Thư viện

Mong ước của Bác Hồ

“Tôi chỉ có một mong ước là sớm trở về Tổ quốc tôi”.

– Có mặt ở Moscow để dự Đại hội VI Quốc tế Cộng sản, chàng thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc đã nói với nhà văn Ilia  Êrenbua: “Tôi chỉ có một mong ước là sớm trở về Tổ quốc tôi”.

Ngày 25/9/1942, tại nhà tù của Quốc dân Đảng Trung Hoa, Bác sáng tác hai bài thơ chữ Hán với đề tựa “Trung thu”:

“ I. Trung Thu vành vạnh mảnh gương thu/ Sáng khắp nhân gian bạc một màu/ Sum họp nhà ai ăn Tết đó/ Chẳng quên trong ngục kẻ ăn sầu”; “II. Trung Thu ta cũng Tết trong tù/ Trăng gió đêm thu gợn vẻ sầu/ Chẳng được tự do mà thưởng nguyệt/ Lòng ta vời vợi mảnh trăng thu”.

25-9-1966 HCM thăm các chiến sĩ lực lượng phòng không bảo về thủ đô.jpg (99KB)Ngày 25/9/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm các chiến sĩ lực lượng phòng không bảo vệ thủ đô.

7 năm sau, Bác Hồ viết thư gửi các cháu thiếu nhi nhân Tết Trung thu kháng chiến:

“Mục đích của Bác và Đoàn thể cùng Chính phủ là cốt xây dựng cho các cháu đời sống thái bình, tự do, sung sướng”. 

Cuối thư Bác viết tặng bài thơ: “Ai yêu các nhi đồng/ Bằng Bác Hồ Chí Minh?/ Tính các cháu ngoan ngoãn/ Mặt các cháu xinh xinh/ Mong các cháu cố gắng/ Thi đua học và hành/ Tuổi nhỏ làm việc nhỏ/ Tuỳ theo sức của mình/ Để tham gia kháng chiến/ Để gìn giữ hoà bình/ Các cháu hãy xứng đáng/ Cháu Bác Hồ Chí Minh”. 

Ngày 25/9/1965, Bác Hồ và Bác Tôn viết chung mấy câu thơ gửi cho các cháu học sinh Trường Hoàng Lệ Kha” ở vùng giải phóng Tây Ninh hứa: “Nam Bắc sẽ sum họp một nhà/ Bác cháu ta sẽ gặp mặt trẻ già vui chung/ Nhớ thương các cháu vô cùng/ Mong sao mỗi cháu một anh hùng thiếu nhi”. 

Trước đó, ngày 25/9/1947, Bác viết thư gửi cụ Võ Liêm Sơn, Chủ tịch “Uỷ ban Trung ương Mùa Đông binh sĩ” xin được gửi một tháng lương:  “Nhờ Cụ mua giùm vật liệu và may giùm mấy chiếc chăn áo cho chiến sĩ, gọi tỏ chút lòng thành. Đồng bào ta đã giúp nhiều. Lần này, mặc dàu hoàn cảnh khó khăn, nhưng tôi rất mong đồng bào cũng ra sức giúp, để cho chiến sĩ khỏi lạnh lùng và đủ ấm áp để ra sức xung phong diệt địch”.   

Ngày 25/9/1954, Bác viết bài “Các lãnh tụ Trung Quốc” trên báo “Nhân Dân”: “Đối với Việt Nam cần kiệm liêm chính là đức tính của những người cách mạng Việt Nam phải thực hiện được”.

X&N
Vkyno (st)

Bác Hồ với “Binh pháp Tôn Tử”

Phải chăng, trước tình thế nguy cơ chiến tranh đang trở nên không tránh được, Bác bắt đầu viết hàng loạt bài bàn về “Binh pháp Tôn Tử”.

– Ngày 17/5/1946,  báo “Cứu Quốc” bắt đầu đăng tải loạt bài “Binh pháp Tôn tử”, ký bút danh là Q.Th. Đây chính là bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh thường ký dưới các bài bàn về nội dung quân sự.

Phải chăng, trước tình thế nguy cơ chiến tranh đang trở nên không tránh được, Bác bắt đầu viết hàng loạt bài bàn về “Binh pháp Tôn Tử” để mang lại những tri thức cơ bản cho người dân và những cán bộ quân đội còn rất non trẻ?

Tháng 5/1959, Bác thăm Khu tự trị Tây Bắc trao tăng bức trướng kỷ niệm của nhân dân Thủ đôTháng 5/1959, Bác thăm Khu tự trị Tây Bắc trao tăng bức trướng kỷ niệm của nhân dân Thủ đô

Tôn Tử (hay Tôn Vũ) là một nhà lý luận quân sự cổ đại nổi tiếng ở Tung Quốc sống vào cuối thế kỷ VI trước công nguyên và là tác giả một bộ binh thứ thuộc loại sớm nhất nhân loại…

Trong bài đầu tiên này, Bác giới thiệu: “Theo các nhà nghiên cứu “binh pháp” của Tôn Tử ở Nhật Bản thì Tôn Tử đã dưạ vào 10 nguyên lý chính để sáng tạo ra binh pháp “ và nguyên lý thứ nhất – Phải biết xét đoán trước”.

Đề cập tới nguyên lý thứ nhất này của Binh pháp Tôn Tử, tác giả nhấn mạnh đến việc dùng binh phải xem xét 5 điều kiện là: đạo nghĩa, thiên thời, địa lợi, tướng và pháp để kết luận rằng: “Năm điều nói trên, người làm tướng phải biết rõ. Thế tức là biết mình. Nhưng biết phải cố làm. Làm đuợc thì sẽ có đủ nhân hoà, địa lợi, thiên thời, tướng giỏi, quân nhu đầy đủ để nắm chắc phần thắng trong lúc chiến tranh”.

Cùng trên số báo này, Bác còn viết bài: “Phương pháp tác chiến” để đưa ra kết luận: “Cho nên người làm tướng có mưu trí bao giờ cũng lo lắng đến lợi, đến hại. Lo đến lợi mới có đủ tin tưởng làm trọn được nhiệm vụ. Lo đến hại mới tìm mưu kế để giải trừ đựoc gian nguy”.

Tiếp đó, trên nhiều số báo “Cứu Quốc”, Bác tiếp tục giới thiệu các nội dung của “Binh pháp Tôn Tử”. Như các bài “Muốn biết người phải thế nào ?” (24/5/1946) bàn về hoạt động gián điệp và các loại gián điệp để đi đến kết luận: “Nhiệm vụ của gián điệp thực nặng nề. Làm được nhiệm vụ đó, thắng trận rất dễ dàng”.

Bài “Phương pháp dùng gián điệp” (CQ 31/5/1946) kết thúc bằng nhận định: “Đặt được kế hoạch xác đáng tức là biết mình, biết người, đánh trăm trận được trăm trận”.

Bài “Đặt kế hoạch tác chiến” (CQ 7/6/1946) bàn về vấn đề chiến lược chiến thuật; “Vấn đề quân nhu và lương thực” (CQ 21/6/1946); “Bàn về kế hư thực” (27/9/1946); “Phương pháp đánh giữ và tiến thoái” (CQ 4/10/1946)…

Xen kẽ với các bài giới thiệu “Binh pháp Tôn Tử”, Bác cũng còn cho đăng các bài của mình về một số vấn đề như: “Chiến tranh tư tuởng” (CQ 11/10/1946), “Bàn về địa hình” (CQ 25/10/1946), “Địa thế” (CQ 8/11/1946), “Phương pháp chiến đấu và hành quân trên các địa hình” (CQ 15/11/1946)…

X&N
Vkyno (st)

Bác Hồ với Ngày Quốc tế Lao động

Ngày 1/5/1924, Nguyễn Ái Quốc có mặt trong Ngày Quốc tế Lao động diễn ra trên Hồng trường theo lời mời của Thành uỷ Moscow.

– Ngày 1/5/1920, báo cáo của mật thám ghi nhận Nguyễn Ái Quốc tham dự mít tinh kỷ niệm Ngày Lao động Quốc tế cùng Nhóm đảng viên Xã hội Pháp và tham luận trên diễn đàn đòi ngưng gửi người sang thuộc địa.

Ngày 1/5/1924, Nguyễn Ái Quốc có mặt trong Ngày Quốc tế Lao động diễn ra trên Hồng trường theo lời mời của Thành uỷ Moscow và Ban Thư ký của Quốc tế Cộng sản.

Ngày 1/5/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi trong đó xác nhận: “Ở nước ta lần này là lần đầu  mà đồng bào ta, anh chị em lao động ta được tự do đón tiếp ngày 1/5…

Đối với chúng ta nó là một ngày để tỏ cho thế giới biết rằng ngày nay chẳng những là ngày tết lao động, mà nó còn là ngày toàn dân đoàn kết. Đoàn kết để giữ vững tự do dân chủ. Đoàn kết để kiến thiết nước nhà. Đoàn kết để xây dựng một đời sống mới”.

Ngày 1/5/1952 Bác cùng các đại biểu dự ĐH CSTĐ và cán bộ gương mẫu toàn quốc.Ngày 1/5/1952 Bác cùng các đại biểu dự ĐH CSTĐ và cán bộ gương mẫu toàn quốc.

Ngày 1/5/1948, Bác Hồ ra “Lời kêu gọi thi đua yêu nước”, trong đó có đoạn: “Nước ta kinh tế lạc hậu, nhưng lòng yêu nước và chí quật cường chẳng kém ai. Nay muốn tự cung tự cấp, tự túc, đi kịp người thì chúng ta phải đi mau. Vì vậy, sĩ, nông, công, thương, binh, gái trai già trẻ, toàn thể quốc dân ta, vô luận ở địa vị nào, làm công việc gì, phải ra sức tham gia cuộc Thi đua yêu nước, tức là tăng gia sản xuất”.

Ngày 1/5/1951, trong lời kêu gọi nhân ngày Quốc tế Lao động, Bác Hồ xác định “Trọng tâm thi đua là: Quân đội thi đua giết gịăc lập công. Công nhân thi đua tăng gia sản xuất. Nông dân thi đua sản xuất lương thực. Trí thức thi đua sáng tác, phát minh. Cán bộ thi đua cần, kiệm, liêm, chính. Toàn dân thi đua tích cực tham gia kháng chiến”.

Cùng ngày, báo “Nhân Dân” đăng bài “Đảng Lao động Việt Nam với lao động trí óc” với bút danh C.B., Bác nêu rõ: “Lao động trí óc cần được khuyến khích giúp đỡ phát triển tài năng… trí thức ta cần cải tạo tư tưởng và sửa đổi lề lối làm việc”.

Ngày 1/5/1958, Bác đưa ra “lời kêu gọi nhân Ngày Quốc tế Lao động” khẳng định: “Hôm nay cùng với nhân dân lao động toàn thế giới, chúng ta nhịêt liệt chào mừng Ngày 1 tháng 5 trong lòng đầy tin tưởng và phấn khởi quyết tâm vượt mọi khó khăn, tiến lên làm tròn những nhiệm vụ mới… Ngày 1 tháng 5 năm nay là một ngày đoàn kết, đấu tranh, tin tưởng và phấn khởi”.

Ngày 1/5/1964, nhân Ngày Quốc tế Lao động, Bác gửi điện khen ngợi thanh niên trên công trường khôi phục đường sắt Thanh Hoá – Vinh  trong đó có việc xây lại Cầu Hàm Rồng.

X&N
Vkyno (st)

Chủ tịch Hồ Chí Minh một tấm gương bình dị mà cao quý

Bác HồAi được tiếp xúc với Hồ Chí Minh hầu như đều có ấn tượng mạnh mẽ về sức hút mãnh liệt, sự lôi cuốn và sức thuyết phục lớn lao toát ra từ nhân cách của Người. Tại sao lại như vậy?

Theo Thủ tướng Phạm Văn Đồng quan sát và nhận định:

“Bình sinh Hồ Chủ tịch rất giản dị, lão thực. Vĩ nhân, thật vĩ nhân bao giờ cũng giản dị, lão thực. Đã cầu kỳ là thiếu bản lĩnh, cố làm trò để đánh lừa thiên hạ và hậu thế”.

“Vĩ nhân” hay”Thiên tài”, hoặc “Lãnh tụ vĩ đại” đều là sự tôn vinh của dân ta và nhân loại đối với Người, bởi những cống hiến vĩ đại của Người cho dân tộc và nhân loại. Theo lẽ phải thông thường, những phẩm chất tốt đẹp, chất lượng cao của con người vẫn được hàm chứa thể hiện trong những hình thức nổi bật, phong cách khác thường, xuất chúng. Nhưng, vượt lên trên sự thông thường đó, trong đời sống hiện thực, Hồ Chí Minh sống và làm việc với các cán bộ, đảng viên, đồng bào và chiến sỹ với một phong cách bình dị nhất. Sự khác thường ở Người chính là những phẩm chất cao đẹp đến mức vĩ đại thì lại trở nên bình thường, giản dị và gần gũi nhất đối với con người. Cái vĩ đại đi liền với sự giản dị, trở thành bình dị mà cao quý. Bởi trong phong cách khiêm nhường, giản dị Hồ Chí Minh chứa đựng cái tâm trong sáng, cái đức cao đẹp, cái trí mẫn tiệp, cái hành mực thư­ớc – Phong cách của một lãnh tụ đồng thời là Nhà văn hoá kiệt xuất  Một nhân tố có tính quyết định làm nên uy tín  lãnh tụ của Đảng và Nhà nước, tạo nên niềm tin của nhân dân với Người.

