Tag Archive | CAND

Bước phát triển mới trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ

Chủ tịch nước Trương Tấn Sang kết thúc tốt đẹp chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ:

Từ ngày 23 tới ngày 26/7, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã sang thăm chính thức Hoa Kỳ theo lời mời của Tổng thống Barack Obama.

Tiếp tục đọc

Chính kiến và sự thẳng thắn

Quá trình lấy ý kiến về bản dự thảo Hiến pháp, mọi người được tự do thể hiện quan điểm, chính kiến của mình về mọi quy định trong dự thảo và có thể đề xuất phương án sửa đổi, bổ sung đối với những quy định này.

Tiếp tục đọc

Cần bổ sung cơ chế hợp lý, nhằm huy động được sức mạnh cao nhất từ nhân dân phục vụ cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc

Đại Tá, PGS, TS KHQS Trần Nam Chuân
Có nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó, vấn đề cơ bản nhất là chưa có cơ chế hợp lý để huy động được sức mạnh tổng hợp từ nhân dân tham gia sự nghiệp BVTQ. Do vậy, Điều 48 Hiến pháp 1992 cần được bổ sung cơ chế hợp lý, nhằm huy động được sức mạnh cao nhất từ nhân dân phục vụ cho sự nghiệp BVTQ.

Cả lý luận và thực tiễn trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc Việt Nam đều khẳng định: Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (BVTQ).

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI thông qua năm 2011, đã khẳng định: “Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển, đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh”, Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội 2011, Tr. 233.

Đảng ta nêu ra định hướng về mục tiêu, nhiệm vụ BVTQ là rất cơ bản và toàn diện, bao gồm cả việc xác định phạm vi, đối tượng bảo vệ và xác định mức độ, tính chất BVTQ là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững hoà bình, ổn định chính trị và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Chỉ đạo chặt chẽ việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, gắn với thế trận an ninh nhân dân và thế trận biên phòng toàn dân trên các địa bàn chiến lược biên giới, biển đảo, góp phần quan trọng vào quản lý bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới của Tổ quốc.

Thực tế chỉ ra rằng, từ khi Đảng ta ra đời cũng như trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, chưa bao giờ các thế lực thù địch từ bỏ âm mưu, hoạt động nhằm gạt bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiến tới lật đổ chính quyền, xóa bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam. Trong Hiến pháp nêu rõ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp BVTQ là cơ sở pháp lý không chỉ đảm bảo quyền lãnh đạo của Đảng mà còn để trừng trị những cá nhân, tổ chức có âm mưu đòi xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp năm 1992 của Nhà nước ta, xóa bỏ chế độ Nhà nước của dân, do dân và vì nhân dân.

Bởi vậy, Cương lĩnh 2011 (bổ sung, phát triển) tăng cường vai trò lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với nhiệm vụ BVTQ trong sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cần xác định những nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, kiên định nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh và lực lượng vũ trang nhân dân. Cần tiếp tục thể chế hóa, hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc cơ chế, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các lực lượng vũ trang nhân dân.

Thứ hai, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng một cách tuyệt đối, trực tiếp và toàn diện đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Hoàn thiện sửa đổi Hiến pháp 1992, ngoài giữ Điều 4 Hiến pháp năm 1992 cần khẳng định: “Quân đội nhân dân, Công an nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước”.

Thứ ba, cần quy định cụ thể trong Hiến pháp trách nhiệm, nghĩa vụ của mọi công dân, tổ chức, cơ quan đối với sự nghiệp BVTQ. Quan điểm nhất quán của Đảng ta là: “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia là sự nghiệp của toàn dân”.

Theo Cương lĩnh 2011 thì “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt”. Vì vậy, cần bổ sung những nội dung mới của Cương lĩnh 2011 vào Điều 44 để xác định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội là sự nghiệp của toàn dân”.

Chính vì vậy trong Hiến pháp sửa đổi, bổ sung cần xác định trách nhiệm của công dân, tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp trong việc tham gia BVTQ, góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân cũng như thể chế hóa việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp với thế trận an ninh nhân dân.

Thứ tư, Hiến pháp sửa đổi, bổ sung cần khẳng định nội dung: Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo đảm gắn kết chặt chẽ hiệu quả giữa tăng cường quản lý của Nhà nước, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN.

Quan điểm này cần được quán triệt trong sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 nhằm nâng cao hiệu quả quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với nhiệm vụ BVTQ theo hướng bổ sung vào các chương, điều những nội dung như: tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về quốc phòng, an ninh; xây dựng hoàn thiện cơ chế, chính sách, phương án, Chiến lược quốc phòng, Chiến lược an ninh quốc gia; xây dựng tổ chức bộ máy Nhà nước theo hướng tập trung thống nhất và xây dựng tiềm lực quốc phòng BVTQ.

Thứ năm, về phát huy sức mạnh của nhân dân tham gia sự nghiệp BVTQ, Điều 48 Hiến pháp 1992 có ghi rõ: “Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân; giáo dục quốc phòng cho toàn dân;…”. Thực tế trong thời gian qua, chúng ta cơ bản đã phát huy được vai trò của nhân dân trong sự nghiệp BVTQ, song không phải lúc nào cũng huy động được 100% sức mạnh này.

Có nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó, vấn đề cơ bản nhất là chưa có cơ chế hợp lý để huy động được sức mạnh tổng hợp từ nhân dân tham gia sự nghiệp BVTQ. Do vậy, Điều 48 Hiến pháp 1992 cần được bổ sung cơ chế hợp lý, nhằm huy động được sức mạnh cao nhất từ nhân dân phục vụ cho sự nghiệp BVTQ.

Bổ sung, sửa đổi Hiến pháp 1992 là việc làm đặc biệt hệ trọng và cần thiết, đòi hỏi các tổ chức chính trị – xã hội, mọi tầng lớp nhân dân trên phạm vi cả nước cần phát huy trí tuệ, sáng tạo, góp phần thiết thực xây dựng “đạo luật gốc” tương xứng với tầm vóc phát triển của đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế

T.N.C.

Theo cand.com.vn
Vkyno (st)

Vạch trần thủ đoạn của thế lực thù địch phá hoại Hiến pháp (Bài 3)

Sự thật về những người ở Thái Bình có tên trong bản kiến nghị sửa đổi Hiến pháp trên mạng Internet

Thời gian qua, trên một số trang mạng xuất hiện cái gọi là“Dự thảo Hiến pháp 2013” và một số ý kiến ký tên tập thể, góp ý bản sửa đổi Hiến pháp 1992 đòi bỏ điều 4 Hiến pháp năm 1992, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện chế độ đa nguyên, đa đảng; đề nghị tam quyền phân lập; áp dụng quyền sở hữu tư nhân về đất đai… Trong bản danh sách này có nhiều người ở tỉnh Thái Bình. Vậy, thực chất người ký tên ủng hộ bản kiến nghị được nêu là thật hay là giả?

Theo đăng tải trên các trang mạng xã hội, đã có rất nhiều nông dân, học sinh, sinh viên ở các tỉnh Hà Tĩnh, Nghệ An, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình… ký tên vào bản kiến nghị này.

Tuy nhiên, tên của những người này chỉ được giới thiệu một cách chung chung, không hề có địa chỉ cụ thể. Lãnh đạo tỉnh Thái Bình đã chỉ đạo các ngành chức năng tiến hành kiểm tra, xác minh tại những địa phương được cho là có nhiều người ký tên vào “bản kiến nghị ma” này.

Qua tìm hiểu trong số hơn 100 người có tên trong bản danh sách thì có tới 3/4 tên không có địa chỉ. Những người nông dân ở Thái Bình khi được hỏi đều không hề hay biết rằng việc họ đã ký tên vào một bản kiến nghị Hiến pháp mà họ không biết đó là gì? Họ đều cho rằng họ không có điều kiện truy cập Internet và nếu có thì việc nắm Hiến pháp còn rất hạn chế.

Bà con nông dân ở Thái Bình phần đông không thạo việc truy cập mạng. Nếu biết thì cũng chẳng có thời gian cho việc này vì còn bận rộn việc sản xuất, làm ăn, chưa nói đến việc có thời gian tìm hiểu rồi ký tên ủng hộ hay phản đối điều này điều khác. Những người nông dân “một nắng hai sương” của mảnh đất giàu truyền thống cách mạng Thái Bình đã và đang tham gia góp ý đầy trách nhiệm vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, đều đánh giá cao vai trò lãnh đạo của Đảng, tính ưu việt của chế độ ta.

Với nhiều người nông dân quanh năm chân lấm tay bùn ở Thái Bình, không hiểu biết nhiều về mạng Internet, thế nhưng lại ký tên trên mạng để ủng hộ cho một bản kiến nghị mà theo họ là đi ngược lại với lợi ích của dân tộc, của đất nước thì quả là điều hết sức phi lý!

Đây thực sự chỉ là những con số ảo không có thực, là một sự giả mạo, ngụy tạo, được tạo nên theo cách có chủ đích với dã tâm xấu nhằm thực hiện những mưu đồ đen tối của một số người.

Trong bản danh sách ký vào bản kiến nghị có tên “Linh mục Phạm Nguyên Hồng”, Giáo xứ chính tòa, thành phố Thái Bình. Về việc này, Linh mục Nguyễn Phúc Hạnh, Chánh xứ nhà thờ chính tòa Thái Bình, linh mục Nguyễn Văn Thoan, Chủ tịch Hội đồng giáo xứ nhà thờ chính tòa Thái Bình đều khẳng định, từ trước tới nay ở Thái Bình không có ai là linh mục Phạm Nguyên Hồng, rằng các chức sắc Công giáo địa phận Thái Bình đều rất bức xúc trước những thông tin bịa đặt trên.

