Tag Archive | Xây dựng Đảng

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao trình độ của cán bộ, đảng viên

Mục đích học tập

Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc học tập nâng cao trình độ của cán bộ, đảng viên. Người đã chỉ rõ mục đích của việc học tập và những biện pháp cơ bản để đạt mục đích đó: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, “giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”. Muốn đạt mục đích, thì phải cần, kiệm, liêm chính, chí công, vô tư”. Từ nhận thức đúng đắn mục đích của việc học tập mà cán bộ, đảng viên phấn đấu không ngừng trong học tập rèn luyện để hoàn thành nhiệm vụ được Đảng và nhân dân giao cho.

Nội dung học tập

Hồ Chí Minh cho rằng học tập của cán bộ, đảng viên phải xuất phát từ yêu cầu thực tế thiết thực, không phô trương, hình thức. Phải học cặn kẽ, thấu đáo, cụ thể và sâu sắc đến tận bản chất vấn đề. Theo Bác, mỗi người phải biết một nghề, làm việc gì học việc ấy và làm nghề gì phải thạo nghề ấy. Nếu là cán bộ lãnh đạo, thì lãnh đạo ngành nào phải biết chuyên môn về ngành ấy. Mọi cán bộ, đảng viên đều phải nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối, chính sách của Đảng, văn hoá, kỹ thuật, lao động sản xuất… Những nội dung đó là hết sức cơ bản và gắn bó chặt chẽ với nhau. Trong đó, Người nhấn mạnh học tập chủ nghĩa Mác – Lênin nhằm trang bị cho mỗi người thế giới quan, phương pháp luận cách mạng và khoa học để nhận thức và hành động đúng đắn, kiên quyết, sáng tạo và hiệu quả.

Theo Hồ Chí Minh, nội dung học tập phải toàn diện, “ra sức học tập nâng cao trình độ chính trị, văn hoá, khoa học, kỹ thuật và quân sự để cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc, cho nhân dân”(2). Người cán bộ cách mạng phải được đào tạo rèn luyện về phẩm chất và năng lực để hoàn thiện nhân cách trong tình hình mới. Người xác định nội dung học tập gắn với thực hiện nhiệm vụ mà mỗi cán bộ, đảng viên đảm nhiệm. Đối với cán bộ quân đội, Người đặt ra yêu cầu phải tích cực học tập nâng cao trình độ chính trị, quân sự, lòng trung thành với Đảng với Tổ quốc, nhân dân… Theo Bác, quân đội ta trước hết phải là đội quân tuyên truyền vận động nhân dân làm cách mạng, do vậy, mỗi quân nhân phải thấm nhuần chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối, chính sách của Đảng, vận động nhân dân để nhân dân tin theo Đảng, thực hiện sự nghiệp cách mạng vẻ vang.

Học tập suốt đời, lấy tự học làm cốt

Theo Bác, mỗi cán bộ, đảng viên có vị trí nhất định trong bộ máy nhà nước, do đó phải không ngừng học tập để nâng cao trình độ hiểu biết mọi mặt, có tư duy độc lập và sáng tạo, cải tiến phương pháp làm việc, nâng cao chất lượng công tác. Theo Người, vấn đề học tập là “suốt đời” chứ không phải chỉ là lớp học, khoá học hoặc mang tính “thời vụ”, rồi sau đó lại “đâu vào đấy”. Người chống thói qua loa đại khái, lười học, lười suy nghĩ dẫn đến tình trạng khi giải quyết công việc thì “được chăng hay chớ”, “gặp đâu làm đấy”, chất lượng công việc thấp, không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Người chỉ rõ: “Cán bộ và đảng viên ta, vì bận việc hành chính hoặc quân sự, mà xao nhãng việc học tập. Đó là một khuyết điểm rất to. Khác nào người thày thuốc chỉ đi chữa người khác, mà bệnh nặng trong mình thì quên chữa”(3). Do đó, Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải “ham học tập để nâng cao trình độ của mình”(4)vàcoi đây là một tiêu chuẩn, một giá trị đạo đức của người cán bộ, đảng viên.Từ đó,Người vạch rõ phương hướng, nhiệm vụ đối với cán bộ, đảng viên là không được nhãng việc học tập, phải tu dưỡng không ngừng, đối với người cán bộ “chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ”(5). Người đặt lên hàng đầu “lấy tự học làm cốt”(6), cán bộ, đảng viên phải biết “tự động học tập”, phải xác định tư tưởng cho đúng. Học tập phải trở thành nhu cầu, thói quen, hành vi hàng ngày của cán bộ, đảng viên. Cán bộ nào lười học, lười suy nghĩ, không thường xuyên tiếp nhận, cập nhật thông tin mới, những hiểu biết mới cũng là một biểu hiện suy thoái về đạo đức.