Sau gần 30 năm sống, hoạt động ở nước ngoài, trong đó từng có thời gian sống hoạt động khá lâu tại 5 cường quốc thế giới là Mỹ, Nga, Trung Quốc, Anh và Pháp, song khi trở về nước, Người vẫn giữ phong độ, ngôn ngữ, tính tình của một người Việt Nam với ham muốn cháy bỏng là mở đường cho dân tộc có thể tiến lên sánh vai cùng với các cường cuốc năm châu. Sống nhiều ở nước ngoài, biết nhiều ngoại ngữ, khiến Người không chỉ kế thừa cái ý nhị trong ngôn ngữ của dân quê và kẻ sĩ Việt Nam, mà còn làm cho nó trong sáng, phong phú hơn lên với những nội dung tư tưởng, văn hoá hết sức mới mẻ, tiên tiến và hiện đại. Lời kêu gọi, văn thơ của Người không chỉ là tiếng nói hào hùng của núi sông Việt Nam, phảng phất hương vị ca dao, tục ngữ người Việt mà còn có những chân lý lớn của thời đại dưới dạng những châm ngôn và minh triết như: Không có gì quý hơn độc lập, tự do! Còn trong giao tiếp thường ngày với nhân dân, thái độ, lời nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh thân thiết như đối với người trong gia đình. Trong một dịp Tết Người đến thăm nhà chị Chín làm công nhân khuân vác ở Văn Điển. Chị Chín vô cùng ngạc nhiên khi thấy Chủ tịch nước đến thăm nhà một người dân nghèo túng như mình. Song, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:

“Bác không tới thăm những người như mẹ con thím, thì còn thăm ai!”.

Đây thực sự là một bài học về sự quan tâm của Lãnh tụ Đảng, Nhà nước với người dân nghèo.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng kể rằng lối ăn, ở của Chủ tịch Hồ Chí Minh rất giản dị. Lúc ở chiến khu, Người sống chung với anh em trong một cơ quan, làm việc, học tập, ăn ở, sinh hoạt đều như anh em. Người thích đi bộ, tắm sông, hút thuốc lá và thỉnh thoảng uống một ly rượu thuốc trong bữa cơm. Lúc ở rừng, Hồ Chí Minh chủ trương tránh ăn no, không ngủ trưa và vận động nhiều. Buổi sáng thể dục, buổi chiều làm vườn, lúc cần thì đi vác củi cho đồng bào. Trong suốt thời gian ở thượng du Bắc Bộ trước Cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến chống Pháp, nhiều ngày Người luôn tay nắn một hòn đá tròn bầu dục, cốt để luyện gân tay và hoạt động cơ thể. Người ít thích dùng thuốc, chỉ lúc nào sức cơ thể chống không nổi bệnh thì mới dừng. Khi về Hà Nội, Chủ tịch nước có phòng làm việc, phòng tiếp khách, nhiều khi chủ tọa những bữa tiệc long trọng, nhưng bình thường ngày hai bữa, Chủ tịch nước cùng nhân viên đều ăn chung. Nhiều lần, vì đến quá trễ, thức ăn không còn gì,  Hồ Chí Minh vẫn vui cười ăn đủ mấy bát cơm như thường lệ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người giản dị, đồng thời cũng là người lịch sự một cách thanh tao cao quý. Những người ngoại quốc có dịp tiếp chuyện Hồ Chí Minh đều ca ngợi cái phong độ thanh tao cao quý của Người. Trong phong cách đó, vừa có nét đặc sắc của văn hoá Phương Đông mà cũng không hề xa lạ với văn hoá Phương Tây, là sự kết hợp hài hoà cái tinh tuý của Phương Đông với cái tinh hoa của Phương Tây.

Từ năm 1923, khi nhà thơ, nhà báo Nga Ô-xíp Man-đen-xtam gặp Nguyễn Ái Quốc lúc đó 33 tuổi, đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, từ Pháp sang Nga hoạt động, đã có nhận xét rằng:

“Dáng dấp của con người đang ngồi trước mặt tôi đây, Nguyễn Ái Quốc, cũng đang toả ra một cái gì thật lịch thiệp và tế nhị…Từ Nguyễn Ái Quốc đã toả ra một thứ văn hoá, không phải văn hoá Châu Âu, mà có lẽ là một nền văn hoá tương lai…Qua phong thái thanh cao, trong giọng nói trầm ấm của Nguyễn Ái Quốc, chúng ta như nghe thấy ngày mai, như thấy sự yên tĩnh mênh mông của tình hữu ái toàn thế giới”1.

Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Anh Giôn Gô-lan có nhận xét sau khi làm việc với Chủ tịch Đảng Hồ Chí Minh rằng:

“Được gặp gỡ và nói chuyện với đồng chí Hồ Chí Minh là một ấn tượng không thể nào quên được. Đây là một con người vĩ đại nhưng không bao giờ tỏ ra mình là một con người vĩ đại. Mặc dầu có những trọng trách phải gánh vác, Người vẫn thân ái, nhiệt tình và sôi nổi làm cho bạn cảm thấy thoải mái”2.

Tìm hiểu cả cuộc đời Hồ Chí Minh, Nhà nghiên cứu Ê-len Tuốc-me-rơ, trong tác phẩmTrở thành người Bác như thế nào? xuất bản ở Béc-lin, Đức, đã viết:

“Ở con người Hồ Chí Minh, mỗi người đều thấy biểu hiện của nhân vật cao quý nhất, bình dị nhất và được kính yêu nhất trong gia đình mình… Hình ảnh của Hồ Chí Minh đã hoàn chỉnh với sự kết hợp đức khôn ngoan của Phật, lòng bác ái của Chúa, triết học Mác, thiên tài cách mạng của Lê-nin và tình cảm của một người chủ gia tộc, tất cả bao bọc trong một dáng dấp rất tự nhiên”.

Là Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh có quyền hưởng thụ vật chất theo vị thế tối cao của mình, nhưng Người đã thắng bản năng hưởng thụ thường có của con người nhất là khi có chức lớn, quyền to lâu dài, tự tránh xa đặc quyền, đặc lợi, sống một đời hết sức bình dị. Một đời sống cần kiệm liêm chính, chí công vô tư thực sự như Người cho đến nay hiếm có ai thực hiện được, Người trở thành công bộc số 1 tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân. Người từng tâm sự Chủ tịch của một nước nghèo nên không thể có một cuộc sống khác. Người vượt qua những ham muốn thông thường ở con người, kiên cường tranh đấu để mưu cầu độc lập, thống nhất cho Tổ quốc, dân chủ, tự do, hạnh phúc cho toàn dân ta.

Năm 1954, từ Chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội, Người không lên ở trên ngôi nhà lớn hoành tráng, sang trọng vốn là Phủ toàn quyền Đông Dương trước đây, mà chỉ chọn ở trong ngôi nhà nhỏ cấp 4 tầm thường của người thợ điện suốt 4 năm trời. Đến năm 1958, khi hầu hết cán bộ của ta đã có nhà ở theo tiêu chuẩn cấp bậc, Chủ tịch nước Hồ Chí Minh vẫn sống trong ngôi nhà của người thợ điện. Bộ Chính trị quyết định xây nhà cho Người. Khi đồng chí Trưởng đoàn của Công ty 590 của Quân đội được Trung ương giao nhiệm vụ xây nhà cho Chủ tịch nước, trình Người bản thiết kế. Xem Bản thiết kế, Người hỏi;

Các chú xây nhà cho ai ở? Đồng chí Trưởng đoàn thưa:

Xây nhà cho Bác ở ạ. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói:

Các chú làm nhà to các chú ở. Làm nhà cho Bác làm nhỏ thôi.

Thế là phương án xây biệt thự cho Người không thành. Khi Người đi công tác, một ngôi nhà sàn bằng gỗ mộc bình thường đã được dựng lên. Tầng trên chỉ có 2 phòng, mỗi phòng hơn 9m2. Một phòng ngủ, một phòng làm việc. Tầng dưới kê một bộ bàn nhiều ghế để thỉnh thoảng Chủ tịch Đảng họp Bộ Chính trị, hoặc tiếp các cháu thiếu nhi. Ngôi nhà sàn nhỏ đó không nổi tiếng nguy nga tráng lệ như nhiều dinh thự của các vua chúa hoặc nguyên thủ quốc gia, nhưng nó lại sống mãi trong lòng mỗi người tới thăm. Vì chính ngôi nhà người ở là hiện thân của cuộc sống bình dị, của đức tính bình dị mà cao quý của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Xan-va-đo Xa-phích Ho-rê-hơ Ha-den nhận xét rằng:

“Vào thăm ngôi nhà sàn của Người, tôi càng cảm thấy đồng chí Hồ Chí Minh như vẫn sống. Từng chi tiết nhỏ cũng như toàn bộ ngôi nhà đều ánh lên sự thông thái của Người và còn nguyên dấu vết cuộc đời của một con người đầy tình yêu nhân dân, đầy yêu thương con trẻ, dào dạt tình yêu Tổ quốc, yêu thương người lao động, yêu Đảng, yêu chủ nghĩa xã hội và lý tưởng cộng sản chủ nghĩa.

Ngôi nhà nhỏ bé giản dị của Bác Hồ chứa đựng một bài học hùng hồn và rõ ràng về đức tính khiêm tốn cách mạng, trí thông minh, bình tĩnh, phục vụ nhân dân và sự nghiệp giải phóng, kiên quyết lên án mọi biểu hiện sùng bái cá nhân”3.

Thực ra việc học tập và làm theo tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải là không thể làm được. Người Việt Nam nào cũng hiểu Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người bình dị và cao quý. Người bình dân mộc mạc lại còn hiểu  Chủ tịch Hồ Chí Minh dễ hơn người khác để có thể học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh. Song, nhân dân kỳ vọng đội ngũ cán bộ, Đảng viên, mà trước hết là những người lãnh đạo, quản lý từ cao cấp nhất trở xuống đi đầu học tập và làm theo  phong cách bình dị mà cao quý của Chủ tịch Hồ Chí Minh để nhân dân noi theo./.

  PGS,TS Nguyễn Thế Thắng
Theo 
http://tutuonghochiminh.vn
Thu Hiền (st)


1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr 478-479.

2 Báo Quân đội nhân dân, 15-11-1969.

3 Hồ Chí Minh một nhân cách hoàn hảo, NXB Công an nhân dân, 2005, tr111-112.

bqllang.gov.vn

Những tiên đoán về Hồ Chí Minh

QĐND – Đối với các thiên tài và vĩ nhân, người ta không thể đánh giá cao thấp, mà chỉ có thể xem xét, đánh giá họ qua phát hiện và giải quyết những nhiệm vụ mà thời đại đã đặt ra cho nhân loại hoặc cho dân tộc mình. Bác Hồ kính yêu của dân tộc ta là như vậy.

Tiên đoán của cụ Phan Châu Trinh

Cụ Phan Châu Trinh là nhà yêu nước lớn của Việt Nam đầu thế kỷ XX. Về tuổi tác, Phan Châu Trinh là bậc cha chú của Nguyễn Ái Quốc. Mặc dù giữa hai người có sự khác nhau về phương pháp cứu nước, nhưng đối với Nguyễn Ái Quốc, cụ Phan luôn dành cho Anh một niềm tin và cả sự tôn trọng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890-1969)

Trong một bức thư đề ngày 18-2-1922 gửi từ Mác-xây cho Nguyễn Ái Quốc ở Pa-ri, cụ Phan Châu Trinh đã viết rằng: Nguyễn Ái Quốc “như cây dương lộc, nghị lực có thừa, dày công học hành, lý thuyết tinh thông”. Cụ Phan tin rằng, không bao lâu nữa “cái chủ nghĩa mà Anh tôn thờ (ý nói chủ nghĩa Mác – Lê-nin) sẽ sâu rễ bền gốc trong đám dân tình chí sĩ nước ta”.

Năm 1925, trước khi qua đời cụ Phan đã thổ lộ với các đồng chí của mình như Lê Văn Huân, Huỳnh Thúc Kháng: ”Sự nghiệp độc lập nước nhà trông cậy vào Nguyễn Ái Quốc”(1).

Tiên đoán của một nhà thơ lớn của Liên Xô

Vào năm 1923, khi Nguyễn Ái Quốc làm việc ở Quốc tế Cộng sản ở Mát-xcơ-va, một lần nhà thơ Liên Xô là Ô-xíp Man-đen-xtam đến thăm Nguyễn Ái Quốc. Trả lời câu hỏi của nhà thơ, vì sao phải ra nước ngoài hoạt động, Nguyễn Ái Quốc đã nói: Khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ tự do, bình đẳng, bác ái… tôi muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những từ ấy. Chuyến thăm này đã được Ô-xíp Man-đen-xtam viết lại trong bài “Thăm một chiến sĩ Quốc tế Cộng sản” (trên tờ báo “Tia lửa nhỏ”, Liên Xô, số 39, ngày 23-12-1923). Trong bài báo nói trên, nhà thơ đã nhận xét: “Qua cử chỉ cao thượng, tiếng nói trầm lắng của Nguyễn Ái Quốc, tôi thấy được ngày mai, thấy được viễn cảnh trời yên biển lặng của tình hữu ái toàn thế giới bao la như đại dương… Từ Nguyễn Ái Quốc tỏa ra một nền văn hóa, không phải văn hóa châu Âu, mà có lẽ là văn hóa tương lai…”(2).