Đại đức Thích Thanh Hòa, Ủy viên Ban Trị sự Phật giáo Trung ương, Trưởng ban Trị sự Phật giáo tỉnh Thái Bình cho biết: “Trong thời gian qua, trên một số trang mạng, nhiều kẻ đã lợi dụng, mạo danh các chức sắc tôn giáo, có những tiếng nói đi ngược lại với lợi ích của đất nước, của nhân dân. Chúng tôi hoàn toàn phản đối và đề nghị các cơ quan chức năng làm sáng tỏ sự việc và vạch trần bộ mặt những kẻ lợi dụng sự kiện chính trị góp ý vào bản Hiến pháp sửa đổi năm 1992 để làm xấu đi hình ảnh của đất nước, làm giảm vai trò, uy tín lãnh đạo của Đảng đối với dân tộc Việt Nam… Đề nghị các cơ quan bảo vệ pháp luật ở Thái Bình điều tra, xác minh làm rõ và xử lý nghiêm minh những đối tượng này”.

Về việc có gần 30 tên trong danh sách là giảng viên, sinh viên, học sinh Trường Đại học Công nghiệp TP Hồ Chí Minh (chi nhánh Thái Bình), thầy giáo Vũ Thanh Hải, Trưởng khoa Công nghệ Trường Đại học Công nghiệp TP Hồ Chí Minh cơ sở phía Bắc, xã Tân Bình, TP Thái Bình nói: “Nhà trường chúng tôi đã rà soát tất cả danh sách cán bộ, đảng viên và sinh viên. Chúng tôi khẳng định tập thể cán bộ giáo viên, sinh viên của nhà trường không có bất kỳ ai có tên và có ý kiến trái chiều đi ngược lại với chủ trương đúng đắn của Đảng, pháp luật của Nhà nước, với lợi ích của đất nước, dân tộc”.

Theo Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Thái Bình, hiện các tổ chức thành viên từ tỉnh đến cơ sở đã cơ bản hoàn thành việc tổ chức lấy ý kiến các đoàn viên, hội viên góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến Pháp 1992.

Tính đến ngày 10/3/2013, tỉnh đã tổ chức trên 3.000 hội nghị lấy ý kiến, với trên 120.000 cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên tham gia, đóng góp trên 23.000 lượt ý kiến. Trong đó không có một ý kiến nào từ các tầng lớp nhân dân trong tỉnh đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo đất nước của Đảng trong Dự thảo Hiến pháp sửa đổi 1992 cũng như đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, đòi phi chính trị hóa Quân đội, Công an…

Không những thế còn có hàng nghìn ý kiến đề nghị nêu rõ trong Hiến pháp: “Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo duy nhất Nhà nước và toàn xã hội Việt Nam”…

Như vậy, việc giả mạo, ngụy tạo tên người dân kiến nghị sửa đổi Hiến pháp 1992 hiện đang phát tán trên một số trang mạng nhằm tạo sức ép với Đảng và Nhà nước, bộc lộ thủ đoạn làm méo mó, biến dạng việc dân chủ lấy ý kiến đóng góp cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, là động cơ chính trị đen tối. Sự lừa dối thâm độc đó cần phải được vạch trần, lên án và xử lý nghiêm minh.

Đại đức Thích Thanh Hòa – Ủy viên Ban Trị sự Phật giáo Trung ương, Trưởng ban Trị sự Phật giáo tỉnh Thái Bình:

“Trong thời gian qua, trên một số trang mạng, nhiều kẻ đã lợi dụng, mạo danh các chức sắc tôn giáo, có những tiếng nói đi ngược lại với lợi ích của đất nước, của nhân dân. Chúng tôi hoàn toàn phản đối và đề nghị các cơ quan chức năng làm sáng tỏ sự việc và vạch trần bộ mặt những kẻ lợi dụng sự kiện chính trị này làm xấu đi hình ảnh của đất nước, làm giảm vai trò, uy tín lãnh đạo của Đảng đối với dân tộc Việt Nam… Đề nghị các cơ quan bảo vệ pháp luật ở Thái Bình điều tra, xác minh làm rõ và xử lý nghiêm minh những đối tượng này”.

Linh mục Nguyễn Phúc Hạnh – Chánh xứ nhà thờ chính tòa Thái Bình:

“Chúng tôi rất bức xúc với thông tin có một số chức sắc công giáo ở Thái Bình ký tên vào bản kiến nghị sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Đó là sự bịa đặt, gian dối trắng trợn. Các chức sắc và bà con có đạo ở Thái Bình luôn tâm niệm phấn đấu sống tốt đời đẹp đạo, kính Chúa yêu nước, chấp hành tốt các chính sách của Nhà nước, của địa phương… Chúng tôi đề nghị chính quyền và các cơ quan hữu trách phải làm sáng tỏ sự thật, lôi những kẻ có mưu đồ đen tối ra trước pháp luật và trừng trị thích đáng…”.

Thầy giáo Vũ Thanh Hải – Trưởng khoa Công nghệ Trường Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh khu vực phía Bắc, xã Tân Bình, thành phố Thái Bình:

“Đảng ủy và Ban Giám hiệu nhà trường luôn làm tốt công tác nắm tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên, giáo viên, sinh viên. Những năm qua nhà trường chúng tôi đã có nhiều đóng góp tích cực, hiệu quả đối với sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nói chung và sự nghiệp giáo dục nói riêng.

Không có chuyện giảng viên, sinh viên của trường ký tên vào bản kiến nghị sửa đổi Hiến pháp năm 1992 như một số trang mạng đăng tải. Chúng tôi kịch liệt phản đối và lên án hành động lừa bịp đó…”.

Hồ Tuyên

Theo cand.com.vn
Vkyno (st)

Phòng, chống khuynh hướng “phi chính trị hóa lực lượng vũ trang” ở nước ta hiện nay

Thiếu Tướng, GS.TS Nguyễn Xuân Yêm
Trong thời gian vừa qua, lợi dụng quá trình đóng góp ý kiến vào bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, một số cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí trong và ngoài nước đã đưa ra những ý kiến, quan điểm sai trái, thậm chí đi ngược lại với lợi ích của quốc gia, dân tộc, như: đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi bỏ Điều 4 của Hiến pháp năm 1992, đòi Việt Nam thực hiện chế độ đa nguyên, đa đảng; đòi tam quyền phân lập; đòi tư hữu hóa đất đai, các nguồn tài nguyên thiên nhiên; họ đòi “phi chính trị hóa” các lực lượng vũ trang nhân dân…

Trong đó, luận điệu “phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân và Công an nhân dân được họ xác định là một nội dung trọng tâm để chống phá Đảng và Nhà nước.

Bản chất của luận điểm “phi chính trị hóa lực lượng vũ trang” là quân đội và công an phải trung lập, đứng ngoài chính trị; quân đội, công an không thuộc một đảng phái chính trị nào. Quân đội, công an chỉ trung thành với quốc gia, dân tộc, với nhân dân, có nhiệm vụ chống ngoại xâm bảo vệ đất nước, bảo vệ chính quyền nhà nước, bảo vệ hiến pháp, chứ không trung thành với một đảng chính trị nào.

Lịch sử thế giới đương đại cho chúng ta những bài học rất sâu sắc về vấn đề này. Vào những thập niên cuối thế kỷ XX, sau khi những người lãnh đạo Đảng, Nhà nước Liên Xô tuyên bố xóa bỏ Điều 6 Hiến pháp quy định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô, chấp nhận đa nguyên, đa đảng và sau đó là chấp nhận xóa bỏ cơ chế lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô đối với quân đội, an ninh, nội vụ làm cho Quân đội Xôviết, cơ quan An ninh, nội vụ Xôviết bị “phi chính trị hóa” và bị vô hiệu hóa. Đó là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới sự sụp đổ và tan rã của chế độ xã hội chủ nghĩa Liên Xô vào cuối năm 1991.

Để hiểu rõ vấn đề này, cần xem xét về nhà nước và quân đội, công an trong bộ máy nhà nước. Nhà nước, xét về bản chất trước hết là bộ máy trấn áp đặc biệt của giai cấp này đối với giai cấp khác, là một bộ máy duy trì sự thống trị giai cấp. Quân đội, công an là lực lượng đặc biệt của một giai cấp, là công cụ bạo lực vũ trang chủ yếu của nhà nước nhằm thực hiện mục đích chính trị và cuối cùng là mục đích kinh tế của giai cấp. Quân đội, công an xuất hiện và tồn tại gắn liền với chính trị, bị chi phối bởi chính trị, là công cụ thực hiện mục tiêu chính trị ấy.

Mọi hoạt động của quân đội, công an đều bị quy định bởi chính trị và phụ thuộc vào chính trị. Chính trị quy định bản chất, chức năng, nhiệm vụ, các mối quan hệ cơ bản của quân đội, công an như quan hệ với giai cấp, với chế độ xã hội, với nhân dân, dân tộc. Quân đội, công an bao giờ cũng gắn chặt với giai cấp, nhà nước đã sinh ra nó, mang bản chất giai cấp sâu sắc. Những người hô hào quân đội, công an chỉ là của nhà nước, nên cần “phi chính trị, đứng ngoài chính trị” đã cố tình bỏ qua bản chất giai cấp của nhà nước, quân đội, công an…

Trong tác phẩm nổi tiếng “Nguồn gốc của gia đình, chế độ tư hữu và của Nhà nước”, Ph.Ănghen đã viết: “thành lập một đội cảnh binh là cần thiết… Nó không phải chỉ gồm những người được vũ trang mà còn gồm những công cụ vật chất phụ thêm nữa, như nhà tù và đủ các loại cơ quan cưỡng bức mà xã hội thị tộc không hề biết đến” (C.Mác, Ph.Ănghen: Tuyển tập, tập VI, NXB Sự thật, Hà Nội 1984, tr.184). Ph.Ănghen còn khẳng định tiếp: “Không có cảnh sát, nhà nước không thể tồn tại được” (Sách đã dẫn, trang 184).