Học tập mọi lúc, mọi nơi

Cán bộ, đảng viên phải tận dụng thời gian, dành công sức, tranh thủ học tập, học ở trường, lớp, sách vở và học ở nhân dân. Bác nhấn mạnh: nhân dân ta rất cần cù và sáng tạo, những giá trị văn hoá, tinh thần do nhân dân sáng tạo là nguồn tri thức, là những kinh nghiệm rất phong phú, là “những bài học quý”, do đó, cán bộ, đảng viên phải chịu khó học hỏi ở nhân dân “Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân, không học nhân dân là một thiếu sót rất lớn”(7).Và chính thông qua học tập,tiếp xúc với nhân dân mà cán bộ, đảng viên có điều kiện gần gũi, nắm được tâm tư nguyện vọng của nhân dân, từ đó tổng kết được tình hình, nguyện vọng của dân. Từ đó, tham mưu, đề xuất tiếp tục bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, tạo niềm tin, đồng thuận của dân và toàn xã hội tiến hành sự nghiệp cách mạng. Người kiên quyết chống thói quan liêu, xa dân, không chịu học hỏi nhân dân, coi khinh dân và coi đây là những quan niệm, hành vi đối lập với phẩm chất của người cán bộ cách mạng cần phải được lên án, xử lý.

Gắn học tập và làm việc

Tư tưởng của Người về học tập nâng cao trình độ của cán bộ, đảng viên là phải thiết thực, bổ ích, hiệu quả, sát với với công việc của mỗi người; nếu không đạt được như vậy là “phí công, phí của, vô ích”. Bác nhấn mạnh “học để vận dụng chứ không phải học lý luận vì lý luận(8). Tri thức, lý luận của cán bộ, đảng viên tích lũy được trong học tập phải nhằm giải quyết nhiệm vụ thực tiễn, làm cho hoạt động thực tiễn ngày càng đạt hiệu quả và chính thông qua hoạt động thực tiễn để sáng tạo, khái quát, tổng kết kinh nghiệm, phát hiện, bổ sung hoàn thiện đường lối cách mạng của Đảng. Hồ Chí Minh nhấn mạnh, trong học tập người học phải sáng tạo, biết kế thừa tinh hoa tri thức của dân tộc và nhân loại. Phương pháp học tập là kết hợp chặt chẽ giữa học với hành, lý luận gắn liền với thực tế, tích luỹ tri thức với rèn luyện đạo đức cách mạng. Đối với nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin là học tập “phương pháp biện chứng” chứ không rập khuôn, máy móc. Người còn cho rằng trong học tập của cán bộ, đảng viên là khó khăn, lâu dài nhưng nếu có quyết tâm cao, phương pháp học tập tốt thì mọi việc đều có thể làm được “Không có việc gì khó. Chỉ e ta không siêng… siêng học tập thì mau biết”(9).

Thấm nhuần tư tưởng của Hồ Chí Minh, Đảng ta khẳng định “học tập là công việc suốt đời của cán bộ, đảng viên”. Mọi cán bộ, đảng viên phải có kế hoạch thường xuyên để học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn. Học tập vừa là quyền lợi vừa là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi cán bộ, đảng viên và phải được quy định thành nền nếp, chế độ. Thực tiễn cho thấy còn không ít cán bộ, đảng viên còn “học vì bằng cấp”, “cốt để tiêu chuẩn hoá chức danh”… Những biểu hiện đó là trái với tư tưởng của Bác về mục đích học tập cần được phê bình, sửa chữa, để mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng thực sự là tấm gương về học tập cho quần chúng noi theo, góp phần đưa cả nước trở thành một “xã hội học tập”, phấn đấu vì Việt Nam giàu đẹp, văn minh, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

1 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, H.2000, tr. 684.
2 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 11, Nxb CTQG, H.2000, tr. 505.
3 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, H.2000, tr. 231.
4 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, H.2000, tr. 251.
5 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, H.2000, tr. 252.
6 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, H.2000, tr. 273.
7 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 6, Nxb CTQG, H.2000, tr. 50.
8 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 8, Nxb CTQG, H.2000, tr. 497.
9 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, H.2000, tr. 632.

