh hằng (ngày 1-7-2006), anh vẫn có những buổi tiếp xúc thân mật với những anh chị em cùng chiến đấu trên chiến trường năm xưa.

Đại tướng Chu Huy Mân, anh Hai Mạnh là người như thế. Về mặt “nghiệp vụ”, anh mạnh cả về chính trị và quân sự, về mặt “con người”, anh mạnh cả về tài năng lẫn đức độ. Ai đã cùng sát cánh chiến đấu với anh đều thấy rõ ở anh những điều đó.

Đại tá Đỗ Sâm
qdnd.vn

Đồng đội còn nằm đó, sao đành…

Nghĩa tình đồng đội

QĐND-Bị thương trong chiến dịch Tây Nguyên tháng 3-1975, buộc phải trở về tuyến sau điều trị không thể tiếp tục cầm súng chiến đấu đã là một nỗi day dứt khôn nguôi của CCB Dương Xuân Hà-nguyên chiến sĩ Tiểu đoàn 7, Đại đội 5, Trung đoàn 85, Sư đoàn 325. Điều trăn trở khiến ông luôn tìm cách trở lại chiến trường xưa là mong muốn tìm kiếm những đồng đội đang còn nằm dưới cỏ.

Bắt đầu cuộc trò chuyện với chúng tôi, CCB Dương Xuân Hà nhắc đi nhắc lại yêu cầu: “Đừng viết gì về tôi cả, hãy giúp tôi đưa thông tin về đồng đội lên báo. Biết đâu người thân của các anh đọc được để có thể đưa các anh về”. Gợi mở mãi chúng tôi mới kéo được ông trở về một trận đánh mà sau đó ông đã phải tự tay chôn cất 5 liệt sĩ.

Ngày 31-12-1972 tại làng Như Lệ, xã Hải Lệ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, chiến sĩ Dương Xuân Hà cùng đồng đội nhận nhiệm vụ bảo vệ chốt ở giữa làng. Gần sáng có một nhóm 5 chiến sĩ của Sư đoàn 312 mới về tăng cường sau khi chốt của họ ở phía trên bị địch đánh chiếm. Thế là hai nhóm sáp nhập thành một, chia ra ở hai chiếc hầm chữ A theo bố trí trận địa của đơn vị. Gần hết nửa ngày ở chốt, họ có dịp trò chuyện và biết tên của nhau. Đến gần trưa, địch bắt đầu đánh đến, phi pháo của chúng bắn liên hồi. Ở hầm bên này nhóm của Hà nhanh chóng chuẩn bị tác chiến. Bên kia cũng vậy. Nhưng khi súng vừa trên vai thì trúng hai quả phi pháo của địch. Căn hầm bên cạnh sập xuống. Nhóm của Hà vội chạy sang nhưng không kịp, cả năm đồng chí đều hy sinh.

CCB Dương Xuân Hà. Ảnh: Tuấn Tú.

Kể đến đây, giọng nói của CCB Dương Xuân Hà chợt trùng xuống. Ông lại nhớ về chuyện xưa. Sau khi chôn cất cho năm đồng chí hy sinh xong, ông cùng đồng đội lại vào vị trí chiến đấu. Hành quân đi khắp các chiến trường đến khi bị thương buộc phải xuất ngũ. Sau nhiều năm bươn chải, lăn lộn với cuộc sống, cứ tích cóp được ít tiền là ông tại tìm cách về lại chiến trường xưa, không gì ngoài mục đích kiếm tìm đồng đội. Cùng với ông, còn có anh Lâm, anh Thái – những người cùng đơn vị năm xưa, họ kết thành ban liên lạc hễ khi nào có đủ điều kiện là sẵn sàng lên đường.

Bắt đầu công việc tri ân đồng đội từ năm 2005 đến nay, chỉ bằng nguồn kinh tế tự có họ đã đưa được 4 trong số 5 liệt sĩ về nơi an nghỉ cuối cùng. CCB Dương Xuân Hà kể: “Năm đó khi chôn cất các đồng chí chúng tôi đã đánh dấu từng vị trí cụ thể. Sau nhiều năm làng Như Lệ vẫn không thay đổi nhiều nên việc tìm kiếm không khó khăn lắm. Anh Thoại nhà ở Hàng Khoai, Hà Nội; anh Ngọc quê ở Vân Đồn, Hà Nội đã được đưa vào nghĩa trang Quảng Trị rồi. Anh Vũ Trọng Kiêm gốc Khoái Châu, Hưng Yên và anh Hiệp người Thanh Trì, Hà Nội thì được đưa về quê nhà”.

