Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam

Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi sự lãnh đạo đúng đắn của một đảng chân chính của giai cấp công nhân Việt Nam. Trước tình hình đó, sau một thời gian ở lại Liên Xô để nghiên cứu chế độ Xô Viết và kinh nghiệm xây dựng đảng theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã về gần Việt Nam để xúc tiến việc chuẩn bị thành lập Đảng. Ngày 11/11/1924, Người đến Quảng Châu (Trung Quốc).

Về mặt công khai, Người lấy tên là Lý Thụy, làm cán bộ phiên dịch cho phái đoàn cố vấn của Chính phủ Liên Xô đến giúp Chính phủ Quốc dân đảng Trung Quốc. Việc đầu tiên của Người là bắt mối liên lạc với Tâm tâm xã và tổ chức yêu nước của cụ Phan Bội Châu đang hoạt động ở Quảng Châu.

Lúc này cụ Phan bội Châu đã cải tổ Việt Nam quang phục Hội thành Việt Nam quốc dân đảng. Nguyễn Ái Quốc viết thư góp ý kiến với cụ Phan Bội Châu về đường lối và phương pháp cách mạng. Cụ Phan tiếp thu những ý kiến đó, nhưng chưa kịp sửa chữa sai lầm của mình thì cụ đã bị đế quốc Pháp bắt đưa về nước (1925).

Đồng chí Nguyễn Ái Quốc chọn số thanh niên yêu nước trong các tổ chức cách mạng ở trong nước ra, mở Trường huấn luyện chính trị để đào tạo họ trở thành những cán bộ cách mạng và đưa họ trở về nước hoạt động trong giai cấp công nhân và nhân dân. Trường mở được 10 khóa, mỗi khóa từ một tháng rưỡi đến ba tháng, tổng số học viên có khoảng 200 người. Đó là đội ngũ cán bộ nòng cốt đầu tiên cho cách mạng Việt Nam, với những người tiêu biểu như: Trần Phú, Lê Hồng Phong, Ngô Gia Tự…

Nguyễn Ái Quốc là người phụ trách trường, vừa là giảng viên chính, có khi kiêm cả cán bộ phiên dịch. Ngoài học tập lý luận và chính trị, các học viên còn được học thêm vǎn hóa và ngoại ngữ. Người còn lựa chọn một số cán bộ gửi sang Matxcơva học tập lý luận ở Trường đại học Phương Đông và một số khác vào học Trường quân sự Hoàng Phố có cố vấn Liên Xô giảng dạy ở Quảng Châu.

Trên cơ sở giác ngộ về tinh thần yêu nước, các học viên nhận rõ đường lối và phương pháp đúng đắn của cách mạng Việt Nam và có xu hướng cộng sản chủ nghĩa. Họ lần lượt được cử về nước xây dựng cơ sở, tuyên truyền, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh cách mạng.

Để làm tài liệu giảng dạy tại Trường huấn luyện chính trị, đầu nǎm 1925, Nguyễn Ái Quốc biên soạn tập đề cương bài giảng mà đầu nǎm 1927 được xuất bản thành cuốn sách “Đường kách mệnh”. Trong đó, Người nêu lên tư tưởng cách mạng triệt để, chỉ rõ rằng: muốn sống thì phải làm cách mạng. Làm cách mạng phải có quyết tâm, hy sinh, bền gan, đoàn kết nhau lại. Muốn được như vậy thì trước hết mọi người phải hiểu rõ vì sao phải làm cách mạng. Trong cuốn Đường cách mệnh Người nói về tư cách người cách mạng, tức là đạo đức cách mạng: tự mình phải cần kiệm, chí công vô tư, quả quyết sửa lỗi mình, không hiếu danh, không kiêu ngạo ; nói thì phải làm, phải giữ chủ nghĩa cho vững, hy sinh, ít lòng ham muốn về vật chất… Người coi việc giác ngộ cách mạng và giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ là một trong những yêu cầu hàng đầu để chuẩn bị về tư tưởng và chính trị, tiến tới xây dựng một đảng chân chính của giai cấp công nhân Việt Nam.
Muốn làm cách mạng thành công, người cán bộ còn phải hiểu lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, có đường lối và phương pháp cách mạng đúng.

Nhân dân Việt Nam đã nhiều lần nổi dậy đấu tranh anh dũng chống đế quốc Pháp, nhưng đều bị thất bại, vì chưa có lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, chưa có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, không hiểu tình hình thế giới, không biết so sánh lực lượng ta và lực lượng địch, không có “mưu chước” không hiểu “sách lược”, không biết nắm thời cơ, “chưa nên làm đã làm, khi nên làm lại không làm”. Vì vậy, những người cách mạng phải giảng giải cho nhân dân hiểu lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tình hình và kinh nghiệm cách mạng thế giới.