Theo Tạp chí Xây dựng Đảng
Tâm Trang (st)
bqllang.gov.vn

Suy ngẫm về “Công bộc của dân”

Trong thư gửi “Uỷ ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng” được đăng trên báo Cứu quốc số ra ngày 17/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc đó có nhiệm vụ điều hành bộ máy nhà nước vừa bắt đầu vào nền cộng hoà non trẻ và nặng tàn dư phong kiến nên đã dùng khái niệm công bộc để hướng dẫn cán bộ công chức phục vụ nhân dân. Ta hiểu “công bộc” là gì? Theo từ điển Hán-Việt, công có nghĩa là của chung, bộc có nghĩa đầy tớ, cụm từ “công bộc của dân” có nghĩa là “người đầy tớ chung của dân” hay người đầy tớ công vụ.

Xưa có truyện Liễu Tôn Nguyên thời nhà Đường mời rượu tiễn bạn là Tiết Tồn Nghĩa sắp đi làm quan khuyên rằng: “Phàm ra làm quan ở hạt nào, phải biết chức phận của mình là người làm việc cho dân, chớ không phải khiến dân làm việc cho mình. Dân ở trong hạt đã chịu nộp thuế để lấy tiền thuê quan giữ sự công bình cho dân. Mà nay ngán thay, thiên hạ ra làm quan, tiền thuế của dân thì biết lấy cả, còn công việc của dân thì trễ biếng, thường khi lại dụng làm ăn trộm của dân nữa…Nên kẻ làm quan, nếu còn biết công lý thì ai mà không chịu giữ gìn cố làm thế nào cho đáng đồng tiền thuê của dân?”.

Nay, nhìn lại lịch sử những năm tháng gian khổ trong hai cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc, biết bao tâm gương cán bộ, đảng viên đã quên mình vì nước vì dân, để lại tiếng thơm mãi cho đời sau. Đó thật sự là những con người từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ. Và cũng chính vì vậy họ được nhân dân đùm bọc, tin yêu che chở và giúp đỡ vượt qua bao gian lao thử thách đến ngày đất nước thống nhất, độc lập tự do. So với những năm tháng khó khăn gian khổ của chiến tranh và những năm đầu sau khi đất nước thống nhất, thời mở cửa và hội nhập, đội ngũ cán bộ công quyền có cuộc sống đầy đủ hơn, có nhiều điều kiện, lợi thế để học tập mở mang kiến thức hơn thế hệ cha anh. Nhưng bên cạnh đó, cũng thường xuyên tiếp xúc với những cám dỗ vật chất mà bất cứ lúc nào, nơi nào cũng dễ bắt gặp.

Phải suy nghĩ, khi hiện nay, trên các trang báo hay ngoài xã hội, người dân lúc nói chuyện với nhau, mỗi khi nhắc đến cán bộ nhà nước, nhất là lãnh đạo ở cấp quận, huyện, xã, phường…thường dùng những từ xa lạ chỉ có trong thời phong kiến hay chế độ cũ như “quan huyện” rồi “lý trưởng”, hay nhẹ nhàng hơn mà khá phổ biến là “quan chức nhà nước”…

HCM1.jpgChủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Đảng (2-1951).
Ảnh tư liệu TTXVN

Đau lòng, khi có những cán bộ đã không giữ được lập trường, không thắng được sự cám dỗ của vật chất tầm thường, để rồi làm trái với luật pháp, làm mất lòng tin của nhân dân. Có việc cán bộ ăn chặn tiền của dân, kể cả những đồng tiền cứu trợ bão lụt, tiền hỗ trợ tết cho người nghèo hay những vụ chia đất công hưởng lợi ở tỉnh này tỉnh kia… làm đau lòng những cán bộ, đảng viên chân chính.

Không thể vui khi có chuyện những “công bộc” lại đi hách dịch, vòi vĩnh, nhũng nhiễu, hành dân hơn là phục vụ nhân dân. Nơi tiếp đón công dân ở một vài cơ quan nhà nước vẫn được ghi là “Phòng tiếp dân” đã làm mất đi sự trịnh trọng và phần nào quyền của những người công dân khi đến liên hệ công việc.

Thấm thía, lời dạy của Bác luôn nhắc nhở những người làm trong các cơ quan công quyền luôn phải tự nhìn nhận lại bản thân để xem đã làm những việc có lợi cho dân hay chưa, đã xứng đáng với vai trò, vị trí “công bộc” của dân hay chưa. Lời dạy của Bác đến nay và mãi về sau vẫn luôn mang tính thời sự. Thật vậy, yếu tố con người đóng vai trò, bộ phận cực kỳ quan trọng trong cơ thể bộ máy nhà nước. Những hành vi sai phạm, biến chất, thoái hoá của cán bộ trong các cơ quan công quyền sẽ khó làm cho dân tin, dân phục, vô hình trung làm ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân với nhà nước, với chế độ. Một chính quyền “ của dân, do dân và vì dân” không thể chấp nhận việc tồn tại những “công bộc” vi phạm kỷ cương phép nước, bản thân biết sai mà vẫn làm, như vậy là có tội, là hại dân. Xử lý nghiêm, không nương nhẹ, không châm chước đối với những cán bộ này mới làm yên dân.

