LTS: Trong không khí rộn ràng kỷ niệm 39 năm ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, Báo Công an TP Đà Nẵng xin gửi đến bạn đọc những đánh giá thực tế của dư luận thế giới xung quanh sự kiện có một không hai trong lịch sử thế giới này. Đặc biệt đó là cái nhìn của những người trực tiếp, gián tiếp ủng hộ cuộc đấu tranh trường kỳ và vĩ đại của dân tộc chúng ta.
Thư viện
Nguyên Thuyền trưởng Tàu không số và ký ức giải phóng Trường Sa
9 giờ sáng ngày 29-4-1975 mãi là thời khắc không bao giờ quên đối với Thiếu tá Nguyễn Xuân Thơm, nguyên Thuyền trưởng Tàu không số (nay là Lữ đoàn 125, Quân chủng Hải quân).Ngày ấy, con tàu 673 do ông làm thuyền trưởng đã cùng biên đội Tàu không số, hoàn thành nhiệm vụ thần tốc giải phóng Trường Sa trước ngày giải phóng Sài Gòn 30-4-1975.
Quân dân đảo Song Tử Tây mít tinh kỷ niệm 38 năm giải phóng quần đảo Trường Sa (29-4-1975/29-4-2013).
Một trưa Tháng Tư, ghé căn nhà đầy ắp hình ảnh, kỷ vật của Đoàn Tàu không số nằm trên đường Đoàn Như Hài, quận 4, TP Hồ Chí Minh, chúng tôi được Thiếu tá Nguyễn Xuân Thơm – hiện là Trưởng ban Liên lạc truyền thống (Tàu không số) Đường Hồ Chí Minh trên biển tại Thành phố Hồ Chí Minh, bồi hồi kể lại chiến tích lẫy lừng ngày ấy. Tháng 4-1975, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân ngày càng khốc liệt và giành được nhiều thắng lợi to lớn. Lúc bấy giờ, Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị thành lập một biên đội, chuẩn bị lực lượng, vũ khí, khí tài… để thực hiện nhiệm vụ giải phóng Trường Sa. Biên đội gồm có 3 tàu thô sơ mang bí số 673, 674 (tàu chở Ban chỉ huy), 675 được ngụy trang như tàu đánh cá. Ông Nguyễn Xuân Thơm là Thuyền trưởng tàu 673, Nguyễn Đức, Thuyền trưởng tàu 674 và Phạm Duy Tam Thuyền trưởng tàu 675.
Vị Thiếu tá già kể lại: “Ngày 9-4, chúng tôi nhận lệnh, cấp tốc hành quân từ Hải Phòng vào Đà Nẵng. Ngày hôm sau, biên đội đã cập cảng Tiên Sa, lấy phương tiện, vũ khí, dầu, nước, lương thực…đưa Đại đội đặc công Đoàn 126 và Tiểu đoàn 471 đặc công Khu 5 xuống tàu. 4 giờ sáng ngày 11-4, từ Đà Nẵng, biên đội hành quân ra đảo Song Tử Tây. Nhiệm vụ lần này là phải nhanh chóng đánh chiếm đảo Song Tử Tây kịp ngày 14-4 và phải giải phóng hoàn toàn Trường Sa cùng thời điểm với giải phóng hoàn toàn miền Nam. Thế nhưng đi được nửa đường thì xảy ra sự cố: Tàu dẫn đầu 674 bị hỏng máy, không hoạt động. Trước tình hình đó, tàu 675 phải buộc dây cáp để kéo tàu 674”.
Đối với Thuyền trưởng Thơm, do trước đó đã hai lần đi trinh sát quần đảo Trường Sa và một lần lái Tàu không số chở vũ khí tiếp tế miền Nam vào Trường Sa để tránh sự lùng sục của hải quân Mỹ nên ông là người có kinh nghiệm, thành thạo hải đồ Trường Sa. Vì vậy, tàu 673 trở thành tàu xung kích dẫn đầu. Nhưng do tàu này kéo tàu kia nên đoàn đi rất chậm. Trước tình thế cấp bách, nguy cơ đoàn không thể hoàn thành nhiệm vụ đúng kế hoạch, Thuyền trưởng Nguyễn Xuân Thơm đã xin Ban chỉ huy cho tàu mình tách đoàn, đi một mình để kịp tiếp cận đảo.
Tờ mờ sáng ngày 13-4, tàu 673 tiếp cận đảo Song Tử Tây. Thuyền trưởng Thơm tiến hành trinh sát đảo và lực lượng bố trí của địch. Ông trở lại báo cáo Ban chỉ huy đang chờ ngoài biển để xin ý kiến và bàn bạc kế hoạch tác chiến. Một giờ đêm, tàu 673 xung kích, hai tàu còn lại yểm trợ. Lực lượng đặc công đổ bộ vào đảo bằng 3 chiếc xuồng cao su, áp sát các lô cốt hướng Bắc, Đông, Đông Nam. Thấy rằng địch có thể lấy xuồng cao su của ta để trốn thoát nên thuyền trưởng Thơm đã nêu sáng kiến cho anh em xì hết xuồng cao su, gói lại chôn dưới cát. Để tránh đánh nhầm địch với quân ta, Ban chỉ huy quyết định không đánh vào lúc trời còn tối mà đánh vào lúc 5 giờ sáng bằng khẩu ĐKZ mở màn.
Thiếu tá Nguyễn Xuân Thơm – nguyên Thuyền trường tàu 673
Một loạt đạn vang lên. Không phải khẩu ĐKZ của ta mà là loạt súng PRC 25 của địch. 3 giờ 40 sáng. Ta đã bị lộ? Các chiến sĩ dồn mắt về phía đảo. Im ắng. Hóa ra lúc tên lính của địch đổi gác, tiếng động của một con vật làm hắn giật mình, xả loạt đạn về phía có tiếng động.
5 giờ, quả ĐKZ đầu tiên bắn vào chòi canh của địch. Nhưng do tầm ngắm quá cao, quả đạn trật mục tiêu rớt ngay xuống biển. Rút kinh nghiệm, quả thứ hai trúng ngay mục tiêu. Chỉ trong vòng 30 phút, đặc công của ta đã tóm gọn lực lượng của địch, làm chủ đảo: 33 tên bị bắt sống, 7 tên bị thương. Bỗng một tên bất ngờ chạy ra bãi cát, lấy xuồng máy chạy trốn sang đảo Song Tử Đông. Giữa đường, chẳng may hắn gặp ngay tàu của Thuyền trưởng Thơm đang neo ở đó nên hoảng hốt quay lại và bị tóm gọn.
Đặc công bố trí lực lượng giữ đảo. Các tù binh bị dẫn về tàu 673. 11 giờ đêm, các tàu còn lại mới cập đảo, đưa quân yểm trợ. Lá cờ giải phóng bay phấp phới trên đảo Song Tử Tây. Tàu 675 kéo tàu 674 và chở tù binh về Đà Nẵng rồi tiếp tục chở quân ra yểm trợ. Tàu 641 được điều động cùng tàu 673 chở lực lượng đặc công tiếp tục giải phóng các đảo còn lại. Bị mất đảo trọng yếu Song Tử Tây, địch hoang mang. Cùng lúc đó, thông tin chiến thắng của quân giải phóng ở chiến trường miền Nam từ đất liền đổ về dồn dập khiến chúng càng hoang mang, hoảng loạn. Do đó, quân ta nhanh chóng giải phóng các đảo Sơn Ca, Nam Yết, Trường Sa, Sinh Tồn, An Bang.
9 giờ sáng ngày 29-4, cờ giải phóng kiêu hãnh tung bay trên quần đảo Trường Sa. Non sông, biển đảo thu về một mối.
Theo QUỲNH NGA Quân đội nhân dân
Thanh Huyền (st)
bqllang.gov.vn
Những hình ảnh lịch sử về đại thắng mùa xuân năm 1975
Đã 38 năm trôi qua kể từ ngày đại thẳng mùa Xuân năm 1975 nhưng mỗi khi đến dịp kỷ niệm chiến thắng lịch sử này cả dân tộc ta vẫn luôn luôn ghi nhớ về chiến thắng huyền thoại ấy. Chiến thắng này đã đem lại hòa bình, thống nhất đất nước, đã đem những người con thân yêu từ chiến trận chở về với gia đình, làng mạc… và toàn dân được sống trong hòa bình độc lập để từ đó đi lên con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa như Bác chúng ta hằng mong ước. Nhân dịp cả nước đang long trọng chào mừng kỷ niệm 38 năm Đại thắng mùa Xuân Năm 1975, chúng ta hãy cũng nhau xem lại những bức hình lịch sử khi quân giải phóng ta tiến vào Sài Gòn, đánh thẳng vào cơ quan đầu não của ngụy quyền Sài Gòn, ghi lại thời khác chiến thắng anh hùng của dân tộc ta.
Tờ lịch lịch sử của Đại tướng Văn Tiến Dũng khi nghe tin giải phóng Sài Gòn
Bộ chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh
Chuyển vũ khí vào nội thành Sài Gòn chuẩn bị cho Tổng tấn công
Nữ du kích Trung Kiên dẫn đường cho bội đội vào Sài Gòn
Đặc công giải phóng trên đường vào Sài Gòn
Đánh sân bay Tân Sơn Nhất
Bão thép của quân giải phóng
Chiếm Bộ Tư Lệnh Cảnh sát quốc gia ngụy
Hai xe tăng, 390 và 843 đang tiến thẳng vào Dinh Độc Lập
Xe tăng đang tiên vào Dinh Độc Lập trên đường Thống Nhất
Xe tăng 390
Đoàn xe của Đại tá Bùi Văn Tùng đang tiến vào Dinh Độc lập
Bộ đội giải phóng trong Dinh Độc Lập
Các chiến sĩ giải phóng vẫy tay chào nhân dân Sài Gòn
Dương Văn Minh (mặc áo đen, đeo kính) chuẩn bị tuyên bố đầu hàng tại
Đài Phát thanh Sài Gòn trưa ngày 30/4/1975.
Bút tích đầu hàng của Tống thống Ngụy Dương Văn Minh
Kim Yến (Tổng hợp)
bqllang.gov.vn
Lính đặc công vào Dinh Độc Lập
Mái tóc bạc phơ, đôi mắt tinh anh và giọng nói cuốn hút người nghe – đó là ấn tượng đầu tiên với chúng tôi khi gặp Đại tá Lê Bá Ước, nguyên Chính ủy Sư đoàn 2 Đặc công đã tham gia đánh chiếm Dinh Độc Lập trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975. Gần 4 thập niên trôi qua, nhưng cứ vào dịp kỷ niệm ngày toàn thắng, ký ức về trận đánh cuối cùng ấy lại hiện về nguyên vẹn trong ông với bao cảm xúc…
Đại tá Lê Bá Ước sinh năm 1931, tại Rạch Giá, Kiên Giang, tham gia kháng chiến năm 1945. Ông từng là Chính ủy kiêm Đoàn trưởng Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác vang tiếng một thời. Do yêu cầu nhiệm vụ giải phóng Sài Gòn, đầu năm 1974 Sư đoàn 2 Đặc công được thành lập. Trung tá Lê Bá Ước lúc đó được bổ nhiệm làm Chính ủy sư đoàn. Ông Ước kể:
– Ngay sau khi thành lập với 7 Trung đoàn, chúng tôi nhận lệnh phối hợp với Quân đoàn 4 đang đánh địch ở Mặt trận Long Khánh. Sư đoàn chia thành 6 mũi thọc sâu áp sát vùng ven Sài Gòn – Gia Định. Với phương châm “vùng ven là nhà; kho tàng, bến cảng, sân bay là trận địa; Sài Gòn – Gia Định là quyết chiến điểm”, cuối năm 1974 chúng tôi đã phá hủy hơn 500 đồn, bốt, phân khu của địch. Sau đó, lệnh của Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền Nam yêu cầu Sư đoàn phải phá cho được 20 cây cầu có ý nghĩa chiến lược bao quanh Sài Gòn để cắt đường tiến, thoái của quân địch. Toàn Sư đoàn đã sẵn sàng cho nhiệm vụ mới.