Nắm vững tính chất và đặc điểm xã hội Việt Nam, đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, thấm nhuần học thuyết của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, vận dụng một cách sáng tạo kinh nghiệm Cách mạng tháng Mười Nga vào điều kiện cụ thể của nước ta, Người đề ra đường lối cách mạng Việt Nam là phải đi từ giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội không qua giại đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Người đề ra cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới (nay gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân).

Nhiệm vụ trước mắt của Cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc, đánh đổ đế quốc Pháp và phong kiến tay sai. Người nhấn mạnh: công nhân và nông dân là lực lượng chủ yếu của cách mạng vì công nông bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất và họ là lực lượng đông nhất.

Người chỉ rõ cách mạng là việc chung của quần chúng nhân dân. Vì đế quốc Pháp dùng chính sách chia rẽ người Việt Nam thành người Trung, Nam, Bắc; lấy tôn giáo và vǎn hóa nô dịch để mê hoặc nhân dân; lấy sức mạnh để đàn áp nhân dân, cho nên muốn làm cách mạng, trước hết chúng ta phải giác ngộ, tổ chức, đoàn kết và lãnh đạo các tầng lớp nhân dân đấu tranh. Những người cách mạng phải tổ chức các hội quần chúng như công hội, nông hội, phụ nữ, thanh niên.

Người còn nêu rõ cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, theo đường lối của Quốc tế cộng sản, quan hệ mật thiết với cách mạng Pháp và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa khác.

Về kinh nghiệm cách mạng thế giới, Người nhận định cách mạng Pháp và cách mạng Mỹ là những cuộc cách mạng tư sản không triệt để. Chỉ có Cách mạng tháng Mười Nga là cuộc cách mạng triệt để nhất, vì nó đem lại tự do, bình đẳng, hạnh phúc cho nhân dân lao động và còn giúp đỡ cho các dân tộc bị áp bức làm cách mạng để tự giải phóng.

Muốn tổ chức và đoàn kết được các lực lượng cách mạng, muốn có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, trước hết phải có đảng cách mạng, để trong thì vận động và tổ chức nhân dân, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản các nước, Đảng có vững, cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững, thuyền mời chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa Mác – Lênin làm cốt. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có kim chỉ nam. “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin”.

Cuốn Đường kách mệnh chẳng những có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn trong thời kỳ đã qua, mà còn soi sáng con đường cho nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn trong giai đoạn mới.

Để làm cơ sở cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, tháng 6 nǎm 1925, tại Quảng Châu, Người đã sáng lập “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội”, một tổ chức tiền thân của Đảng. Tôn chỉ và mục đích của Hội được thể hiện trong cuốn Đường cách mệnh.
“Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội” là một tổ chức rất chặt chẽ, gần như một đảng cộng sản, theo nguyên tắc tập trung dân chủ, dùng tự phê bình và phê bình để xây dựng hội.

Dưới sự lãnh đạo của “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội”, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân ta đã kết hợp chặt chẽ với nhau, tạo thành một làn sóng dân tộc và dân chủ mạnh mẽ khắp cả nước. Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội là tổ chức cách mạng đầu tiên ở nước ta có xu hướng chủ nghĩa cộng sản, đi vào quần chúng vận động công nhân và nông dân theo quan điểm, tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Để tuyên truyền tôn chỉ và mục đích của Hội, Nguyễn Ái Quốc đã xuất bản tuần báo Thanh niên. Báo này vạch trần những tội ác dã man của đế quốc Pháp, khơi sâu lòng cǎm thù đối với chúng; đồng thời giải thích rõ đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam là đánh đổ đế quốc Pháp và bọn vua quan phong kiến tay sai, giành độc lập và tự do, tiến lên cách mạng vô sản, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam.

Từ cuối nǎm 1924 đến đầu nǎm 1930, đồng chí Nguyễn Ái Quốc vừa đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam, xúc tiến việc chuẩn bị và thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, vừa góp phần rất quan trọng vào việc đào tạo cán bộ và xây dựng phong trào cách mạng ở một số nước châu Á.

Dưới sự chỉ đạo của Ban phương Đông trực thuộc Ban chấp hành Quốc tế cộng sản, Người đã truyền bá chủ nghĩa cộng sản vào châu Á nói chung và Đông Dương nói riêng.

Tháng 4 nǎm 1927, sau vụ phản biến của bọn Tưởng Giới Thạch ở Quảng Châu, Người đi Hồng Kông, Thượng Hải, rồi rời Trung Quốc đi Liên Xô. Người làm việc ở Quốc tế cộng sản góp phần tổng kết kinh nghiệm của phong trào cách mạng châu Á.