Luật pháp đã có (cán bộ, công chức không dám tham nhũng, làm trái)

Hoàn thiện khung pháp lý để điều chỉnh đối tượng là cán bộ, công chức là hết sức quan trọng. Pháp lệnh cán bộ, công chức 1998 quy định về cán bộ, công chức Điều 2 có nêu rõ: Cán bộ, công chức là công bộc của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, phải không ngừng rèn luyện phẩm chất đạo đức, học tập nâng cao trình độ và năng lực công tác để thực hiện tốt nhiệm vụ, công việc được giao.

Luật cán bộ, công chức số 22/2008/QH12 được Quốc hội thông qua ngày 13/11/2008, gồm 10 chương, 87 điều quy định về cán bộ, công chức; bầu cử, tuyển dụng, sử dụng, quản lý cán bộ, công chức, nghĩa vụ, quyền của cán bộ, công chức và điều kiện đảm bảo thi hành công vụ. Trong đó mục 2 Điều 8 có ghi: Tôn trọng nhân dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân.

Cải cách thủ tục hành chính tiến tới một nền hành chính chuyên nghiệp ( cán bộ, công chức không thể tham nhũng, làm trái)

Thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo phải nhanh chóng xây dựng cho được một chương trình cải cách hành chính có tính chiến lược, dài hạn của chính phủ qua việc ban hành quyết định số 136/2001/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010. Khẳng định mục tiêu xây dựng nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá. Một loạt chủ trương, giải pháp quan trọng được đưa ra như điều chỉnh chức năng và cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ, nguyên tắc bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; tách quản lý nhà nước với hoạt động sản xuất kinh doanh, tách cơ quan quản lý công quyền với tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công; cải cách thủ tục hành chính. Trong đó một giải pháp hết sức quan trọng đó là xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực, thiết lập kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng… Cải cách hành chính là vấn đề quan trọng trong việc củng cố, hoàn thiện bộ máy công quyền, có quan hệ trực tiếp đến lợi ích của nhân dân. Đến nay, sự chuyển biến tích cực đã có ở nhiều sở, ban, ngành và nhiều cán bộ, công chức. Tuy nhiên, trên thực tế, tỉnh thoảng vẫn còn xảy ra tình trạng “hành là chính” tại các cơ quan công quyền. Điều đó có nhiều nguyên nhân, trong đó thái độ, tinh thần trách nhiệm của cán bộ, công chức chiếm một phần không nhỏ. Đặt ra yêu cầu với mỗi cán bộ, công chức cần được giao chức trách, nhiệm vụ rõ ràng, cụ thể, thường xuyên phải kiểm tra, giám sát để kịp thời phát hiện và xử lý những sai phạm, thiếu sót của họ. Cải cách hành chính cần kết hợp với việc giáo dục đạo đức và văn hoá công sở.

Chế độ đãi ngộ (cán bộ, công chức không cần tham nhũng, làm trái)

Công bằng mà nói, hiện chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức chưa sát với thực tiễn cộng vụ mà mỗi cán bộ, công chức đảm nhiệm. Ở khía cạnh khác, sự bất cập trong chính sách tiền lương đối với cán bộ công chức tạo ra làn sóng cán bộ công chức bỏ việc, xin thôi việc và một bộ phận cán bộ công chức nhũng nhiễu, cửa quyền, hách dịch, tham nhũng… Để động viên cái tốt, động viên những cán bộ công chức luôn tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, thấy việc có lợi cho dân thì làm, luôn lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân, Chính phủ đã đưa ra 4 nội dung cải cách trong đó có nội dung: đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Theo đó, cải cách tiền lương và chế độ, chính sách đãi ngộ cần có sự điều chỉnh hợp lý. Phấn đấu để đạt được lợi ích vật chất tương xứng với tài năng đóng góp có ích cho xã hội của cán bộ, công chức. Lợi ích kinh tế cá nhân được tôn trọng cùng với lợi ích cộng đồng.

Nhân dịp kỷ niệm 77 năm thành lập Đảng (3/2/2007), Bộ Chính trị đã quyết định tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong toàn Đảng, toàn dân. Đây là một chủ trương lớn mang tính cấp bách trong bối cảnh hiện nay và có ý nghĩa lâu dài đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Bởi vậy, lúc này hơn lúc nào hết, mỗi cán bộ, công chức cần xác định rõ vị trí của mình đã thực sự là “công bộc của dân” như lời dạy của Người ?