Đại tá Lê Bá Ước kể lại trận đánh cuối cùng
– Phá hủy 20 cây cầu? Cháu tìm hiểu trong sử liệu thì không thấy nói đến chi tiết này? – Tôi ngạc nhiên hỏi. Đại tá Lê Bá Ước mỉm cười, giải thích:
– Đó là kế hoạch đầu năm 1975. Nhưng khi toàn Sư đoàn đang triển khai phương án phối hợp với Quân đoàn 4 thì có lệnh khẩn cấp của Trung ương Cục miền Nam dừng kế hoạch và triệu tập tôi về trụ sở Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 ở Biên Hòa để nhận nhiệm vụ mới. Thiếu tướng Nguyễn Hữu An, Tư lệnh Quân đoàn chỉ thị cho sư đoàn đánh chiếm từ sông Buông, cầu Đồng Nai, Rạch Chiếc đến cầu Sài Gòn bảo đảm cho quân đoàn đột phá vào Dinh Độc Lập; đồng thời, chiếm giữ bến phà Cát Lái, sông Lòng Tàu, giữ chắc và bảo vệ những cây cầu huyết mạch tạo điều kiện cho các đơn vị của ta tiến công vào nội đô. Hoàn thành nhiệm vụ cơ động lực lượng về Dinh Độc Lập. Vậy là, từ nhiệm vụ phá cầu chúng tôi chuyển sang bảo vệ cầu.
Thực hiện kế hoạch được giao, Sư đoàn 2 chia thành hai cánh quân. Cánh quân hướngĐông do Phó Sư đoàn trưởng Tống Viết Dương và Chính ủy Lê Bá Ước chỉ huy. Khoảng 20 giờ ngày 26-4-1975, Trung đoàn 116 thuộc cánh quân hướng đông đánh chiếm, chốt giữ cầu Đồng Nai và án ngữ khu vực xã Long Hưng, An Hòa, Bến Gỗ. Suốt hai ngày đêm chốt giữ cầu, các chiến sĩ đặc công phải căng mình đối phó với nhiều đợt phản kích quyết liệt của địch bằng cả phi pháo và xe tăng. Trong khi đó lương thực của bộ đội ta mang theo cũng cạn dần. Nhiều chiến sĩ phải nhịn đói nhưng vẫn quyết không rời mục tiêu, bám trụ đến cùng. Vị cựu Chính ủy Sư đoàn 2 nhớ lại:
– Ngày 29-4, địch phá sập cầu sông Buông ngăn chặn xe tăng của ta tiến công, buộc Lữ đoàn xe tăng 203 phải khắc phục khó khăn tiến dần theo Quốc lộ 15 đến Bến Gỗ, vừa chạy vừa bắn quét ra hai bên đường, vào cả đội hình của Trung đoàn 116 đang chốt giữ. Hai đơn vị không nhận ra nhau vì trời còn tối không nhìn rõ màu cờ. Tại ngã ba Bến Gỗ, các chiến sĩ đặc công canh gác hô mật khẩu “Hồ Chí Minh”, đúng ra phải đáp “Muôn năm” nhưng do anh em đơn vị tăng nhớ nhầm mật khẩu ở trận Bình Thuận nên đáp “19 tháng 5”. Lập tức, tổ B40 của đặc công bắn liền hai phát, may mà không trúng. Thấy không yên tâm, chiến sĩ chốt giữ hỏi lại mật khẩu lần nữa thì đơn vị tăng đáp đúng “Muôn năm”. Lúc này, hai bên mừng rỡ nhảy ra khỏi công sự, xuống xe tăng ôm chầm lấy nhau trong niềm vui khôn xiết.
– Lữ đoàn tăng mà cơ động không có bộ binh đi cùng hả bác? – Tôi băn khoăn hỏi. Đại tá Lê Bá Ước nhìn tôi, gật gù:
– Thực tế chiến đấu khác xa lý thuyết. Lữ đoàn 203 nhận lệnh trong đêm 29 phải tiến sát Dinh Độc Lập, nhưng bộ binh gặp trở ngại chưa đến kịp, mà đường nội thành thì anh em lính tăng không ai thông thuộc. Bởi thế, Phó Sư đoàn trưởng Tống Viết Dương mới nảy ra sáng kiến, thống nhất với chỉ huy Lữ đoàn xe tăng 203 đưa toàn bộ lực lượng đặc công tạm thời thay thế bộ binh tiến quân lên Sài Gòn, chỉ để lại một đại đội đặc công thủy chốt cầu đề phòng địch phá hủy. Phương án ấy hết sức sáng tạo, lợi cho cả hai đơn vị và bảo đảm kịp thời gian thực hiện nhiệm vụ nên tôi tán thành ngay. Nhờ đó mà kế hoạch tác chiến vẫn được triển khai đúng ý định.
CCB Lê Bá Ước (hàng đầu, thứ tư từ trái sang) trong một buổi giao lưu truyền thống với sinh viên Trường Đại học KHXH&NV TP Hồ Chí Minh
8 giờ 30 phút ngày 30-4, đội hình của hai đơn vị đã tới Thủ Đức. Bọn địch cố thủ ở trường võ bị bắn ra xối xả. Chỉ huy đơn vị lệnh cho phân đội tăng đi đầu vòng theo hướng khác, phân đội tăng phía sau tạt xuống mép ruộng, cơ động đánh lướt sườn khu vực trường võ bị; đặc công phối hợp với dân quân du kích địa phương xã Tăng Nhơn Phú vây ép tiêu diệt quân địch. Chỉ trong 30 phút bọn địch hoảng loạn rút chạy. Nhớ lại cái ngày lịch sử ấy, Đại tá Lê Bá Ước không giấu nổi niềm vui:
– Khoảng hơn 10 giờ ngày 30-4, bộ đội đặc công và lực lượng tăng, thiết giáp đã đến gần hồ An Phú. Bọn địch cố thủ ở đây bắn ra quyết liệt. Lập tức, anh Năm Dương hội ý chớp nhoáng với tôi, rồi hạ lệnh tiêu diệt tàn quân. Đội hình chiến đấu được triển khai nhanh chóng. Giữ thế áp đảo, Trung đoàn 116 bí mật áp sát mục tiêu, bắt sống một số tên khai thác tình hình. Xe tăng của ta nã đạn vào căn cứ, bắn cháy một xe tăng M48 của địch khiến tinh thần bọn chúng càng hoang mang. Đúng lúc đó 2 chiếc máy bay A37 bất ngờ bay tới, trút 2 loạt bom hòng phá sập cầu xa lộ và chặn đường tiến của xe tăng, pháo binh ta. Cũng may, do chúng lo sợ bị pháo phòng không bắn cháy nên vội vã cắt bom chệch mục tiêu, bom rơi vào nhà dân. Cầu xa lộ vẫn được giữ vững. Bỏ qua không truy kích tụi tàn quân, đội hình của sư đoàn tiếp tục vượt cầu Thị Nghè, đến đường Nguyễn Bỉnh Khiêm rẽ trái, rồi chạy thẳng tới Dinh Độc Lập. Ngồi trên xe tăng thứ 6, chúng tôi đã nhìn thấy xe tăng đi đầu mang số hiệu 390 húc đổ cánh cổng sắt tràn vào trong. Bọn lính bảo vệ chạy tán loạn. Anh Năm Dương hạ lệnh cho Trung đoàn trưởng Trung đoàn 116 tổ chức vây bắt số lính bảo vệ. Chừng 15 phút sau, anh em đặc công đã túm được 30 tên gom lại gần bãi cỏ phía trước dinh. Bên ngoài, các cánh quân của ta ầm ầm như vũ bão tiến vào nội đô, khí thế ngút trời. Bộ đội đặc công tỏa ra lùng sục khắp xung quanh và bảo vệ những nơi trọng yếu. Đúng 11 giờ 30 phút, khi lá cờ đỏ sao vàng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập cũng là lúc hàng triệu con tim hòa cùng một nhịp, phấn khởi, tưng bừng đón chào chiến thắng.
Đại tá Lê Bá Ước ngừng lời. Nụ cười rạng rỡ làm khuôn mặt ông sáng lên. Vẻ kiêu hãnh vẫn vẹn nguyên trong ánh mắt của người cựu chiến binh đã bao phen xông pha trận mạc và được chứng kiến thời khắc lịch sử hào hùng của dân tộc.
– Cháu nghe kể, trong giờ phút khải hoàn, Sư đoàn 2 đặc công tiếp tục nhận nhiệm vụ giải phóng Côn Đảo?
Ông xác nhận:
– Mờ sáng ngày 1-5, tôi nhận được điện khẩn của đồng chí Lê Trọng Tấn, Phó Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh triệu tập về Sở Chỉ huy Quân đoàn 2 nhận nhiệm vụ tổ chức lực lượng đặc công thủy phối hợp với Hải quân vượt biển ra Côn Đảo giải phóng tù chính trị. Sau khi triển khai lực lượng sẵn sàng xuất phát, thì chúng tôi nhận được thông báo, anh em tù chính trị Côn Đảo đã nổi dậy tự giải phóng, hiện đang chờ tàu từ đất liền ra đón. Vậy nên chúng tôi hết nhiệm vụ, trở về đơn vị cũ trong niềm vui chiến thắng…
Kết thúc chiến tranh, người anh hùng đặc công Rừng Sác tiếp tục cống hiến cho sự nghiệp xây dựng quân đội. Năm 1994, ông về nghỉ hưu với cấp hàm Đại tá. Gần 20 năm qua, ông đã dành bao công sức để đi tìm và xác nhận hài cốt đồng đội. Hiện tại, ông lập riêng một ban thờ các liệt sĩ đặc công thuộc đơn vị cũ đã hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ. Ông bảo, mình còn sống và may mắn được chứng kiến thời khắc huy hoàng của dân tộc là nhờ sự hy sinh của bao đồng đội. Bởi vậy, mình phải có trách nhiệm với thân nhân, gia đình họ, với vong linh của những người đã khuất cho trọn nghĩa, vẹn tình…
Nói rồi, ông đứng dậy kính cẩn thắp nén hương thơm tưởng nhớ những đồng đội đã ngã xuống cho độc lập hôm nay.
Theo Hoàng Thành – Quân đội nhân dân
Thanh Huyền (st)
bqllang.gov.vn
Đại thắng mùa Xuân 1975, giá trị lịch sử vô cùng quý báu của quân và dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc Việt Nam đã cách xa 38 năm, nhưng với đại thắng mùa Xuân năm 1975 vẫn còn vang mãi như là một trong những chiến thắng vĩ đại nhất của lịch sử Việt Nam chống ngoại xâm. Với chiến thắng oanh liệt và hào hùng năm ấy, quân và dân ta đã “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” thống nhất non sông, quét sạch hoàn toàn bóng quân thù xâm lược, giang sơn thu về một mối, cả nước sống trong hòa bình độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội theo lời Bác Hồ dạy.
Từ cuộc tiến công mau lẹ, chớp nhoáng và giành thắng lợi hết sức ngoạn mục vào rạng sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975 tại thị xã Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk), quân và dân ta đã mở màn cho cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Chiến dịch “Hồ Chí Minh lịch sử” đã kết thúc thắng lợi bằng cuộc tổng công kích vào Sài Gòn – Gia Định, sào huyệt cuối cùng của bè lũ xâm lược và tay sai. Quân và dân ta đã giành thắng lợi huy hoàng; kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước sau hai mươi mốt năm chiến đấu gian khổ hy sinh, quật cường và anh dũng. Thắng lợi vĩ đại của quân và dân ta cũng là một thất bại thảm hại, nhục nhã đối với bè lũ cướp nước và bán nước.
Xe tăng ta húc đổ cánh cổng Dinh Độc Lập ngày 30/4/1975 – Ảnh Tư liệu.
Đại thắng mùa Xuân năm 1975 nói riêng và thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc nói chung, mãi mãi để lại cho dân tộc Việt Nam những bài học kinh nghiệm vô cùng quý giá về phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, quyết chiến và quyết thắng kẻ thù xâm lược, gìn giữ non sông đất nước, cho dù kẻ thù đó mạnh đến đâu, có tiềm lực kinh tế, quân sự to lớn đến chừng nào và hung hãn hiếu chiến đến bao nhiêu.
