LTS: Có lẽ ít đất nước nào, một chính Đảng cầm quyền, một quân đội hiến dâng xương máu từ nhân dân mà ra như đất nước ta. Ngày chiến thắng cũng là ngày vui chung của dân tộc: ngày không có người thất bại – Cả dân tộc đều ngẩng cao đầu thắng Pháp và Mỹ xâm lược. Máu đổ xuống làm nên chiến thắng chỉ một dòng máu đỏ – Máu của những người con đất Việt ưu tú nhất: những Đảng viên cộng sản, chiến sỹ quân đội nhân dân Việt Nam (những nông dân công nhân trí thức học sinh mặc áo lính)… Hơn hết là những người yêu nước, yêu hòa bình đâu sợ chiến chinh.
Trong niềm xúc cảm của ngày chiến thắng năm nay, bạn đọc hãy cùng ĐBND tiếp chuyện ĐBQH, PHÓ CHỦ TỊCH THƯỜNG TRỰC GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM, TSKH, HÒA THƯỢNG THÍCH CHƠN THIỆN:
PV: Thưa Hòa Thượng, năm ngoái chúng ta đã bàn về Ngày chiến thắng. Hình như đây là đề tài còn ám ảnh chúng ta mãi mãi.
Trùng trùng quân đi như sóng nơi năm cánh sao xòe trên năm cửa ô thắng thực dân Pháp.
Và, Sài Gòn ơi ta đã về đây ngày 30.4.1975 lịch sử. Trong dòng người về thành phố Hồ Chí Minh năm ấy, hòa trong sắc áo xanh là muôn màu sắc áo của dân chúng Sài Gòn. Và cờ nữa, cờ đỏ sao vàng, cờ nửa đỏ nửa xanh của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Tôi không thấy sự pha trộn màu áo màu cờ nào hòa hợp như vậy. Tôi không nghĩ tôi là một người lính đứng riêng mà là một thành viên của đất nước này, dân tộc này.
Thầy có tâm trạng công dân độc lập này không, thưa Thầy?
Hòa thượng Thích Chơn Thiện: Lịch sử Việt Nam là lịch sử chống xâm lược liên miên. Sau gần 1000 năm lệ thuộc Trung Quốc, dân ta đã đứng dậy và trụ vững từ nhà Đinh và tiền Lê; đến đầu thế kỷ thứ XI Việt Nam khởi đầu thiết lập nền độc lập, tự chủ. Hai trăm năm triều Lý đã đại thắng quân Tống và quân Chiêm (Champa). Hạ bán thế kỷ thứ XIII, Trần Nhân Tông đã hai lần đại phá quân Nguyên Mông (1285 và 1288). Đầu thế kỷ thứ XV, Lê Lợi đại thắng mấy mươi vạn quân Minh. Hạ bán thế kỷ thứ XVIII, vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) đánh tan hơn hai mươi vạn quân Thanh trong vòng hơn một tuần lễ. Cuộc chiến từ thế kỷ thứ XIX, do phương Tây xâm lược, với tàu thuyền và vũ khí hiện đại, Việt Nam đã không thể đối đầu với quân Pháp, và bị Pháp đô hộ gần 100 năm. Thời bấy giờ, các phong trào Cần vương, Đông du cứu nước, và rất nhiều cuộc kháng Pháp đều thất bại. Tình hình đổi khác từ sau chuyến tây du của Hồ Chí Minh, và từ sau ngày Hồ Chí Minh thành lập Đảng Cộng sản ngày 3.2.1930, chủ trương du kích chiến khắp ba miền đất nước. Năm 1945, sau thế chiến thứ Hai, cách mạng giành chủ quyền từ cựu hoàng Bảo Đại. Quân Pháp lại dấn thân quyết tâm tiêu diệt Cách mạng… Sau chiến thắng quân Pháp năm 1952 tại Cao – Bắc – Lạng, quân Cách mạng đã biểu hiện rõ sức mạnh quân sự tham chiến trận địa chiến. Quân Pháp thành lập căn cứ quân sự bất khả xâm phạm tại