Được sự giúp đỡ của Ban chấp hành Quốc tế cộng sản, cuối nǎm 1927, Người bí mật trở lại nước Pháp để gặp gỡ và trao đổi ý kiến với ban lãnh đạo Đảng cộng sản Pháp về tình hình hoạt động của Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng. Sau đó, người trở lại Đức và đi dự Hội nghị Quốc tế chống chiến tranh đế quốc họp ở thủ đô nước Bỉ.

Mùa hè nǎm 1928, Người bí mật rời khỏi Đức đi Thụy Sĩ, Italia rồi từ đó đáp tàu biển đi Thái Lan vào mùa thu nǎm 1928. Thời gian này Người chú trọng giáo dục Việt kiều tinh thần đoàn kết và yêu nước.

Trong những nǎm 1928 – 1929, phong trào cách mạng ở nước ta dâng lên mạnh mẽ. Thực hiện chủ trương “vô sản hóa”, một số cán bộ của “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội” đã vào nhà máy, hầm mỏ, đồn điền để tuyên truyền và tổ chức công nhân. Phong trào công nhân dần dần đã vượt qua giai đoạn tự phát, cục bộ, lẻ tẻ tiến đến giai đoạn tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo, có sự phối hợp giữa các ngành và các địa phương. Từ cuối nǎm 1929, phong trào công nhân Việt Nam đã có tính chất độc lập rõ rệt, trở thành lực lượng nòng cốt của phong trào giải phóng dân tộc ở nước ta.

Phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân ta đang đòi hỏi sự lãnh đạo của một đảng của giai cấp công nhân. Những điều kiện để thành lập một đảng như thế đã chín muồi. Nhưng khi vấn đề ấy được đặt ra, thì trong nội bộ “Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội”, nhất là ở cơ quan lãnh đạo của nó không nhất trí. Đó là cuộc đấu tranh giữa quan điểm vô sản và quan điểm tiểu tư sản trong “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội” để thành lập đảng kiểu mới của giai cấp công nhân Việt Nam. Cuộc đấu tranh ấy đã dẫn đến thắng lợi của tư tưởng vô sản và sự ra đời của “Đông Dương cộng sản đảng” và “An Nam cộng sản đảng”. Trong tình hình ấy Tân Việt cách mạng Đảng cũng không thể duy trì tổ chức cũ, cho nên đã được cải tổ thành “Đông Dương cộng sản liên đoàn”.

Trong vòng nửa nǎm, ba tổ chức cộng sản đã liên tiếp ra đời. Nhưng lợi ích của cách mạng, và nguyên tắc tổ chức của chính đảng Mác – Lênin không cho phép trong một nước mà có ba tổ chức cộng sản. Như thế chỉ làm yếu sự thống nhất về tư tưởng, chính trị, tổ chức, làm giảm sức mạnh của phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Thành lập một đảng cộng sản duy nhất ở Việt Nam là yêu cầu bức thiết của phong trào công nhân và phong trào yêu nước lúc bấy giờ.

Lịch sử đòi hỏi phải có một lãnh tụ có đầy đủ uy tín và nǎng lực để thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc là người đã đáp ứng yêu cầu đó.

Vào cuối mùa thu nǎm 1929, đang hoạt động ở Thái Lan, được nghe báo cáo về tình hình mâu thuẫn giữa các tổ chức cộng sản ở Việt Nam, được sự ủy nhiệm của Quốc tế cộng sản, Người đã trở lại Hồng Kông, triệu tập Hội nghị đại biểu các tổ chức cộng sản để thống nhất tổ chức, thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.

Dưới sự chủ tọa của Người, Hội nghị đã họp từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 2 nǎm 1930, trong cǎn phòng nhỏ của một người công nhân ở Cửu Long, gần Hồng Kông. Sau nǎm ngày làm việc khẩn trương trong hoàn cảnh bí mật, Hội nghị đã quyết định thống nhất các tổ chức cộng sản, thành lập một đảng cộng sản chân chính duy nhất ở Việt Nam lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.

Hội nghị đã thông qua các vǎn kiện: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt của Đảng và của một số tổ chức quần chúng và Lời kêu gọi… do Nguyễn Ái Quốc thảo ra.

Điều lệ tóm tắt của Đảng đã nêu rõ mục đích của Đảng: “Đảng cộng sản
Việt Nam tổ chức ra để lãnh đạo cho quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu, để tiêu diệt tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”.

Hội nghị cũng đã thảo luận về phương pháp và kế hoạch thống nhất các tổ chức cộng sản ở trong nước…

Sau này, đánh giá việc thành lập Đảng, Người đã viết:

“Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản nước ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”.

BTS -(Trích Chủ tịch Hồ Chí Minh tiểu sử và sự nghiệp, NXB Sự thật, 1987)

cpv.org.vn