Kỳ 1: Hành trình mở trang sử mới

Bến Nhà Rồng hiện nay trong lung linh ánh điện-Ảnh Internet

QĐND Online – Ngày 5-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành bước chân xuống con tàu A-mi-ran La-tút-sơ Trê-vin (Amiral Latouche Tréville) với mục đích tìm ra con đường cứu nước. Hành trình cách mạng của người thanh niên ấy (sau này là lãnh tụ Hồ Chí Minh) đã mở ra một trang mới cho lịch sử dân tộc Việt Nam. Nhân kỷ niệm 100 năm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước, báo QĐND Online gửi đến bạn đọc tư liệu tổng hợp về một phần hành trình của Người…

Bối cảnh lịch sử Việt Nam

Những năm cuối thế kỷ IX đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp bắt tay vào khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Xã hội Việt Nam bắt đầu có những biến chuyển và phân hóa. Sự xâm nhập của chủ nghĩa tư bản Pháp đã làm nảy sinh trong xã hội Việt Nam hai giai cấp mới: Giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.

Trước sự áp bức, đè nén của thực dân Pháp, truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam đã phát huy mạnh mẽ. Các phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta diễn ra đa dạng, sôi nổi: Phong trào có khuynh hướng dân chủ tư sản Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân, Việt Nam Quang Phục Hội; phong trào chống sưu thuế của nông dân ở Trung Kỳ; phong trào đánh Pháp như: vụ đầu độc binh lính Pháp ở Hà Nội, cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Yên Thế… Thực dân Pháp đã tìm mọi cách để dập tắt các phong trào yêu nước đó và sau khi dập tắt phong trào , thực dân Pháp bắt tay vào cuộc khai thác thực địa để làm giàu cho chính quốc.

Sở dĩ các phong trào yêu nước chống Pháp trên đều thất bại có nguyên nhân sâu xa là do thiếu đường lối chính trị đúng đắn, khoa học, thiếu sự lãnh đạo của một giai cấp tiên tiến. Giai cấp phong kiến, có vai trò tiến bộ nhất định trong lịch sử đã trở thành giai cấp phản động, bán nước, tay sai cho đế quốc. Giai cấp tư sản mới ra đời, còn non yếu với lực lượng kinh tế phụ thuộc và khuynh hướng chính trị cải lương, không có khả năng lãnh đạo cuộc đấu tranh chống đế quốc và phong kiến để giành độc lập tự do.

Trong bối cảnh đó, xuất hiện một con người – người mà sau này trở thành lãnh tụ của cách mạng Việt Nam. Đó là Nguyễn Sinh Cung – Nguyễn Tất Thành.

Nguyễn Tất Thành sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống hiếu học, ở một địa phương có truyền thống yêu nước nồng nàn. Từ lúc tuổi còn nhỏ, Người sớm được tiếp cận với các tư tưởng lớn của phương Đông, hấp thụ vốn văn hóa truyền thống của dân tộc cũng như vốn kiến thức Hán học và bước đầu tiếp xúc với văn hóa phương Tây. Chứng kiến cảnh khổ cực của người dân mất nước, tinh thần đấu tranh bất khuất của cha anh, Người càng tỏ rõ tinh thần yêu nước, thương dân sâu sắc và hun đúc những hoài bão lớn lao. Nguyễn Tất Thành rất khâm phục tinh thần yêu nước của các văn thân, chí sĩ xả thân vì nước, nhưng Người không tán thành đường lối cứu nước của các bậc tiền bối. Tư tưởng yêu nước của Nguyễn Tất Thành tuy lúc đó chưa gặp chủ nghĩa xã hội, nhưng đã thể hiện tầm vóc vượt trước quan điểm cứu nước đương thời. Người cho rằng, chủ trương của cụ Phan Chu Trinh yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương chẳng khác gì “đến xin giặc rủ lòng thương”; chủ trương của cụ Phan Bội Châu nhờ Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp chẳng khác nào “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, chủ trương của cụ Hoàng Hoa Thám tuy thực tế hơn, nhưng không có hướng thoát rõ ràng, “còn mang nặng cốt cách phong kiến”.