Điện Biên Phủ. Năm 1954, quân Cách mạng vây chặt Điện Biên, từng bước tiêu diệt các chốt quân sự của Pháp và đã đánh bại hoàn toàn quân Pháp. Toàn bộ tướng lãnh, sỹ quan và quân đội Pháp đầu hàng: đây là một chiến công vang dội khắp Thế giới bấy giờ, mở ra hướng giải phóng các dân tộc bị trị, Pháp đành ký hiệp định Genève (1954) trả lại hoàn toàn chủ quyền cho Việt Nam. Nhưng âm mưu của Mỹ và phương Tây vẫn cố bám trụ tại Việt Nam, đã chia đôi Nam, Bắc Việt Nam thành hai miền với hai chế độ chính trị khác biệt. Cách mạng Việt Nam lại phải tiếp bước cách mạng giải phóng miền Nam chống lại sức mạnh quân sự can thiệp của Mỹ. Cuộc chiến ở miền Nam bấy giờ rất ác liệt, quân Mỹ đi từ thất bại này đến thất bại khác. Sau khi thua trận không chiến oanh kích miền Bắc, đặc biệt là cuộc oanh kích B52 Hà Nội 12 ngày đêm, cường quốc quân sự và kinh tế số một thế giới đã phải tiếp bước quân xâm lược Pháp, nếm mùi thất bại chua xót, tức tưởi, đã phải ký Hiệp định Paris (1973) và rút tất cả quân về nước: thế giới bàng hoàng; các nước Á, Phi hết lòng ngưỡng mộ chiến thắng của Việt Nam…
Sài Gòn ơi ta đã về đây Tranh cổ động của Thúy Hằng
Chỉ có chiến thắng lẫy lừng quân Nguyên Mông mới có thể so sánh với chiến thắng Pháp, Mỹ của Cách mạng Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Cái vĩ đại của chiến thắng Pháp, Mỹ này không phải chỉ nằm ở quân sự, mà là nằm ở tài lãnh đạo của Cách mạng dưới sự soi sáng, dẫn dắt của trí tuệ Hồ Chí Minh, mà là nằm ở chỗ quân, dân nhất trí chịu vô vàn gian khó, nằm gai nếm mật trong suốt 80 năm chống Pháp và 20 năm chống Mỹ: đó là vĩ đại của dân tộc của thời đại Hồ Chí Minh. Đây là một bài học lịch sử nữa vô cùng giá trị mà nhân dân Việt Nam cần giữ làm lòng trong thời chiến cũng như thời bình (luôn luôn phải ở tư thế quốc phòng sẵn sàng tự vệ): không một người Việt Nam nào, dân hay quân, tôn giáo hay phi tôn giáo, mà có thể cảm thấy mình đứng riêng ra ngoài tập thể của Dân tộc, đất nước; đây cũng là một ý nghĩa của Xã hội Chủ nghĩa. Từ kinh nghiệm lịch sử của cận đại và hiện đại này, yêu cầu của lịch sử là Đảng Cộng Sản Việt Nam (hay Đảng cách mạng cận đại và hiện đại của Việt Nam) cần nắm giữ vai trò một Đảng duy nhất lãnh đạo đất nước, và tiếp tục lãnh đạo đất nước lâu dài, tính từ từng đơn vị một trăm năm kể từ năm 1975.
PV: Đi qua gian lao suốt 80 năm chống thực dân Pháp và 20 năm chống đế quốc Mỹ, hàng trăm cuộc khởi nghĩa và phong trào nổi dậy với nhiều màu sắc đấu tranh. Vậy nhưng, chỉ đến khi vàng vàng bay đẹp quá sao sao ơi chúng ta mới có độc lập để mà mưu cầu tự do, mưu cầu hạnh phúc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập, bản lĩnh của một chính Đảng của Hồ Chí Minh về xây dựng Chủ nghĩa Xã hội trên quê hương Hùng Vương đã thành hiện thực. Ngày chiến thắng, thưa Thầy, là của dân, của Đảng và của quân đội Nhân dân Việt Nam?