Theo V.I.Lenin, sự nghiệp cách mạng “Cần có một quân đội cách mạng vì những vấn đề lịch sử vĩ đại chỉ có thể được giải quyết bằng vũ lực mà trong cuộc đấu tranh hiện đại thì tổ chức vũ lực có nghĩa là tổ chức quân sự”. Sau Cách mạng Tháng Mười, trước sự đòi hỏi cấp thiết của tình hình, V.I.Lenin đã ký sắc lệnh thành lập Hồng quân công nông và thành lập cơ quan công an kiểu mới mang tên Cơ quan đặc biệt toàn Nga (Vtreca): “Để bảo vệ chủ quyền toàn vẹn cho quần chúng lao động và trừ bỏ mọi khả năng phục hồi chính quyền của bọn bóc lột”. Người coi quân đội, công an cách mạng là “trụ cột của chính phủ cách mạng”, là công cụ để quần chúng nhân dân sử dụng giải quyết những cuộc xung đột vĩ đại trong lịch sử.

Trong thực tiễn, V.I.Lenin luôn quan tâm xây dựng Hồng quân, cơ quan công an vững mạnh, đặc biệt là về chính trị. Người vạch rõ bản chất phản động của luận điệu “quân đội đứng ngoài chính trị”, coi đó là “cái giáo lý tầm thường”, “giả nhân, giả nghĩa và dối trá”. V.I.Lenin khẳng định một cách dứt khoát không có quân đội, công an trung lập về chính trị: “Quân đội không thể và không nên trung lập. Không lôi kéo quân đội vào chính trị – đó là khẩu hiệu của bọn tôi tớ giả nhân giả nghĩa của giai cấp tư sản và của chế độ Nga hoàng, bọn này trong thực tế bao giờ cũng đã lôi kéo quân đội vào chính trị phản động”.

Quan điểm “phi chính trị hóa lực lượng vũ trang” thường xuất hiện ở những nền chính trị có cấu trúc đa đảng đối lập, nhất là khi sự tranh giành quyền lực giữa các đảng phái chính trị diễn ra gay gắt, dẫn đến khủng hoảng chính trị. Về thực chất, những người đưa ra quan điểm đó muốn quân đội, công an đứng ngoài cuộc đấu tranh của các đảng phái chính trị nhằm giành quyền kiểm soát các cơ quan quyền lực nhà nước, nhưng trong thực tế không có quân đội, công an đứng ngoài chính trị. Kinh nghiệm ở Hoa Kỳ, các nước tư bản chủ nghĩa cho thấy tất cả các đảng phái cầm quyền đều cố gắng giành lấy sự ủng hộ của quân đội và công an.

Đối với Quân đội nhân dân Viêt Nam, Công an nhân dân Việt Nam, các thế lực thù địch đã và đang sử dụng mọi biện pháp, cả về lý luận, tư tưởng lẫn hành động để thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa lực lượng vũ trang” với mục tiêu cao nhất là xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân. Mục tiêu của họ là nhằm phủ nhận nguyên tắc “Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, hướng tới làm tê liệt, vô hiệu hóa vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội, Công an.

Trong hành động thực tiễn, chúng hạ thấp, đi đến đòi xóa bỏ hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị cùng hệ thống cán bộ chính trị và cơ quan chính trị trong Quân đội, Công an; xuyên tạc các sự kiện lịch sử có Quân đội, Công an tham gia, thổi phồng khuyết điểm của một vài cá nhân, đơn vị Quân đội, Công an cụ thể, hòng qua đó làm cho Quân đội, Công an mất uy tín trong nhân dân, hạ thấp vị thế của Quân đội, Công an trong xã hội. Đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy trong Quân đội, Công an, chúng kích động tư tưởng công thần, địa vị, cá nhân chủ nghĩa, đòi hỏi đãi ngộ vào bộ phận cán bộ có nhiều cống hiến trong các cuộc kháng chiến…, hòng làm ly gián nội bộ, phá hoại mối quan hệ đoàn kết, đoàn kết quân dân. Lợi dụng cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực để gây mâu thuẫn giữa lãnh đạo, chỉ huy với chiến sỹ trong nội bộ Quân đội nhân dân, Công an nhân dân.

Ở nước ta, Quân đội nhân dân, Công an nhân dân là do Đảng Cộng sản thành lập. Các tiền thân của Công an và Quân đội ngay từ ngày thành lập đã thực hiện các nhiệm vụ như: trừ gian, hộ lương diệt ác, bảo vệ xóm làng… Đây là những nhiệm vụ bảo vệ xã hội và nhân dân thời bấy giờ trong cuộc cách mạng mà Đảng Cộng sản Việt Nam đang lãnh đạo. Ngay từ khi mới ra đời, Công an và Quân đội đã là lực lượng chính bảo vệ nhân dân, bảo vệ xã hội, bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ, biên giới quốc gia. Và cho đến nay, hai lực lượng này vẫn luôn tiên phong trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Để phòng, chống khuynh hướng “phi chính trị hóa lực lượng vũ trang”, nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống “tự diễn biến” trong Quân đội nhân dân Việt Nam, Công an nhân dân Việt Nam, theo chúng tôi cần tập trung vào các giải pháp chủ yếu sau:

Thứ nhất, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, Công an nhân dân Việt Nam vừa là nguyên tắc cơ bản vừa là quy luật cơ bản trong việc xây dựng Quân đội, Công an kiểu mới của dân, do dân, vì dân.

Thứ hai, tăng cường đấu tranh phòng chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch hòng làm Quân đội nhân dân Việt Nam, Công an nhân dân Việt Nam “tự diễn biến” theo khuynh hướng “phi chính trị hóa”. Đẩy mạnh xây dựng Quân đội, Công an vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nền tảng để xây dựng vững mạnh toàn diện, để Quân đội, Công an không đi chệch mục tiêu chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân.

Thứ ba, tăng cường xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam, Công an nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị, củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, chăm lo xây dựng Quân đội, Công an, củng cố và tăng cường sức mạnh đoàn kết quân dân, góp phần giữ gìn và phát huy hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ, người Công an cách mạng trong xã hội, trong nhân dân.

Thứ tư, thường xuyên đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, chiến sỹ Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, tạo những chuyển biến tích cực trong đời sống văn hóa – tinh thần, khắc phục các biểu hiện tiêu cực trong đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, chiến sỹ, góp phần phát huy những phẩm chất tốt đẹp của Bộ đội Cụ Hồ, người Công an cách mạng trong tình hình mới.

Quân đội, Công an là một hiện tượng chính trị – xã hội, từ khi xuất hiện cùng với quá trình tồn tại của nó đều gắn bó với chính trị. Không và không thể có Quân đội, Công an “phi giai cấp” hoặc “siêu giai cấp”, Quân đội, Công an “phi chính trị” hoặc “đứng ngoài chính trị”. Đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa lực lượng vũ trang” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch gắn chặt với việc giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Quân đội nhân dân, Công an nhân dân. Đây là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, mọi cấp, mọi ngành trong giai đoạn hiện nay

N.X.Y.

Theo cand.com.vn
Vkyno (st)

Giữ nguyên tên nước như Hiến pháp hiện hành là hoàn toàn phù hợp

Lực lượng CAND góp ý vào “Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992”:

Việc giữ nguyên tên nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẽ tránh những xáo trộn không cần thiết trong công tác quản lý hành chính Nhà nước và tránh lãng phí lớn do phải thay đổi quốc huy, con dấu, quốc hiệu trên hệ thống tiền tệ, các văn bản, giấy tờ hành chính…

Sau một thời gian tổ chức lấy ý kiến sâu rộng trong toàn lực lượng Công an nhân dân về việc góp ý kiến vào “Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992” gửi Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, đến nay Bộ Công an đã bổ sung thêm những đóng góp tâm huyết vào Dự thảo để khi Hiến pháp được Quốc hội thông qua sẽ thực sự phù hợp với tình hình xây dựng và phát triển đất nước trong tình hình hiện nay. Trao đổi với phóng viên Báo CAND về vấn đề này, Đại tá, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Vi Dân, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Công an cho biết:

Quá trình tập hợp các ý kiến đóng góp của toàn thể cán bộ, chiến sĩ, lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong lực lượng Công an và các nhà khoa học trong lực lượng Công an vào “Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992”, Bộ Công an cho thấy, tất cả các ý kiến đóng góp đều thể hiện quan điểm, giữ nguyên tên nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được quy định tại Điều 1 của dự thảo.

Tên nước là thiêng liêng, liên quan đến chế độ chính trị, kinh tế, xã hội, định hướng cách mạng, phương hướng phát triển của đất nước, dân tộc, liên quan đến bản chất, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước, tư tưởng, tâm lý của nhân dân và sự nhìn nhận, đánh giá của cộng đồng quốc tế… Vừa qua, có một số ý kiến đặt vấn đề đổi tên nước trong thời điểm hiện nay là không phù hợp, bởi lẽ:

Thứ nhất, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tên gọi đã được Quốc hội khóa VI quyết định vào ngày 2/7/1976 sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả nước thống nhất, non sông thu về một mối, cùng đi lên chủ nghĩa xã hội và tên nước được sử dụng ổn định cho đến nay. Tên nước đã gắn với giai đoạn hòa bình, độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tên gọi khẳng định rõ con đường, mục tiêu mà chúng ta đang đi và hướng đến là phấn đấu thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tên gọi Việt Nam dân chủ cộng hòa phù hợp với các giai đoạn của cách mạng trước năm 1975 ở nước ta, đó là thời kỳ đất nước thực hiện cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thể chế Việt Nam dân chủ cộng hòa vận động trong thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc, kháng chiến kiến quốc, tạo dựng những nền tảng ban đầu để đi lên chủ nghĩa xã hội. Thể chế đó đã được lịch sử kiểm nghiệm, làm tròn nhiệm vụ lịch sử của nó và được tiếp tục phát triển theo logic bởi thể chế mới là chủ nghĩa xã hội.