Tiên đoán của luật sư F.H Lô-dơ-bai

Vào năm 1931, trong thời kỳ hoạt động Cách mạng ở Hồng Công, Bác Hồ đã bị cảnh sát Hồng Công bí mật bắt giam theo “đặt hàng” của mật thám Pháp. Biết tin Nguyễn Ái Quốc bị bắt, Hồ Tùng Mậu đã đến gặp luật sư Phrăng-xít Hăng-ri Lô-dơ-bai – một luật sư tiến bộ người Anh ở Hồng Công nhờ giúp đỡ. Luật sư F.H Lô-dơ-bai với những thông tin về Nguyễn Ái Quốc và cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam đã không ngại nguy hiểm, khó khăn, qua 9 phiên tòa xét xử, bác bỏ những cáo buộc của thẩm phán, cứu Nguyễn Ái Quốc thoát khỏi nanh vuốt của thực dân Pháp. Sau này, ông nói: “Tôi tin Việt Nam sẽ có vị trí đặc biệt trên thế giới với nhà lãnh tụ tài ba Hồ Chí Minh”.

———-

(1) – Theo “117 chuyện kể về Chủ tịch Hồ Chí Minh” – Ban Tuyên giáo Trung ương.

(2) – Hồ Chí Minh “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận”, NXB Văn học, HN,1981, Tr 477,478.

LỆ CHI
qdnd.vn

Bác Hồ – Người không có tuổi !

Một buổi sáng năm 1960, nhà thơ An-tôn-xki, người dịch “Nhật ký trong tù” vào thăm Bác tại Hà Nội. Nhà thơ viết: “Đúng 6 giờ rưỡi, chúng tôi đến chờ Người. Vừa mới bước qua ngưỡng cửa phòng khách thì từ phía cánh cửa đối diện đã bước ra một người đứng tuổi, vóc người tầm thước, với chiếc áo ka ki màu sáng và chân đi đôi dép. Người niềm nở mỉm cười. Ở đây tôi dùng chữ “đứng tuổi” là vì tôi biết rõ tuổi Hồ Chủ tịch. Đúng hơn cả, nên gọi Bác Hồ là người không có tuổi. Thật vậy, mái tóc Người đã bạc mà dáng dấp vẫn gọn gàng, nhanh nhẹn như tuổi thanh niên”.

7.a1Bác Hồ với một số người cao tuổi tiêu biểu. 

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta lúc đó 55 tuổi. Nhìn dáng người mảnh khảnh, đôi mắt sáng, vầng trán cao và bộ râu hơi dài, cả nước kính trọng và tôn vinh Hồ Chủ tịch là Lãnh tụ dân tộc. Báo chí thì gọi Bác là Cụ Hồ Chí Minh.

Nhà thơ Tố Hữu lúc đó chưa được gặp Bác, trong bài thơ “Hồ Chí Minh” viết ngày 26-8-1945, cũng đã gọi Bác Hồ là một người lính già:

“Hồ Chí Minh
Người lính già
Đã quyết hy sinh
Cho Việt Nam Độc Lập
Cho thế giới hoà bình…”

Một lần, một nhạc sỹ đưa một đoàn các cháu thiếu nhi vào thăm Bác. Các cháu cùng hát vang bài ca: “Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn thiếu niên nhi đồng”. Khi nghe đến câu hát: “Bác nay tuy đã già rồi, già rồi nhưng vẫn vui tươi…”, Bác Hồ quay sang tươi cười, nói với đồng chí Trần Duy Hưng:

– Này chú, Bác đã già đâu nhỉ?

Có thể nói, Bác Hồ của chúng ta là một con người không chấp nhận tuổi già. Chúng ta hãy tưởng tượng, một con người 21 tuổi, với hai bàn tay trắng đã ra đi tìm đường cứu nước. Sang Pháp, rồi vượt biển lớn đi vòng quanh Châu Phi, rồi sang Mỹ, Anh, Đức, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Thuỵ Sỹ, Nga, Trung Quốc… Hầu như đi khắp các châu lục, làm nhiều nghề, vừa học vừa hoạt động cách mạng, vừa phải khôn khéo vượt qua mọi sự bắt bớ của bọn đế quốc. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết: “Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy thật lạ lùng, là một người Việt Nam trẻ tuổi, vừa đến Thủ đô Paris không bao lâu, đã thâm nhập ngay được vào đời sống chính trị tại đó, làm những việc cực kỳ quan trọng đối với dân tộc mình, đối với các dân tộc thuộc địa và góp phần hình thành chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân Pháp”.

Chúng ta cũng biết trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, Bác Hồ của chúng ta đã hai lần phải vào tù, và một lần lĩnh án tử hình vắng mặt do Toà án Nam triều ở Vinh, theo lệnh nhà cầm quyền Pháp kết án ngày 11-11-1929. Năm 1931, Bác bị bắt vào nhà tù Hương Cảng, và năm 1942 ở nhà tù Tưởng Giới Thạch ở Tĩnh Tây, Trung Quốc, với bao nỗi đày ải khổ cực. Trong thời gian 1 năm 12 ngày, bị giải đi mấy chục nhà giam, chân bị cùm, răng rụng, đói và rét. Song chính trong tù ngục ấy, Bác đã để lại cho chúng ta tập thơ nổi tiếng “Nhật ký trong tù” mà ngày nay đã được in ra ở 30 nước:  Anh, Pháp, Trung Quốc, Đức, Tiệp, Nga, Tây Ban Nha, Hàn Quốc…

Khi về Pác Bó, Cao Bằng, ở trong hang đá lạnh, ăn uống thì kham khổ “Sáng ra bờ suối, tối vào hang. Cháo bẹ, rau măng, vẫn sẵn sàng…”. Một cuộc đời cách mạng gian khổ như thế, trước Đại hội Tân Trào ở lán Nà Lừa, Bác lại bị một trận ốm rất nặng. Đồng chí Võ Nguyên Giáp kể: Có đêm Bác đã dặn lại như có ý dối dăng… Thế nhưng Cách mạng Tháng Tám thành công, đã 55 tuổi, Bác Hồ vẫn ngày đêm làm việc, lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua những ghềnh thác hiểm nghèo, và Người không hề nghĩ đến tuổi già!

Ngày 19 tháng 5 năm 1946.

Lần đầu tiên nhân dân ta mừng Ngày sinh của Bác. Bác nói với Đoàn đại biểu Nam Bộ đến mừng Người: “Tôi xin cảm ơn các anh, các chị Nam Bộ đã đến chúc thọ tôi. Thật ra, các báo ở đây đã làm to cái ngày sinh của tôi, chứ 56 tuổi chưa có gì đáng chúc thọ, hãy cũng còn như thanh niên cả…” (Báo Cứu Quốc ngày 20-5-1946).

Sau này trong những bài thơ viết về tuổi thọ, Bác vẫn không chấp nhận tuổi già. Bài thơ “Không đề”, Bác viết năm 1949 tại chiến khu Việt Bắc:

KHÔNG ĐỀ

Vì nước chưa nên nghĩ đến nhà
Năm mươi chín tuổi vẫn chưa già
Chờ cho kháng chiến thành công đã
Bạn sẽ ăn mừng sinh nhật ta.

Cho đến năm 78 tuổi, trong bài thơ “Không đề” Bác Hồ vẫn viết:

KHÔNG ĐỀ

Bảy mươi tám tuổi vẫn chưa già
Vẫn vững hai vai việc nước nhà
Kháng chiến dân ta đang thắng lớn
Tiến bước ta cùng con em ta!

Anh em ở gần Bác mới thưa với Bác rằng: “Thưa Bác. 78 tuổi là già rồi ạ!”, thế là Bác chữa lại: “Bảy mươi tám tuổi chưa già mấy/ Vẫn vững hai vai việc nước nhà…”.

Sự nghiệp cách mạng vĩ đại của cả một dân tộc. Cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, mà Bác là người chèo lái, nỗi lo toan cho hạnh phúc của nhân dân và lẽ sống cao đẹp vì dân, vì nước, khiến Người đã vượt qua cái tâm lý tuổi già thông thường, để luôn hướng tới một mùa xuân đẹp đẽ của đất nước!

Ngày 19 tháng 5 năm 1946.

Một Đoàn cán bộ của Ban Vận động đời sống mới, do nhà văn Nguyễn Huy Tưởng dẫn đầu, vào chúc thọ Bác. Nhân lúc trò chuyện, nhà văn thưa với Bác:

– Thưa Cụ, nhân hôm nay đến chúc thọ Cụ Chủ tịch, xin Cụ cho Ban Đời sống mới chúng tôi một khẩu hiệu để vận động nhân dân thực hiện.

Bác Hồ vui vẻ hẳn lên, Người nói:

– Khẩu hiệu ư? Thế thì khẩu hiệu đó là: “Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”.

Sau một phút suy nghĩ, nhà văn lão thành đứng dậy thành thật thưa với Bác:

– Thưa Cụ Chủ tịch, khẩu hiệu đó rất hay, nhưng nghe nó cổ cổ thế nào ấy ạ!

Bác Hồ cười:

– Ơ hay! Sao lại cổ? Các cụ ta xưa ăn cơm, bây giờ chúng ta ăn cơm vẫn thấy ngon. Thế thì nó cổ chỗ nào? Cái hay của Tổ tiên thì chúng ta phải học.

Ngày 10 tháng 5 năm 1965.

Năm ấy, Bác Hồ của chúng ta vừa tròn 75 tuổi!

Đúng 9 giờ sáng hôm ấy, Người ngồi vào bàn viết Bản Di chúc “Tuyệt đối bí mật”. Năm ngày sau, ngày 14-5 Người đã viết xong Bản Di chúc lịch sử và tự tay đánh máy. Cuối tài liệu Bác ghi: Hà Nội ngày 15 tháng 5 năm 1965 và ký tên Hồ Chí Minh.

Tối hôm đó, các đồng chí trong Bộ Chính trị vào mừng thọ Bác 75 tuổi. Một bó hoa tươi được đặt trang trọng trên bàn. Đồng chí Trường Chinh thay mặt, nói mấy lời chúc thọ Bác.

Bác xúc động nói:

– Bác cảm ơn các chú đã có lòng, nhưng trong lúc toàn dân ta đang kháng chiến gian khổ, mọi việc hết sức khẩn trương, mà lại đi chúc thọ một cá nhân như thế này là không nên!

Mọi người có mặt trong căn phòng đều lặng yên, suy nghĩ… Bác Hồ của chúng ta là như thế đó! Trong cả cuộc đời mình, Người luôn đặt lợi ích chung lên trên lợi ích riêng,“Nâng niu tất cả, chỉ quên mình!”.

Ngày 19 tháng 5 năm 1969.

Hồi này sức khoẻ của Bác đã yếu! Đúng 9 giờ, Bác lại ngồi vào bàn xem lại Bản Di chúc đã viết. Người đọc lại rất kỹ toàn bộ các bản viết trong 4 năm qua và chữa lại một số chữ. Trong câu “Khi người ta đã ngoài 70 tuổi”, Bác chữa lại là “70 xuân!”.

Buổi sáng, Bác hỏi đồng chí Vũ Kỳ:

– Cháu Trỗi hy sinh cách đây đã gần 5 năm rồi chú nhỉ?

Đồng chí Vũ Kỳ thưa với Bác:

– Thưa Bác, anh Trỗi hy sinh ngày 16 tháng 10 năm 1964, đến nay đã gần 5 năm!

Một thoáng buồn, rồi Bác bảo đồng chí Cẩn nấu món ăn theo kiểu Nam Bộ để Bác mời khách. Trưa hôm ấy, Bác mời đồng chí Phạm Văn Đồng sang cùng tiếp khách. Khách mời của Bác hôm ấy là hai cháu gái miền Nam, chị Phạm Thị Quyên vợ anh Trỗi và chị Nguyễn Thị Châu.

Không ai ngờ, đó là ngày 19 tháng 5 cuối cùng trong cuộc đời 79 mùa xuân của Bác!

Bác Hồ kính yêu của chúng ta là như thế đó. Bằng một nghị lực phi thường, và trí tuệ siêu việt Người đã suốt đời lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân ta làm cách mạng. Người nói: “Xưa nay, những người yêu nước không vì tuổi già mà chịu ngồi không!”.

Trước kia, khi chưa gặp Bác, nhà thơ Tố Hữu viết: “Hồ Chí Minh người lính già/ Đã quyết chí hy sinh…”. Nay được ở gần Bác, nhà thơ lại viết: “Hồ Chí Minh – Người trẻ mãi không già”. Và “Không gì vui bằng mắt Bác Hồ cười. Quên tuổi già, tươi mãi tuổi đôi mươi!”.

Bác Phạm Văn Đồng đã nói: “Tưởng nhớ Hồ Chí Minh là biến khẩu hiệu “Hồ Chí Minh sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta” thành tư tưởng, tình cảm và hành động của mỗi người cộng sản và mỗi người dân”./.

Bùi Công Bính
Theo baonamdinh.com.vn
Kim Yến
(st)

bqllang.gov.vn

Nguyễn Ái Quốc và văn học Pháp ngữ

Nguyễn Ái Quốc“Nguyễn Ái Quốc được coi là một trong những nhà văn Pháp ngữ Việt Nam không những sớm nhất mà còn thành công nhất “- Đó là đánh giá của giáo sư Alain Guillemin, chuyên gia hàng đầu của Pháp về Văn học Pháp ngữ Việt Nam.

Văn học Việt Nam, ngoài bộ phận viết bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm hoặc chữ Quốc ngữ), và bộ phận viết bằng chữ Hán, còn có một bộ phận ít được biết đến: văn học viết bằng tiếng Pháp.