Hòa thượng Thích Chơn Thiện: Rõ ràng, ngày 10.10.1954 và ngày 30.4.1975 là hai ngày chiến thắng vẻ vang của cách mạng Việt Nam, của lịch sử Việt Nam cận đại và hiện đại. Sau ngày 30.4.1975, Việt Nam đã độc lập, tự do và hạnh phúc trên danh nghĩa, mà chưa là của thực tế xã hội. Ba mươi tám năm qua, dưới sự lãnh đạo ưu việt của Đảng, Việt Nam đang vừa hội nhập, vừa xây dựng xã hội Xã hội Chủ nghĩa: xây dựng từng bước đi CNXH, hướng về mục tiêu XHCN (dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh); đang nỗ lực để vượt qua từng khó khăn về phát triển giáo dục, văn hóa, kinh tế, xã hội; đang đòi hỏi toàn Dân, toàn Đảng, toàn Quân một nỗ lực mới, một nhận thức mới về các bước đi của mình thế nào để tương xứng với nỗ lực trong thời kỳ kháng chiến, thế nào để có những thành quả kinh tế, xã hội tương xứng với thành quả kháng chiến, thế nào để có độc lập, tự chủ thực sự, để có tự do và hạnh phúc thực sự. Thời chiến, cái nhục của nô lệ và cái khổ của bất công áp bức là động lực khơi dậy sự đoàn kết quân dân nhất trí (Dân, Đảng và Quân nhất trí), khơi dậy sự hy sinh của cá nhân và gia đình vì đại nghĩa của Dân tộc. Thời bình, động lực ấy chìm lặn nên sự hy sinh vì đại nghĩa cũng yếu dần và chìm lặn. Làm thế nào để đánh thức dậy sự hy sinh cao cả đó, khi mà người cán bộ và người dân đi vào hưởng thụ, đi vào danh vọng và lợi dưỡng, đi vào chủ nghĩa cá nhân, vị kỷ, lợi ích nhóm? Đấy là vấn đề học tập và thực hành Nghị quyết Trung ương 4 Khóa XI. Đấy là vấn đề giáo dục của cán bộ, đảng viên và nhân dân về hiểm họa của diễn biến hòa bình, về các âm mưu liên tục đánh phá từ bên ngoài, về các mưu đồ xâm lược đang ẩn khuất đâu đó, về cái nhục của một đất nước nghèo nàn, chậm tiến so với các nước trong khu vực và nhiều nước trên thế giới, và về sự chưa thực sự tự chủ của mình về kinh tế, tài chính… Chỉ khi sức mạnh của toàn Dân, toàn Đảng, toàn Quân trong thời chiến được khơi dậy một lần nữa trong thời bình thì chúng ta mới yên lòng nghĩ đến Ngày chiến thắng thực sự của thời kỳ xây dựng xã hội XHCN trên quê hương của Vua Hùng. Quân đội và nhân dân đều cần học tập kỹ lịch sử, chính trị của đất nước và cần hiểu rằng lực lượng xâm lược của thế giới chưa bao giờ dừng nghỉ, để chúng ta thức tỉnh, lập lại sự đoàn kết nhất trí và sự hy sinh vì đại nghĩa, vì sự tự chủ, độc lập, tự do, và sự hưng vượng thực sự của đất nước. Học tập và học tập mãi. Thực hiện và thực hiện mãi. Quê hương Việt Nam là thế. Không làm được điều đó, đất nước lại đi vào suy thoái… Rất nguy hiểm!
Cần hiểu thêm rằng: Nhân dân – Đảng Cộng sản Việt Nam – Quân đội nhân dân Việt Nam tuy là 3 thành tố nhưng chỉ là một. Cùng một nguồn cội tỏa sáng từ cách mạng dân tộc Việt Nam.
Minh họa của T. Hằng
PV: Thưa Hòa Thượng, ngày 10.10.1954 ở Hà Nội, ngày 30.4.1975 ở Sài Gòn là ngày chiến thắng, ngày gặt hái thành quả cách mạng. Có mùa màng là vì đã gieo hạt giống. Thầy có thể từ quan niệm của Phật giáo mà luận bàn thêm về việc gieo giống và ươm cây, thưa Thầy?