Trong khí thế hào hùng hôm nay, chúng ta tự hào ôn lại những kinh nghiệm đó để củng cố niềm tin vào tương lai và mãi mãi ghi nhớ. Khẳng định vị trí, tầm vóc vĩ đại và ý nghĩa lịch sử Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất Tổ quốc 30/4/1975; những thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và những bài học kinh nghiệm về truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất; anh dũng của nhân dân Việt Nam quyết tâm bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất đất nước.
Một trong những yếu tố quyết định tạo nên thắng lợi của cách mạng và cuộc chiến tranh nhân dân đó là sự lãnh đạo sáng tạo, năng động và tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam do Bác Hồ kính yêu sáng lập và dìu dắt. Đối với lực lượng vũ trang nhân dân nói chung và đặc biệt đối với quân đội nói riêng, sự lãnh đạo của Đảng càng sâu sắc và toàn diện để làm nên sức mạnh trăm trận, trăm thắng của Quân đội nhân dân anh hùng.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội còn thể hiện ở sự kiên định và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta, sự trung thành với Đảng với tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, sự gắn bó chặt chẽ và phục vụ tận tụy nhân dân của quân đội ta thực hiện lời dạy của Bác Hồ kính yêu: “Trung với Đảng, hiếu với dân; sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội; nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua; kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Để có được chiến thắng vĩ đại mùa Xuân năm 1975, không thể không nói đến nghệ thuật quân sự độc đáo của văn hóa Quân sự Việt Nam với sự kết tinh truyền thống quân sự của mấy nghìn năm lịch sử. Trước hết, đó là việc xây dựng quân đội hùng mạnh, đủ sức mạnh đảm đương nhiệm vụ của mình. Khi thời cơ đến chuyển hóa thành sức mạnh vô địch. Với sức mạnh tổng hợp của nhiều quân chủng, binh chủng hợp thành, nhiều thứ quân kết hợp chặt chẽ, khai thác hết mọi địa hình, địa thế, vũ khí, trang bị, kỹ thuật, kết hợp hiện đại và thô sơ, đặc biệt là coi trọng yếu tố con người, quân đội ta có sức chiến đấu rất cao và khả năng chiến thắng rất lớn. Nhưng điều quan trọng hơn là, sự vận dụng năng động nghệ thuật quân sự một cách tài tình của Đảng và quân đội trong việc quyết chiến và quyết thắng kẻ thù.
Với đại thắng mùa Xuân năm 1975, một thế mạnh phi thường của quân đội ta khi tiến vào giải phóng Sài Gòn – Gia Định như một thế nước lũ, thế chẻ tre, lấn át kẻ thù. Chúng ta hành quân thần tốc tiến thẳng vào Sài Gòn, đây chính là thế của sức mạnh chính nghĩa, thế trận của sức mạnh lòng dân, của chiến tranh toàn dân, toàn diện mà chúng ta đã dày công vun đắp.
Để có được những ngày tháng hào hùng náo nức như hôm nay, chúng ta càng thấm thía công lao to lớn của Đảng đã lãnh đạo dân tộc, quân đội làm nên bao chiến thắng vô cùng lớn lao. Với nhiều phương pháp, nhiều hình thức phong phú và những bước đi biến hóa khôn lường, Đảng ta đã lãnh đạo cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện với những chiến lược, sách lược năng động một cách tuyệt vời.
Có được thắng lợi của đại thắng mùa Xuân năm 1975 thống nhất Tổ quốc nói riêng, của 30 năm chiến tranh giải phóng của dân tộc ta nói chung, chúng ta biết ơn nhân dân lao động yêu nước trên đất nước ta đã sản sinh ra quân đội, đùm bọc, cưu mang quân đội, cùng quân đội đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược. Bên cạnh đó, để đóng góp vào chiến thắng lịch sử này, phải nói đến thế hệ trẻ Việt Nam, lớp trước tiếp lớp sau luôn là lực lượng nòng cốt của quân đội và luôn luôn tỏ rõ bản chất anh hùng, hoàn thành tốt vai trò xung kích cách mạng của mình, thực hiện lời dạy của Bác “đào núi và lấp biển” một cách xuất sắc. Giáo dục thế hệ trẻ, đặt niềm tin vào họ và tạo cho họ thể hiện mình sẽ là tiền đề của mọi thắng lợi. Đây cũng có thể nói là bài học quý giá mà chúng ta rút ra từ chiến tranh giữ nước, tiếp tục phát huy trong hôm nay mai sau.
Nhớ lại một thời hào hùng, với những chiến công lẫy lừng của dân tộc ta, chúng ta vô cùng biết ơn nhân dân yêu chuộng hòa bình công lý trên thế giới đã hết lòng ủng hộ, động viên quân dân ta chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Điều đó chứng tỏ: dưới sự lãnh đạo của Đảng, sức mạnh của cả dân tộc đã gặp gỡ, kết hợp với sức mạnh thời đại làm nên sức mạnh Việt Nam, đây cũng là bài học vô giá của chúng ta được rút ra để chiến thắng quân thù.
Đảng ta đã nhấn mạnh: “Năm tháng rồi sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước sẽ mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một trong những trang sử chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người Việt Nam và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm vóc quan trọng quốc tế lớn lao và có tính thời đại sâu sắc”.
Những bài học kinh nghiệm quý giá mà chúng ta đã rút ra được trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc, là tài sản quý giá để Đảng ta, Nhà nước ta, nhân dân ta và quân đội ta gìn giữ, nâng niu và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn sinh động vào công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế của đất nước.
Theo http://www.kontum.gov.vn
Huyền Trang (st)
bqllang.gov.vn
Thoát khỏi “Địa ngục trần gian”
Gần 40 năm qua, đã bao lần ông Phan Hoàng Oanh ngồi lặng lẽ nhìn về hướng cầu tàu 914, ở đó bao đồng đội của ông đã vĩnh viễn nằm lại để có một Côn Đảo sáng ngời khí phách anh hùng.
Và hôm nay, trong những ngày tháng Tư lịch sử này, ông lại bồi hồi nhớ về cái thuở bi hùng nơi “địa ngục trần gian”, nhớ thời khắc mà các tù chính trị sục sôi nổi dậy tự giải phóng mình khiến Côn Đảo đầy ắp tiếng cười và những dòng nước mắt… Ông là Phan Hoàng Oanh, một trong 5 cựu tù chính trị hiện đang sống tại Côn Đảo (Bà Rịa-Vũng Tàu).
Giữ vững tinh thần
Sinh trưởng trên quê hương Kiên Giang, từ nhỏ Phan Hoàng Oanh đã sớm giác ngộ cách mạng, tích cực tham gia các hoạt động phản đế tại địa phương. Từ giao liên, tiếp tế cho bộ đội đến công tác phong trào thanh niên, xã đội… Oanh đều hăng hái tham gia. Nhờ đó, anh được bầu làm Phó bí thư Đoàn xã, kiêm đội viên xã đội. Năm 1969, trong một lần cùng nhóm đi công tác ban đêm, bị địch phục kích bất ngờ, Oanh bị thương. Tưởng bọn lính bảo an không nhận ra mình nên anh vẫn lén về nhà nằm điều trị. Ai ngờ, sáng hôm sau, tụi lính kéo đến bắt anh về đồn tra tấn, rồi kết án đưa vào trại giam Chí Hòa. Tại đây anh tiếp tục tổ chức tù nhân đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ và đòi được làm lễ kỷ niệm sinh nhật Chủ tịch Hồ Chí Minh trong khám. Bọn địch đưa anh vào danh sách “chăm sóc đặc biệt”. Đầu năm 1970, Phan Hoàng Oanh bị kết án và đày ra Côn Đảo. Nhớ lại những ngày ở “địa ngục trần gian”, ông Oanh kể:
– Nỗi cực khổ của tù nhân Côn Đảo không bút nào tả hết nhưng đối với những tù nhân trẻ tuổi thì đó còn là một cuộc đấu tranh tư tưởng cam go, không kém phần khốc liệt. Bọn cai ngục luôn “ưu ái” chúng tôi bằng những ngón đòn cực kỳ nham hiểm hòng lung lạc tinh thần và làm họ khuất phục. Nếu không vượt qua được chắc chắn sẽ ly khai. Chỉ cần một người ly khai là sẽ ảnh hưởng tới tâm lý của cả nhóm. Thế là thất bại! Bởi vậy, chống ly khai là một quyết định vô cùng khó khăn đòi hỏi mỗi người phải kiên định, không được phép nao núng tinh thần. Người cựu tù chính trị nhớ lại:
Những cựu tù Côn Đảo trở về (ảnh chụp lại tại Bảo tàng Côn Đảo)
– Ngoài việc nhắc nhau thường xuyên, anh em chúng tôi còn tìm cách xin những mẩu báo từ mấy tên lính đồng hương để nắm thông tin chiến sự bên ngoài, nhất là những trận đánh lớn. Cả buồng giam xúm vào đọc rồi bàn bạc, phấn khởi động viên nhau chờ ngày toàn thắng. Nhờ vậy mà tinh thần lên cao bất chấp sự tra tấn dã man của tụi cai ngục.
Ông Oanh ngừng lời như để kìm nén một nỗi niềm sâu thẳm. Giây lát, ông kể tiếp:
– Lần ấy tụi lính đàn áp buồng tôi vì tội không chào cờ của chúng. Từng người một bị tra tấn, đánh đập, dốc đầu ngược xuống đất rồi đổ nước vôi vào mũi… nhưng không một ai hé răng nửa lời. Tôi trẻ tuổi, sức khỏe khá hơn, cố nhoài người chịu đòn thay đồng đội nên bị đánh ngất xỉu. Lúc tỉnh dậy, buồng tôi đã mất đi hai người. Căm hận, xót xa, chúng tôi động viên nhau giữ vững bản lĩnh, dù chết cũng phải chết cho oanh liệt.
Vỡ òa niềm vui giải phóng
Tháng 4 năm 1975, ở đất liền quân ta giành thắng lợi lớn trong nhiều chiến dịch. Ngoài Côn Đảo, thông qua một số lính gác, những người tù chính trị cũng biết được thông tin đôi chút. Họ vui mừng và càng vững tin vào chiến thắng. Ông Phan Hoàng Oanh kể:
– Mấy ngày cuối tháng 4 tụi cai ngục lầm lì, im lặng, lơ là canh phòng, ít tra tấn tù nhân nhưng khóa chặt tất cả các cửa không cho ai ra ngoài. Thậm chí chúng còn không mang cơm tới các buồng giam như thường lệ. Ngày 29-4, tiếng máy bay quân sự, tiếng ca nô huyên náo khắp Côn Đảo. Đây là sự lạ ở “địa ngục trần gian”. Dù vậy, chúng tôi vẫn chưa hề biết thông tin gì từ đất liền. Ai cũng nghĩ sắp tới ngày Quốc tế Lao động (1-5) nên chúng nới lỏng cực hình để hạn chế biểu tình. Mãi đến đêm 30-4, trại giam số 7 nhận được tin giải phóng Sài Gòn. Bất ngờ, mừng vui đến nghẹn ngào, ngộp thở nhưng chúng tôi vẫn chưa dám tin. Đến khi anh em trại 7 phá cửa thoát ra, mở khóa cho các trại giam khác thì tất cả như bừng tỉnh, đồng loạt nổi dậy tiến về dinh chúa đảo và nhà ở của bọn cai ngục nhưng chúng đã rút đi gần hết. Số còn lại run sợ đầu hàng không dám kháng cự. 8 giờ sáng 1-5, chúng tôi đã làm chủ Côn Đảo. Chi bộ nhà tù triển khai phương án sẵn sàng chiến đấu đề phòng bọn địch quay lại.