Cho đến nay, chỉ có một cuốn sách viết riêng về để tài này là cuốn The Vietnamese Novel in French: A Literary Response to Colonalims (Tiểu thuyết Pháp ngữ Việt Nam: Văn chương đáp lại Chủ nghĩa thực dân) của giáo sư Mỹ Jack A. Yeager 1, dựa trên luận án tiến sĩ của ông. Ngoài ra, còn có một luận án tiến sĩ khác, cũng ở Mỹ, viết về Phạm Văn Ký 2.

Giáo sư Alain Guillemin, chuyên gia hàng đầu của Pháp về lĩnh vực này, trong La Littéature Vietnamienne Francophone: Entre Colonisalisme et Nationalisme (Văn học Pháp ngữ Việt Nam: Giữa chủ nghĩa thực dân và Chủ nghĩa dân tộc) cho biết rằng từ năm 1913, thời điểm xuất bản tập thơ “Mes heures perdues” (Những giờ khắc tôi đã mất) của Nguyễn Văn Xiêm, cho đến nay, theo thống kê chưa đầy đủ, đã thu thập được khoảng một trăm tác phẩm của 47 tác giả, bao gồm 62 tác phẩm văn xuôi (34 tiểu thuyết, 18 tập truyện kể, 8 tập tiểu sử tự thuật, 2 tập truyện ngắn), 31 tập thơ, và 6 vở kịch.

Phạm Văn Ký, tác giả của 10 tiểu thuyết và tập truyện ngắn, 4 tập thơ, 3 vở kịch, do các nhà xuất bản lớn ở Paris như Fasquelle, Le Seuil, Grasset, Gallimard, NRF phát hành, đoạt Giải thườn Lớn của Viện Hàn lâm Pháp năm 1961 3 có lẽ là tác giả hội nhập sâu sắc nhất vào xã hội Pháp.

Bên cạnh đó, theo tôi, Nguyễn ái Quốc cũng phải được coi là một trong những nhà văn Pháp ngữ Việt Nam không những sớm nhất mà còn thành công nhất.

Theo Yeager, tập văn xuôi Pháp ngữ đầu tiên của Việt Nam là Contes et Légendes du Pays d’Annam (Truyện cổ và thần thoại nước An Nam, 1913). Nhưng cuốn tiểu thuyết, và có lẽ cũng là tác phẩm văn xuôi hư cấu đầu tiên, Mademoiselle Lys (Cô Huệ) của Nguyễn Phan Long, mãi đến năm 1921 mới xuất bản.

Theo Alain Guillemin, trước năm 1945, ảnh hưởng của văn học Pháp ngữ Việt Nam chỉ đóng khung ở địa phương, vì trong 44 tác phẩm, 32 in tại Hà Nội và Sài Gòn, và trong số 25 tác phẩm văn xuôi, chỉ có 3 in ở Pháp. Tuy nhiên, Alain Guillemin khi cho rằng có lẽ mảng chuyện ngắn đã bị đánh giá chưa đúng mức, bởi lẽ đó mới chỉ là các tuyển tập, vì thế “cần khảo sát các báo và tạp chí Pháp ngữ xuất hiện trong thời thuộc địa 4”.

Điều đó rất đúng với trường hợp Nguyễn ái Quốc. Như chúng ta đều biết, Nguyễn ái Quốc đến sống tại Pháp vào khoảng cuối năm 1917. Chàng trai Việt Nam hai mươi bảy tuổi kết thân với nhiều nhà hoạt động cách mạnh quốc tế, và nhanh chóng trở thành một cây bút quan trọng của báo chí các nhóm cách mạng thuộc địa hoạt động ở Paris.

Giáo sư Hayes Edwards (Rutgers University), trong bài The Shadow of Shadows5, khi so sánh sự tương đồng giữa Nguyễn ái Quốc và nhà hoạt động cách mạng Senegal Lamine Senghor, có viết: “Trong bài này, tôi sẽ tập trung vào tác phẩm của Nguyễn ái Quốc, ông là cây bút quan trọng và kỳ lạ nhất trong các nhóm cách mạng ở Paris trong nửa đầu thập kỷ 1920, người ta đã cho đăng cả một cơn lũ bài viết thuộc nhiều thể loại không chỉ trên tờ Le Paria, mà cả trên L’Humanité, Le Journal du Peuple, La Voix ouvrière, Le Libétaire, Clarté, và L’action Colonialé 6”.

Riêng với tờ Le Paria, Nguyễn ái Quốc vừa là người phụ trách, người biên tập, vừa là cây bút chính, nhiều khi phải viết bài thay cho những tác giả không viết kịp.

Không chỉ viết báo, tiểu luận, Nguyễn ái Quốc còn viết truyện. Giáo sư Hayes Edwards gọi nhiều bài viết của Nguyễn ái Quốc là những “Kiệt tác nhỏ về thể văn nhại và tiểu luận (“There are a number of little masterpieces of parody, essays”) và đánh giá cao những cách tân văn chương của Nguyễn ái Quốc mà ông coi là đóng vai trò không thể thiếu trong sự phát triển tư duy chính trị của các chiến sĩ cách mạng thuộc địa7.

Những truyện ngắn đầu tiên của Nguyễn ái Quốc như Lời than văn của bà Trưng Trắc (Les lamentations de Trung – Trac), Paris (Trích Những bức thư gửi cô em họ – extrait de Letters à ma cousine), Con người biết mùi hun khói (“enfumé”) đều in trên tờ L’Humanité trong năm 1922, như vậy chỉ một năm sau Mademoiselle Lys (Cô Huệ) của Nguyễn Phan Long.

Truyện ngắn của Nguyễn Ái Quốc khá độc đáo và hiện đại, đặc biệt trong bối cảnh đầu thập niên 1920, nghĩa là mấy năm trước Tố Tâm và hàng chục năm trước Tự Lực Văn Đoàn.

Văn xuôi của Nguyễn ái Quốc, cũng như của Hồ Chí Minh sau này, rất đa dạng tùy theo đối tượng bạn đọc và các yêu cầu cụ thể: khi khá cầu kỳ, như trong Paris (1922), khi lại mộc mạc, như trong Giấc ngủ mười năm (1949). Truyện Con rùa (1925) đầy chất trào lộng mà sau này ta sẽ gặp lại ở Nguyễn Công Hoan, còn Lời than vãn của bà Trưng Trắc (1922) lại đầy chất mộng mị, ma quái mà ta có thể nhận thấy rất rõ dù đã qua dịch thuật: “Đó chính là lúc Thiên tử nằm mơ. Ngài mơ thấy những con rồng chạm trên tủ, bàn bỗng biến động, hóa thành những con rắn gớm ghiếc, mở thao láo những con mắt đỏ ngầu tia máu. Còn những con phụng hoàng, giống chim tượng trưng cho uy quyền vua chúa, thì vươn chiếc cổ dài ngoẵng tua tủa lông, quệt mỏ xoè cánh, y hệt đám gà trống cáu kỉnh, đáng ghét. Mọi vật bằng ngọc thạch, bằng châu báu, đều xỉn đi, xám xịt lại. Tất cả cứ từ từ quay tròn, và tan dần, tan dần. Rồi một bóng ma trùm khăn, trăng trắng hiện lên. Nhà vua kinh hoàng run lên lập cập, vì không phải vua chúa nào cũng đều can đảm như Hămlét, và thông minh như thế thì lại càng không. Ngài muốn kéo chiếu che mặt mà không được 8”.

Con người biết mùi hun khói, đúng như Hayes Edwards nhận định, là một truyện ngắn đặc sắc về nhiều mặt. Trước hết là tính quốc tế – tác phẩm của một người Việt Nam được bắt đầu bằng lời đề tặng một người Algeria bị một sĩ quan pháp tên là Vidart giết hại: “Xin tặng Nahông, người đã bị quân phiệt thực dân ám hại, bài viết này”. Lời đề tặng này lại được đặt trong sự tương phản với đoạn trích lời Albert Sarrault, bộ trưởng bộ thuộc địa: “Chính cuộc chinh phục hệ thống thuộc địa đã rèn luyện tài năng chiến đấu của số đông những nhà chỉ huy quân sự lớn của ta, những con người đã đưa ta đến chiến thắng, đã được dư luận Pháp ca ngợi vinh quang và chiến công ngay khi mang lá cờ nước ta đến dưới những bầu trời châu Phi hay châu Á”.

Nhưng độc đáo nhất là tính viễn tưởng, Sáng tác năm 1922, nhưng bối cảnh câu chuyện lại diễn ra vào năm 1998, nghĩa là sau đó 75 năm. Hãy đọc đoạn mở đầu:

“Thành phố Haoussas cờ xí tưng bừng. Tưởng đâu như một vị chúa xuân đã gõ cây đũa thần lên gỗ ván khô khốc ở các bao lơn và các cửa sổ, làm mọc ra muôn vàn tấm lá đỏ phấp phới yêu kiều trước gió. Đây là lễ kỷ niệm lần thứ năm mươi ngày thành lập Cộng Hòa Liên Hiệp Phi. Chưa bao giờ dân chúng lại tham gia với mức độ ấy những hội hè loại này. Từ sáng sớm, các đường phố, các quảng trường y như một dòng sông người. Từng đoàn học sinh, giương cờ đi đầu, vừa diễu qua các phố vừa hát Quốc tế ca, được dân chúng vỗ tay hoan nghênh. Trên quảng trường Xô viết, một cụ già hô hào đám đông. Đó là cố Kimengo, mệnh danh là Con người biết mùi hun khói”.

Trong cảnh lễ hội đó, cố Kimengo kể lại câu  chuyện xưa: những người dân thuộc địa Pháp nghèo khổ không có tiền nộp thuế, phải bỏ trốn vào hang. Bọn thực dân hun khói làm những người trong hang chết ngạt. Riêng cố Kimengo may mắn ở gần một kẽ nứt, đào một cái ngách, thoát ra được và trở thành “chiến sĩ của quân đội cách mạng, một trong những người sáng lập Cộng hòa da đen”. Cụ Kimengo “không những đã ra sức thức tỉnh anh em cùng màu da ra khỏi giấc ngủ mê say của con người nô lệ, mà còn cố gắng phá tan mọi thành kiến dân tộc và chủng tộc, tập hợp những người bị bóc lột thuộc các màu da trong cuộc đấu tranh chung”.

Con người biết mùi hun khói của Nguyễn ái Quốc có lẽ là tác phẩm đầu tiên thuộc thể loại viễn tưởng ở Việt Nam. Đặc biệt hơn, nếu lưu ý rằng lễ kỷ niệm lần thứ 50 ngày thành lập Cộng hòa liên hiệp Phi trong truyện diễn ra vào năm 1998, ta sẽ thấy Nguyễn ái Quốc đã tiên đoán rất chính xác sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa cuối thập kỷ 1940.

Nhân đây, cũng xin nói thêm rằng sau này Hồ Chủ tịch còn trở lại với thể loại viễn tưởng trong Giấc ngủ mười năm (1949). Nông Văn Minh, nhân vật trong truyện, là người Nùng, vào Vệ Quốc quân đánh Tây. Trong trận đánh đèo Bông Lau, Minh bị thương vào đầu, ngất đi, khi tỉnh lại, thấy mình đang nằm trong bệnh viện. Một cô gái trẻ ôm chầm lấy anh hôn lấy hôn để làm Minh ngượng nghịu. Mãi lúc đó Minh mới sửng sốt nhìn thấy tờ lịch đề ngày 15 tháng 8 năm 1958. Cô gái chính là con gái anh, nay đã lớn, đang học đại học y khoa, ngồi kể cho bố nghe về những đổi thay trên quê hương đã hoàn toàn độc lập.

Xin trở lại với những tác phẩm Pháp ngữ của Nguyễn ái Quốc. Theo Hayes Edwards, sáng tác của nhà cách mạng trẻ tuổi Việt Nam còn âm vang nhiều năm sau khi anh rời Paris đi Moskva năm 1923. ảnh hưởng của Nguyễn ái Quốc có thể thấy rất rõ trong sáng tác của Lamine Senghor (Sénégal).

Chẳng hạn, một câu trong tác phẩm Con người biết mùi hun khói, “cụ Kimengo đã ra sức thức tỉnh anh em cùng màu da ra khỏi  giấc ngủ mê say của con người nô lệ”, dường như vọng lại trong đoạn kết bài diễn văn Lamine Senghor đọc tại Đại Hội Phản Đế tại Bruxelles. Cũng theo Hayes Edwards, giọng văn châm biếm, cũng như việc sử dụng hình minh họa trong La violation d’un pays (ức hiếp một dân tộc) có lẽ cũng được Lamine Senghor học theo gương Nguyễn.

——————-

1. J.A.Yeager, The Vietnamese Novel in French: a literary Response to Colonialism, Hanover, New Hampshire University Press, 1990.

2. Nguyen Hon Nhiem Lucy, L’échiquier et l’antinomie: Je/moi comme singe et substance du conflit Occident-Extrême-Orient dans les oeuvres de Pham Van Ky, University of Massachussets Amhers, 1992 (Chú thích của Alain Guillemin).

3. Giáo sư Alain Guillemin, hiện làm việc tại Viện nghiên cứu Đông Nam á (Institut de Reserche sủ le Sudét Asiatique, Marseille). Bài La Littérature Vietnamienne Francophone: Entre Colonisalisme et Nationalisme được ông gửi riêng cho tôi.

4. “II est probable que le poids des nouvelles est-sous – estimé car, surtout en ce qui concerne les récits  courts édités au Vietnam, il ne s’agit que de publications en volume. Une enquête dans les nombreux journaux et revues francopohnes parus pendant la période coloniale serait nécessaire”.