Vậy là 4 liệt sĩ trong số năm người hy sinh đã được đồng đội và gia đình chuyển về nơi yên ấm hơn. Còn một người nữa. Sao anh vẫn còn nằm lại chân hàng rào gần căn hầm cũ. Ông Hà nói: “Vì năm đó chúng tôi không kịp trao đổi với nhau nhiều. Chỉ biết anh ấy tên là Hào, người Kinh Môn, Hải Dương gì đó. Khi hy sinh mọi thứ tan tác hết nên chúng tôi không tìm thấy giấy tờ tùy thân của anh ấy”.

CCB Dương Xuân Hà còn nhớ rõ, liệt sĩ Hào ngày đó khoảng chừng 20 tuổi, dáng người không cao lắm, da trắng, mặt nhiều mụn trứng cá. Cuộc trò chuyện ngắn ngủi chỉ vừa đủ cho ông biết anh là người kín đáo, chín chắn, vừa chiến đấu bên Lào về… Chưa kịp hiểu về nhau thì trúng pháo địch, anh Hào hy sinh.

Trong những phút cuối của buổi trò chuyện, người CCB ấy gửi tới chúng tôi mong muốn chân thành là tìm được thông tin về gia đình anh Hào để đưa anh trở về với quê nhà. Ông Hà nói: “Thà mình không nhìn thấy thì thôi, giờ biết đồng chí còn nằm đó, sao đành…”.

Từ những thông tin trong bài viết, bạn đọc và cộng tác viên nào biết về liệt sĩ Hào xin liên hệ với CCB Dương Xuân Hà theo số điện thoại 01662266407.

Bích Trang – Lê Na
qdnd.vn

Từ Hội thề Rừng Rong năm ấy

QĐND-Tại xã An Tịnh, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh có một địa danh đã được xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia, đó là Căn cứ cách mạng Rừng Rong. Tại đây, vào đêm 30 Tết Ất Dậu, nhằm ngày 1-2-1946, nhóm thanh niên yêu nước An Tịnh gồm 27 người, đã tổ chức cắt máu ăn thề, thành lập tổ chức cách mạng Hội thề Rừng Rong, tham gia kháng chiến chống Pháp. Một trong những thanh niên tham gia sáng lập Hội thề là Nguyễn Thới Bưng (Út Thới).

Khẩu súng Klip và trận chiến “Châu chấu đá xe”

Thật may mắn cho chúng tôi khi đang liên lạc để xin gặp Trung tướng Nguyễn Thới Bưng thì cũng là lúc nhà báo lão thành Đinh Phong và ê kíp làm phim đang thực hiện bộ phim tài liệu về vị tướng già miền Đông Nam Bộ. Ở tuổi 87, sức khỏe của Trung tướng Nguyễn Thới Bưng không cho phép ông làm việc nhiều. Mà cuộc đời binh nghiệp của ông thì mỗi giai đoạn gắn với những sự kiện lịch sử của quân đội và đất nước đều ăm ắp những tư liệu sống. Nhà báo Đinh Phong là người gần gũi, thân thiết với Trung tướng Nguyễn Thới Bưng từ nhiều năm nay. Tôi gặp nhà báo Đinh Phong để xin ông tư vấn, viết về Trung tướng Nguyễn Thới Bưng thì nên chọn giai đoạn nào để có một “lát cắt” điển hình? Nhà báo Đinh Phong nói: “Đó là giai đoạn khởi đầu sự nghiệp. Những giai đoạn lịch sử sau này có thể còn nhiều nhân chứng, nhiều tư liệu, nhưng thời kỳ Cách mạng Tháng Tám và Nam Bộ kháng chiến thì những chứng nhân lịch sử như Trung tướng Nguyễn Thới Bưng hiện còn rất ít. Những người làm báo, viết văn như chúng ta cần phải biết chạy đua với thời gian”.