Địa ngục Côn Đảo vốn chỉ có tiếng kêu la, bắn giết, đầy đau thương, chết chóc nhưng trong thời khắc đổi thay đã vỡ òa tiếng reo hò, vui nhộn. Những giọt nước mắt hạnh phúc chảy dài trên gương mặt gầy gò, bủng beo của những người tù chính trị. Ngoài bộ phận làm nhiệm vụ, họ í ới rủ nhau đi tìm đồng đội, đồng hương ở các trại giam khác. Một số hạt nhân văn nghệ được giao triển khai tập luyện các tiết mục “cây nhà lá vườn” chuẩn bị chào đón lực lượng ở đất liền ra tiếp quản Côn Đảo. Không khí náo nhiệt, hân hoan như ngày hội.
Bám trụ nơi Côn Đảo
Sáng 5-5-1975, những chuyến tàu đầu tiên ra đón tù chính trị trở về đất liền đã cập cảng Côn Đảo trong niềm mong đợi của hàng ngàn chiến sĩ kiên trung. Chưa đầy 2 tuần, phần lớn cựu tù đã lần lượt rời Côn Đảo. Chuyến tàu cuối cùng dự kiến xuất bến ngày 20-5. Trước lúc nhổ neo, tổ chức đề nghị những thanh niên khỏe mạnh ở lại làm nhiệm vụ ổn định tình hình, giữ trật tự trị an Côn Đảo. Ai cũng mong đợi ngày về và muốn rời xa mảnh đất đau thương này càng sớm càng tốt. Ông Oanh cũng do dự, băn khoăn nhưng rồi đã tình nguyện ở lại. Theo gương ông, nhiều người khác cũng lần lượt đăng ký bám trụ tại đây. Nguyên Trưởng Ban Liên lạc tù chính trị Côn Đảo Phan Hoàng Oanh tâm sự:
– Quyết định ở lại Côn Đảo là quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời tôi. Suốt đêm trằn trọc suy nghĩ về tình cảm gia đình, vợ con, về trách nhiệm xây dựng quê mới… Sáng hôm sau, tôi gửi về đất liền bộ quần áo và chiếc khăn tay do mẹ và vợ tôi chuẩn bị trước khi tôi bị đày ra Côn Đảo để làm tin. Đầu năm 1976, khi đã ổn định công tác tôi mới theo tàu vào đất liền thăm gia đình với ý định đưa vợ con ra Côn Đảo định cư. Mấy ngày ở nhà, nhìn cha mẹ, vợ con quây quần ấm cúng tôi không dám mở lời. Hết thời gian nghỉ phép tôi trở lại Côn Đảo. Vợ tôi khóc, nói: “Suốt 5 năm chờ đợi không tin tức, mẹ con em tưởng như tuyệt vọng. Nay anh trở về mới được mấy ngày đã muốn ra đi. Người ta thì chạy trốn khỏi nơi đó, còn anh lại tiếc nuối, chẳng cần đến vợ con”. Lúc đó, tôi chỉ biết động viên vợ gắng nuôi con rồi lên tàu ra đảo mà trong lòng cứ bịn rịn, nao nao.
Cựu tù chính trị, Bí thư chi bộ Phan Hoàng Oanh (giữa) đang cùng các đảng viên thống nhất nội dung tuyên truyền chiến thắng 30-4
– Nhưng rồi bác đã thuyết phục được bác gái. Chắc phải mất nhiều thời gian lắm, phải không bác? – Tôi hỏi và đợi ông xác nhận. Nở nụ cười hiền hậu, ông bộc bạch:
– Khi trở lại Côn Đảo, anh em trong cơ quan thấy tôi ra một mình thì hiểu ngay nên đã cùng nhau bàn bạc và yêu cầu tôi bằng mọi giá phải đưa được vợ con ra theo. Lần đó về đất liền, thái độ của vợ tôi khác hẳn. Khi tôi đặt vấn đề cả nhà sẽ định cư ở Côn Đảo vợ tôi im lặng. Vốn mộc mạc, chân thành, tôi bảo vợ: Lẽ ra anh đã bỏ xác trong tù nhưng nhờ có tổ chức, có anh em đồng đội nên anh mới sống được đến ngày hôm nay để về gặp em. Bây giờ Côn Đảo do mình làm chủ, mình phải có trách nhiệm với bao đồng đội đã nằm lại ngoài đó. Nếu em thấy anh nói như vậy là sai thì mẹ con em ở nhà cũng được. Nghe vậy, vợ tôi mỉm cười: “Anh còn sống là mẹ con mừng lắm rồi! Giờ anh ở đâu mẹ con em ở đó”. Vậy là thành công đúng theo dự kiến.
Ông Oanh cười sảng khoái trong khi bà Trần Thị Duối – vợ ông, đang dắt đứa cháu ngoại rong chơi dưới những bóng cây xanh mát ngay trong khuôn viên dinh chúa đảo năm xưa. Ông bảo:
– Bà ấy nhà tôi làm cán bộ Hội Phụ nữ huyện, mới nghỉ hưu vài năm nay. Giờ chỉ lo chăm cháu và tiếp các đoàn khách đến nghe giới thiệu về Côn Đảo. Tuổi già như thế là vui rồi.
Ông Oanh cũng đã nghỉ công tác tại Bảo tàng nhưng vẫn làm Bí thư chi bộ khu dân cư. Nói là nghỉ hưu chứ ông vẫn thường xuyên tham gia kể chuyện truyền thống cho du khách tới thăm Côn Đảo, nhất là các Đoàn học sinh, sinh viên từ đất liền ra tham quan tìm hiểu về Khu Di tích lịch sử cấp quốc gia đặc biệt này. Và, những ngày tháng Tư lịch sử năm nay ông đang cùng những người đồng đội, đồng chí trong chi bộ khu chuẩn bị tài liệu để tuyên truyền cho du khách về tinh thần quật cường cách mạng của những cựu tù chính trị năm xưa. Với ông, đó là một nguồn vui bất tận, không có tuổi nghỉ hưu.
Theo Quân Đội nhân dân
Thanh Huyền (st)
bqllang.gov.vn
Về “bại tướng” Dương Văn Minh
Càng gần đến ngày 30-4, những câu chuyện liên quan đến ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước càng thu hút sự quan tâm của các bạn trẻ. Vai trò của Tổng thống ngụy quyền Dương Văn Minh trong sự kiện ngày 30-4-1975 cũng là một chủ đề được giới trẻ quan tâm, tìm hiểu. Trong bài viết này, chúng tôi xin trích ý kiến của các tướng lĩnh, những nhân chứng lịch sử từng trực tiếp tham gia giải phóng Sài Gòn nhằm cung cấp đến bạn đọc một cái nhìn bao quát, đầy đủ về nhân vật này.
1. Thượng tướng Trần Văn Trà, nguyên Phó Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh: “Có người nghĩ rằng, Dương Văn Minh đầu hàng để tránh cho Sài Gòn đổ nát, điều đó hoàn toàn sai lầm. Thật ra, lúc ấy Mỹ vận động Nguyễn Văn Thiệu từ chức là có ý muốn nhường ngay ghế Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn cho Dương Văn Minh, để Minh điều đình với ta. Nhưng Thiệu không chịu, mà mượn cớ theo Hiến pháp, nhường cho Phó Tổng thống Trần Văn Hương lên thay cuối ngày 21-4-1975 đến ngày 28-4-1975 mới nhường chức Tổng thống lại cho Dương Văn Minh.
Đó là ý đồ của Đại sứ Mỹ và Đại sứ Pháp tại Sài Gòn, họ hy vọng Dương Văn Minh có thể nói chuyện được với Việt Cộng nhằm tránh cái thua triệt để. Về phía ta, hiểu rõ mưu đồ của địch dùng ngoại giao để chặn bớt thắng lợi của ta, không cho ta thắng lợi triệt để. Vì vậy, ta đánh mạnh, đánh nhanh, thời gian là lực lượng, để địch không còn gì mà nói chuyện. Dương Văn Minh đã rủi ro hứng lấy sự đầu hàng vô điều kiện. Ta đã có kế hoạch để tiến công giải phóng Sài Gòn nguyên vẹn, không để xảy ra đổ nát. Chúng ta đã thần tốc tấn công mãnh liệt, không cho địch kịp tổ chức kháng cự, bằng 5 mũi dũng mãnh thọc vào trung tâm từ 5 hướng, chiếm cùng lúc 5 mục tiêu trọng yếu. Đó là nghệ thuật quân sự cách mạng theo tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, bảo vệ tối đa sinh mạng của nhân dân, tiết kiệm tối đa máu của chiến sĩ ta và giảm tối đa việc sát hại binh lính ngụy”.
Tổng thống ngụy Dương Văn Minh được Quân giải phóng dẫn ra Đài Phát thanh để đọc lời đầu hàng vô điều kiện.
2. Thượng tướng Hoàng Cầm, nguyên Phó Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam: “Việc Dương Văn Minh lên làm Tổng thống chế độ Sài Gòn là con bài cuối cùng của Mỹ nhằm cản bước tiến của quân ta, tìm ra một giải pháp chính trị có lợi cho chúng. Trước đó, từ ngày 9 đến 19-4-1975 đã diễn ra trận Xuân Lộc, là nơi Mỹ xây dựng thành “cánh cửa thép”, “lá chắn cuối cùng” để tìm giải pháp chính trị. Lúc đó, Đại tướng Mỹ Uây-en, Tham mưu trưởng Lục quân Mỹ, nguyên Tổng Tư lệnh quân Mỹ ở Đông Dương, được lệnh của Nhà Trắng bay sang chỉ huy việc lập phòng tuyến Xuân Lộc. Khi bị ta tiến công mãnh liệt, mất Xuân Lộc nghĩa là địch đã mất “lá chắn cuối cùng”, Uây-en liền lên máy bay chuồn về Mỹ, kéo theo nhiều tướng tá của chế độ Sài Gòn. Vì vậy, hành động đầu hàng của Dương Văn Minh là việc phải làm, không thể khác được, khi quân ta đã tiến đến nơi”.
3. Thiếu tướng Trần Văn Danh, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Quân quản Sài Gòn: “Trước khi đầu hàng vô điều kiện, Dương Văn Minh có thông qua tổ điệp báo của ta liên lạc với Trại Đa-vít – Tân Sơn Nhất, đề nghị thành lập Chính phủ ba thành phần. Tôi thừa lệnh anh Phạm Hùng, thảo liên tục mấy công văn trả lời dứt khoát rằng: Chỉ có đầu hàng vô điều kiện mà thôi. Theo tôi, nếu Dương Văn Minh đầu hàng vào tối 28, sáng 29-4-1975 thì có thể chúng ta ghi nhận tinh thần tránh cho Sài Gòn đỡ đổ nát của ông ấy. Nhưng, đằng này ông ta đầu hàng khi đại quân ta đã vào Sài Gòn, chỉ một giờ sau đã làm chủ Dinh Độc Lập rồi”./.
Thanh Nhàn – Hải Yến (tổng hợp)
(Theo sách phỏng vấn tướng lĩnh Việt Nam NXB Trẻ năm 2000)
Thu Hiền (st)/ Theo http://qdnd.vn
bqllang.gov.vn
“Lời Bác nay đã thành chiến thắng huy hoàng”
Đối với mỗi người Việt Nam, có 2 bài hát ai cũng thuộc lòng; là bài “Tiến quân ca” của Văn Cao và bài “Như có Bác trong ngày vui đại thắng” của Phạm Tuyên.
“Như có Bác trong ngày vui đại thắng” có được hiệu quả lớn bởi đã đạt được 2 điều. Thứ nhất: Nói đúng được tình cảm của toàn thể dân tộc. Trong giờ phút sung sướng, hạnh phúc đến tột đỉnh của người Việt Nam trong thời khắc miền Nam hoàn toàn được giải phóng, đất nước thống nhất, ai cũng bồi hồi nhớ thương Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vậy nên, tác giả mới đặt tên bài hát của mình là “Như có Bác trong ngày vui đại thắng”.
Hình ảnh ngày giải phóng miền Nam 30/4/1975.
Mở đầu bài hát, Phạm Tuyên đã rất thông minh khi viết: “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng. Lời Bác nay đã thành chiến thắng huy hoàng…”. Bác đã khẳng định, kháng chiến nhất định thắng lợi, Nam Bắc sẽ về chung một nhà. Cuộc chiến đấu dẫu có phải kéo dài 10 năm, 20 năm hay lâu hơn nữa, Hà Nội, Hải Phòng và nhiều thành phố có thể bị tàn phá nhưng sau này chúng ta sẽ xây dựng non sông ta, đất nước ta to đẹp hơn, đàng hoàng hơn. Đúng như vậy, ngày 30/4/1975 đã chứng minh lời Người tiên đoán.