5. Hayes, Brent Edwards, The Shadow of Shadow, Xin xem bản trên internet: <http://muse.jhu.edu/journals/positions/v011/11.1edwards.html>

6. “I will concentrate here oarticularly on the work of Nguyen Ai Quoc, who may well stand as the most important and prodigious writer in radical circles in Paris during the first part of the 1920s, publishing a torrent of wide-ranging articles not only in Le Paria but also in L’Humanité, Le Journal du Peuple, La Voix Ouvrière, Le Libétaire, Clarté, and L’Action Coloniale”.

7. “It is even more surprising that literary innovation-and efforts in fiction in particular-play an indispensable role in the development of a number of anticolonial militants’ sense of politics”.

8. Tìm hiểu truyện và ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Sở Văn hoá Thông tin Đồng Tháp, 1985.

Nhà văn Ngô Tự Lập (từ Hoa Kỳ)
tienphong.vn

Nói thì phải làm – Đó là đạo đức của người cách mạng

Trong đời sống của dân tộc ta, từ xưa đến nay, những người chỉ nói mà không làm, hoặc nói nhiều mà làm ít, đều bị nhân dân chê trách, thậm chí khinh ghét và bị coi là hạng người không chính đáng. Trong ca dao, tục ngữ, tiếng nói của nhân dân, còn ghi lại biết bao những câu nói đáng để chúng ta suy ngẫm: “Một điều bất tín, vạn sự chẳng tin”, “Trăm voi không được bát nước sáo!”, hoặc “Nói chín thì phải làm mười/Nói mười làm chín, mọi người cười chê!”. Nghĩa là nhân dân mong muốn làm phải nhiều hơn nói.

Cũng phải nói một cách thẳng thắn rằng, có một số không ít cán bộ và đảng viên ta, trong số đó có cả những người lãnh đạo, đã nói nhưng không làm, hoặc làm không đến nơi đến chốn. Thậm chí có những điều đã hứa hẹn với dân, nhưng nói xong rồi lại quên ngay, khiến nhân dân mất lòng tin. Gần đây trong nhân dân có từ “chém gió”, để chỉ những cán bộ khi nói thì vung tay, mạnh mẽ, hứa hẹn đủ điều, nhưng lời nói rồi gió bay, chẳng có điều nào thành sự thật!.

Trong tác phẩm “Đường Kách Mệnh” viết từ năm 1927, cách đây vừa đúng 85 năm, khi nói về tư cách một người cách mạng, trong 23 điều thì điều thứ 10, Bác Hồ đã viết: “Nói thì phải làm”. Nói và làm đúng những điều mình nói, là một phẩm chất của người cách mạng. Chính điều này tạo ra niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ta. Và cũng chính điều này, làm cho công tác cách mạng của chúng ta ngày càng phát triển mạnh mẽ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương lớn về “Nói thì phải làm”.

Ngay từ những ngày đầu ra đi tìm đường cứu nước, Bác đã nói: Tôi muốn ra đi tìm hiểu thế giới, rồi sau đó trở về giúp đỡ đồng bào ta. Và Bác đã làm đúng như thế. Sau 30 năm bôn ba khắp các xứ người, chịu đựng biết bao gian khổ, tự kiếm sống, tự học, tham gia đấu tranh, hai lần vào tù, một án tử hình vắng mặt, ngày đêm viết báo lên án chủ nghĩa thực dân, rồi thành lập Đảng và năm 1941 Người đã trở về Tổ quốc, cùng với Đảng và nhân dân làm nên Cách mạng Tháng Tám thành công, giành lại nền độc lập cho đất nước. Bác dạy chúng ta phải: “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” và nói cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức của cách mạng. Và Bác đã làm đúng như thế. Cả cuộc đời của Bác, từ khi còn ở Pác Bó, Tân Trào… cho đến khi giành được chính quyền, trở về Thủ đô Hà Nội, Người vẫn sống một cuộc sống giản dị, thanh bạch, hoà vào đời sống của nhân dân.

Tìm hiểu thực tế sản xuất của nông dân xã Ái Quốc (Hải Hưng) năm 1958Bác Hồ đi tìm hiểu thực tế sản xuất của nông dân xã Ái Quốc (Hải Hưng)
năm 1958
. Ảnh:Internet

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nạn đói đang đe doạ, Bác vận động nhân dân ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm. Người còn viết bài “Xẻ cơm nhường áo” in trên Báo Cứu Quốc số 53, ngày 28-9-1945: “… Lúc chúng ta bưng bát cơm để ăn, nghĩ đến người đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước, và tôi xin thực hành trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa 1 bơ) để cứu dân nghèo. Như vậy thì những người nghèo sẽ có bữa rau bữa cháo để chờ mùa lúa năm sau, khỏi đến nỗi chết đói…”. Và Bác đã cùng Văn phòng Chính phủ thực hiện đúng như vậy.

Một hôm, đúng vào ngày Văn phòng Chính phủ nhịn ăn, thì Bác được Trung tướng Tiêu Văn – một người chỉ huy của quân Tưởng – mời gặp. Sau đó lại chiêu đãi Bác. Để tranh thủ quân Tưởng, Bác đã nhận lời. Khi về, mặc dù đã được các đồng chí ở nhà báo cáo lại là đã góp một bơ gạo của Bác vào số gạo cứu đói. Nhưng Bác nói, hôm nay Bác vẫn chưa thực hiện nghĩa vụ nhịn ăn như mọi người và ngày hôm sau Bác đã nhịn ăn một bữa.

Giáo sư Phan Ngọc đã viết: “Bác là một người không thay đổi. Khi gian khổ thế nào thì khi làm Chủ tịch nước Bác vẫn thế. Gian khổ ăn củ khoai lang như thế nào, thì khi làm Chủ tịch cũng ăn củ khoai lang như vậy. Bác không chấp nhận một cái gì đặc biệt cho mình hết. Không những không chấp nhận, mà còn ghét đặc quyền. Người ta nhịn thì mình cũng nhịn. Người ta ở cái lán thì mình cũng ở cái lán. Không có một người như vậy, thì không thể nào lôi cuốn được toàn dân”.

Cũng chính vì thế, chúng ta hiểu vì sao những lời nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh đi sâu vào lòng người mạnh mẽ và xúc động như vậy. “Bác bảo đi là đi, Bác bảo thắng là thắng…”. Toàn dân nhất tề xông lên, không ngại gian khổ hy sinh, vì nhân dân có niềm tin mãnh liệt ở người lãnh đạo của mình. Người lãnh đạo ấy vì mình, vì nhân dân chứ không phải chỉ vì bản thân họ, con cái họ. Người lãnh đạo ấy, ngày đêm lo lắng, ngày đêm làm việc cũng là vì mình, vì nhân dân. Do đó người lãnh đạo và nhân dân là một, và đó chính là sức mạnh của dân tộc ta để đánh thắng những kẻ thù to lớn hơn mình, không phải chỉ hôm nay mà còn trong cả lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc.

*

Nói đi đôi với làm, làm nhiều hơn nói, và nhiều khi chỉ làm mà không nói. Đó là phong cách Hồ Chí Minh!

Bác khuyên mọi người tiết kiệm, và chính Bác nêu gương tiết kiệm trước. Không phải chỉ ở trong nước, mà khi ra nước ngoài, ở nhà khách chính phủ nước bạn, thấy nhiều bóng điện sáng không cần thiết, Bác cũng tự tắt bớt đi.

Bác khuyên mọi người trồng cây thì năm nào Bác cũng đi tham gia trồng cây ở các địa phương. Rồi đến thăm, viết thư, động viên mọi người cùng trồng cây cho đất nước xanh tươi.

Bác khuyên mọi người “Chí công vô tư” thì khi đi dự Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô về, được Đảng bạn biếu một số tiền, Bác đã không nhập vào sổ tiết kiệm của riêng mình, mà nhập vào quỹ Đảng.

Cũng xin nói thêm, Bác có một sổ tiết kiệm cá nhân, nhờ một đồng chí ở văn phòng đứng tên gửi ở quỹ tiết kiệm phố Hàng Gai. Đây là số tiền nhuận bút mà các báo ở trong và ngoài nước gửi cho Bác. Năm Hà Nội đánh trả máy bay Mỹ, Bác đã bảo đồng chí Vũ Kỳ lấy tất cả số tiền tiết kiệm của Bác là 25 nghìn đồng (tương đương với 25 cây vàng lúc đó) để gửi cho Bộ Tư lệnh Phòng không mua nước ngọt cho các chiến sĩ bắn máy bay.

Chúng ta có kể cả ngày, cũng không hết những điều nói đi đôi với làm của Bác. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng phê bình một số cán bộ chỉ biết nói là nói, nói giờ này qua giờ khác, nhưng những công việc thiết thực thì không làm được. Người mong muốn cán bộ, đảng viên tốt nhất là miệng nói, tay làm, làm gương cho người khác bắt chước.

Song nói và làm không phải chỉ là vấn đề quan trọng đối với từng cán bộ, đảng viên, kể cả những người lãnh đạo, mà lớn hơn còn là những chủ trương, đường lối, những nghị quyết của Đảng và Nhà nước đã ban hành có được thực hiện một cách đầy đủ không.

Người chỉ rõ: Đảng cũng phải luôn luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã thi hành thế nào? Nếu không vậy thì những nghị quyết và chỉ thị đó không những hoá ra lời nói suông mà còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với Đảng.

Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khoá XI về xây dựng Đảng, một lần nữa chúng ta lại cùng nhau học tập và làm theo Bác, nói đi đôi với làm, đã nói thì phải làm, làm nhiều hơn nói và luôn nhớ lời dạy của Bác: Nói thì phải làm, đó là đạo đức của người cách mạng.

*

Một nhà văn Đức, tác giả cuốn “Hồ Chí Minh một biên niên sử” đã viết: “Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn trung thành với lý tưởng của mình – Đó là quên mình. Dáng vẻ lãnh đạo, sự xa hoa, ưu đãi, huân chương và các hình thức vinh danh khác là những thứ người ta chỉ hoài công tìm ở Người. Đối với Người, sự gần gũi với nhân dân, với dân tộc là quan trọng hơn cả”. Một nhà văn khác lại viết: Chủ tịch Hồ Chí Minh – Một con người huyền thoại, đã làm thay đổi số phận và tương lai của một dân tộc. Người suốt đời nói và làm là một, lý luận và hành động là một, lời nói và việc làm là một. Chính vì thế, niềm tin ở Việt Nam là Hồ Chí Minh!

Bùi Công Bính
baonamdinh.com.vn

Đảng và mùa xuân dân tộc!

Mùa Xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời!

83 năm đã qua, Đảng vĩ đại, anh hùng đã gắn bó với nhân dân làm nên Mùa Xuân đất nước.

83 năm dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, Việt Nam đã viết thêm vào lịch sử dân tộc những trang hào hùng nhất, rực rỡ nhất của thời đại Hồ Chí Minh. Trong cuộc hành quân thế kỷ ấy, nhân dân ta đã phải trải qua 30 năm chiến đấu gian khổ, đánh thắng những kẻ thù xâm lược lớn mạnh hơn mình, để hôm nay đất nước hoà bình, độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội và hoà nhập cùng thế giới. Câu nói ngắn gọn ấy, nhưng là mục tiêu vĩ đại, là con đường quang vinh mà gần thế kỷ qua dân tộc ta dưới ngọn cờ đại đoàn kết của Đảng đã tiến lên giành nhiều thắng lợi.

Những con người và những sự kiện lớn, càng lớn lên với khoảng cách thời gian. Lịch sử diễn ra và tiến về phía trước, càng làm nổi bật tầm cao và chiều sâu của sự nghiệp vĩ đại mà Đảng cùng với nhân dân ta đã thực hiện.

Biết bao Mùa Xuân đã trôi qua, nhưng một Mùa Xuân thực sự, một Mùa Xuân khởi đầu, đặt nền móng cho hạnh phúc của chúng ta hôm nay lại chính là Mùa Xuân thành lập Đảng – Mùa Xuân Canh Ngọ năm 1930. Hôm nay nhớ lại thời dựng Đảng, chúng ta càng thấy Đảng ta thật là vĩ đại.

Cuối năm 1929, nhận được liên lạc của Đảng, Bác Hồ của chúng ta đã từ một vùng quê ở Thái Lan, đáp xe lửa đi Băng Cốc, rồi từ đó đi tàu thuỷ đến Singapo. Tại đây Người chuyển sang một con tàu khác đi Hồng Công. Các đồng chí Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn đã ra tận cảng biển đón Bác. Và Bác đã quyết định họp Hội nghị thành lập Đảng vào đúng dịp Tết Nguyên đán. Ở Trung Quốc cũng như Việt Nam, Tết Nguyên đán là ngày Tết lớn nhất trong năm và thường kéo dài nhiều ngày liền. Đó chính là dịp để những đại biểu tham gia Hội nghị có thể đi khỏi đất nước mà không ai để ý. Còn ở Cửu Long thì một cuộc họp mặt như vậy cũng sẽ có nhiều thuận lợi.

Mãi mãi niềm tin theo Đảng.Mãi mãi niềm tin theo Đảng.