Thất bại của các cụ Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh… nói lên một sự thật lịch sử là: Không thể cứu nước trên lập trường phong kiến hay lập trường của giai cấp tư sản, tiểu tư sản. Các đường lối và phương pháp này đều không đáp ứng được yêu cầu giải phóng dân tộc trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc đã trở thành hệ thống thế giới. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam đang đòi hỏi được đổi mới, đó là một nhu cầu cấp thiết của dân tộc lúc bấy giờ.

Mô hình lớp học ở Trường Dục Thanh (Phan Thiết), nơi Thầy giáo Nguyễn Tất Thành dạy học trước lúc ra đi tìm đường cứu nước. (Ảnh Intrenet)

Vốn có tư chất thông minh, tinh thần ham học hỏi, khả năng tư duy độc lập, tính ham hiểu biết và nhạy bén với cái mới, Người bị lôi cuốn bởi khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái” và thôi thúc bởi ý định tìm hiểu “cái gì ẩn dấu sau” những mỹ từ đẹp đẽ đó ở chính nước sinh ra khẩu hiệu đó. Những tư tưởng tiến bộ của cuộc cách mạng ở Pháp năm 1789, thành tựu văn minh, tiến bộ của nhân loại ở Pháp và các nước châu Âu khác, đã thúc đẩy Người muốn đến tận nơi tìm hiểu. Đó chính là những lý do Nguyễn Tất Thành quyết định chọn nước Pháp, chọn châu Âu làm điểm đến đầu tiên trong cuộc hành trình đi tìm đường cứu nước năm 1911.

Tình hình chính trị thế giới

Vào nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã từ giai đoạn tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc và đã xác lập được sự thống trị trên phạm vi thế giới. Phần lớn các nước châu Á, châu Phi, châu Mỹ La-tinh đã trở thành thuộc địa và phụ thuộc của chúng. Chủ nghĩa đế quốc vừa tranh giành xâu xé, vừa vào hùa với nhau để nô dịch các dân tộc nhỏ bé. Cùng với những mâu thuẫn cơ bản trong xã hội tư bản – mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và tư sản, chủ nghĩa đế quốc làm phát sinh mâu thuẫn mới – mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc thực dân. Đời sống nhân dân ở các nước thuộc địa và phụ thuộc vô cùng cực khổ, trong đó có nhân dân Việt Nam dưới xiềng xích của chế độ thực dân Pháp. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc bắt đầu phát triển và có xu hướng lan rộng.

Ở Trung Quốc, lúc ấy đất nước rộng lớn này bị các nước tư bản phương Tây xâu xé và cũng đang tìm lối ra nhưng đến giữa năm 1911, nhìn chung vẫn chưa có lối thoát mà phải đợi đến tháng 10-1911, dưới sự lãnh đạo của Tôn Dật Tiên, Trung Quốc mới tìm thấy hướng đi thông qua cuộc cách mạng Tân Hợi.

Ở Ấn Độ, đất nước bị thực dân Anh đô hộ, những nhà ái quốc Ấn Độ cũng đang tìm hướng đi cho dân tộc mình và Đảng Quốc Đại đã bước lên vũ đài chính trị.

Ở In-đô-nê-xi-a (bị thực dân Hà Lan đô hộ), nhiều tổ chức yêu nước của trí thức tư sản tiến bộ ra đời, thu hút đông đảo nhân dân tham gia.Từ 1905, nhiều tổ chức công nhân được thành lập và bước đầu truyền bá chủ nghĩa Mác.

Đất nước Lào, đầu thế kỷ XX, nhân dân các bộ tộc Lào đã nhiều lần nổi dậy chống thực dân Pháp…

Như vậy, bối cảnh trong khu vực, thế giới có những thay đổi, đòi hỏi mỗi quốc gia, dân tộc phải có những bước chuẩn bị tiền đề cho sự đi lên của mình. Và ngày 5-6-1911, với tên gọi Văn Ba, từ bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn cũ), trên con tàu A-mi-ran La-tút-sơ Trê-vin (Amiral Latouche Tréville), Nguyễn Tất Thành trong vai người phụ bếp đã bắt đầu con đường sứ mệnh lịch sử đối với dân tộc Việt Nam.

Theo Quân đội nhân dân
Thu Hiền (st)

bqllang.gov.vn

Advertisement