Điều thứ 2: Muốn bài hát có sức lan tỏa rộng rãi trong mọi đối tượng công chúng thì phải dễ hát. Bài hát có giai điệu không cầu kỳ, rắc rối, âm vực được khống chế trong quãng không rộng. Khúc thức mạch lạc, ngắn gọn, âm hình tiết tấu đơn giản. Sự bố trí các ô nhịp, phách mạnh, phách nhẹ phù hợp với việc lấy hơi tự nhiên của người hát.
Nhạc sĩ Phạm Tuyên
Bài hát được viết ở thể hai đoạn đơn, mỗi đoạn gồm 4 câu nhạc rất cân đối, vuông vức. Đoạn B gồm 4 câu nhạc nhưng chỉ nhắc lại một lời “Việt Nam! Hồ Chí Minh!”. 5 tiếng này đã vang lên chẳng những trong tâm khảm người Việt Nam mà còn nhận được sự chia sẻ, đồng cảm của nhiều bạn bè trên thế giới. Nói đến đất nước hình chữ S ở bán đảo Đông Dương, khu vực Đông Nam Á, người ta nhớ ngay đến: Đó là Việt Nam – Hồ Chí Minh.
Về sự ra đời của bài hát, Phạm Tuyên cho biết, đó là những ngày gần cuối tháng 4 năm 1975, trên khắp các mặt trận từ Huế – Thừa Thiên đến Nam Trung bộ, rồi Tây Nguyên, quân dân ta đang chiến thắng thần tốc. Hàng loạt tỉnh, thành được giải phóng. Khi chúng ta đã tiến vào sát cửa ngõ Sài Gòn, Phạm Tuyên khi ấy là Trưởng ban Ban Biên tập Âm nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam nhận chỉ thị của Bộ Biên tập là cần sáng tác rồi dàn dựng gấp một bài hát để kịp phát sóng ngay sau khi công bố chiến thắng giải phóng hoàn toàn miền Nam. Phạm Tuyên nhanh chóng hoàn thành bài hát chỉ trong một giờ đồng hồ.
Ca khúc nhanh chóng được thông qua. Bài hát được phát sóng ở thời điểm Đài Tiếng nói Việt Nam vừa truyền đi tuyên bố miền Nam được hoàn toàn giải phóng đã có một hiệu quả rất đặc biệt, nằm ngoài sự hình dung của mọi người. Ai cũng nức lòng trước tin chiến thắng kèm theo là bài hát được vang lên. Không ít người đã không cầm được nước mắt vì quá vui sướng, hạnh phúc. Và không cần phải học, chỉ nghe qua Đài Tiếng nói Việt Nam mà hàng triệu người dân đã thuộc và hát được/.
Theo VOV.vn
Kim Yến (st)
bqllang.gov.vn
Âm hưởng mùa Xuân đại thắng trong thơ
Trên con đường dài dựng nước và giữ nước của dân tộc, năm 1975 là một mốc son chói lọi. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã toàn thắng khi lá cờ giải phóng tung bay phấp phới trên Dinh Độc Lập ở Sài Gòn vào trưa 30 tháng 4 năm ấy. Những ai đã trải qua tháng ngày ấy bây giờ nhớ lại vẫn không khỏi bồi hồi xúc động. Hình như âm hưởng mùa Xuân đại thắng vẫn còn đâu đây.
Nhân dân Sài Gòn dự mít tinh mừng miền Nam hoàn toàn giải phóng. Ảnh: Tư liệu
Vâng, vẫn còn đó, tấm bản đồ Việt Nam đỏ thắm những mũi tấn công vũ bão và những vùng đất giải phóng thay đổi từng ngày, từng giờ. Vẫn còn đó, tin thắng trận dồn dập từ miền Nam bay về. Vẫn còn đó, niềm vui vỡ òa, nụ cười rạng rỡ và giọt nước mắt lóng lánh trên gương mặt bao người.
Vâng, vẫn còn đây những vần thơ dạt dào âm hưởng toàn thắng cuốn theo bước chân anh giải phóng quân và hòa trong nắng gió phương Nam. Những bài thơ cuồn cuộn hào khí thần tốc, rạo rực niềm vui chiến thắng còn để lại cho con cháu hôm nay những hình dung hoành tráng về mùa Xuân đại thắng 1975.
“Bỗng nghe vần Thắng vút lên cao”, Bác Hồ viết câu đó trước ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng mấy năm, nhưng dẫu khi Người đã lên đường nhẹ bước tiên rồi thì thơ ấy vẫn là lời báo tiệp vọng vang trên khắp mọi miền đất nước và bốn biển, năm châu. Niềm tin chiến thắng từ Hồ Chí Minh đã lan tỏa và thấm sâu vào nhân dân như một sức mạnh to lớn mà không đạn bom tàn bạo nào có thể đè bẹp được: “Năm qua thắng lợi vẻ vang/ Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to/ Vì độc lập, vì tự do/ Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào/ Tiến lên! Chiến sỹ đồng bào/ Bắc Nam sum họp Xuân nào vui hơn” (Hồ Chí Minh – Thơ chúc Tết 1969).
Với niềm tin tất thắng son sắt ấy, trong trận đánh cuối cùng, quân và dân ta đã làm nên một cơn lốc hùng vĩ. Khí thế ào ạt đó đã tràn cả vào thơ Phạm Tiến Duật: “Khi lên xe ta chưa quen nhau/ Lúc xuống xe ta đã thành bè bạn/ Ta tựa lưng vào bốn năm tấn đạn/ Chúng ta đi đường dài / Mấy trăm xe và mấy trăm người/ Nhằm mặt trận tiến vào như cơn lốc/ Những trái tim xếp theo hàng dọc/ Suốt đường dài hồi hộp biết bao nhiêu”. (Chim Lạc bay).
Trên dãy Trường Sơn trùng điệp, những người con gái, con trai đẹp như hoa hồng cứng hơn sắt thép (Thơ Nam Hà) đã hẹn gặp nhau trong ngày vui đất nước: Đoàn quân vẫn đi vội vã/ Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa/ Chào em, em gái tiền phương/ Hẹn gặp nhé giữa Sài Gòn (Nguyễn Đình Thi – Lá đỏ). Một vẻ đẹp vừa hùng tráng, vừa lãng mạn mà sau này đã được âm nhạc chắp cánh bay lên thành ca khúc kháng chiến trữ tình không ít người yêu thích.
Vốn là một người lính thiết giáp, nhà thơ Hữu Thỉnh vừa tài hoa, vừa nhạy cảm đã dựng thành công chân dung người chiến sĩ trong chiến dịch mang tên Bác với một chiều sâu tâm hồn rất trung thực và cảm động:
Chiến dịch này ăn cơm không phải độn/ Mừng thì mừng mà thương mẹ bao nhiêu/ Ngày mai chúng ta đánh trận cuối cùng/ Đêm còn lạnh ở ngoài ta đấy bạn/ Ngoài ta độ nay đang giáp hạt/ Cây rơm gầy xay giã cũng thưa đi/ Ngày mai chúng ta đánh trận cuối cùng/ Một nửa nhân dân ngày mai ta nhận mặt/ Nhân dân trở về từ bên kia mặt trăng/ Lại vằng vặc những bến bờ thương nhớ (Đường tới thành phố).
Trước ngày 30 tháng 4 lịch sử là những cuộc chuyển quân rậm rịch, là một đêm đợi chờ hồi hộp: Anh đang ở bên này thành phố/ Cách một mệnh lệnh/ Cách một trận đánh/ Cách một cây cầu/ Cách một đêm nay/…/ Thành phố càng gần/ Càng không dám nghĩ nhiều đến mẹ/ Phải cố quên mẹ ngồi đứng không yên/ Dù chỉ có anh và ngọn cỏ lúc này (Đường tới thành phố).
Bao nhiêu người lính như thế đã không được trở về với mẹ, họ chấp nhận hy sinh để cho Sài Gòn òa vỡ ra trong niềm vui giải phóng: Năm cánh quân từ năm hướng trở về / Thành phố đầy áo trận/ Ở cuối đường một vành lá vút qua/ Chỉ chờ thế là người xô như sóng… Và, trong cái nhìn cận cảnh hình ảnh anh bộ đội phong trần trận mạc xiết bao: Tháp pháo để trần lăm chăm vết đạn/ Dằng dặc đường về/ Mòn xích sắt vẫn quay nồng mùi đất/ Mặt đường hăng mùi cỏ ngoại ô / Đồng chí trưởng xe mình quấn đầy băng trắng/ Anh giơ tay cả thành phố động lòng/ Xạ thủ trung liên/ Quần áo màu rừng ngả sang màu đất / Đôi dép râu dẫn trước đội hình/ Hoa nhiều quá nhưng anh không kịp nhận… (Đường tới thành phố).
Hình ảnh anh bộ đội giải phóng trong ngày Sài Gòn giải phóng được khắc họa khá nhiều trong thơ ca thời ấy. Nguyễn Thành Vân trong bài thơ Ngôi sao trên đầu, khẩu súng trên vai đã rưng rưng ghi lại: Tôi bị vây tròn vòng ngoài vòng trong/ Tôi bị hỏi dồn, phía sau phía trước/ Cô bác nhìn tôi từ đầu đến chân/ Tôi phải trả lời bằng tay bằng mắt.
Hoàn toàn không có cảnh Sài Gòn bị dìm trong biển máu bởi lòng thù hận của cộng sản như sự xuyên tạc của kẻ thù. Một Sài Gòn giải phóng, một Sài Gòn hòa bình đã trở về với Tổ quốc thân yêu. Ước mơ Việt Nam thống nhất đã trở thành hiện thực với Mùa xuân đại thắng 1975. Chỉ có những kẻ xâm lược và bán nước mới không trông mong ngày chiến thắng này, còn ai mang trong mình dòng máu Việt Nam được tô thắm bởi những Vua Hùng, Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Đinh Tiên Hoàng, Lý Công Uẩn, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Nguyễn Hữu Cảnh, Hồ Chí Minh… đều coi ngày 30 tháng 4 là mốc son lịch sử chói lọi của dân tộc. Chính những người từng ở bên kia chiến tuyến nay cũng phải thừa nhận ý nghĩa lịch sử vĩ đại của ngày toàn thắng này. Không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ Tố Hữu đã hân hoan viết: Đường tiến quân ào ào chiến thắng/ Phía trước chờ anh, người mẹ mong con/ Pháo hãy gầm lên, đỏ nòng bắn thẳng/ Rộn rực xe tăng chồm tới Sài Gòn/ Ôi, buổi trưa nay, tuyệt trần nắng đẹp/ Bác Hồ ơi! Toàn thắng về ta/ Chúng con đến, xanh ngời ánh thép/ Thành phố tên Người lộng lẫy cờ hoa (Tố Hữu – Toàn thắng về ta).
Cũng chính vì thế mà nhà thơ Xuân Sách khi dạo bước trên đường phố Sài Gòn đã lâng lâng cảm nhận: Đường phố xôn xao đỏ rợp cờ/ Người đi vừa thật lại vừa mơ/ Nửa đời cầm súng đi đánh giặc /Nay bỗng hồn nhiên như trẻ thơ (Trên đường phố).
Ngày 30 tháng 4 và Sài Gòn giải phóng đã trở thành bản giao hưởng Chiến thắng sau những tháng năm chiến đấu bất khuất kiên cường và bi thương khổ đau của dân tộc. Bao nhiêu máu, bao nhiêu mồ hôi đã đổ xuống đầm đìa trên con đường giải phóng đất nước. Cái giá của độc lập tự do, hòa bình thống nhất đất nước vô cùng to lớn. Có phải vì thế mà khi được thưởng thức một đêm giao hưởng giữa Sài Gòn, nhà thơ Anh Ngọc đã xao xuyến với những liên tưởng rất đẹp: Cát bụi đường xa khẩu súng ngọn cờ/ Ngửa bàn tay gặp bàn tay nhạc trưởng/ Mở tấm lòng gặp tấm lòng giao hưởng/ Bổng trầm cung bậc tìm nhau/ Sài Gòn trong ta là trái chín vẹn nguyên/ Chiến thắng đặt vào lòng hai đứa/ Một nửa anh và em một nửa (Sài Gòn đêm giao hưởng).