Và thế là ngày 3-2-1930, đúng ngày mồng 5 Tết Canh Ngọ, Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp tại Cửu Long (Trung Quốc) dưới sự chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Đảng ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt lịch sử vĩ đại của Cách mạng Việt Nam. Ngày 7-2-1930 ngày cuối cùng của Hội nghị, Bác Hồ tổ chức một bữa liên hoan nhỏ ngay tại phòng ở của mình. Khi các đại biểu đã ngồi xung quanh bàn, Người xúc động nói:

“Các đồng chí, hôm nay là ngày lịch sử của chúng ta. Lê-nin vĩ đại đã nói, chỉ có đảng nào có được một lý luận tiền phong mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong. Bây giờ, chúng ta đã có một Đảng như thế rồi – đảng của giai cấp công nhân Việt Nam. Nhân dân ta từ xưa có truyền thống đấu tranh anh dũng, nhưng suốt những năm ấy, Nhân dân ta thiếu người cầm lái sáng suốt. Giờ đây Đảng của chúng ta phải gánh lấy vai trò này, và tôi tin rằng Đảng ta sẽ dẫn dắt Nhân dân ta đến thắng lợi trong cuộc đấu tranh giành Độc lập, Tự do cho Tổ quốc thân yêu”.

Như vậy là ngay trong những ngày đầu tiên thành lập Đảng, trong lời phát biểu ngắn gọn ấy, Bác đã ba lần nhắc đến nhân dân ta.

Năm 1960, kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói:

“Với tất cả tinh thần khiêm tốn của người Cách mạng, chúng ta vẫn có quyền nói rằng: Đảng ta thật là vĩ đại… Đảng ta vĩ đại, vì ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích nào khác”.

Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đảng là trí tuệ, là phẩm chất của cả dân tộc, kế thừa tinh hoa của hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của ông cha ta. Sức mạnh của Đảng chính là sự gắn bó máu thịt với nhân dân, là sức mạnh đại đoàn kết toàn dân. Và Bác Hồ đã nói: “Nhiệm vụ của Đảng ta có thể nói gọn trong 8 chữ: Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nói: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. Và chính Người là đỉnh cao của đạo đức và văn minh đó. Người là hình ảnh tuyệt đẹp về mối liên hệ thân thiết, gắn bó giữa lãnh tụ với nhân dân, và Người luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên ta phải thường xuyên liên hệ chặt chẽ với nhân dân.

Liên hệ và gắn bó chặt chẽ với nhân dân, là điều Bác Hồ đã nói với chúng ta rất nhiều lần. Bác đã nhiều lần nhấn mạnh:

“Đảng phải liên hệ với quần chúng như chân tay ruột thịt… Đảng viên thì phải dựa vào nhân dân mà xây dựng Đảng. Tức là hết lòng ra sức phụng sự nhân dân, tin tưởng vào lực lượng của nhân dân. Học hỏi nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân và không một phút nào xa rời nhân dân, cùng nhân dân kết thành một khối”.

Chưa ở đâu mà tình cảm giữa lãnh tụ với quần chúng lại thân thiết, gần gũi và được kính trọng, tin tưởng như Hồ Chủ tịch với nhân dân ta. Một nhà văn nước ngoài đã viết: “Bác Hồ – cách xưng hô quen thuộc của Việt Nam, chứa đựng cả sự kính trọng sâu sắc và sự ngưỡng mộ của cả một dân tộc đối với một người cha. Không có một từ nào có thể diễn tả được một cách trong sáng và đẹp đẽ như hai tiếng đó!”.

Hồ Chủ tịch nói: Dân là gốc của nước, Dân là gốc của cách mạng, do đó Dân cũng là người tham gia xây dựng Đảng.

“Gốc có vững cây mới bền
Xây lầu thắng lợi trên nền Nhân dân”

Người nói thế, và suốt đời Người luôn luôn gương mẫu làm đúng, làm hơn cả những điều mình nói… Người luôn luôn đặt đời sống của mình trong đời sống của nhân dân. Trong Di chúc của mình, Người dặn dò: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.

Trong bản Di chúc của mình, Bác đã 17 lần nhắc đến chữ “Nhân dân”. Và trong Di chúc của Người những chữ “Nhân dân” Bác đều gạch dưới.

Đồng chí Nguyễn Thọ Chân kể lại, hồi còn làm Phó Bí thư Thành uỷ Hà Nội, một lần vào làm việc với Bác, đồng chí đã đề nghị Bác cho xây dựng trụ sở của Trung ương Đảng tại Hà Nội cho có bề thế.

Bác im lặng, rồi trả lời:

– Trụ sở bề thế của Đảng ta, phải xây dựng ở trong lòng dân ấy, chú ạ!

*

Một nhà văn lớn đã nói: “Lịch sử không đơn thuần là chiếc cầu thang thuận tiện hướng thẳng tới tương lai. Và con đường của nhân loại ít khi chạy trên con đường bằng, mà thường là vắt qua những núi non hiểm trở”. Cách mạng Việt Nam cũng thế, cũng đã từng trải qua muôn vàn khó khăn, thử thách. Nhưng Bác Hồ đã viết: Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững, thuyền mới chạy đúng hướng. Trong mỗi bước gian lao đó, có Đảng sáng suốt dẫn đường, dân tộc ta đã đoàn kết tiến lên giành thắng lợi.

Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, sự nghiệp đổi mới của nước ta đã được đẩy mạnh trên mọi lĩnh vực. Việt Nam đã hội nhập với thế giới, trong nước thì chính trị xã hội ổn định, kinh tế phát triển, an sinh xã hội được chăm lo, quốc phòng và an ninh được tăng cường, chủ quyền và lãnh thổ được giữ vững.

Mùa xuân này, mỗi người Việt Nam trong cuộc sống mới của mình, ai cũng có thể trực tiếp cảm nhận thấy những gì mà Đảng đã đem lại cho gia đình mình, cho đất nước mình, và cho mỗi người chúng ta.
Nhà thơ Chế Lan Viên đã viết:

“Ngày biết Đảng, mắt ta còn ngơ ngác
Mà nay dưới chân mình,
một thế giới đã đi qua
Ai ngờ ngọn cờ búa liềm trên
những cành đa
Màu son ấy thổi dậy hồn non nước
Rồi ta sống những năm dài hạnh phúc
Mà trống đồng nhịp với giọng thơ ta!”

Trong Di chúc của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:

“Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ, phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.

Trong đoạn văn ngắn này, Bác Hồ đã viết bốn chữ Thật: Thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Mùa Xuân này, đọc lại những lời căn dặn của Bác, chúng ta càng thấm thía và suy nghĩ về những chữ Thật ấy của Bác!

Đảng ta thành lập đúng vào ngày 5 Tết Canh Ngọ năm 1930!

Ra đời vào Mùa Xuân. Và Đảng đã cùng với nhân dân ta làm nên Mùa Xuân đất nước.

Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, và công cuộc Xây dựng chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 của Đảng càng làm cho chúng ta thêm tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới của Đảng và nhân dân ta./.

Thanh Bình
baonamdinh.com.vn

Phong cách Hồ Chí Minh

Ngày 14/5/2011, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị 03-CT/TW về Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, trong đó Bộ Chính trị chỉ đạo các cấp ủy Đảng phải tập trung lãnh đạo việc làm theo phong cách Hồ Chí Minh.

Vậy phong cách Hồ Chí Minh là gì? Trong phạm vi bài viết này tôi xin giới thiệu đến các đồng chí, các bạn những nội dung cơ bản của phong cách Hồ Chí Minh, với mong muốn trang bị thêm cho các đồng chí, các bạn những thông tin cụ thể về phong cách của Bác. Từ đó, đẩy mạnh việc làm theo phong cách của Bác, góp phần thực hiện tốt Chỉ thị trên.

Phong cách Hồ Chí Minh là phong cách của một con người với cái tâm trong sáng, cái đức cao đẹp, cái trí minh mẫn, cái hành mực thước, phong cách của một lãnh tụ, một chiến sĩ công sản chân chính. Phong cách Hồ Chí Minh không chỉ để cho mọi người ca ngợi, chiêm ngưỡng, mà là tấm gương để mọi người học tập, làm theo. Không phải chỉ để người Việt nam, từ lao động chân tay đến trí óc, từ già đến trẻ, từ miền xuôi đến miền ngược, từ người tu hành đến các chính khách, thương gia đều tìm thấy ở Hồ Chí Minh phong cách của chính mình, mà cả người nước ngoài ở phương Đông hay phương Tây cảm thấy gần gũi, không xa lạ với phong cách Hồ Chí minh.

Phong cách Hồ Chí Minh là một hệ thống, một chỉnh thể, gắn bó chặt chẽ với nhau, phát triển theo lôgic đi từ suy nghĩ (phong cách tư duy) đến nói, viết (phong cách diễn đạt) và biểu hiện qua phong cách làm việc, phong cách ứng xử, phong cách sinh hoạt hàng ngày.

1. Trước hết nói về phong cách tư duy: với Bác đó là tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo. Đó là tư duy không lệ thuộc, không phụ thuộc, không bắt chước, theo đuôi, giáo điều. Tự chủ là chủ động suy nghĩ và làm chủ suy nghĩ của mình, tự chịu trách nhiệm trước dân, trước nước, biết làm chủ bản thân và công việc. Sáng tạo là vận dụng đúng quy luật chung cho phù hợp với cái riêng, cái đặc thù. Đồng thời sáng tạo cũng là tìm tòi, đề xuất những cái mới để có thể trả lời được những đòi hòi của cuộc sống đặt ra. Cái mới, cái sáng tạo của Bác là phù hợp với quy luật khách quan của cách mạng Việt Nam, đồng thời phù hợp với quy luật phát triển chung của xã hội loài người. Cái mới có thể bao hàm cả cái cũ và vượt lên trên và bổ sung giá trị mới. Cái mới cũng là cái chưa từng có trong tiền lệ lịch sử.

Phong cách tư duy của Bác hình thành trên cơ sở thực tiễn của Việt Nam, do nắm vững thực tế tình hình đất nước, Bác đã phát hiện ra những quy luật vận động của đất nước, dân tộc để hoạch định đường lối, chủ trương đúng và tổ chức thực hiện thành công đường lối, chủ trương đó. Tư duy của Bác cũng trên cơ sở nghiên cứu những học thuyết như: Nho học, Phật giáo học, Lão giáo, Thiên chúa giáo, Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn (Trung quốc), Thuyết bất bạo động của Găngdi (Ấn Độ) và Học thuyết Mác-Lênin. Tư duy của người luôn hướng tới cái mới, cái tiến bộ và mở rộng tầm nhìn ra thế giới để tư duy.
2. Thứ hai, về phong cách diễn đạt Hồ Chí Minh: đó là sự kết hợp hài hòa cái dân gian với cái bác học, cái cổ điển truyền thống với cái hiện đại, giữ phong cách phương Đông và phong cách phương tây và thực hiện nguyên tắc nhất quán trong diễn đạt. Bác luôn xác định rõ chủ đề, đối tượng và mục đích cần diễn đạt, Bác cũng đặt ra cho mình và yêu cầu mọi người thực hiện 4 vấn đề có liên quan chặt chẽ với nhau khi diễn đạt đó là: Nói, viết cái gì? Nói, viết cho ai? Nói, viết để làm gì? Nói, viết như thế nào?

Phong cách diễn đạt Hồ Chí Minh là diễn đạt chân thật để cung cấp cho người nghe lượng thông tin ngắn gọn, chính xác. Yêu cầu đầu tiên mà Bác đặt ra đối với cán bộ, đảng viên khi nói và viết; Người yêu cầu “điều gì biết thì nói biết, không biết thì nói không biết, không nên nói ẩu”, viết “phải đúng sự thật, không được bịa ra”, “Chưa điều tra, chưa nghiên cứu, chưa biết rõ chớ nói, chớ viết”, “khi không có gì cần nói, không có gì cần viết, chớ nói chớ viết càn”.

Phong cách diễn đạt Hồ Chí Minh còn là diễn đạt ngắn gọn, theo Hồ Chí Minh ngắn gọn là gọn gàng, có đầu có đuôi, “có nội dung”, “thiết thực”, “thấm thía, chắc chắn”.

Một đặc điểm nổi bật trong phong cách diễn đạt của Hồ Chí Minh là giản dị, trong sáng, dễ hiểu. Người cho rằng “cách nói của dân chúng rất đầy, rất hoạt bát, rất thiiết thực, mà lại rất giản đơn”; do đó trước hết phải học cách nói của quần chúng, mới lọt tai quần chúng.

3. Thứ ba, phong cách làm việc Hồ Chí Minh: phải kể đến phong cách quần chúng, đây là nội dung quan trọng hàng đầu của phong cách làm việc Hồ Chí Minh đó là sâu sát quần chúng, chú ý tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng quan tâm đến mọi mặt đời sống của quần chúng; tin dân, tôn trọng dân lắng nghe và giải quyết những kiến nghị chính đáng của dân, tiếp thu ý kiến, sửa chữa khuyết điểm; giáo dục, lãnh đạo quần chúng, đồng thời không ngừng học hỏi quần chúng, tôn trọng quyền làm chủ của quần chúng v.v…

Phong cách làm việc tập thể và dân chủ, người luôn gắn bó với tập thể, tôn trọng tập thể, phát huy sức mạnh của tập thể là phương châm chỉ đạo suy nghĩ và hành động của Hồ Chí Minh. Bác luôn trân trọng ý kiến của mọi người, không phân biệt chức vụ, cấp bậc, đẳng cấp, với những bài viết trước khi công bố Bác đã chuyển cho các đồng chí lãnh đạo chủ chốt đọc và góp ý; thậm chí Người còn trao đổi với các đồng chí phục vụ những bài báo ngắn để sửa chữa những chỗ viết còn khó hiểu trước khi đăng.