Thứ hai, tên gọi Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phù hợp với nền chính trị hiện tại và mục tiêu định hướng phát triển của đất nước ta trong thời gian tới. Sự kiên trì con đường phát triển chủ nghĩa xã hội là quan điểm trước sau như một của Bác Hồ và Đảng ta. Trong điều kiện đổi mới hiện nay, Đảng đã xác định con đường của cả tiến trình đổi mới là kiên định mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng. Thể chế xã hội chủ nghĩa Việt Nam có một quá trình lịch sử đến nay gần 40 năm, đổi mới gần 30 năm, phản ánh rất rõ mục tiêu, lý tưởng của toàn Đảng, toàn dân, thể hiện rõ con đường và sự nghiệp của chúng ta là tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thể chế đó cũng khẳng định chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thể chế đó cũng khẳng định chúng ta đang trong quá trình vận động cách mạng xã hội chủ nghĩa để xây dựng chủ nghĩa xã hội sau khi hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc.

Thứ ba, việc giữ nguyên tên nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẽ tiếp tục khẳng định mục tiêu, định hướng xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và bảo đảm ổn định cho hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước, giữ gìn niềm tin của cán bộ, công chức và nhân dân vào chế độ, vào Đảng và Nhà nước, tránh những tác động bất lợi, thậm chí có thể bị xuyên tạc là ta đang xa rời mục tiêu, con đường lên chủ nghĩa xã hội và có thể gây phức tạp về chính trị, an ninh, trật tự.

Thứ tư, việc giữ nguyên tên nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẽ tránh những xáo trộn không cần thiết trong công tác quản lý hành chính Nhà nước và tránh lãng phí lớn do phải thay đổi quốc huy, con dấu, quốc hiệu trên hệ thống tiền tệ, các văn bản, giấy tờ hành chính…

Từ những căn cứ và phân tích trên, quan điểm của Bộ Công an là giữ nguyên tên gọi nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992

Nguyễn Hưng (ghi)

Theo cand.com.vn
Vkyno (st)

Quán triệt sáu điều Bác Hồ dạy về tư cách người Công an cách mạng trong xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa lực lượng Công an với nhân dân

GS.TS Nguyễn Văn Ngọc, Giám Đốc Học Viện An Ninh Nhân Dân
Trong mối quan hệ với nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn: “Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép”. Theo Người, “Làm công an không phải làm “quan cách mạng”. Làm công an là để giữ trật tự, an ninh cho nhân dân”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân. Tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong công cuộc đổi mới đất nước nói chung và đối với việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công an cách mạng nói riêng. Việc tổ chức học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, quán triệt tư tưởng của Người về tư cách người Công an cách mạng vào công tác, chiến đấu và xây dựng lực lượng là một trong những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng đối với các cấp ủy Đảng, đơn vị trong toàn lực lượng Công an nhân dân (CAND).

Trong thư gửi đồng chí Giám đốc Công an Khu XII ngày 11/3/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu 6 điều dạy về “Tư cách người Công an cách mệnh”. Sáu điều dạy của Bác đã trở thành di sản tinh thần vô cùng quý báu của lực lượng CAND, là cẩm nang, chuẩn mực đạo đức, tư cách, là mục tiêu rèn luyện, phấn đấu, công tác của mỗi cán bộ, chiến sĩ (CBCS) CAND.

Trong mối quan hệ với nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn: “Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép”. Theo Người, “Làm công an không phải làm “quan cách mạng”. Làm công an là để giữ trật tự, an ninh cho nhân dân”. Công an “là một bộ phận của cả bộ máy Nhà nước nhân dân dân chủ chuyên chính tiến lên chủ nghĩa xã hội, công an phải bảo vệ dân chủ nhân dân và thực hiện chuyên chính với những kẻ chống lại dân chủ nhân dân”. Người còn luôn nhắc nhở công an “Phải gần gũi nhân dân, dựa vào lực lượng của nhân dân, xa rời nhân dân thì dù tài tình mấy cũng không làm gì được”. Và Người khẳng định: “Khi nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành công ít, giúp đỡ ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn. Dân ta rất tốt. Gặp trường hợp nguy hiểm, nếu công an khéo léo thì được dân giúp ngay. Khéo ở đây không phải là cái lối khéo bề ngoài, mà khéo có nghĩa là phải thực sự trung thành, tôn kính, thương yêu dân”. Để đạt được điều đó, công an “phải toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân”, “phải đi đường lối quần chúng”, “phải làm sao cho dân yêu mến, phải nhớ rằng dân là chủ, dân như nước mình như cá, lực lượng bao nhiêu là ở dân hết. Phải làm cho dân mến, khi sắp tới dân mong, khi đi dân tiếc, chớ vác mặt quan cách mạng cho dân ghét, dân khinh, dân không ủng hộ”. Công an phải gần dân, kính trọng và lễ phép với nhân dân.

Thấm nhuần lời dạy của Người, lực lượng CAND đã không ngừng nỗ lực phấn đấu, trưởng thành và hoàn thành xuất sắc sứ mệnh của mình, tuyệt đối trung thành với Ðảng, với Tổ quốc, phục vụ nhân dân, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng Huy hiệu của Người cho những cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 600 CANDVT đạt nhiều thành tích trong công tác bảo vệ.

Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, sự nghiệp cách mạng nước ta đang đứng trước những thời cơ và vận hội lớn, đồng thời cũng phải đối mặt với những khó khăn, thách thức không nhỏ. Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay, do tác động của mặt trái kinh tế thị trường “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau”, trong đó, lực lượng CAND cũng không ngoại lệ. Trong lực lượng CAND vẫn có hiện tượng quan liêu, hách dịch, sách nhiễu người dân, thường được phản ánh ở một số lĩnh vực mà CBCS công an thường xuyên tiếp xúc với người dân, dễ xảy ra tiêu cực… Những tiêu cực đó đã và đang làm giảm lòng tin, gây nhiều bức xúc trong nhân dân, ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng và mối quan hệ giữa lực lượng công an với quần chúng nhân dân.

Do đó, việc nghiên cứu, quán triệt 6 điều Bác Hồ dạy để làm sâu sắc hơn, xây dựng mối quan hệ mật thiết, gắn bó giữa lực lượng CAND với quần chúng nhân dân là một yêu cầu, nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên. Để làm tốt nhiệm vụ này, thời gian tới, lực lượng CAND cần chú ý thực hiện một số nội dung sau:

Một là, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục đạo đức cách mạng, chú ý hướng vào mục tiêu giáo dục ý thức vì nhân dân phục vụ cho CBCS.

Xác định giáo dục, nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng cho CBCS là nhiệm vụ hàng đầu trong công tác xây dựng lực lượng CAND thời kỳ đổi mới. Mục đích, yêu cầu của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng tập trung vào việc bồi dưỡng, tăng cường bản lĩnh chính trị, xây dựng lòng tin vào thắng lợi của công cuộc đổi mới, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và lợi ích của nhân dân, tận hiếu với nhân dân. Do vậy, nội dung giáo dục cần tập trung vào việc bồi dưỡng lý tưởng cộng sản, trau dồi đạo đức cách mạng cho CBCS CAND. Trong đó cần thường xuyên chú ý xây dựng, bồi dưỡng và củng cố phương châm, lẽ sống đúng đắn cho mỗi CBCS; xây dựng ý thức phục vụ nhân dân, giữ gìn mối quan hệ đoàn kết, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh để bảo vệ tính mạng, tài sản, cuộc sống bình yên của nhân dân.

Giáo dục chính trị, tư tưởng trong CAND cần phát động và tổ chức thực hiện tốt các phong trào cách mạng. Đặc biệt là triển khai sâu rộng Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh – CAND vì nước quên thân, vì dân phục vụ” gắn với phong trào “CAND học tập, thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy”, Cuộc vận động “CAND chấp hành nghiêm điều lệnh; xây dựng nếp sống văn hóa vì nhân dân phục vụ”, các phong trào thi đua “Vì An ninh Tổ quốc”, xây dựng lực lượng CAND cách mạng, trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại. Trong chỉ đạo, cần từng bước đưa phong trào đi vào chiều sâu, chuyển trọng tâm chỉ đạo từ học tập, quán triệt, nâng cao nhận thức sang thực hiện, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Hai là, mỗi CBCS CAND cần phải xây dựng, rèn luyện tác phong quần chúng, dân chủ.

Hồ Chí Minh luôn quan tâm tới phong cách làm việc của lực lượng CAND, trước hết là tác phong quần chúng. Bác luôn nhắc nhở công an phải làm sao cho dân yêu mến, muốn vậy, CBCS công an phải “vào sâu trong quần chúng”, phải cùng ăn, cùng ở, cùng làm với nhân dân, chịu khó giúp dân trong mọi việc; đồng thời qua đó biết được dân đang suy nghĩ gì, cần cái gì, lo cái gì, muốn cái gì…, trên cơ sở đó mới “tìm mọi cách” để “thực hành những công việc nên làm, những công việc do Chính phủ và đoàn thể đã giao cho”. Làm được như thế thì mới được dân tin, dân phục, dân yêu, dân ủng hộ, dân giúp đỡ, “đi dân nhớ, ở dân thương”.

Theo Hồ Chí Minh, tác phong quần chúng là phải thực hiện “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm” bám sát thực tiễn. Bác đòi hỏi CAND phải kết hợp “óc nghĩ” với “mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”, nghĩa là phải thâm nhập thực tế, chịu khó quan sát, nghe ngóng để biết tình hình.