Nhà báo Đinh Phong đã rất tận tình dẫn tôi đến gặp Trung tướng Nguyễn Thới Bưng và hỗ trợ, cung cấp cho tôi nhiều thông tin, tư liệu quý về vị tướng già trưởng thành từ thời kỳ tiền khởi nghĩa. Tác phẩm điện ảnh về Trung tướng Nguyễn Thới Bưng của nhà báo Đinh Phong đang trong giai đoạn gấp rút hoàn thành. Trong đó, ông dành thời lượng đáng kể tái hiện, khắc họa chân dung vị tướng của quê hương Tây Ninh trong thời kỳ đầu được giác ngộ cách mạng. Câu chuyện được lấy cảm hứng từ cụm công trình tưởng niệm ở Di tích Rừng Rong, nổi bật là tượng đài thể hiện hình tượng những thanh niên trai tráng, vạm vỡ, giơ cao cánh tay xin thề “Chết tự do hơn sống nô lệ” mà Nguyễn Thới Bưng là một nguyên mẫu nhân vật gắn với khu rừng huyền thoại này.

Trung tướng Nguyễn Thới Bưng kể chuyện với các nhà báo về ký ức Rừng Rong.

Dù tuổi cao, sức yếu nhưng Trung tướng Nguyễn Thới Bưng vẫn còn khá minh mẫn. Ông sinh năm 1925 nhưng trong hồ sơ thì khai sinh năm 1927. Ông kể: “Hồi đó tui đã quá tuổi đi học nên muốn đến trường thì phải khai “ăn gian” 2 tuổi. Hồi đó được đi học là một vinh dự lớn lắm”.

Nhưng rồi được một thời gian, người thanh niên Út Thới đã từ bỏ con đường học hành để đi theo cách mạng. Sự kiện đầu tiên ghi dấu tinh thần giác ngộ cách mạng của Út Thới là vào ngày 25-8-1945, anh hăng hái tham gia cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tại huyện Trảng Bàng. Tham gia vào lực lượng Thanh niên tiền phong An Tịnh từ tháng 7-1945 nhưng Trung tướng Nguyễn Thới Bưng lại lấy ngày 23-9-1945 làm ngày nhập ngũ. Chuyện này được ông giải thích: “Lớp bạn bè của tui ngày đó đều lấy ngày 23-9-1945 làm ngày nhập ngũ để kỷ niệm dấu mốc quan trọng trong cuộc đời mình”. Đó cũng là ngày tổ chức Giải phóng quân liên quận Hóc Môn – Bà Điểm – Đức Hòa tổ chức lực lượng tham gia Nam Bộ kháng chiến, quyết tâm chặn bước tiến của quân Pháp đánh vào tỉnh lỵ Tây Ninh. Út Thới tham gia vào Chi đội 12 thuộc tổ chức liên quận, do đồng chí Tô Ký làm Chi đội trưởng. Ngày 23-9-1945, khi thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, lực lượng Giải phóng quân liên quận ở Tây Ninh tổ chức triển khai đội hình, xây dựng các tuyến phòng thủ sẵn sàng chiến đấu. Trước đó, để chuẩn bị cho cuộc tấn công, quân đội Pháp yêu cầu lực lượng của Nhật ở Tây Ninh phá hoại các căn cứ, trận địa phòng tuyến của ta nhưng trước sự kháng cự quyết liệt của ta và ở cái thế rệu rã, bạc nhược của kẻ thất trận, giặc Nhật không làm gì được. Hưởng ứng lời kêu gọi đánh Pháp của Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam bộ, ngày 25-9-1945, Út Thới cùng lực lượng thanh niên Trảng Bàng gồm hơn 100 người lập phòng tuyến mặt trận Suối Sâu – chiến lũy địa đầu của tỉnh Tây Ninh, chặn đánh địch. Họ đào công sự, lập phòng tuyến phòng thủ linh hoạt và phục kích địch ở những nơi bất ngờ. Toàn đội chỉ có một khẩu súng Klip 12, còn lại là lựu đạn và những vũ khí thô sơ. Út Thới được cấp trên tin tưởng, tín nhiệm giao cho trọng trách sử dụng khẩu súng này. Ngày 8-11-1945, địch huy động đội hình hành quân lên đến hàng trăm xe quân sự, trong đó có nhiều xe tăng, bọc thép rầm rộ tiến quân theo Quốc lộ 1 (nay là Quốc lộ 22) từ Sài Gòn tiến lên Tây Ninh.