Khẩu súng ngọn cờ đã trở thành linh vật tượng trưng cho một giai đoạn lịch sử bi tráng đã qua của dân tộc. Những bông sen đã mọc lên từ mảnh đất Việt Nam thấm máu trở thành thông điệp giao hòa thân thiện của chúng ta. Sự tốt đẹp ấy đã được bắt đầu, được tính từ ngày 30 tháng 4 lịch sử mà âm hưởng hào hùng của nó còn vang vọng trong những vần thơ sinh ra cùng cái thời mãi mãi không bao giờ quên ấy.
Huyền Trang (st)
bqllang.gov.vn
Gặp những người cắm cờ giải phóng ngày 30-4 (Tiếp theo kỳ trước)
Vào lúc 9h30 ngày 30-4-1975, một lá cờ giải phóng nửa đỏ nửa xanh với ngôi sao vàng năm cánh đã tung bay hiên ngang trên đỉnh cao tháp nước sân bay Tân Sơn Nhất. Đó là một trong những lá cờ giải phóng đầu tiên được kéo lên trên bầu trời Sài Gòn còn rền vang tiếng súng trong giờ phút hấp hối của chế độ Việt Nam Cộng hòa.
Chiến sỹ Phạm Văn Lãi và Nguyễn Văn Cẩn cắm cờ trên đỉnh tháp nước sân bay Tân Sơn Nhất vào ngày 30-4-1975.Ảnh: Việt Dương sưu tầm
Một lần, tôi hỏi Đại tá Đinh Quốc Kỳ, nguyên cán bộ bảo vệ chính trị nội bộ Đoàn đại biểu quân sự Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (Đoàn B): Trong tấm ảnh ghi lại giờ phút lịch sử ấy có hai người cắm cờ, họ là ai? Đại tá cho biết, đó là Phạm Văn Lãi và Nguyễn Văn Cẩn. Hai người chiến sỹ giải phóng đã cắm lá cờ ấy nay còn sống, một người ở Hà Nội, người kia ở Bà Rịa – Vũng Tàu. Trong những ngày tháng tư lịch sử này, chúng tôi đã tìm gặp để nghe họ kể về những giây phút thiêng liêng hào hùng 38 năm trước.
Con ngõ 191 đường Lạc Long Quân (phường Xuân La, quận Tây Hồ) dài hun hút, hai bên nhà cửa, hàng quán san sát. Cuối con ngõ hẹp mở ra một khoảng không gian rộng, con đường chạy vòng quanh vườn hoa nhỏ. Chủ nhân căn hộ liền kề A20 khu tập thể Bộ Giáo dục – Đào tạo là người đàn ông gày gò, hoạt bát, nhanh nhẹn. Hôm trước, qua điện thoại, ông dặn: “Anh đến sớm, kẻo thứ hai tôi phải đi viện”. Chứng thoát vị đĩa đệm hành hạ ông đã mấy năm, nay trở trời thêm phát tác. Ngày chủ nhật, tôi đến thăm, ông sai con ra vườn hoa chờ khách. Ông là Phạm Văn Lãi, cầm tinh con Rồng, sinh tháng 5 năm Nhâm Thìn 1952. Người tuổi Thìn thường giỏi giang, thông minh, hoạt bát, kiên trì theo đuổi mục đích, lý tưởng. Mới về hưu chưa đầy năm, ông Phó Vụ trưởng Vụ Hành chính Văn phòng Chính phủ còn nhiều việc phải làm, nhiều mối quan hệ, ân tình phải trả, trong đó những quan hệ đồng đội thời 823 ngày đêm cắm giữa sào huyệt quân thù tại tiền đồn Trại Davis năm xưa bao giờ cũng chiếm nhiều thời gian của ông.
Quê ông ở xã Tự Tân, huyện Vũ Thư, Thái Bình. Tôi trầm trồ: “Dân Thái Bình nhà ông chuyên đi cắm cờ, từ ông Tạ Quốc Luật ở Điện Biên Phủ thời đánh Pháp đến Bùi Quang Thận cắm cờ trên nóc Dinh Độc Lập lúc 11h30 ngày 30-4-1975, đánh dấu sự cáo chung của chế độ ngụy Sài Gòn. Còn chuyện ông cắm cờ trên tháp nước cao chót vót trong sân bay Tân Sơn Nhất sáng sớm ngày 30-4 thì thế nào?”.
Qua giọng kể hồ hởi của ông, đối chiếu với ký ức những nhân chứng lịch sử trong thời điểm ấy, tôi hình dung được giây phút hào hùng khi ông cùng người bạn chiến đấu cắm lá cờ giải phóng trên đầu thù.
Đêm 28, rạng sáng 29-4-1975, pháo tầm xa 130 ly của ta nã đạn vào sân bay Tân Sơn Nhất, chặt đứt cầu hàng không, con đường di tản cuối cùng của ngụy quân ngụy quyền Sài Gòn. Đạn pháo rơi cả vào sân Trại Davis, nơi Đoàn đại biểu Quân sự Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (Đoàn B) đóng quân ngay sát đường băng trong lòng địch. Hai đồng chí, Đại úy Nông Văn Hưởng (tức Kiên), cán bộ an ninh và Trung sỹ Nguyễn Văn Hòa, cảnh vệ gác cổng trại hy sinh, bốn đồng chí bị thương. Trước đó, khi chiến sự nổ ra, cán bộ, chiến sỹ ta tại Trại Davis đã xin cấp trên cho trụ lại trong lòng địch, sẵn sàng chiến đấu, tham gia giải phóng Sài Gòn. Ngày 20-4, ta bắt đầu đào hào chiến đấu, giữ bí mật không cho địch biết, ngay cả các bạn Ba Lan và Hungary trong Ủy ban Kiểm soát và Giám sát quốc tế cũng không biết. Ngày 26-4, Chiến dịch Hồ Chí Minh mở màn, năm cánh đại quân rầm rập tiến vào hang ổ cuối cùng của địch, hệ thống hầm hào chiến đấu trong đơn vị đã thông suốt. Anh em được trang bị cả súng AK và hơn 20 quả đạn chống tăng, do trực thăng ngụy “chuyển hộ” vào từ trước trong những “túi thư ngoại giao” theo chuyến bay liên lạc.
Thượng sỹ Phạm Văn Lãi khi ấy 23 tuổi, chiến sỹ Đội Chiếu phim, Ban Chính trị Đoàn B, nhớ lại:
– Ngày Thứ Bảy 26-4, không khí chuẩn bị chiến đấu trong trại khẩn trương, nhưng bộ đội ta vẫn bình tĩnh chờ lệnh. Hôm ấy, Đội Chiếu phim phục vụ anh em bộ phim “Giải phóng Châu Âu” của Điện ảnh Liên Xô, chiếu cả 5 tập liên tục. Đêm 28 rạng ngày 29, pháo ta nã đạn vào sân bay Tân Sơn Nhất, đạn pháo rơi cả vào bãi chiếu phim. Khoảng 8h00 ngày 30-4, Thiếu tướng Trưởng đoàn Hoàng Anh Tuấn lệnh cho Trung tá Mười Sương, Trưởng ban Chính trị gọi tôi lên giao nhiệm vụ vào kho lấy lá cờ to nhất mang cho vệ binh cắm lên tháp nước.
Phạm Văn Lãi vào kho, tìm được lá cờ to nhất, bề rộng lá cờ bằng 4 khổ vải. Cứ theo tỷ lệ, có thể thấy lá cờ phải rộng hàng chục mét vuông. Phấn khởi vì được thủ trưởng tin cậy, với nhiệt tình cách mạng của tuổi trẻ, Lãi quyết định trực tiếp treo cờ. Anh ôm lá cờ vào người, chạy băng qua sân Trại đến tháp nước. Dọc đường, anh gọi cảnh vệ Nguyễn Văn Cẩn đi theo. Một đồng chí trong Ban Nghiên cứu dưới hào hỏi vọng lên: “Ai giao cho cậu treo cờ?”, Lãi trả lời: “Đây là lệnh của thủ trưởng Phái đoàn và đã được Đảng ủy Đoàn quyết định”. Lãi và Cẩn vừa chạy vừa quan sát, các anh nhặt được một đoạn ống nước làm cán cờ và hai sợi dây thép. Đến chân tháp nước, Lãi chui vào lồng bảo vệ trèo lên trước, Cẩn đeo súng ngắn K-54 theo sau. Lên đến đỉnh, Lãi buộc phía trên, Cẩn buộc phía dưới. Kiểm tra mối buộc xong, thấy chắc chắn rồi, Phạm Văn Lãi buông tay, lá cờ no gió mở ra “phật” một tiếng, cuồn cuộn tung bay trên điểm cao của thành phố Sài Gòn.
Tôi hỏi Phạm Văn Lãi:
– Lúc đứng trên đỉnh tháp buộc cờ, anh có nghĩ mình có thể nguy hiểm đến tính mạng không? Đứng trên cao, phía dưới còn địch, phơi mình như thế, anh có lo không?
Rất hồn nhiên, ông trả lời ngay:
– Ừ, cũng lạ, lúc ấy tôi chỉ lo buộc cờ sao cho chắc, chẳng nghĩ gì đến chuyện mình có thể trúng đạn, hy sinh cả anh ạ.
Lá cờ giải phóng no gió tung bay trên đỉnh cao trong sân bay Tân Sơn Nhất, từ xa hàng cây số đã nhìn thấy, vừa là vật chuẩn cho pháo binh ta tính toán phần tử bắn chính xác, làm chuẩn cho bộ đội tiến công, khích lệ bộ đội ta dũng mãnh xông lên. Quân địch ở Bộ Tổng Tham mưu ngụy tại cổng Phi Long cách đó gần 1 cây số, lính Sư đoàn dù, đơn vị tăng – thiết giáp ngụy đóng gần Trại Davis và tàn quân đang tháo chạy nhìn thấy lá cờ giải phóng, càng thêm hoảng loạn, tan rã.
Ngay chiều 30-4, Ủy ban Quân quản Sài Gòn được thành lập do Trung tướng Trần Văn Trà làm Chủ tịch. Nhiều cán bộ, chiến sỹ Trại Davis được điều về Ủy ban Quân quản. Phạm Văn Lãi cùng Ban Chính trị vào Dinh Độc Lập, được bố trí ở tầng 2. Sáng 1-5, anh được thủ trưởng giao nhiệm vụ trèo lên cột cờ Dinh Độc Lập, thay lá cờ anh Bùi Quang Thận cắm lúc 11h30 hôm trước. Lá cờ anh Thận cắm bị mắc dây, không mở ra được, cũng không hạ dây kéo xuống được. Cột cờ cao, trơn nhẵn, Lãi nhanh trí lấy dây dù buộc vào hai chân như kiểu bà con Nam bộ leo dừa, trèo lên gỡ dây rối, thay lá cờ mới to hơn, rộng hơn.
Sau ngày 30-4, Phái đoàn quân sự chấm dứt hoạt động, anh em mỗi người về một đơn vị mới theo chức năng, nhiệm vụ của mình, lo tiếp quản thành phố, trấn áp tàn quân địch, tổ chức tiếp nhận sỹ quan, binh lính ngụy ra trình diện, tham gia ổn định cuộc sống cho nhân dân và bảo đảm hoạt động bình thường của thành phố. Phạm Văn Lãi và Nguyễn Văn Cẩn cũng bặt tin nhau. Lãi tiếp tục ở Ủy ban Quân quản, phục vụ các cuộc mít tinh, hội nghị hiệp thương thống nhất hai miền. Tháng 6-1975, anh được kết nạp vào Đảng và đến năm 1979, được điều về Văn phòng Chính phủ, được gần gũi, phục vụ Thủ tướng Phạm Văn Đồng, các Phó Thủ tướng Võ Nguyên Giáp, Lê Thanh Nghị.