Tác phong quần chúng còn biểu hiện ở việc “gương mẫu trong lời nói, việc làm, thái độ sao cho người ta thấy rõ mình” là người công an cách mạng. Người chỉ rõ: “Công an nhân dân phải là kiểu mẫu, phải là con người chuyên trách thi hành chính sách, phương châm của Đảng và Chính phủ cho tốt”. Bên cạnh đó, cần xây dựng phong cách ứng xử có văn hóa của người CBCS công an, chấp hành nghiêm điều lệnh CAND, nâng cao ý thức phục vụ nhân dân, trách nhiệm trong công tác.

Ba là, xây dựng cơ chế phát huy vai trò tích cực và quyền làm chủ của quần chúng trên lĩnh vực ANTT.

Kính trọng, lễ phép đối với nhân dân không chỉ dừng lại ở lòng tôn trọng, gần gũi, bảo vệ, chăm lo sự bình yên của nhân dân mà cần xây dựng cơ chế phát huy vai trò tích cực, quyền làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực ANTT. Để đạt được điều đó, cần phát huy vai trò của nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm; đề cao vai trò giám sát, góp ý của nhân dân trong xây dựng lực lượng CAND; đồng thời tạo các điều kiện để khuyến khích nhân dân tham gia góp ý kiến, phê bình, xây dựng lực lượng CAND; xây dựng các cơ chế trong công tác để tiếp nhận, xử lý những thông tin phản ánh sự giám sát của nhân dân.

Phát huy vai trò giám sát của nhân dân là một kênh thông tin quan trọng, là con đường để nhân dân tham gia quản lý nhà nước, phòng, chống quan liêu, tham nhũng. Sự giám sát đó cần được thực hiện dưới nhiều hình thức… Các ý kiến thể hiện sự giám sát của nhân dân cần phải được cơ quan, CBCS công an tiếp nhận, trân trọng và giải quyết kịp thời, thỏa đáng, tiếp thu ý kiến phê bình của nhân dân để khắc phục, sửa chữa những khuyết điểm, thiếu sót; khen thưởng, động viên kịp thời.

Bốn là, kiên quyết phê phán, đấu tranh với các biểu hiện quan liêu, hách dịch, sách nhiễu người dân của CBCS, xử lý nghiêm khắc các trường hợp vi phạm.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Làm công an không phải làm “quan cách mạng”, “phải khiêm tốn, nghiêm chỉnh”, “chớ tự kiêu, tự mãn”. Bảo vệ ANTT là một lĩnh vực đặc thù, nên lực lượng CAND được Nhà nước trao cho một số quyền uy riêng biệt. Nếu CBCS công an không thấm nhuần đạo đức cách mạng, không rèn luyện quan điểm, tác phong quần chúng thì rất dễ xảy ra hiện tượng hách dịch, quan cách, sách nhiễu người dân, tham nhũng, tiêu cực… Bác căn dặn, CAND trong thực hiện nhiệm vụ “Phải triệt để sửa đổi tác phong mệnh lệnh, quan liêu, hống hách; phải gây quan hệ thật tốt giữa công an và nhân dân”.

Để phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh với hiện tượng quan liêu, hách dịch, sách nhiễu nhân dân, phải tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kỷ luật; tăng cường thực hiện nghiêm điều lệnh; đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng nhanh, gọn để phục vụ nhân dân được tốt hơn, đồng thời cũng góp phần hạn chế, loại trừ các hiện tượng tiêu cực của CBCS trong khi làm nhiệm vụ.

Học tập, quán triệt 6 điều Bác Hồ dạy CAND, xây dựng mối liên hệ mật thiết giữa lực lượng công an với quần chúng nhân dân là một yêu cầu quan trọng cần phải được nhận thức đúng đắn và thực hiện thường xuyên, nghiêm túc, góp phần xây dựng lực lượng “Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin yêu”

N.V.N.

cand.com.vn
Vkyno (st)

Chỗ này thừa, nơi kia lại quá thiếu

Thành lập các đội trật tự đô thị tại TP HCM:

Sau thời gian dài tính toán, trong ngày 11 và 17/5 vừa qua, TP Hồ Chí Minh đã liên tiếp có các quyết định tổ chức, sắp xếp lại lực lượng thanh tra xây dựng. Theo đó, Sở Xây dựng sẽ thành lập thêm 24 đội thanh tra địa bàn trên cơ sở các đội thanh tra xây dựng ở cấp quận, huyện hiện nay.

Trong tổng số gần 3.000 thanh tra, cộng tác viên thanh tra xây dựng các cấp trước đây, hiện Sở Xây dựng đã chọn được khoảng 860 cán bộ, nhân viên thanh tra đủ điều kiện để tuyển về các đội thanh tra phụ trách địa bàn quận, huyện. So với biên chế được duyệt là 1.060 thì hiện thanh tra xây dựng chỉ còn thiếu khoảng 200 người.

Ngoài phương án sắp xếp trên, lực lượng thanh tra và cộng tác viên thanh tra xây dựng còn lại gần 1.900 người cũng được chính quyền thành phố cho phép các quận, huyện được thành lập thêm các đội trật tự đô thị trực thuộc phòng quản lý đô thị. Lực lượng trật tự đô thị được xác định sẽ chỉ tập trung kiểm tra, xử lý các lĩnh vực như trật tự lòng lề đường, vệ sinh môi trường, thi hành các quyết định hành chính của UBND quận, huyện và những nhiệm vụ khác do quận, huyện giao. Tuy nhiên, để bố trí việc làm cho tất cả số lượng thanh tra, cộng tác viên xây dựng còn dôi dư, phương án được đưa ra là bình quân mỗi đội quản lý trật tự đô thị quận, huyện sẽ có 24 công chức và 54 cộng tác viên.

Với cách sắp xếp này, thực tế quỹ lương ngân sách thành phố trả cho lực lượng thanh tra xây dựng và trật tự đô thị không tăng thêm nhiều do trước đây cũng đã phải trả. Song khi có thêm đến 76 con người tập trung về 1 phòng chức năng của quận huyện, ngoài việc lo bố trí trụ sở làm việc, nhiệm vụ của lực lượng trật tự đô thị cũng vẫn như cũ. Bởi việc xử phạt trật tự lòng lề đường đã được giao cho lực lượng Công an, dân phòng cấp phường, xã và lực lượng Cảnh sát giao thông – trật tự cấp quận huyện. Với việc kiểm tra, xử phạt vi phạm về môi trường, ngoài thanh tra chuyên ngành tài nguyên – môi trường, các quận huyện còn có lực lượng Cảnh sát môi trường đảm trách.

Vì vậy, trong khi các lực lượng chuyên trách của cấp quận, huyện e ngại chuyện có thêm các đội trật tự đô thị quận, huyện tham gia, việc kiểm tra xử phạt sẽ chồng chéo; thì nhiều người dân cũng tỏ ra lo lắng việc lực lượng trật tự đô thị sẽ lại ra đường xử phạt như thanh tra xây dựng trước đây do chỉ khác ở màu áo.

Nghịch lý ở chỗ, trong khi các phòng quản lý đô thị vốn đã ổn về định biên lại được tăng thêm quá nhiều người như vậy. Nhưng ở các phòng chuyên trách khác của các quận, huyện, chẳng hạn như Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội lại quá thiếu người. Bộ phận kiểm tra, giám sát thực hiện các chế độ về lao động, tiền lương… cho cả chục ngàn doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trên địa bàn đông dân như quận Tân Bình, Gò Vấp, Bình Tân, Thủ Đức… chỉ có vài ba cán bộ chuyên viên đảm trách dẫn đến tình trạng quá tải kéo dài nhiều năm qua

Đ.Thắng

Theo cand.com.vn
Vkyno (st)

Sáu điều dạy của Bác Hồ đối với Công an nhân dân vẫn giữ nguyên giá trị thời sự trong thời kỳ đất nước phát triển, hội nhập

Kỷ niệm 65 năm CAND học tập, thực hiện sáu điều Bác Hồ dạy:

GS. TS. Nguyễn Hồng Vinh
Cách đây 65 năm, ngày 11/3/1948, Bác Hồ đã viết thư gửi đồng chí Hoàng Mai, Giám đốc Công an khu XII về “Tư cách người công an cách mệnh”.

Lời dạy của Bác Hồ đã trở thành lời huấn thị chung cho toàn lực lượng CAND, trở thành di sản tinh thần thiêng liêng, vô giá; là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của lực lượng CAND, góp phần quan trọng làm nên nhiều chiến công vẻ vang của lực lượng CAND từ đó đến nay.

Sáu lời dạy của Bác tuy ngắn gọn, dễ hiểu, nhưng có ý nghĩa toàn diện, cơ bản trong quá trình tu dưỡng, rèn luyện đối với mỗi CBCS công an, chẳng những phù hợp trình độ văn hóa và hoàn cảnh chiến tranh trong những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, mà còn có giá trị nhân văn lâu dài trong giai đoạn lịch sử chống Mỹ, cứu nước, xây dựng CNXH, đổi mới và hội nhập quốc tế hôm nay của đất nước ta.

Đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu công phu về ý nghĩa 6 lời dạy của Bác Hồ đối với CAND. Ở bài viết này, chúng tôi muốn nhấn mạnh 2 vấn đề căn cốt trong 6 điều dạy của Bác, đó là tư cách của người công an cách mệnh trong quan hệ đối với Chính phủ và nhân dân.

Có ý kiến cho rằng, tại sao trong lời dạy đó, Bác chỉ nói: “Đối với Chính phủ…”, mà không đề cập tình cảm của người cán bộ công an đối với Đảng? Tại sao Người không dạy “Đối với Đảng, phải tuyệt đối trung thành”?

Cần nhớ lại thời điểm lịch sử năm 1948, đó là thời kỳ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của chúng ta đang ở giai đoạn cầm cự, gặp vô vàn khó khăn.