Trung tướng Nguyễn Thới Bưng nhớ lại thời khắc oanh liệt đó: “Nhìn thấy đoàn xe địch như những con trâu mộng ầm ầm tiến vào, từ phòng tuyến hai bên vệ đường, chúng tôi đồng loạt tung bộc phá, ném lựu đạn. Tôi nâng khẩu súng Klip nhắm thẳng vào những chiếc xe đi đầu nhả đạn. Địch trên xe bắn ra như vãi trấu. Trận chiến chẳng khác gì “châu chấu đá xe” nên chúng tôi không thể ngăn được bước tiến quân địch. Giặc Pháp sau đó đã chiếm được tỉnh lỵ Tây Ninh.

Vang danh Hội thề Rừng Rong

Sau khi chiếm đóng Tây Ninh, thực dân Pháp dựng lại bộ máy tay sai từ các chủ đồn điền phản động. Chúng tăng cường đàn áp, đốt nhà, bắn giết những người dân vô tội. Trước tình thế quân thù quá mạnh, Út Thới và đồng đội phải rút về rừng Rong xây dựng căn cứ, củng cố lực lượng. Toàn đội có 27 đồng chí, chia thành 4 nhóm. Út Thới làm trưởng của một nhóm. Anh em họp bàn bạc phương hướng tổ chức, đặt ra chương trình hành động cụ thể để phát triển lực lượng, tiến hành hoạt động chính trị kết hợp vũ trang, kháng chiến lâu dài. Trung tướng Nguyễn Thới Bưng hồi tưởng: “Phương châm hoạt động của đội vũ trang là dựa vào dân, tiến hành nhiều hình thức hoạt động uy hiếp tinh thần địch và tạo niềm tin cho nhân dân như trừ gian, giải tán Hội tề tay sai bù nhìn, tuyên truyền vận động cách mạng trên địa bàn 7 xã của huyện Trảng Bàng. Được sự đùm bọc của nhân dân, chúng tôi đã tổ chức thành công nhiều cuộc cướp súng địch để trang bị cho ta. Sau một thời gian chuẩn bị, chúng tôi đã có trong tay 17 khẩu súng, trong đó có 2 khẩu tiểu liên và nhiều lựu đạn. Đêm Giao thừa Tết Bính Tuất, trước sự chứng kiến của đông đảo bà con nhân dân An Tịnh, 27 chiến sĩ Rừng Rong tuyên bố thành lập tổ chức vũ trang lấy tên là “Hội thề Rừng Rong”. Đứng dưới cờ đỏ sao vàng, anh em cắt máu ăn thề quyết tử để Tổ quốc quyết sinh, đọc lời tuyên thệ gồm 5 lời thề do anh em tự viết:

1: Độc lập hay là chết. 2: Chết tự do hơn sống nô lệ: 3: Dù đầu râu tóc bạc vẫn còn chiến đấu. 4: Dù phải hy sinh đời cha thì con cháu tiếp tục chiến đấu. 5: Ai phản bội đầu hàng phải bị xử tử.

Gần 3 tháng sau, trước yêu cầu nhiệm vụ phải mở rộng địa bàn, tăng cường các hình thức hoạt động vũ trang, Hội thề chỉ để lại 8 đồng chí bám căn cứ Rừng Rong xây dựng cơ sở cách mạng, làm nòng cốt cho phong trào du kích địa phương. Út Thới và 18 đồng chí còn lại, do đồng chí Trần Văn Chói làm đội trưởng, gia nhập vào Chi đội 12 tham gia chiến đấu trên địa bàn Hóc Môn – Trảng Bàng. Cuộc kháng chiến chống Pháp diễn ra hết sức cam go. Khốc liệt nhất là những trận anh em tổ chức phục kích chống càn, chống quét của quân Lê Dương. Giữ trọn lời thề sắt son với Tổ quốc, anh em của Hội thề đã chiến đấu ngoan cường, lập nhiều chiến công xuất sắc. Trung tướng Nguyễn Thới Bưng kể: “Bây giờ, dù đã vào tuổi gần đất xa trời nhưng nghĩ đến anh em đồng đội ngày đó, tui vẫn không cầm lòng được. Chỉ trong 2 năm (1946 – 1947), trong số 19 anh em Hội thề gia nhập Chi đội 12, đã có đến 12 đồng chí hy sinh trong các trận đánh trên quê hương Trảng Bàng”.