Phong cách làm việc Hồ Chí Minh còn là phong cách làm việc khoa học, “đi sâu, đi sát, điều tra, nghiên cứu” nắm việc, nắm người, nắm tình hình cụ thể. Làm việc phải có mục đích rõ ràng, tập trung; chương trình, kế hoạch đặt ra phải phù hợp. Hồ Chí Minh giải thích “đích nghĩa là nhắm vào đó mà bắn. Nhiều đích quá thì loạn mắt, không bắn trúng đích nào”. Phải kiểm tra việc thực hiện của cấp dưới và quần chúng. Lãnh đạo phải cụ thể, kịp thời, thiết thực, có trọng tâm, trọng điểm, nắm điển hình, cần phải lãnh đạo toàn diện và cụ thể. Người lãnh đạo phải óc nghĩ, mắt thấy, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm; phải cẩn thận mà nhanh nhẹn, kịp thời, làm đến nơi đến chốn. Phải thường xuyên rút kinh nghiệm, tổng kết thực tiễn, cả kinh nghiệm thất bại và kinh nghiệm thành công.

4. Thứ tư, là phong cách ứng xử Hồ Chí Minh: đặc trưng cơ bản của phong cách ứng xử Hồ Chí Minh là phong cách ứng xử văn hóa đó được thể hiện ở ngôn từ, cử chỉ thích hợp và đúng đối tượng giao tiếp. Phong cách ứng xử của Người chứa đựng những giá trị nhân bản của con người. Yêu thương, quý mến, trân trọng con người, hướng con người đến chân, thiện, mỹ. Khi cần nhắc nhở, Người không quên chỉ vẽ tận tình. Khi cần phê bình, Người rất nghiêm khắc, nhưng rất độ lượng, bao dung, không bao giờ bao che, nhằm nâng con người lên chứ không hạ thấp, vùi dập.

Cử chỉ của Người ân cần, niềm nở làm cho mọi người ngỡ ngàng trước sự hòa đồng giữa lãnh tụ và thường dân, giữa chủ với khách. Đó là thái độ bình dị, khiêm nhường không tự đặt mình cao hơn người khác.

Với nhân dân, anh em, bạn bè, đồng chí, đồng bào, phong cách ứng xử của Bác là tự nhiên, cởi mở, chân tình, vừa ân cần vừa bình dị, khiêm nhường. Với kẻ thù của cách mạng hay những người phía bên kia, phong cách ứng xử của Hồ Chí Minh là tự chủ và lịch lãm, bình tĩnh và đỉnh đạc, chủ động và tỉnh táo để vượt qua mọi cạm bẫy, đẩy lùi mọi đòn tấn công hiểm độc và mọi thủ đoạn xảo trá của đối phương.

5. Thứ năm là phong cách sinh hoạt: đó là sự giản dị, trong sạch thanh cao, cách sống chừng mực, điều độ, ngăn nắp, yêu lao động, quý trọng thời gian. Dù sống trong hòan cảnh nào, phong cách sinh hoạt Hồ Chí Minh vẫn giữ đúng nguyên tắc: lấy khiêm tốn, giản dị làm nền, lấy chừng mực, điều độ làm chuẩn, lấy trong sạch, thanh cao làm vui, lấy gắn bó với con người, với thiên nhiên làm niềm say mê vô tận.

Với phong cách Hồ Chí Minh đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải hết sức nỗ lực mới có thể làm theo. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi chúng ta không chỉ quan tâm nghiên cứu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh mà còn phải chú ý nhiều hơn đến làm theo phong cách Hồ Chí Minh.

Lê Văn Thu
ubmttq.gialai.gov.vn

“Thép Bác Hồ”

Ngày ấy, công trường Khu Gang thép được mở mang trên một vùng đồi núi Thái Nguyên. Những cánh bộ đội chuyển ngành của từng Sư đoàn kéo đến đầu quân. Trong đầu mọi người đều hình dung và mơ tưởng một cách khác, những tưởng nơi đây chí ít cũng đã thành nhà cửa đàng hoàng, có máy móc, có xe cộ. Ai dè, một con đường cho ô tô vào cũng chưa có. Đồi núi nhấp nhô, xung quanh bạt ngàn các thứ cỏ dại. Những nhát cuốc đầu tiên bổ xuống tóe lửa lại bật lên. Mọi người từ chỗ chưng hửng, đến phát ngán.

Người là niềm tin tất thắngGiữa lúc ấy, Bác Hồ về thăm. Bác về bất ngờ. Một ngày tháng sáu năm 1959, nắng hầm hập như lửa. Anh em đang đào đất, dựng nhà, bận rộn với tre, với nứa ngoài bến… thì bỗng nghe tin Ban Chỉ huy công trường triệu về có việc gấp. Tự nhiên có người reo lên: “Hay là Bác Hồ về thăm?!”. Mọi người chẳng ai bảo ai, cuốc xẻng trên vai quáng quàng chạy một mạch về phía một bãi rộng, sườn một quả đồi đang san dở. Một chiếc ô tô đen, bám đầy bụi đường vừa đỗ, anh em đã ùa tới. Hàng trăm, hàng nghìn người vây đặc kín quanh chiếc xe. Bác Hồ từ cửa xe hiện ra râu tóc đều bạc phơ, mặt hồng hào. Bác mặc bộ quần áo ta, màu gụ, chiếc áo hở khuy cổ, để lộ lần áo lót trắng trông vừa khỏe mạnh vừa phóng khoáng. Anh em công nhân hò reo, hoan hô vui sướng. Người xúm đông, xúm đỏ, Bác nhích lên một cách khó khăn.

Những người được ở gần Bác nhất cố sức lấy tay cản mọi người đang ùa tới, lấy chỗ cho Bác đi.

Sườn đồi cao, anh em phải kéo, nâng Bác lên. Nắng quá. Có mấy anh chạy đi ngay kiếm mấy tàu lá cọ còn tươi xòe che nắng cho Bác. Bác giơ tay  cho chúng tôi trật tự rồi bắt đầu nói chuyện:

– Công trường của các cô, các chú rất rộng lớn. Sau này sẽ có tới ba vạn người tới ở. Thế mà bây giờ các cô, các chú mới có mấy nghìn người. Như vậy các cô các chú có cái vinh dự là người đi trước.

Bác giải thích về “tiền đồ”:

– Xã hội chủ nghĩa là gì ? Là không có người bóc lột người, mọi người đều no ấm. Đó là tiền đồ của chúng ta, không có tiền đồ, bạc đồ nào khác.

Rồi Bác hỏi:

– Muốn ăn quả thì phải làm gì ?

– Phải trồng cây ạ !

– Khi mới trồng cây thì đã có quả chưa ?

– Chưa ạ !

– Muốn uống nước thì phải làm gì ?

– Phải đào giếng ạ !

– Khi đang đào giếng thì đã có nước chưa ?

– Chưa ạ !

– Đào giếng có khó nhọc không ?

– Có ạ !

– Đào giếng rồi còn phải múc nước lên, đun sôi thì mới có bát nước trong lành mà uống. Xây dựng Xí nghiệp bây giờ cũng thế. Tiền đồ là ở các cô, các chú. Xây dựng Xí nghiệp nhanh thì chóng có tiền đồ. Bác nghe nói có một số cô chú thắc mắc đó là vì chưa hiểu thôi. Bác tin rồi mọi người sẽ làm rất hăng hái.

Hôm đó, Bác còn dặn rất nhiều điều: Công nhân, cán bộ phải có tinh thần đoàn kết, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, phải tăng gia lấy cái mà ăn, phải giữ gìn vệ sinh, không được uống nước lã, phải đánh ruồi, mỗi người một cái vỉ ruồi sau lưng, thấy ruồi là đánh… Mỗi điều dặn, Bác đều lấy ví dụ cho dễ hiểu.

Nói về đoàn kết, Bác chỉ vào chiếc xe hơi đang đỗ dưới đường:

– Nếu mười người cùng đẩy xe, cùng dô hò thì xe sẽ chạy bon bon. Còn nếu người thì đẩy, người thì không, có mấy người lại chỉ vờ đẩy thôi thì không thể đẩy xe chạy được.

Nói về đánh ruồi, Bác hỏi:

– Đế quốc to hơn hay con ruồi to hơn ?

– Đế quốc to hơn ạ !

Bác ôn tồn:

– Thằng đế quốc to lù lù, có máy bay, đại bác, xe tăng, tầu bò, các cô các chú còn đánh được nó, lẽ nào các cô, các chú lại chịu thua mấy con ruồi.

Cuối cùng, Bác nói:

– Hôm nay, Bác không đi thăm khắp công trường được. Bác nhờ các cô, các chú ở đây chuyển lời hỏi thăm của Bác đến các cô các chú vắng mặt.

Tiễn Bác đi rồi mà lòng chúng tôi còn ngẩn ngơ, bàng hoàng như vừa qua một giấc mơ. Chúng tôi bàn tán, khoe với nhau những gì mình được thấy ở Bác, suy nghĩ không dứt về những lời Bác dạy. Nhưng trước nhất, chúng tôi thấy có cái vẻ vang là có đi xây dựng khu gang thép mới được gặp Bác Hô, trong một kỷ niệm thắm thiết như vậy.

(Theo “Hồ Chí Minh – Một huyền thoại kỳ vĩ” – NXB Lao động)
Nguồn hcmpc.vn
Phương Thúy (st).

bqllang.gov.vn

Phát triển khoa học – công nghệ Việt Nam theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Từ sau cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ Nhất diễn ra ở Châu Âu và Bắc Mĩ giai đoạn cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 mà xuất phát điểm là ở nước Anh, nhân loại đã bắt đầu nhận thức được sức mạnh thực sự của khoa học, kĩ thuật. Có thể nói, cách mạng công nghiệp là một trong những nguyên nhân cơ bản hình thành lên chủ nghĩa tư bản và các đế quốc hùng mạnh thời bấy giờ. Chính nhờ tàu bè, súng ống mà năm 1858 người Pháp đã nổ phát súng đầu tiên lên bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), mở đầu cho mấy chục năm Pháp thuộc, làm cho nhân dân ta lâm vào cảnh lầm than. Những thành tựu khoa học, kĩ thuật nổi bật của phương Tây thời kì đó là động lực thôi thúc các chí sĩ yêu nước của dân tộc ta như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng…và sau này là Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh làm ra các cuộc vượt biển lớn, đi tìm con đường giải phóng, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Khoa học và công nghệ giai đoạn mới hiện nay bắt đầu phát triển mạnh từ những năm 40 thế kỷ trước và đặc trưng rõ nét nhất từ khi vệ tinh nhân tạo đầu tiên chinh phục không gian vũ trụ, tiếp đó là con người bay vào vũ trụ, đặt chân lên mặt trăng, các công trình nghiên cứu vũ trụ khác; sự ra đời của các ngành công nghệ mới như công nghệ thông tin, viễn thông, công nghệ năng lượng tái tạo…Đến cuối thế kỷ XX, có thể khẳng định rằng nền sản xuất xã hội đang biến đổi sâu sắc, mạnh mẽ tạo nên sự phát triển nhảy vọt, một bước chuyển lịch sử sang một kỉ nguyên hoàn toàn mới – kỉ nguyên tri thức. Tri thức đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội loài người và khoa học – công nghệ chính là yếu tố tạo ra tri thức đó. Khoa học – công nghệ là một trong những thế mạnh chủ yếu giúp cho các nước phát triển duy trì được vị thế của mình, đồng thời cũng trở thành động lực, cơ hội, là đòn bẩy giúp các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam tiến lên. Sự trỗi dậy của những “con rồng, con hổ” Châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore là những ví dụ xác thực nhất cho luận điểm đó.

Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 01/11/2012 Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tếđã nhận định: Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, mặc dù điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, nhưng nhờ có sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự nỗ lực, tâm huyết của đội ngũ các nhà khoa học, sự cố gắng của các doanh nghiệp và nhân dân, khoa học và công nghệ nước ta đã đạt nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp thiết thực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc….Tuy nhiên, hoạt động khoa học và công nghệ nhìn chung còn trầm lắng, chưa thực sự trở thành động lực phát triển kinh tế – xã hội. Việc huy động nguồn lực của xã hội vào hoạt động khoa học và công nghệ chưa được chú trọng; đầu tư cho khoa học và công nghệ còn thấp, hiệu quả sử dụng chưa cao. Việc đào tạo, trọng dụng, đãi ngộ cán bộ khoa học và công nghệ còn nhiều bất cập. Cơ chế quản lý hoạt động khoa học và công nghệ chậm được đổi mới. Công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển khoa học công nghệ chưa gắn với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội; cơ chế tài chính còn chưa hợp lý. Thị trường khoa học và công nghệ phát triển chậm, chưa gắn kết chặt chẽ kết quả nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo với nhu cầu sản xuất, kinh doanh và quản lý. Hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ còn thiếu định hướng chiến lược, hiệu quả thấp….Từ những đánh giá trên, một lần nữa chúng ta cùng nhìn lại, ngẫm lại và học hỏi từ những lời căn dặn của Hồ Chủ tịch về phát triển khoa học và kỹ thuật.