Để tập hợp, đoàn kết tất cả các lực lượng trong nước, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố “giải tán Đảng Cộng sản”, thực chất là chỉ đạo Đảng ta rút vào hoạt động bí mật dưới danh nghĩa “Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác” để tiếp tục lãnh đạo cuộc kháng chiến kiến quốc. Chính vì đặc điểm lịch sử đó, trong thư, Bác chỉ nói “Đối với Chính phủ…”.

Trong bối cảnh như vậy, lực lượng công an triển khai học tập, thực hiện lời dạy của Người, đều hiểu rõ sự trung thành với Chính phủ cũng có nghĩa là trung thành với Đảng, với Tổ quốc. Nội hàm Đảng – Chính phủ – Tổ quốc ở đây thống nhất làm một.

Đây là điều cốt tử để sau này lực lượng CAND xây dựng thành nội dung 5 lời thề danh dự CAND Việt Nam và trở thành nguyên tắc sống còn trong cơ cấu, tổ chức lực lượng cũng như phương thức công tác, chiến đấu của lực lượng công an Việt Nam.

Bác từng nhiều lần căn dặn cán bộ phải là “công bộc” của dân, là “đầy tớ” của dân. Với công an, Bác Hồ dạy “Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép”, đó là nội dung cụ thể và rất dễ hiểu để thực hiện.

Trong suốt quá trình giáo dục, rèn luyện lực lượng CAND, Bác Hồ đã dành sự lưu tâm đặc biệt căn dặn cán bộ công an coi trọng việc xây dựng mối liên hệ mật thiết với nhân dân.

Năm 1951, với tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta bước vào thời kỳ gấp rút chuẩn bị mọi mặt cho giai đoạn chuyển mạnh sang tổng phản công chống thực dân Pháp, lực lượng Công an tiến hành đào tạo những lớp học viên công an có trình độ trung cấp nhằm cung cấp nguồn nhân lực, đáp ứng kịp thời những đòi hỏi mới của cuộc kháng chiến.

Trước yêu cầu đó, tại châu Sơn Dương, Tuyên Quang (Việt Bắc), Trường Công an Trung cấp được vinh dự đón Bác đến thăm. Bác căn dặn CBCS công an phải nhận thức đầy đủ vị trí, nhiệm vụ của mình trong việc bảo vệ nền chuyên chính dân chủ nhân dân – đó là điểm khác biệt về bản chất giữa công an đế quốc với CAND Việt Nam.

Bác nhấn mạnh, người CAND trong chế độ mới cần nâng cao nhận thức tư tưởng chính trị, gắn liền với ý chí khắc phục khó khăn, ra sức thi đua sáng tạo để đáp ứng kịp thời những đòi hỏi mới của cuộc kháng chiến, kiến quốc. Bác dạy trong quan hệ với dân, lực lượng công an phải ghi nhớ: “Khi nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành công ít, giúp đỡ ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn”.

Đó là những lời dạy giản dị, sâu sắc, dễ thấm sâu vào tâm tư, tình cảm mỗi người, ai cũng có thể hiểu để vận dụng trong thực tiễn công tác.

Cũng như vậy, ngày 16/5/1959, nói chuyện với CBCS và học viên khóa II lớp chỉnh huấn tại Trường Công an Trung ương, Bác lại nhắc: “Làm công an thì phải làm cho dân tin, dân yêu, dân ủng hộ. Có dựa vào nhân dân thì công an mới hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Nhân dân có hàng triệu tai mắt thì kẻ địch khó mà che giấu được. Nếu trong công tác công an, các cô, các chú được dân ủng hộ, làm cho dân tin, dân phục, dân yêu thì nhất định các cô, các chú thành công. Muốn được như vậy cũng phải trau dồi đạo đức cách mạng, cũng phải chống chủ nghĩa cá nhân”.

Trong suốt 65 năm qua, khi có chiến tranh cũng như trong điều kiện đất nước hòa bình, phong trào học tập, thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy luôn luôn được duy trì, phát triển sâu rộng và là một phong trào thi đua lớn nhất của lực lượng CAND.

Qua phong trào thi đua học tập và thực hiện 6 điều Bác dạy, đã xuất hiện ngày càng nhiều những tấm gương CBCS công an không ngại gian khổ, không sợ hy sinh, tận tụy công tác, dũng cảm chiến đấu, lập nhiều thành tích và chiến công xuất sắc, góp phần tô thắm truyền thống vẻ vang của lực lượng CAND anh hùng.

Nhiều CBCS đã hy sinh anh dũng trong phòng, chống tội phạm, bảo vệ tính mạng và tài sản vì cuộc sống bình yên của nhân dân, như: Anh hùng, liệt sỹ Lâm Văn Thạnh (Công an tỉnh Lâm Đồng); Lưu Thế Hà (Cục Cảnh sát bảo vệ và Hỗ trợ tư pháp); Lê Thanh Á (Công an TP Hải Phòng); Nguyễn Văn Ngữ (Công an TP Hà Nội); Phạm Văn Cường (Công an tỉnh Lai Châu)… Đó là những minh chứng sống động về kết quả to lớn của phong trào “CAND học tập, thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy”.

Và còn có hàng nghìn, hàng vạn CBCS công an không tiếc máu xương, chiến đấu kiên cường, dũng cảm trong quá trình bảo vệ ANTT của Tổ quốc, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân. Đó là những bằng chứng sinh động về kết quả to lớn của phong trào “CAND học tập, thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy” trong 65 năm qua.

Thời gian tới, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của nước ta, trong đó có lĩnh vực bảo vệ ANTT.

Ở trong nước, bên cạnh những thời cơ thuận lợi, đất nước ta đang phải đối mặt với những nguy cơ, thách thức không nhỏ. Các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hòa bình”; triệt để lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền hòng gây mất ổn định chính trị. Đặc biệt, quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đã và đang xuất hiện những biểu hiện mới, phức tạp, tinh vi. Vấn đề an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống đang đặt ra nhiều thách thức…

Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ những nhiệm vụ hết sức nặng nề của sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, đó là “Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; giữ vững ổn định chính trị – xã hội, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, TTATXH; ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch…”, trong đó giữ vững ANQG, TTATXH là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, mà lực lượng CAND là lực lượng nòng cốt.

Hiến pháp 1992 sửa đổi cũng quy định (Điều 73 dự thảo): “CAND Việt Nam được xây dựng chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, làm nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH, đấu tranh phòng chống tội phạm”.

Để thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ đó, hơn lúc nào hết, lực lượng CAND cần tiếp tục đẩy mạnh phong trào “CAND học tập, thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy”, đưa phong trào phát triển lên tầm cao mới.

Trong thời đại và hoàn cảnh lịch sử ngày nay, theo chúng tôi, cần phải tổ chức nghiên cứu sâu sắc hơn nữa giá trị bền vững và ý nghĩa thời sự của 6 điều Bác Hồ dạy CAND, tiếp tục tuyên truyền và phổ biến ý nghĩa cách mạng, khoa học, nhân văn và giá trị thực tiễn to lớn của 6 điều Bác Hồ dạy.

Mỗi CBCS cần nhận thức rằng, việc duy trì và phát triển phong trào thi đua “CAND học tập, thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy” là nhiệm vụ thường xuyên và là định hướng cơ bản để tạo ra tiền đề quan trọng nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu xây dựng lực lượng CAND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại

N.H.V.

Theo cand.com.vn
Vkyno (st)

Quán triệt và vận dụng 6 điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm

Trung Tướng Phan Văn Vĩnh (Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Cảnh Sát Phòng, Chống Tội Phạm)
Là một bộ phận của lực lượng Công an nhân dân (CAND), ra đời từ cách mạng tháng Tám 1945, trong suốt chặng đường vẻ vang của dân tộc, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, của Bác Hồ, được sự giúp đỡ của nhân dân, lực lượng Cảnh sát nhân dân (CSND) đã vượt qua khó khăn, thử thách, thể hiện rõ vai trò nòng cốt, xung kích trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự (ANTT) của đất nước.

Quá trình công tác, chiến đấu, trưởng thành của lực lượng CAND nói chung, lực lượng CSND nói riêng, luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh rèn luyện, lãnh đạo sát sao.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ bản chất nhân dân là cốt lõi của Công an cách mạng, phương thức tốt nhất để lực lượng Công an hoàn thành nhiệm vụ là phải “dựa vào nhân dân mà làm việc”; “làm Công an thì phải làm cho dân tin, dân yêu, dân ủng hộ”. Có dựa vào nhân dân thì Công an mới hoàn thành tốt được nhiệm vụ của mình…”.

Bác chỉ rõ, dựa vào dân không có nghĩa là trông chờ, ỷ lại, dựa dẫm hoàn toàn vào dân mà phải làm sao biết nắm bắt, chủ động khai thác và phối hợp với sức mạnh của nhân dân trong công tác, nhất là trong công tác đấu tranh giữ gìn ANTT.

CBCS công an phải biết nhận phần khó về mình, tạo thuận lợi cho nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân – đó là yếu tố quan trọng để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ và cũng là nhân tố quyết định để được nhân dân tin yêu, giúp đỡ.

Muốn phát huy được sức mạnh của nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi công an viên phải giữ đúng tư cách, đạo đức; tự rèn luyện “cần, kiệm, liêm, chính” để không “trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”, và cách ứng xử phù hợp trong các mối quan hệ: với đồng sự, với Chính phủ, với nhân dân, với địch.

Trong các mối quan hệ đó, nền cơ bản vẫn là nhân dân mà yêu cầu về tư cách người Công an là phải kính trọng, lễ phép. “Công an với dân phải đoàn kết -nghĩa là phải khuyến khích cho dân phê bình Công an”, phải khéo – “nghĩa là phải thực sự trung thành, tôn kính, thương yêu dân”.