Thanh

Cùng với hành trình gian nan, trường kỳ của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, những chiến sĩ trong Hội thề Rừng Rong về sau đã phát triển giữ những cương vị trọng trách trong các tổ chức chính quyền, cơ quan, đơn vị. Người chiến sĩ Nguyễn Thới Bưng ngày ấy sau này là Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Vị tướng già tâm sự với chúng tôi, giọng bùi ngùi: “Hội thề Rừng Rong ngày ấy, bây giờ chỉ còn lại 4 người, hiện đều sinh sống ở tỉnh Tây Ninh. Đó là anh Lâm Quang Vinh, anh Tô Văn Ri, chị Trần Thị Đường và tui. Cứ vào dịp đầu Xuân hằng năm, anh chị em tụi tui lại tụ hội về chiến trường xưa, dâng hương tri ân đồng đội. Mấy năm trước còn đi được đông đủ nhưng dịp Tết vừa rồi, chỉ có 3 anh em tui, còn chị Đường không đi được vì sức khỏe yếu. Chẳng ai chống được quy luật nghiệt ngã của thời gian. Điều khiến tụi tui thấy ấm lòng là thế hệ trẻ hôm nay ngày càng có nhiều người quan tâm, tìm hiểu, đề cao giá trị của lịch sử, truyền thống. Mỗi lần gặp đồng đội cũ, thăm chiến trường xưa hay có những cuộc tiếp xúc như thế này, tui lại thấy cái thời trai trẻ ấy vẫn đang ở trong tim mình”.

Bia đá, tượng đài đã được xây dựng, uy nghi, hùng tráng giữa đất trời An Tịnh. Di tích lịch sử cấp quốc gia này đã trở thành một địa chỉ về nguồn, hằng năm thu hút hàng vạn lượt du khách đến tham quan, tưởng niệm. Trên văn bia vinh danh các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống trên mảnh đất An Tịnh, có đến 54 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, 7 Anh hùng LLVT nhân dân, hơn 1000 liệt sĩ. Tất cả đều là những người chiến sĩ kiên trung đã ngã xuống trên mảnh đất An Tịnh đầy máu và hoa.

Bài và ảnh: Hạnh Dương
qdnd.vn

Đô đốc Giáp Văn Cương trong ký ức của những người giữ biển

QĐND-Đô đốc Giáp Văn Cương, nguyên Tư lệnh Quân chủng Hải quân được các thế hệ cán bộ, chiến sĩ hải quân kính trọng, bởi ông là một vị tướng có tầm nhìn chiến lược với những quyết sách táo bạo, đúng đắn. Ông cũng là một tấm gương về lòng nhân ái, có lối sống trung thực, thẳng thắn, giản dị và tiết kiệm.

Vị Tư lệnh có tầm nhìn chiến lược

Đại tá Nguyễn Trương, nguyên Chánh Văn phòng Bộ tư lệnh Hải quân-kiêm Bí thư cho Đô đốc Giáp Văn Cương xúc động khi nhớ lại những ngày tháng được giúp việc cho Tư lệnh: “Dường như Tư lệnh không có ngày nghỉ. Ông luôn dành nhiều thời gian và tâm huyết theo dõi và nắm chắc tình hình biển, đảo để có cơ sở vững chắc hoạch định chính xác phương hướng xây dựng Quân chủng Hải quân vững mạnh toàn diện. Chính vì vậy, từ những ngày đầu làm Tư lệnh Quân chủng Hải quân, Đô đốc Giáp Văn Cương đã có những quyết sách đúng đắn, đề ra phương hướng xây dựng hải quân toàn diện, đồng bộ, có nhiều thành phần lực lượng, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo”.

Ngay từ khi nhận nhiệm vụ Tư lệnh Quân chủng Hải quân, Đô đốc Giáp Văn Cương chỉ đạo tập trung xây dựng lực lượng tàu mặt nước phù hợp với nền kinh tế của đất nước và điều kiện biển, đảo của Việt Nam, trong đó quan tâm đặc biệt đến việc đào tạo và sử dụng đội ngũ cán bộ thuyền. Xác định đất nước ta có bờ biển dài và có nhiều đảo xa bờ nên ông quan tâm đến lực lượng Hải quân đánh bộ, đặc công nước, pháo binh – tên lửa bờ biển. Các lực lượng này giữ vai trò quan trọng trong cấu thành lực lượng của hải quân hiện đại nói chung và Hải quân nhân dân Việt Nam nói riêng.