Tháng 4 này, ông Phạm Văn Lãi đã về nghỉ hưu theo chế độ được 10 tháng sống vui vầy bên vợ con. Vợ ông, bà Vũ Thị Tuất là Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Công đoàn Tổng Công ty Rau quả, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Hai con ông, một trai, một gái đều công tác ở Văn phòng Chính phủ và đều trân trọng lịch sử hào hùng mà bố và những người đồng đội đã góp phần làm nên. Đến tháng 4-2012, ông Lãi mới liên lạc được với Nguyễn Văn Cẩn sau 37 năm bặt tin.
Nguyễn Năng Lực
Theo http://hanoimoi.com.vn
Thu Hiền (st)
bqllang.gov.vn
Tin liên quan:
Gặp những người cắm cờ giải phóng ngày 30-4
Buổi phát thanh lịch sử tại Sài Gòn trưa 30/4/1975
Do tình thế khẩn cấp, chàng sinh viên Nguyễn Hữu Thái đã trở thành phát thanh viên “bất đắc dĩ” trong thời khắc lịch sử – tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Trong đám đông kéo đến đài phát thanh trưa 30/4 có cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
KTS Nguyễn Hữu Thái – nhân chứng lịch sử ngày 30/4/1975. Ảnh: Tiến Dũng.
Sinh ra trong gia đình có 10 người con, lại là cả nên Nguyễn Hữu Thái được bố mẹ đầu tư cho ăn học, với mong muốn con mình sẽ thành tài. Năm 1958, sau khi đỗ tú tài ở trường Thiên Hựu (Huế), cậu học trò Nguyễn Hữu Thái vào Sài Gòn học ngành Kiến trúc và là người trẻ nhất của khóa học này.
Từ khi trở thành sinh viên, Hữu Thái hăng hái kêu gọi bạn bè xuống đường biểu tình, đòi tự do, dân chủ và năm 1963-1964 được bầu làm Chủ tịch Tổng hội sinh viên Sài Gòn. Do nhiệt tình đấu tranh nên năm 1964, chàng sinh viên 24 tuổi bị bỏ tù, và từ đó đến năm 1974, Thái luôn nằm trong “danh sách đen” của chế độ Việt Nam Cộng hòa. Ba lần ra ngục vào tù đã lấy đi của Thái 4 năm tuổi trẻ, thời gian được chia đều cho nhà tù và nhà trường.
Nhờ những lần ngồi tù, được tranh luận với cán bộ “Việt cộng”, chàng sinh viên kiến trúc mới thấm thía thêm rằng, không chỉ có sinh viên, trí thức chống lại chế độ Sài Gòn mà khắp cả nước còn có cuộc đấu tranh của những người cộng sản. Và cũng từ đây, Nguyễn Hữu Thái càng quyết tâm theo cách mạng, dù từng nhận được lời đề nghị của một quan chức Mỹ rằng sẽ tạo điều kiện sang Mỹ học rồi về Việt Nam làm quan chức.
“Năm 1971, Chính quyền Việt Nam Cộng hòa tổ chức bầu cử Quốc hội và Tổng thống.Người của Mặt trận Dân tộc Giải phóng đề nghị tôi ra tranh cử với lập trường hòa bình trung lập, chuẩn bị cho ‘Thành phần thứ ba’ như trong Hiệp định Paris. Tôi được sự ủng hộ của tướng Dương Văn Minh, người sẽ ra tranh cử Tổng thống. Nhưng do bị nghi ngờ là người của quân giải phóng nên tôi đã thất cử. Tướng Minh vào giờ chót cũng rút lui khỏi cuộc tranh cử Tổng thống”, ông kể.
Một năm sau, Nguyễn Hữu Thái lại bị chính quyền Sài Gòn bắt giam trước ngày ký kết Hiệp định Paris về hòa bình Việt Nam, do bị tố cáo thuộc “Thành phần thứ ba” thân Cộng. Khi người đàn ông 34 tuổi được ra tù năm 1974, tình hình đã biến chuyển nhanh theo hướng chấm dứt chiến tranh…
Ông Dương Văn Minh và ông Nguyễn Hữu Thái
Nhân chứng sống ngoài 70 tuổi này vẫn nhớ như in thời khắc lịch sử của 36 năm về trước. “Sáng tinh mơ ngày 30/4, từ cơ sở chuẩn bị nổi dậy của sinh viên ở ĐH Vạn Hạnh (gần chợ Trương Minh Giảng), tôi bàn với người thân cận của Thượng tọa Trí Quang rồi chạy vội lên chùa Ấn Quang (đường Sư Vạn Hạnh) gặp vị lãnh đạo Phật giáo có ảnh hưởng lớn tới nhóm Dương Văn Minh nhờ tác động gấp nhằm chấm dứt ngay cuộc chiến, tránh đổ máu và tàn phá Sài Gòn”, ông kể.
Khoảng 9h, khi ông Thái quay về trường thì nghe tướng Dương Văn Minh tuyên bố trên đài phát thanh Sài Gòn, với nội dung kêu gọi các binh lính Việt Nam Cộng hòa hãy bình tĩnh, không nổ súng, ở đâu ở đó, để ông gặp Chính phủ Cách mạng thảo luận lễ bàn giao chính quyền trong trật tự, tránh đổ máu.
Biết tin này, một nhóm sinh viên cầm vũ khí lên xe ca đến áp sát, chuẩn bị xâm nhập vào đài phát thanh. Còn ông Thái cùng nhà báo Nguyễn Vạn Hồng và giáo sư Huỳnh Văn Tòng (giảng dạy báo chí) vào dinh Độc Lập thuyết phục những người quen biết trong chính quyền Dương Văn Minh bàn giao chính quyền cho phía Mặt trận Dân tộc Giải phóng.
Trong khi đó, ở bên ngoài, những chiếc xe tăng đầu tiên đang tiến về dinh Độc Lập. Xe tăng 390 chạy đầu tiên, xe tăng 843 chạy đến dinh đã húc thẳng vào cổng phụ bên trái, cổng không sập. Thấy vậy, lái xe tăng 390 liền húc sập cổng chính, và Bùi Quang Thận nhảy từ trên xe 843 xuống, giật lá cờ giải phóng gắn trên cần ăng ten xe tăng rồi tiến vào thềm dinh.
Xe tăng 390 húc đổ cổng chính để tiến vào Dinh Độc Lập trưa 30/4/1975. Ảnh tư liệu.
Do ông Thái và giáo sư Tòng đeo băng xanh đỏ của lực lượng quần chúng nổi dậy, nên khi ông đề nghị dẫn đường thì ông Thận liền đi theo. Đến nóc, cả 3 người phải leo thêm chiếc thang gỗ mới đến được chân cột cờ. Lá cờ giải phóng được kéo lên trong tiếng reo hò lẫn tiếng súng chỉ thiên chào mừng vang trời.
“Thật ngẫu nhiên, vào thời điểm lịch sử ấy trên nóc dinh Độc Lập có 3 chàng trai của 3 miền đất nước: anh bộ đội Thận từ đồng bằng sông Hồng, giáo sư Tòng quê Tây Ninh và tôi gốc ở một thành phố miền Trung. Anh em xúc động không cầm được nước mắt, vừa sung sướng vừa hãnh diện”, ông Thái nhớ lại khoảnh khắc chấm dứt những năm thống trị của thực dân đế quốc.
Có mặt tại dinh Độc Lập, Chính ủy Lữ đoàn xe tăng 203 Bùi Văn Tùng đã nghĩ ngay đến việc phải buộc chính phủ của Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng sớm để đỡ đổ máu. Vì vậy, Tổng thống Dương Văn Minh, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu, Chính ủy Bùi Văn Tùng, Nguyễn Hữu Thái, Huỳnh Văn Tòng, nhà báo Tây Đức Borries Gallasch… cùng lên xe tiến về phía đài phát thanh.
Tại đài, trong khi các sinh viên đi tìm nhân viên kỹ thuật cho đài phát sóng thì một cán bộ quân giải phóng cũng soạn vội lời đầu hàng của Dương Văn Minh. Do không có thiết bị thu âm nên nhà báo Đức đã cho mượn đài để thu lời đầu hàng của tướng Minh và lời chấp nhận đầu hàng của Chính ủy Bùi Tùng. Pin đài yếu nên các sinh viên lại phải chạy đôn đáo đi tìm pin thay thế.
“Việc thu băng lời tướng Minh phải thử đi thử lại mấy lần mới xong. Còn lời phát biểu của Thủ tướng Mẫu thì được nói trực tiếp. Khi Đài Phát thanh Sài Gòn phát đi lời đầu hàng của tướng Dương Văn Minh, đồng hồ lúc này là 13h20 (Hà Nội là 12h20 phút)”, nhân chứng Nguyễn Hữu Thái tiếp tục câu chuyện.
Tướng Dương Văn Minh (mặc áo đen, đeo kính) chuẩn bị tuyên bố đầu hàng tại Đài Phát thanh Sài Gòn trưa ngày 30/4/1975. Nhà báo Đức ngồi cạnh ông Minh, còn ông Thái đứng thứ hai (cầm tập giấy). Ảnh do phóng viên ảnh hãng thông tấn AP thực hiện.
Do tình thế khẩn cấp nên Nguyễn Hữu Thái đã trở thành phát thanh viên “bất đắc dĩ” của buổi phát thanh trực tiếp đầu tiên trong ngày lịch sử trọng đại: “…Đời sống bình thường đã trở lại Sài Gòn – TP HCM, thành phố mà Bác Hồ đã mong đợi, nay được giải phóng… Xin giới thiệu lời kêu gọi của ông Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu của chính quyền Sài Gòn về vấn đề đầu hàng ở thành phố này…”.
Tiếp đó, đến lượt Tổng thống Dương Văn Minh đọc lời tuyên bố đầu hàng: “Tôi, đại tướng Dương Văn Minh, tổng thống chính quyền Sài Gòn, kêu gọi quân lực Việt Nam Cộng hòa hạ vũ khí đầu hàng không điều kiện quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố chính quyền Sài Gòn từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn, từ trung ương đến địa phương trao lại cho Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam”.
Sau lời kêu gọi của Thủ tướng Vũ Văn Mẫn, Chính ủy Bùi Văn Tùng tuyên bố chấp nhận đầu hàng: “Chúng tôi đại diện lực lượng quân Giải phóng miền Nam Việt Nam long trọng tuyên bố thành phố Sài Gòn đã được giải phóng hoàn toàn, chấp nhận sự đầu hàng không điều kiện của ông Dương Văn Minh, tổng thống chính quyền Sài Gòn”.
Trong đám đông kéo đến đài phát thanh vào buổi trưa 30/4 có cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Được mời phát biểu trực tiếp trên sóng, nhạc sĩ xúc động: “Hôm nay là ngày mơ ước của tất cả chúng ta… Ngày mà chúng ta giải phóng hoàn toàn đất nước… Những điều mơ ước của các bạn bấy lâu là độc lập, tự do, và thống nhất thì hôm nay chúng ta đã đạt được…”.
Hân hoan trong niềm vui giải phóng nên dù không mang theo đàn guitar, Trịnh Công Sơn vẫn cất vang lời bài ‘Nối vòng tay lớn’. Và đây cũng chính là bài hát đầu tiên được phát lên sóng của Đài Phát thanh Sài Gòn ngày 30/4.
“Chiều 30/4/1975, phần lớn người dân Sài Gòn đều túa ra đường để được tận hưởng bầu không khí hân hoan, phấn khởi của ngày thành phố được giải phóng. Những người nghe tin tức qua Đài Phát thanh Sài Gòn cảm thấy xúc động dâng trào khi nghe Trịnh Công Sơn hát ‘Nối vòng tay lớn’ trong giờ phút lịch sử của dân tộc”, 36 năm sau ngày lịch sử này, ông Nguyễn Hữu Thái vẫn xúc động khi kể lại.
Vào đại học năm 1958 nhưng phải đến năm 1976, một năm sau ngày giải phóng, ông mới có thể trở lại trường làm đồ án tốt nghiệp và trở thành kiến trúc sư. Sau nhiều năm công tác tại thành đoàn TP HCM, năm 1980 ông làm việc tại Viện Quy hoạch kiến trúc thành phố… Năm 1990 ông xuất cảnh sang Canada theo diện đoàn tụ gia đình và 5 năm sau lại trở về Việt Nam sinh sống, công tác.