8.1. phat trien KHCN theo quan diem cua CTHCM 1Bác Hồ với phong cách làm việc khoa học, tiến bộ. Ảnh internet

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Hội phổ biến Khoa học, kĩ thuật Việt Nam năm 1963, Bác đã nói: “Chúng ta đều biết rằng trình độ khoa học, kỹ thuật của ta hiện nay còn thấp kém. Lề lối sản xuất chưa cải tiến được nhiều. Cách thức làm việc còn nặng nhọc. Năng suất lao động còn thấp kém. Phong tục tập quán lạc hậu còn nhiều. Nhiệm vụ của khoa học là ra sức cải biến những cái đó”1. Như vậy, một mặt Bác chỉ rõ yếu kém của trình độ khoa học, kỹ thuật nước nhà, một mặt chỉ ra nhiệm vụ quan trọng của khoa học. Nhiệm vụ đó chính là:“Khoa học phải từ sản xuất mà ra và phải trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng suất lao động và không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân…”. Điều đó có nghĩa, khoa học phải hướng tới người lao động, giúp họ thay đổi, cải tiến lề lối sản xuất, công việc bớt nặng nhọc mà năng suất lao động đạt được cao hơn. Quan điểm đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến nay và mai sau vẫn còn nguyên giá trị, là bài học lớn cho các nhà hoạch định chính sách đối với sự phát triển của khoa học – công nghệ hiện nay ở nước ta.

Trong thời gian qua, một vấn đề nổi bật đã được đặt ra, đó là chất lượng của hoạt động nghiên cứu khoa học, là tính ứng dụng vào thực tiễn đời sống xã hội của các đề tài nghiên cứu khoa học còn rất hạn chế. Ở nước ta, có hàng trăm trường đại học, số lượng các nhà khoa học rất đông đảo, hàng chục nghìn cán bộ nghiên cứu, hàng chục nghìn giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ….được đào tạo bài bản, công phu, có cơ sở và thiết bị để nghiên cứu, có ngân sách của Nhà nuớc bảo đảm thực hiện….Nhưng những phát minh, sáng chế có hiệu quả ứng dụng thực tiễn caocho bà con nông dân như máy gặt lúa, máy tách hạt, máy thái hành, tỏi, máy thu hoạch hoa quả, máy cắt tỉa cành…lại do chính những người nông dân tự mày mò, học hỏi, nghiên cứu sáng tạo ra, trong khi đó rất nhiều đề tài, dự án khoa học hàng trăm triệu đồng, thậm chí hàng tỉ đồng do các nhà nghiên cứu khoa học thực hiện thì lại “đắp chiếu” và không có ứng dụng trong thực tế, cũng không có nhiều đóng góp vào tri thức khoa học cơ bản. Nói như Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc: “Các nhà khoa học lo về tiền còn vất vả hơn nghiên cứu, dẫn đến hiệu quả hạn chế, làm xong ứng dụng thực tế thì ít mà lưu kho thì nhiều, trong khi chính người nông dân lại tự sáng tạo ra nhiều máy móc phục vụ sản xuất hiệu quả”, hay như gần đây nhiều báo chí đưa tin, giật tít “Nông dân Việt Nam “đánh bại” các nhà khoa học thế nào?”…Đó là điều mà các nhà khoa học, cũng như các nhà quản lí khoa học – công nghệ cần phải thực sự thẳng thắn nhìn nhận và có biện pháp, định hướng phát triển chiến lược hiệu quả, nghiêm túc.

Bàn sâu hơn về vấn đề này, Bác căn dặn những người làm khoa học: “Các đồng chí phải đi xuống tận các xí nghiệp, các hợp tác xã, hỏi han công nhân, nông dân yêu cầu gì, họ làm ăn và sinh sống như thế nào và phổ biến những điều cần thiết giúp đỡ họ cải tiến kĩ thuật, phát triển sản xuất, cải thiện đời sống. Các đồng chí phải là những chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, văn hóa và khoa học, kĩ thuật; phải góp tài góp sức để cải biến bộ mặt xã hội của nước ta, làm cho nhân dân ta sản xuất và công tác theo khoa học và đời sống của nhân dân ta văn minh, tức là khoa học, lành mạnh và vui tươi. Đó là nhiệm vụ rất nặng nề mà cũng rất vẻ vang”. Bằng những câu từ giản dị dễ hiểu đó, Bác đã chỉ ra đường hướng cơ bản cho sự phát triển khoa học – công nghệ, đó là phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa khoa học với lao động sản xuất và đời sống xã hội. Đồng thời Bác cũng đã chỉ ra trách nhiệm lớn lao của các nhà khoa học trong việc “cải biến bộ mặt xã hội”, định hình bộ mặt văn hóa của đất nước và sứ mệnh làm cho đời sống của nhân dân “khoa học, lành mạnh và vui tươi”. Các nhà khoa học, thông qua hoạt động nghiên cứu, giảng dạy và phổ biến kiến thức, phải có trách nhiệm giúp người dân sinh hoạt và làm việc khoa học, hợp lý hơn, loại bỏ những thói quen sống và làm việc lạc hậu, trì trệ. Có thể nói, tư tưởng đúng đắn đó của Người càng cần phải được áp dụng mạnh mẽ hơn trong bối cảnh hiện nay, khi sự liên kết giữa các cơ sở nghiên cứu, người làm khoa học với người dân, các doanh nghiệp và rộng hơn là đời sống thực tiễn xã hội chưa thực sự sâu sắc và chặt chẽ; sự xa rời thực tế, ít có tính mới, tính sáng tạo trong hoạt động nghiên cứu khoa học là những trăn trở cần phải có những đường lối, chính sách lãnh đạo, biện pháp thực hiện quyết liệt của Đảng và Nhà nước.

Nghiên cứu khoa học luôn có tính kế thừa. Nhận thức sâu sắc điều đó, Người đã căn dặn các nhà khoa học nói chung phải có “nhiệm vụ dạy bảo các cháu thiếu niên về khoa học, kĩ thuật, làm cho các cháu ngay từ thuở nhỏ đã biết yêu khoa học, để mai sau các cháu trở thành những người có thói quen sinh hoạt và làm việc theo khoa học” 3. . Đây là một tư tưởng hết sức tiến bộ của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cách giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ, về vai trò của các em đối với sự phát triển của khoa học – công nghệ nói riêng và của đất nước nói chung. Bác đã nhấn mạnh một triết lý giáo dục rất khoa học đó là phải tạo cho trẻ em tình yêu khoa học, ham hiểu biết, khám phá ngay từ thuở nhỏ; không phải dạy cho học sinh thật nhiều chữ nghĩa, mà là khơi dậy ở các em niềm yêu thích, tự học hỏi và sáng tạo. Khi các em đã có tình yêu với tri thức thì các em sẽ tự giác học tập và từ đó hiệu quả giáo dục cũng sẽ được nâng cao. Bác cũng nhận định rằng, khi các em đã biết yêu khoa học từ nhỏ thì lớn lên sẽ trở thành người có thói quen sinh hoạt và làm việc theo khoa học. Điều đó thực sự rất quan trọng và có ích cho sự phát triển kinh tế – xã hội trong công cuộc thực hiện CNH-HĐH đất nước và hội nhập toàn cầu.

8.2. phat trien KHCN theo quan diem cua CTHCM 2Chủ tịch Hồ Chí Minh và GS.VS Trần Đại Nghĩa. Ảnh internet

Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc phát triển khoa học, kĩ thuật nước nhà không chỉ thể hiện qua những bài nói, bài viết, mà còn qua chính cách Bác trọng dụng nhân tài nói chung và đối với các nhà khoa học nói riêng. Trong cuộc đời làm cách mạng của mình, Bác đã thu hút được rất nhiều trí thức, nhà khoa học về phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước; giao cho họ những công việc hợp sở trường, tạo điều kiện thuận lợi để họ phát huy tối đa năng lực, hiểu biết của mình góp phần vào công cuộc giải phóng dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước. Xuất phát từ lòng yêu nước, niềm tin, niềm cảm phục đối với lãnh tụ Hồ Chí Minh, biết bao nhân sĩ, trí thức và các nhà khoa học tên tuổi như: Hồ Đắc Di, Nguyễn Văn Tố, Tạ Quang Bửu, Tôn Thất Tùng, Trần Đại Nghĩa, Phạm Ngọc Thạch, Đặng Văn Ngữ… đã tự nguyện từ bỏ cuộc sống êm ấm, giàu có ở Hà Nội, Sài Gòn, Tokyo hay Paris để tham gia cách mạng, sẵn sàng chịu nhiều hi sinh, gian khổ, lập nên những kỳ tích về khoa học, kĩ thuật trong kháng chiến và phát triển đất nước. Trong ký ức của mình, ông Vũ Kỳ rất ấn tượng về bức thư kêu gọi những người tài giỏi ra giúp đỡ Chính phủ của Bác năm 1945 và việc Bác cho đăng tin trên báo chí: Sẵn sàng dành thì giờ tiếp 15 phút với bất kỳ ai để nghe kiến nghị, góp ý phê bình về các vấn đề quốc kế, dân sinh… Như vậy, với tư tưởng tiến bộ và phong cách làm việc khoa học của mình, Bác luôn tôn trọng ý kiến đóng góp của các trí thức, các nhà khoa học đối với mỗi quyết sách lớn của đất nước. Bác không chỉ lắng nghe những ý kiến hợp tình, hợp lý, đúng đắn mà còn trân trọng lắng nghe cả những ý kiến phản biện, trái chiều, miễn sao các ý kiến đó có mục đích chung là giải phóng dân tộc, phát triển đất nước. Tinh thần cầu thị đó của Bác với các trí thức, các nhà khoa học chính là bài học lớn đối với các nhà lãnh đạo, các nhà quản lý đất nước ta trong thời kì hiện nay, khi tình trạng “chảy máu chất xám” đang diễn ra ngày càng phổ biến và nhức nhối, rất nhiều nhà khoa học ưu tú của đất nước đang cống hiến tri thức của mình cho các nước tiên tiến vì trong nước không có được điều kiện tốt nhất để phát huy, phát triển tài năng…. Đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho nền khoa học – công nghệ nước ta chưa bắt kịp các nước phát triển trên thế giới.

Gần đây trên báo chí cũng đã có nhiều bài viết, nhiều chuyên đề thảo luận về các vấn đề như làm thế nào để đưa nền khoa học Việt Nam đi lên, làm thế nào để thu hút các nhà khoa học giỏi về nước. Có thể nói, trong lĩnh vực khoa học – công nghệ, yếu tố con người là quan trọng nhất, được đặt lên hàng đầu. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú ý đến việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho lĩnh vực khoa học – công nghệ, Bác đặt biệt coi trọng xây dựng “con người mới” vì đây là động lực quyết định hướng đi lên của xã hội Việt Nam tương lai. Con người mới vừa là nhân vừa là quả của quá trình đấu tranh xây dựng xã hội mới. Bác nói: “Đã là người chủ thì phải biết tự mình lo toan gánh vác, không ỷ lại, không ngồi chờ”. Điều đó nghĩa là, con người mới phải có tri thức văn hóa và khoa học, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ dựa trên những phẩm chất đạo đức được tu dưỡng, rèn luyện hàng ngày. Do đó, muốn khoa học – công nghệ nước ta ngày càng phát triển thì vấn đề ưu tiên trước nhất là phải thu hút được người tài, người giỏi và đặc biệt là thu hút được các nhà khoa học đã có kinh nghiệm làm việc trong môi trường quốc tế. Để làm được điều đó phải tạo điều kiện cho họ được làm việc, giao những trọng trách xứng đáng dựa trên tài năng, tạo ra cho họ môi trường tự do học thuật, không bị gò bó bởi các yếu tố chính trị. Các nhà lãnh đạo cũng như cán bộ các cấp cần thực sự cầu thị, tôn trọng lắng nghe ý kiến đóng góp của họ trong những vấn đề liên quan tới phát triển khoa học, kĩ thuật, phát triển đất nước. Tiếp đến là cần tập trung đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị, máy móc đạt tiêu chuẩn quốc tế để các nhà khoa học có được điều kiện tốt nhất để làm việc, nghiên cứu. Và yếu tố cũng rất quan trọng và được quan tâm đó là mức lương chi trả cho các nhà khoa học ít nhất cũng phải bảo đảm được cuộc sống cơ bản của họ và gia đình, để họ không phải gánh thêm nỗi lo “cơm áo gạo tiền”….

Từ hơn nửa thế kỷ trước, Người đã khẳng định “Nhiệm vụ của khoa học, kĩ thuật là cực kì quan trọng, cho nên mọi ngành, mọi người đều phải tham gia công tác khoa học, kĩ thuật, để nâng cao năng suất lao động, sản xuất ra nhiều của cải vật chất, để xây dựng chủ nghĩa xã hội thắng lợi” . Điều đó có nghĩa, nhiệm vụ phát triển khoa học, kĩ thuật là nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, là điều kiện quan trọng để xây dựng và phát triển đất nước. Các nhà khoa học có vai trò tạo ra tri thức và phổ biến tri thức cho nhân dân và nhân dân cũng cần tích cực học hỏi, sống, làm việc một cách khoa học để đưa đất nước đi lên, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Thấm nhuần những lời dạy sâu sắc đó của Người, trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách, định hướng phát triển chiến lược, quan trọng cho nền khoa học – công nghệ nước nhà, đặc biệt Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11 tháng 4 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011 – 2020; ngày 01/11/2012, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (Nghị quyết số 20-NQ/TW) về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; việc sửa đổi Luật Khoa học và Công nghệ; Chính phủ ban hành Nghị định số108/2012/NĐ-CP ngày 25/12/2012 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 19 tháng 02 năm 2013 và thay thế cho Nghị định số 62/2008/NĐ-CP ngày 12/5/2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam.…sẽ tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng để nền khoa học – công nghệ Việt Nam phát triển đi lên, trở thành động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước./.

1, 2, 3, 4: Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, XB lần 3, tập 14, trang 96.

Huyền Trang
bqllang.gov.vn