Đô đốc Giáp Văn Cương (ngoài cùng, bên trái) đón Đại tướng Lê Đức Anh thăm Trường Sa.

Trong tầm nhìn chiến lược của mình, Đô đốc Giáp Văn Cương cho rằng: Hải quân Việt Nam không thể thiếu các binh chủng không quân hải quân và tàu ngầm. Cùng với việc xây dựng các trung đoàn, lữ đoàn cơ động trực thuộc Quân chủng vững mạnh toàn diện, ông luôn quan tâm đến chất lượng các căn cứ, các vùng hải quân, các lữ đoàn thuộc vùng và các cơ sở bảo đảm kỹ thuật trên bờ để phục vụ các lực lượng của vùng, của Quân chủng thực hiện nhiệm vụ một cách tốt nhất.

Nhiều cán bộ cao cấp của hải quân làm việc cùng thời với Tư lệnh Giáp Văn Cương đều nói rằng: Những năm làm Tư lệnh Quân chủng Hải quân, ông đặc biệt quan tâm đến hoạt động tác chiến. Để các lực lượng tác chiến thực hiện nhiệm vụ có hiệu quả, xử lý nhanh nhạy các tình huống trên biển, ông chỉ đạo cơ quan, đơn vị chăm lo bổ sung, kiện toàn, mở rộng và nâng cấp lực lượng bảo đảm cho tác chiến như: Thông tin, ra-đa, quan sát biển, trinh sát, bảo đảm hàng hải, công binh chiến đấu… Trong điều kiện đất nước ta còn nghèo, vũ khí trang bị của hải quân còn nhiều mặt hạn chế, chưa theo kịp yêu cầu nhiệm vụ, phải phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong Quân chủng, đồng thời phải huy động sức mạnh tổng hợp của cả nước để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

Vị tướng của Trường Sa, nhà giàn DK1

Ở Trường Sa và nhà giàn DK1 cuối những năm 80 của thế kỷ 20, không ai có thể quên hình ảnh vị tướng già mặc quần đùi đu lên nhà giàn quá đơn sơ lúc ấy để kiểm tra độ an toàn cho chiến sĩ, rồi vị Tư lệnh 68 tuổi chào cờ cùng anh em và xắn quần lặn lội để kiểm tra việc gia cố nhà giàn cho đảo chìm… Trong xây dựng lực lượng phòng thủ trên biển, điều ông rất quan tâm là bảo vệ thềm lục địa phía Nam. Theo đề nghị của ông, ngày 5-7-1989, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra chỉ thị về việc xây dựng Cụm Kinh tế – Khoa học – Dịch vụ, tiếp tục khẳng định quyền chủ quyền của Việt Nam đối với khu vực thềm lục địa của Tổ quốc. Chủ trương này có ý nghĩa vô cùng to lớn, cả trước mắt và lâu dài.

Thẳng thắn, giản dị và tiết kiệm

Đối với cấp trên cũng như cấp dưới, ông luôn thẳng thắn góp ý phê bình. Ông ghét những kẻ nịnh bợ, kéo bè, kéo cánh. Ông là người bao dung và độ lượng, hiểu thấu những khó khăn của cấp dưới, không trù dập những người mắc khuyết điểm.

Ông rất thích những người dám tranh luận phân biệt đúng sai, luôn lắng nghe ý kiến cấp dưới để giải quyết có tình, có lý.

Tư lệnh Giáp Văn Cương kiểm tra sẵn sàng chiến đấu tại Trường Sa, tháng 5-1988. Ảnh tư liệu.