Tiến Dũng
Theo Vnexpress
Kim Yến (st)
Gặp những người cắm cờ giải phóng ngày 30-4
Xã Phước Tỉnh, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu là một bán đảo nhỏ có hình dáng như chiếc lưỡi cày cắm xuống Vịnh Cửa Lấp. Bờ vịnh bên kia, cách hơn 1km là thành phố Vũng Tàu. Căn nhà bê tông kề bên nhà thờ Giáo xứ Phước Tỉnh rộng chừng 60m2 là nơi gia đình ông Nguyễn Văn Cẩn sinh sống, nhưng ông đi vắng. Gần một tháng nay, ông lo sơn sửa hai con tàu đánh cá nên suốt ngày ở ngoài bến, cách nhà vài trăm mét. Hai con tàu đánh cá lừng lững nằm trên ụ, đã phủ sơn xong, chờ đến giờ hạ thủy.
Lão ngư phủ Nguyễn Văn Cẩn cao gần mét tám, vóc dáng vạm vỡ, nước da bánh mật. Nghe tôi hỏi chuyện “cắm cờ”, ông cười sảng khoái: “Trời, gần bốn chục năm rồi, anh là người lâu lắm mới hỏi tôi chuyện cắm cờ đó”.
Ông Nguyễn Văn Cẩn với bộn bề công việc mưu sinh.
– Bao năm qua, anh không liên hệ với anh em đồng đội Trại Davis à?
– Dạ không, bận lu bu anh ơi. Tôi đi biển cả tháng, về dăm ba hôm lại ra khơi. Tháng tư năm ngoái, tình cờ coi ti vi thấy phát hình lễ phong Anh hùng cho hai đoàn mình ở Trại Davis, thấy có anh Lãi, tôi mừng quá chạy vội sang Đài Truyền hình Bà Rịa – Vũng Tàu nhờ liên hệ, xin được số của anh Lãi rồi anh em liên lạc với nhau, mừng quá trời.
Đầu tháng 6-2012, Ban liên lạc Trại Davis mời ông Cẩn về Bộ Tư lệnh Quân khu 7 cùng dự lễ mừng công, kỷ niệm 37 năm ngày toàn thắng. Ông được Quân khu may tặng bộ quân phục đại lễ. Anh em đồng đội, ông Lãi, ông Kỳ, ông Hiệu, ông Thắng… ai cũng trách: “Tưởng mày chết đâu rồi, sao không tìm về sớm?”. Gặp nhau, ai nấy mừng mừng tủi tủi.
Nguyễn Văn Cẩn, tuổi Mùi, sinh năm 1955, là con thứ bảy trong 10 người con của cụ Nguyễn Văn Lai và Đặng Thị Kính. Theo cách nói Nam bộ thì ông là thứ tám, Tám Cẩn. Năm 1942, người giáo dân 22 tuổi, Nguyễn Văn Lai rời làng quê ở Hải Hậu, Nam Định vào làm phu Đồn điền Cao su Phú Riềng. Năm 1948, cụ Lai đưa gia đình sang Kompong Cham, Campuchia, vẫn làm phu cao su. Hai cụ đặt tên 10 người con, 5 trai, 5 gái lần lượt là Tin, Cậy, Vững, Vàng, Chắc, Chắn, Cẩn, Thận, Đôn, Hạnh. Năm 1970, Lon Nol, Sirik Matak làm đảo chính lật đổ chính quyền Shihanouk, thi hành chính sách khủng bố, tàn sát Việt kiều ở Campuchia, Nguyễn Văn Cẩn lúc ấy mới 15 tuổi đã theo 6 anh chị em khác vào Quân Giải phóng. Ông nói: “Lúc ấy chỉ có đi giải phóng mới sống được”. Trong 10 chị em, chỉ có Tin, Đôn, Hạnh ở nhà với ba mẹ. Năm 1973, cả gia đình từ Kompong Thom chuyển về sinh sống ở xã Phước Tỉnh. Các anh Vàng, Chắc, Thận đã hy sinh, được công nhận là liệt sỹ. Năm 1994, cụ Đặng Thị Kính được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng.
Tám Cẩn được phiên vào Đoàn Công binh 25, Bộ Tư lệnh Miền. Đầu năm 1973, Bộ Tư lệnh tổ chức giải bóng chuyền toàn quân Giải phóng tại “Thủ đô” Lộc Ninh. Tám Cẩn trẻ tuổi, thể hình cao lớn, là tay đập xuất sắc của đội Công binh đã “lọt vào tầm ngắm” của cấp trên. Giải kết thúc, Cẩn được Bộ Tư lệnh Miền chọn giao nhiệm vụ làm vệ binh Phái đoàn ta tại Ban Liên hợp quân sự, đi máy bay trực thăng của ngụy từ Lộc Ninh vào Trại Davis trong sân bay Tân Sơn Nhất.
Ông nhớ lại: “Sáng 30-4, đang làm nhiệm vụ, thấy anh Lãi đến Đội Vệ binh tìm người đi theo cắm cờ, tôi xung phong liền vì hằng ngày anh em hay chơi bóng chuyền, bóng rổ với nhau, tôi quý ảnh lắm. Lúc đó tôi chỉ đeo một khẩu súng ngắn K-54. Hai anh em chạy băng qua sân Trại. Đến tháp nước, anh Lãi vừa trèo lên trước vừa quay xuống bảo tôi: Cứ lên đi, không việc gì đâu. Tôi theo anh trèo lên, giúp anh buộc cờ. Anh Lãi đứng trên đỉnh tháp, tôi đứng phía dưới, phần nào được che khuất hơn anh”. Tôi hỏi Tám Cẩn, vẫn câu đã hỏi ông Lãi: “Đứng trên cao thế, lá cờ bay rõ mồn một, anh có lo mình bị địch nó bắn trúng không?”. Ông Tám cười sảng khoái: “Dạ, cũng có lo. Dưới chân mình, lính ngụy chạy rần rần, quần áo lính, giày trận nó vứt đầy đường băng, súng ống chĩa cả lên trời. Nhưng mà mạng tôi lớn anh à. Khí thế cách mạng lớn quá, thằng ngụy nào cũng may ô quần xà lỏn cắm đầu chạy, không dám ngẩng lên. Tôi cứ nghĩ hôm đó nếu không đi với anh Lãi, chắc tôi tiêu rồi. Anh Lãi bình tĩnh lắm, gan cùng mình nên tôi cũng vững tâm. Trong đơn vị, tôi ít tuổi nhất nên được các anh thương, coi như em út”.
Nghe Tám Cẩn nói, tôi nhớ chuyện Đại tá Đinh Quốc Kỳ kể: Đêm 29-4, pháo ta dội lửa xuống sân bay Tân Sơn Nhất, xe tăng ta đã vào ven Sài Gòn, lính ngụy hoang mang tột độ. Một viên trung tá thuộc sư đoàn dù ngụy đóng gần Trại Davis chạy sang xin gặp sỹ quan ta, hỏi: “Bây giờ chúng tôi phải làm gì?”. Sỹ quan ta trả lời: “Bây giờ các anh về nhà, chờ Quân Giải phóng vào thì ra trình diện, nộp vũ khí”. Viên trung tá lính dù ngụy cung cúc ra về.
Khi đứng trên đỉnh tháp nước bên lá cờ giải phóng đang phần phật tung bay, cả Phạm Văn Lãi và Nguyễn Văn Cẩn đều không biết rằng, đúng giờ phút ấy, 9h30 ngày 30-4-1975, Đại tướng Dương Văn Minh, Tổng thống ngụy quyền lên Đài Phát thanh Sài Gòn tuyên bố “sẵn sàng chuyển giao chính quyền cho đại diện của cách mạng”, ra lệnh cho quân đội Sài Gòn ở nguyên tại chỗ. 11h30, Đại đội trưởng Bùi Quang Thận cắm lá cờ giải phóng trên nóc Dinh Độc Lập. 12h trưa, bộ đội ta đưa Dương Văn Minh đến Đài Phát thanh Sài Gòn đọc lời tuyên bố đầu hàng Quân Giải phóng vô điều kiện.
Năm 1976, ông Cẩn phục viên, về Phước Tỉnh với gia đình. Ông bảo những năm đầu cực lắm, đi làm mướn độ thân riết, ai thuê gì làm nấy. May nhờ có sức vóc nên dần dà đỡ khổ. Chăm chỉ làm lụng, không cam chịu cảnh nghèo, kiên trì nuôi chí, ông tích cóp được số vốn, chuyển qua nghề biển. Quãng năm 1993, ông đóng con tàu đánh cá công suất 150CV, bốn năm sau đóng tiếp con tàu thứ hai cũng 150CV, tiền đóng tàu tính ra cả trăm lượng vàng. Mấy chục năm, hai con tàu cần mẫn ra khơi, mang theo lá cờ Tổ quốc đến các vùng biển xa, giúp ông cải thiện kinh tế gia đình, tạo việc làm cho các bạn nghề. Năm 1979, Tám Cẩn cưới vợ là bà Đinh Thị Kim Nhung, kém ông 3 tuổi. Ông tếu táo: “Tôi đi biển suốt, cả tháng chỉ ở nhà ba, bốn ngày nên lúc nào cũng thấy vợ như mới”. Hai vợ chồng có với nhau bốn mặt con nhưng chỉ còn ba đứa, một trai hai gái ở lại trên đời với cha mẹ. Cậu con trai và hai chàng rể không ai theo cha đi biển, mưu sinh cách khác, ông phải thuê người làm.
Năm 2012 là năm đáng nhớ trong đời Tám Cẩn, ông tìm lại được anh Lãi và đồng đội Trại Davis năm xưa. Cùng năm, ông khởi công đóng hai con tàu lớn, mỗi tàu công suất 500CV. Tiền vốn đóng hai con tàu hơn 6 tỷ đồng ông không phải vay ngân hàng. Ông bảo: “Hạn mức ngân hàng cho vay không nhiều, thủ tục lại không đơn giản, thôi mình ráng lo lấy, vậy cũng xong anh à”. Lễ hạ thủy hai con tàu tổ chức đúng 11h30 ngày 7-4. Không như người ta đập champagne, Tám Cẩn đập chai rượu đế Gò Công vào thành tàu lấy may.
Cả hai người chiến sỹ đã cắm lá cờ giải phóng trên đỉnh cao giữa sân bay Tân Sơn Nhất của địch sáng sớm ngày giải phóng Sài Gòn 38 năm trước đều chẳng bận tâm đến chuyện được hay không được khen thưởng cho chiến công ấy. Chiến công là của chung tập thể. Sau khi tìm được Tám Cẩn, Ban Liên lạc Trại Davis đã đề nghị Bộ Ngoại giao cấp cho ông tấm Kỷ niệm chương Thi hành Hiệp định Paris, là hình thức tặng cho tất cả cán bộ, chiến sỹ đã công tác tại hai phái đoàn đại biểu quân sự thời kỳ Trại Davis. Ngày 2-6-2012, Đại tá Đinh Quốc Kỳ mang tấm Kỷ niệm chương trao cho Tám Cẩn tại lễ mừng công tại thành phố Hồ Chí Minh.
Chuyện hai ông Phạm Văn Lãi, Nguyễn Văn Cẩn cắm lá cờ giải phóng sáng sớm ngày toàn thắng 38 năm trước, chuyện các ông tìm lại đồng đội và nghĩa tình giữa những người đã một thời sát cánh bên nhau, kiên cường, mưu trí, dũng cảm trong bom đạn giữa hang ổ quân thù là minh chứng cho nhân cách anh Bộ đội Cụ Hồ. Năm tháng qua đi, dù còn bao khó khăn với đời thường, nhưng tình người mãi mãi trong trẻo như xưa và luôn sáng tựa trăng rằm.
Nguyễn Năng Lực
Theo http://hanoimoi.com.vn
Thu Hiền (st)
bqllang.gov.vn
Bạn phải đăng nhập để bình luận.