Đối với công việc, Người yêu cầu mỗi CBCS phải “tận tụy”, “phải đặt việc nước lên trên, lên trước việc tư, việc nhà” và “đã phụ trách công việc gì thì quyết làm cho kỳ được, cho đến nơi, đến chốn, không sợ khó nhọc, không sợ nguy hiểm. Bất kỳ việc to, việc nhỏ, phải có sáng kiến, phải có kế hoạch, phải cẩn thận, phải quyết làm cho thành công”.

Mỗi CBCS luôn tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, không hoang mang, dao động, mất lòng tin dù khi cách mạng gặp khó khăn hay trong những tình huống chiến đấu ác liệt, hoặc trước những cám dỗ, ham muốn của đời thường.

Đồng đội phải biết “thân ái, giúp đỡ” nhau “từ cấp trên cho đến nhân viên phải đoàn kết nhất trí”; “Cấp trên phải chú ý đến đời sống vật chất và tinh thần của chiến sĩ… đoàn kết và học tập lẫn nhau, luôn luôn giúp đỡ nhau tiến bộ”.

Đối với kẻ địch phải cương quyết, khôn khéo trong mọi hoàn cảnh, giữ vững bản lĩnh chính trị, ý chí chiến đấu. Những lời chỉ bảo ngắn gọn, súc tích, dễ nhớ đó đã trở thành những nguyên tắc, triết lý, phương châm hành động của mỗi CBCS Công an nói chung, lực lượng CSND nói riêng trong suốt chặng đường lịch sử đấu tranh giữ gìn ANTT, bảo vệ bình yên cho Tổ quốc.

Từ những năm đầu mới thành lập, đặc biệt là trong những ngày bão táp của Cách mạng tháng 8/1945, các tổ chức Cảnh sát đầu tiên của lực lượng CSND đã phối hợp chặt chẽ với lực lượng Liêm phóng trấn áp các đối tượng và tổ chức phản cách mạng, lưu manh côn đồ; làm thất bại âm mưu gây mất ANTT, bạo loạn hòng lật đổ chính quyền cách mạng còn non trẻ; bài trừ tệ nạn xã hội, giữ gìn trật tự trị an ở các thành phố, thị xã, góp phần bảo vệ an toàn các đồng chí lãnh đạo Đảng, Chính phủ, các cơ quan, nhà máy…

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, lực lượng CSND đã luôn sát cánh cùng với quân và dân cả nước đánh thắng kẻ thù xâm lược, bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân; tích cực phòng ngừa, đấu tranh không khoan nhượng với các loại tội phạm, giữ vững ANTT xây dựng miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, làm hậu phương lớn cho miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, làm nên đại thắng mùa Xuân năm 1975.

Hình ảnh những CBCS CSND dũng cảm chiến đấu dưới mưa bom, bão đạn, xả thân bảo vệ nhân dân, bảo vệ tài sản Nhà nước đã trở thành những kí ức đẹp không phai mờ trong lòng nhân dân.

Bước vào thời kỳ đổi mới, cùng với việc triển khai đồng bộ, có hiệu quả các mặt công tác nghiệp vụ, lực lượng Cảnh sát phòng, chống tội phạm (PCTP) đã tập trung đẩy mạnh việc quán triệt, học tập và vận dụng linh hoạt, sáng tạo 6 điều Bác Hồ dạy trong rèn luyện và thực hiện nhiệm vụ, tạo những chuyển biến tích cực, rõ nét trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Gương liêm khiết, người tốt, việc tốt trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm xuất hiện ngày càng nhiều.

Quán triệt sâu sắc lời dạy “Đối với nhân dân phải kính trọng, lễ phép”, lực lượng Cảnh sát PCTP đã không ngừng tự rèn luyện, đổi mới các mặt công tác cũng như trong tiếp xúc, giải quyết công việc với nhân dân. Đã xây dựng hàng trăm mô hình, tổ chức quần chúng tham gia phòng, chống tội phạm, bảo vệ ANTT; phòng, chống ma túy, mại dâm… như phong trào: “Tự phòng, tự quản, tự bảo vệ”; “Quản lý giáo dục con em trong gia đình không phạm tội và tệ nạn xã hội”…

Qua tổng kết, có tới 60 – 70% tin tố giác về tội phạm của quần chúng có giá trị giúp cơ quan chức năng phát hiện kịp thời, điều tra, xử lý nhiều vụ phạm tội; vận động hơn 28.560 đối tượng phạm tội ra đầu thú; bắt giữ gần 15.000 đối tượng truy nã, trốn thi hành án…

Kết quả đó khẳng định vai trò quan trọng của phong trào quần chúng trong giữ gìn TTATXH, đồng thời thể hiện sự tin tưởng, đồng lòng của nhân dân với lực lượng Cảnh sát trong thực hiện nhiệm vụ.

Lời dạy “Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành” đã trở thành nguyên tắc hàng đầu trong các mặt công tác Công an nói chung và trong đấu tranh phòng, chống tội phạm nói riêng.

Trong những năm qua, lực lượng Cảnh sát PCTP đã tập trung tham mưu cho Trung ương Đảng, Chính phủ chỉ đạo thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm như: Nghị quyết số 09 về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình hình mới”; Chỉ thị số 48 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới”; xây dựng chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm đến năm 2020…

Các nghị quyết, chương trình, chỉ thị trên được quán triệt đến toàn thể CBCS, thể hiện rõ quyết tâm đấu tranh chống lại mọi luận điệu, quan điểm sai trái hòng làm giảm vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ giữ gìn TTATXH.

Trước tình hình tội phạm đang diễn biến phức tạp, phương thức, thủ đoạn hoạt động ngày càng tinh vi, có sự móc nối, tổ chức chặt chẽ trong hoạt động phạm tội… lực lượng Cảnh sát PCTP luôn nêu cao bản lĩnh chính trị vững vàng, “cương quyết, khôn khéo” trong đấu tranh với các loại tội phạm và hành vi tiêu cực.

Bên cạnh việc tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả các mặt công tác nghiệp vụ cơ bản, lực lượng Cảnh sát PCTP đã tổ chức tốt các đợt cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm; điều tra, xử lý nhiều vụ án liên quan đến các hành vi tham nhũng, cố ý làm trái. Chỉ tính riêng năm 2012, toàn lực lượng đã điều tra, khám phá 37.221 vụ phạm pháp hình sự, 19.582 vụ án về ma túy, 15.690 vụ án về kinh tế, tham nhũng… trong đó nhiều vụ có tính chất nghiêm trọng.

Trải qua các giai đoạn cách mạng, lực lượng CAND nói chung, lực lượng CSND nói riêng luôn coi 6 điều Bác Hồ dạy là kim chỉ nam cho mọi hoạt động, định hướng cho mỗi CBCS Công an những nguyên tắc hành động, rèn luyện phẩm chất, năng lực, phương pháp công tác, vượt qua khó khăn, thử thách, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.

Để hoàn thành nhiệm vụ trong giai đoạn mới, lực lượng Cảnh sát PCTP không ngừng xây dựng lực lượng vững mạnh toàn diện, nâng cao chất lượng, hiệu quả các mặt công tác, tiếp tục đẩy mạnh phong trào “Học tập, thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy CAND” gắn với triển khai, thực hiện hiệu quả, thiết thực Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh – CAND vì nước quên thân, vì dân phục vụ”, “CAND chấp hành nghiêm điều lệnh; xây dựng nếp sống văn hóa vì nhân dân phục vụ”, góp phần xứng đáng cùng toàn Đảng, toàn dân bảo vệ vững chắc sự nghiệp cách mạng, giữ vững ANTT của đất nước

P.V.V.

Theo cand.com.vn
Vkyno (st)

Đảng lãnh đạo toàn diện lực lượng vũ trang

PGS.TS Nguyễn Viết Thông (Tổng Thư Ký Hội Đồng Lý Luận Trung Ương)
Sự ra đời và tồn tại của lực lượng vũ trang gắn liền với sự ra đời và tồn tại của Nhà nước.

Với tư cách là một tổ chức của Nhà nước, do Nhà nước xây dựng, nên lực lượng vũ trang bao giờ cũng mang bản chất giai cấp của Nhà nước.

C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định rằng, lực lượng vũ trang của bất cứ nhà nước bóc lột nào cũng đều là công cụ bạo lực chủ yếu để bảo vệ lợi ích của giai cấp bóc lột, để đàn áp những người lao động, để thực hiện chính sách xâm lược của chúng.

V.I.Lênin đã bảo vệ và phát triển lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen về lực lượng vũ trang, chỉ rõ lực lượng vũ trang của các nước tư sản “là công cụ vững chắc nhất để duy trì chế độ cũ, là thành trì kiên cố nhất để bảo vệ trật tự tư sản và sự thống trị của tư bản” (V.I.Lênin: Toàn tập, tập 37, NXB CTQG, HN 2001, tr.361).

Đồng thời, V.I.Lênin đã khẳng định bản chất giai cấp của quân đội kiểu mới – quân đội của giai cấp vô sản: “Quân đội chúng ta là quân đội của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản”.

V.I.Lênin cũng đã phê phán những quan điểm cho rằng quân đội “trung lập hoá” chính trị, “phi chính trị”. Người chỉ rõ: “Quân đội không thể và không nên trung lập. Không lôi kéo quân đội vào chính trị – đó là khẩu hiệu của bọn tôi tớ giả nhân giả nghĩa của giai cấp tư sản và của chế độ Nga hoàng, bọn này trong thực tế bao giờ cũng lôi kéo quân đội vào chính trị phản động”.

VI.Lênin đã đề ra những nguyên tắc căn bản xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới: Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với lực lượng vũ trang; quan điểm giai cấp trong xây dựng lực lượng vũ trang; sự thống nhất giữa lực lượng vũ trang và nhân dân… Trong đó, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nguyên tắc quan trọng nhất, quyết định sức mạnh, sự tồn tại và phát triển của lực lượng vũ trang.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận của V.I.Lênin về lực lượng vũ trang kiểu mới, sáng lập ra lực lượng vũ trang của dân tộc ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng xây dựng bản chất cách mạng của lực lượng vũ trang.