Một hôm, Tư lệnh Giáp Văn Cương cùng một số cán bộ cơ quan Quân chủng xuống kiểm tra Tàu HQ-01. Khi phát hiện bệ tên lửa cải tiến han gỉ, ông nhắc anh em trên tàu: Lần sau tôi xuống kiểm tra các đồng chí còn để vũ khí han gỉ thế này sẽ bị kỷ luật. Nghe vậy, một đồng chí phó thuyền trưởng đã ý kiến: Báo cáo Tư lệnh, nếu cấp trên cung cấp đầy đủ vật tư, dầu mỡ cho chúng tôi mà Tư lệnh kiểm tra vẫn thấy han gỉ thì chúng tôi hoàn toàn chịu kỷ luật. Nhưng nếu cấp trên không cung cấp đầy đủ mà Tư lệnh kỷ luật thì oan cho chúng tôi quá.

Lúc này, ông quay sang hỏi đồng chí Chủ nhiệm Cục Kỹ thuật Hải quân: “Anh Phúc đã nghe rõ anh em nói gì chưa?”.

Là một Đô đốc nhưng Giáp Văn Cương luôn sống cuộc sống giản dị và tiết kiệm. Đại tá Nguyễn Trương kể: “Mỗi khi đi công tác xa, Đô đốc Giáp Văn Cương luôn nói với vợ chuẩn bị cơm nắm, tôm rang thịt, lọ muối lạc và bi đông nước sôi để nguội. Tôi chưa bao giờ thấy ông vào quán ăn khi đi công tác, dù lúc đó đến bữa hoặc quá bữa, ông đều về nhà hoặc đến đơn vị để ăn. Ông thường dặn lái xe khi nào đường vắng, có bóng cây mát đến giờ ăn dừng chân để cùng ăn, trong đó có tôi, y sĩ và lái xe”.

Năm 1986, khi đất nước chuyển sang cơ chế thị trường, Tư lệnh Giáp Văn Cương vẫn sống một cuộc đời bình dị. Ông vẫn sử dụng ti-vi đen trắng với những tiện nghi sinh hoạt hết sức bình thường.

Đô đốc Giáp Văn Cương sinh năm 1921 tại thôn Thép Thượng, xã Bảo Đài, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. Ông giữ nhiều chức vụ quan trọng trong quân đội như: Cán bộ chỉ huy cấp sư đoàn, quân khu, Phó tư lệnh mặt trận Quảng Đà, Phó tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Tháng 3-1977, ông được cấp trên điều về làm Tư lệnh Quân chủng Hải quân. Năm 1988, ông được phong Đô đốc đầu tiên của Hải quân nhân dân Việt Nam. Ông mất năm 1990. Ngày 7-5-2010, ông được truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân.

Trịnh Văn Dũng
qdnd.vn

Phó đô đốc Đỗ Xuân Công nhớ về trận đầu đánh thắng

Xứng danh Bộ đội Cụ Hồ

QĐND-Chúng tôi gặp Phó đô đốc Đỗ Xuân Công, nguyên Tư lệnh Quân chủng Hải quân khi ông ở Thành phố Hồ Chí Minh ra thăm lại những người bạn ở thành phố Hải Phòng. Tuy đã trở về với đời thường nhưng hình ảnh về chiến thắng trận đầu ngày 2 và ngày 5-8-1964 của Hải quân nhân dân Việt Nam luôn hiện hữu trong lòng vị tướng.

Ngày 5-8-1964, Tàu T-161 của ông và đồng đội đang đậu tại cảng Sông Gianh chuẩn bị vũ khí, lương thực thực phẩm sẵn sàng chiến đấu thì nhận được thông báo: Để ngăn chặn chi viện của miền Bắc đối với chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ sẽ tập kích bằng không quân vào các mục tiêu quân sự của ta ở miền Bắc, nhất là các quân cảng và tàu của Hải quân. Vì vậy, toàn bộ lực lượng của Hải quân được chuyển sang trạng thái thời chiến. Các tàu Hải quân ở cảng sông Gianh triển khai sơ tán theo đội hình phòng không. Chỉ có tàu trực ban chiến đấu là được đỗ tại cảng. Hôm ấy Tàu T-161 mới sửa chữa xong nên đỗ tại cảng để tiếp nhận nhiên liệu, đạn dược và lương thực thực phẩm. Cán bộ, thủy thủ của tàu làm việc không kể thời gian giờ giấc; ai cũng động viên nhau cố gắng làm việc thật nhanh để sẵn sàng chiến đấu. Lúc đó, Phó đô đốc Đỗ Xuân Công là Binh nhất, Tiểu đội trưởng hàng hải (lái chính) của tàu. Bỗng tiếng kẻng báo động vang lên. Các tàu đồng loạt kéo còi báo động phòng không làm náo động cả một dòng sông. Binh nhất Đỗ Xuân Công vác quả bom chìm nặng khoảng 30kg chạy về tàu đặt vào giá cố định thì vừa đúng lúc nghe lệnh của Thuyền trưởng Nguyễn Duy Khiêm:

– Rời bến khẩn cấp!