Hòa thượng Thích Chơn Thiện: Ngày chiến thắng 10.10.1954 là kết quả đấu tranh của toàn Dân, toàn Đảng và toàn Quân sau gần 25 năm, từ năm 1930 đến 1954. Ngày chiến thắng 30.4.1975 là kết quả đấu tranh sau 21 năm, từ năm 1954 đến 1975. Toàn Dân, toàn Đảng và toàn Quân đã dốc tâm kháng chiến, chịu vô vàn gian khổ. Tất cả đã vì sự nghiệp Độc lập, Tự do và Hạnh phúc của nhân dân. Đấy là một cuộc kháng chiến vĩ đại. Đấy là một chiến thắng kỳ vỹ, là một trang sử đầy bi tráng. Nhìn từ giáo lý nhà Phật: tất cả hiện hữu đều do điều kiện sinh (hay gọi là nhân duyên sinh), nhân thế nào thì quả thế ấy. Có thể nói rằng kết quả chiến thắng trên là do hội đủ các yếu tố:
Nhân cách lãnh đạo của Hồ Chí Minh là đặc biệt cao thượng; trí tuệ và tài năng của Hồ Chí Minh là phi phàm.
Đảng có khoa học tổ chức đặc thù, và bao gồm các đảng viên, cán bộ tuyệt đối trung thành, có năng lực và trí tuệ.
Toàn Dân và toàn Quân hưởng ứng lời kêu gọi kháng chiến trường kỳ của Hồ Chí Minh, một lòng tham gia kháng chiến, hy sinh quyền lợi cá nhân và gia đình vì đại cuộc.
Chính nghĩa cách mạng tỏa sáng, thuyết phục được các dân tộc trên thế giới.
Cái nhục vong quốc, nô lệ và cái khổ chịu bất công áp bức là động lực làm bung dậy sức mạnh chiến đấu.
Chiến thắng trên khó có thể lập lại một lần nữa trong lịch sử, dù biết rằng lịch sử dân tộc Việt Nam đã từng có chiến thắng tương tự.
Vì sự vật là do điều kiện sinh, nên mỗi thời đại có những điều kiện lịch sử, xã hội khác nhau, có những con người khác nhau, và có những sự cống hiến và sức mạnh khác nhau. Do vậy mà phương thức vận hành khác nhau; chiến thuật, chiến lược khác nhau, mục tiêu đấu tranh khác nhau. Trong giai đoạn xây dựng và phát triển đất nước sau chiến tranh, có ý kiến băn khoăn rằng: làm thế nào để tái hiện sức mạnh của thời kỳ kháng chiến vào hiện đại của phát triển? Hỏi tức là trả lời rồi vậy: nếu đối chiếu với thời kỳ kháng chiến, thì hiện đại có một số điểm đòi hỏi nhất thiết phải được thiết lập như:
Một lãnh tụ tiêu biểu về trí tuệ và đức hạnh;
Các cán bộ, đảng viên gương mẫu, thể hiện đúng chức năng của mình;
Vận động toàn Dân, toàn Đảng và toàn Quân thực hiện đại đoàn kết vì nền độc lập, tự chủ vì sự nghiệp xây dựng và phát triển (cũng là vấn đề sinh tử, sinh tồn);
Toàn Dân, toàn Đảng và toàn Quân sống đúng hiến pháp và pháp luật.
Đó là điều kiện “cần” được thực hiện trong bối cảnh toàn dân nỗ lực làm giàu, hưởng thụ tự do, dân chủ, trong bối cảnh hội nhập khu vực và thế giới. Điều kiện “đủ” để có nhữngngày chiến thắng trong giai đoạn xây dựng và phát triển là sự thành công rực rỡ của văn hóa, giáo dục, y tế, của kinh tế – xã hội, và của an ninh, quốc phòng; là sự thành công của sự xóa sạch nghèo đói, là sự thành công của phổ cập giáo dục đến cấp Trung học phổ thông hay Đại học; và là sự thành công của Việt Nam có vị thế đáng kể trong khu vực và trên thế giới.
Tất cả điều kiện “cần” và “đủ” tựu trung quy vào một vấn đề duy nhất: mỗi người công dân có đủ khả năng, “nhận thức” và đức hạnh. Vấn đề này lại phụ thuộc vào vai trò giáo dục của Đảng, Học đường, Gia đình và các phương tiện truyền thông. Gieo giống và ươm cây cho hiện tại và tương lai là thế: vấn đề con Người và nhận thức đúng đắn về lịch sử, xã hội của con Người.
PV: Chân thành cám ơn Hòa thượng!
Thanh Tâm thực hiện
daibieunhandan.vn
Thích bài này:
Thích Đang tải...
Bạn phải đăng nhập để bình luận.