Nói về quân đội, Người chỉ rõ: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 11, NXB CTQG, HN, 2002, tr.350).

Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập, giáo dục và rèn luyện. Từ khi ra đời đến nay, lực lượng vũ trang không ngừng phát triển và đã thực sự trở thành lực lượng chính trị – vũ trang hùng mạnh, trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Nhờ có đường lối đúng đắn, có chiến lược và sách lược phù hợp, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam cùng với toàn dân ta làm nên những thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa dân tộc tiến vào kỷ nguyên độc lập tự do, thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa xuân năm 1995, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế.

Lịch sử, gần 70 năm qua đã khẳng định nhờ sự lãnh đạo toàn diện đúng đắn, tài tình của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, nên lực lượng vũ trang cùng toàn dân đã làm nên những kỳ tích nêu trên.

Sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của lực lượng vũ trang nói riêng, của cách mạng Việt Nam nói chung.

Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam từ khi ra đời đến nay luôn luôn là lực lượng trung thành, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Tổ quốc gắn liền với bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ.

Sinh ra và lớn lên trong phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân, của dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam thật sự là lực lượng vũ trang của nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Cội nguồn sức mạnh của lực lực lượng vũ trang là từ nhân dân, ở trong nhân dân. Bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ thiêng liêng của lực lượng vũ trang.

Trong chế độ ta, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Tổ quốc gắn liền với bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ. Đảng ra đời, tồn tại là vì nhân dân, vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng chế độ mới.

Do đó lực lượng vũ trang là lực lượng trung thành với Tổ quốc, nhân dân, và Đảng Cộng sản Việt Nam, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế.

Hiến pháp là đạo luật cơ bản, thể hiện tập trung ý chí, nguyện vọng của nhân dân và lực lượng lãnh đạo xã hội, có quy định những nội dung về bảo vệ Tổ quốc và các lực lượng vũ trang nhân dân là đúng đắn, cần thiết.

Hiến pháp năm 1980, Chương IV. Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, có 2 điều, trong đó Điều 51 quy định: “Các lực lượng vũ trang nhân dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ những thành quả cách mạng, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, tự do, hạnh phúc và lao động hoà bình của nhân dân, cùng toàn dân xây dựng nước nhà”.

Hiến pháp năm 1992, Chương IV. Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, có 5 điều, trong đó Điều 45 quy định “Các lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và những thành quả của cách mạng, cùng toàn dân xây dựng đất nước”.

Kế thừa những bản Hiến pháp trước đây, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, công bố lấy ý kiến nhân dân, Chương IV. Bảo vệ Tổ quốc, giữ 5 điều, nhưng có sửa đổi, bổ sung trong từng điều, trong đó Điều 70 quy định: “Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế”.

Đa số nhân dân đồng tình với Dự thảo, có đề nghị thay đổi trật tự một số cụm từ và kiến nghị viết như sau: “Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, nhân dân, với Đảng Cộng sản Việt Nam, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế”.

Sửa đổi, bổ sung như trên là chính xác. So với Hiến pháp năm 1992 có bổ sung quy định lực lượng vũ trang không chỉ trung thành với Tổ quốc và nhân dân mà còn trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì Điều 4 đã quy định: Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước.

Bổ sung quy định lực lượng vũ trang bảo vệ nhân dân, Đảng, Nhà nước là đúng đắn. Đồng thời, bổ sung nhiệm vụ “thực hiện nghĩa vụ quốc tế” phù hợp với quyết định của Đại hội XI là hội nhập quốc tế, trong đó có hội nhập quốc tế về quốc phòng, an ninh

N.V.T.

Theo cand.com.vn
Vkyno (st)

Đảng lãnh đạo toàn diện lực lượng vũ trang

PGS.TS Nguyễn Viết Thông (Tổng Thư Ký Hội Đồng Lý Luận Trung Ương)
Sự ra đời và tồn tại của lực lượng vũ trang gắn liền với sự ra đời và tồn tại của Nhà nước.

Với tư cách là một tổ chức của Nhà nước, do Nhà nước xây dựng, nên lực lượng vũ trang bao giờ cũng mang bản chất giai cấp của Nhà nước.

C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định rằng, lực lượng vũ trang của bất cứ nhà nước bóc lột nào cũng đều là công cụ bạo lực chủ yếu để bảo vệ lợi ích của giai cấp bóc lột, để đàn áp những người lao động, để thực hiện chính sách xâm lược của chúng.

V.I.Lênin đã bảo vệ và phát triển lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen về lực lượng vũ trang, chỉ rõ lực lượng vũ trang của các nước tư sản “là công cụ vững chắc nhất để duy trì chế độ cũ, là thành trì kiên cố nhất để bảo vệ trật tự tư sản và sự thống trị của tư bản” (V.I.Lênin: Toàn tập, tập 37, NXB CTQG, HN 2001, tr.361).

Đồng thời, V.I.Lênin đã khẳng định bản chất giai cấp của quân đội kiểu mới – quân đội của giai cấp vô sản: “Quân đội chúng ta là quân đội của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản”.

V.I.Lênin cũng đã phê phán những quan điểm cho rằng quân đội “trung lập hoá” chính trị, “phi chính trị”. Người chỉ rõ: “Quân đội không thể và không nên trung lập. Không lôi kéo quân đội vào chính trị – đó là khẩu hiệu của bọn tôi tớ giả nhân giả nghĩa của giai cấp tư sản và của chế độ Nga hoàng, bọn này trong thực tế bao giờ cũng lôi kéo quân đội vào chính trị phản động”.

VI.Lênin đã đề ra những nguyên tắc căn bản xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới: Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với lực lượng vũ trang; quan điểm giai cấp trong xây dựng lực lượng vũ trang; sự thống nhất giữa lực lượng vũ trang và nhân dân… Trong đó, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nguyên tắc quan trọng nhất, quyết định sức mạnh, sự tồn tại và phát triển của lực lượng vũ trang.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận của V.I.Lênin về lực lượng vũ trang kiểu mới, sáng lập ra lực lượng vũ trang của dân tộc ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng xây dựng bản chất cách mạng của lực lượng vũ trang.

Nói về quân đội, Người chỉ rõ: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 11, NXB CTQG, HN, 2002, tr.350).

Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập, giáo dục và rèn luyện. Từ khi ra đời đến nay, lực lượng vũ trang không ngừng phát triển và đã thực sự trở thành lực lượng chính trị – vũ trang hùng mạnh, trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Nhờ có đường lối đúng đắn, có chiến lược và sách lược phù hợp, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam cùng với toàn dân ta làm nên những thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa dân tộc tiến vào kỷ nguyên độc lập tự do, thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa xuân năm 1995, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế.

Lịch sử, gần 70 năm qua đã khẳng định nhờ sự lãnh đạo toàn diện đúng đắn, tài tình của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, nên lực lượng vũ trang cùng toàn dân đã làm nên những  kỳ tích nêu trên.

Sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của lực lượng vũ trang nói riêng, của cách mạng Việt Nam nói chung.

Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam từ khi ra đời đến nay luôn luôn là lực lượng trung thành, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Tổ quốc gắn liền với bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ.

Sinh ra và lớn lên trong phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân, của dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam thật sự là lực lượng vũ trang của nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Cội nguồn sức mạnh của lực lực lượng vũ trang là từ nhân dân, ở trong nhân dân. Bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ thiêng liêng của lực lượng vũ trang.

Trong chế độ ta, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Tổ quốc gắn liền với bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ. Đảng ra đời, tồn tại là vì nhân dân, vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng chế độ mới.

Do đó lực lượng vũ trang là lực lượng trung thành với Tổ quốc, nhân dân, và Đảng Cộng sản Việt Nam, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế.

Hiến pháp là đạo luật cơ bản, thể hiện tập trung ý chí, nguyện vọng của nhân dân và lực lượng lãnh đạo xã hội, có quy định những nội dung về bảo vệ Tổ quốc và các lực lượng vũ trang nhân dân là đúng đắn, cần thiết.

Hiến pháp năm 1980, Chương IV. Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, có 2 điều, trong đó Điều 51 quy định: “Các lực lượng vũ trang nhân dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ những thành quả cách mạng, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, tự do, hạnh phúc và lao động hoà bình của nhân dân, cùng toàn dân xây dựng nước nhà”.

Hiến pháp năm 1992, Chương IV. Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, có 5 điều, trong đó Điều 45 quy định “Các lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và những thành quả của cách mạng, cùng toàn dân xây dựng đất nước”.

Kế thừa những bản Hiến pháp trước đây, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, công bố lấy ý kiến nhân dân, Chương IV. Bảo vệ Tổ quốc, giữ 5 điều, nhưng có sửa đổi, bổ sung trong từng điều, trong đó Điều 70 quy định: “Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế”.

Đa số nhân dân đồng tình với Dự thảo, có đề nghị thay đổi trật tự một số cụm từ và kiến nghị viết như sau: “Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, nhân dân, với Đảng Cộng sản Việt Nam, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế”.

Sửa đổi, bổ sung như trên là chính xác. So với Hiến pháp năm 1992 có bổ sung quy định lực lượng vũ trang không chỉ trung thành với Tổ quốc và nhân dân mà còn trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì Điều 4 đã quy định: Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước.

Bổ sung quy định lực lượng vũ trang bảo vệ nhân dân, Đảng, Nhà nước là đúng đắn. Đồng thời, bổ sung nhiệm vụ “thực hiện nghĩa vụ quốc tế” phù hợp với quyết định của Đại hội XI là hội nhập quốc tế, trong đó có hội nhập quốc tế về quốc phòng, an ninh

N.V.T.
cand.com.vn