Phó Đô đốc Đỗ Xuân Công (giữa) gặp lại CCB Hải quân tại Hải Phòng. Ảnh do nhân vật cung cấp.

Đỗ Xuân Công vội nhảy vọt lên đài chỉ huy và lái tàu rời bến theo lệnh của thuyền trưởng. Tàu T-161 vừa rời khỏi vị trí neo đậu thì đúng lúc tiếng bom nổ ầm ầm bên cạnh. Từng cột nước tung lên rồi đổ xuống rào rào như trận mưa lớn. Các tàu của ta gần như đồng loạt nổ súng đánh trả rất quyết liệt vào các “Thần sấm”, “Con ma” của Mỹ. Lúc đó vào khoảng 12 giờ 20 phút ngày 5-8-1964. Đỗ Xuân Công vừa lái tàu vừa quan sát bầu trời để kịp thời báo cáo hướng mục tiêu cho thuyền trưởng. Máy bay phản lực Mỹ gầm rú và thay nhau từng chiếc một bổ nhào thả bom và bắn súng 20,6mm như vãi đạn xuống dòng sông Gianh. Các loại pháo 40mm, 37mm, 20mm, 14,5mm của ta trên các tàu 79 tấn của Phân đội 7, Phân đội 5, Phân đội 6 đồng loạt bắn xối xả vào các máy bay của Mỹ. Bầu trời như xé ra từng mảng, lưới đạn của ta dày đặc. Đỗ Xuân Công lái tàu theo lệnh thuyền trưởng để vừa bảo đảm phát huy được hết hỏa lực trên tàu đồng thời tránh được các đợt thả bom của máy bay địch. Đợt chiến đấu chỉ diễn ra khoảng vài chục phút, các máy bay Mỹ rút chạy ra hướng biển. Các tàu của ta nhanh chóng củng cố sức chiến đấu, giải quyết vấn đề thương binh liệt sĩ và sơ bộ rút kinh nghiệm sau đợt chiến đấu vừa rồi. Mọi người kiểm tra vũ khí, máy móc rất khẩn trương để chuẩn bị sẵn sàng cho đợt chiến đấu tiếp theo.

Đúng như dự đoán của cấp trên, vào khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, từng tốp máy bay Mỹ lại bổ nhào ném bom xuống dòng sông Gianh. Bầu trời và dòng sông lại ầm ầm những tiếng bom rơi đạn nổ xen lẫn nhưng tiếng gầm rú xé tai của máy bay phản lực Mỹ. Do đã có kinh nghiệm nên các tàu chiến đấu đĩnh đạc hơn, pháo bắn đồng loạt và giòn giã hơn nên máy bay địch không dám xuống thấp. Đợt chiến đấu này cũng chỉ diễn ra vài chục phút rồi máy bay Mỹ lại tháo chạy ra biển, để lại đằng sau 2 chiếc bị bắn rơi xuống cửa sông Gianh. Trong trận chiến đấu này có rất nhiều gương chiến đấu dũng cảm. Có đồng chí bị thương nặng vào chân nhưng vẫn tự băng bó rồi tiếp tục giữ vững vị trí. Có đồng chí bị thương vào bụng nhờ đồng chí khác băng bó lại rồi tiếp tục chiến đấu…

Những tấm gương chiến đấu dũng cảm của đồng chí, đồng đội trên con tàu T-161 như ngọn lửa thiêng thôi thúc Binh nhất Đỗ Xuân Công phấn đấu vươn lên hoàn thành nhiệm vụ trong suốt cuộc đời binh nghiệp của mình. Từ một binh nhất, ông đã trở thành Tư lệnh Hải quân nhân dân Việt Nam. Ông là một vị tướng nhân hậu, mẫn cán và dành trọn đời mình cho sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc.

Trịnh Văn Dũng
qdnd.vn