Nguyễn Thành Long

vietbao.vn

Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sách sạch chủ nghĩa cá nhân

Nhân kỷ niệm Ngày thành lập Đảng 3-2-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn chúng ta những lời tâm huyết, thể hiện mối quan tâm sâu sắc và sự lo lắng của Người đối với đất nước trong bài báo: “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”.

Đồng chí Vũ Kỳ kể lại, viết xong bài báo này, Bác mời đồng chí Tố Hữu lúc đó phụ trách công tác tuyên huấn và đồng chí Vũ Kỳ lại để Bác đọc cho nghe và góp ý. Nhan đề bài báo của Bác lúc đầu là “Quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng”. Nghe đọc xong, các đồng chí đều thấy đây là một một bài báo có nội dung quan trọng đối với công tác tư tưởng, giữ gìn đạo đức cách mạng – cái gốc của mỗi cán bộ, đảng viên. Bác muốn mỗi người phải ra sức tu dưỡng để trở thành những người tốt, cán bộ tốt, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nghe xong, đồng chí Tố Hữu đề nghị Bác nên đưa ý nâng cao đạo đức cách mạng lên trên, quét sạch chủ nghĩa cá nhân xuống dưới. Bác quay sang hỏi đồng chí Vũ Kỳ, đồng chí cũng đồng ý như thế. Bác nói:

– Có ba người, các chú là hai, đa số, nên Bác đồng ý đổi lại.

Tuy vậy, sau này Bác hỏi lại đồng chí Vũ Kỳ: Bác thí dụ nhà chú mua được một cái tủ mới, chú có quét nhà trước rồi mới kê tủ vào, hay là cứ kê tủ vào rồi mới quét nhà? ý Bác sâu sắc như thế đấy! Nhưng ở đây ta cũng thấy Bác rất tôn trọng đa số, vả lại sự thay đổi này cũng không ảnh hưởng gì đến nội dung bài báo.

Bác đã gửi tới tất cả các đồng chí trong Bộ Chính trị để góp ý kiến, sau đó đã in trên báo Nhân Dân đúng vào Ngày thành lập Đảng. Có lẽ Bác muốn lưu ý tất cả các đồng chí lãnh đạo của Đảng về vấn đề chống chủ nghĩa cá nhân và nâng cao đạo đức cách mạng.

Đã rất nhiều lần, Bác nói đến vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Lần này, Bác đặc biệt nhấn mạnh: “Đảng ta lãnh đạo rất sáng suốt, đã đưa dân tộc ta tiến lên không ngừng từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong lịch sử đấu tranh của Đảng và trong mọi hoạt động hằng ngày, nhất là trên mặt trận chiến đấu và sản xuất, rất nhiều cán bộ, đảng viên ta tỏ ra anh dũng, gương mẫu, gian khổ đi trước, hưởng thụ đi sau và đã làm nên những thành tích rất vẻ vang… Song bên cạnh những đồng chí tốt ấy, còn có một số ít cán bộ, đảng viên mà đạo đức, phẩm chất còn thấp kém.

Họ mang nặng chủ nghĩa cá nhân, việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình…”(1).

Bác đặc biệt vạch rõ những nguy hại lớn do cá nhân chủ nghĩa gây ra:

“Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hoá, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành. Họ tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu mệnh lệnh. Họ không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ.

Cũng do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân.

Tóm lại, do cá nhân chủ nghĩa mà phạm nhiều sai lầm”(2).

Chúng ta đều biết, ngay từ năm 1927, mở đầu cuốn “Đường Cách mệnh”, một cuốn sách “vỡ lòng cách mạng”, Bác Hồ đã nói ngay đến “Tư cách một người cách mạng”. Tư cách đạo đức của người cách mạng là điều mà Bác đặt lên đầu tiên. Trong mục “Tự mình phải” gồm có 14 điều, Bác nhấn mạnh phải cần, kiệm, nói thì phải làm, phải biết hy sinh, ít lòng tham muốn về vật chất và phải biết cả quyết sửa lỗi mình.

Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 17-9-1945, trong “Thư gửi các đồng chí tỉnh nhà” Bác viết: “Cán bộ ta nhiều người “cúc cung tận tuỵ”, hết sức trung thành với nhiệm vụ, với Chính phủ, với quốc dân. Nhưng cũng có người hủ hoá, lên mặt làm quan cách mạng, hoặc là độc hành, độc đoán, hoặc là dĩ công dinh tư…”(3) (lấy của chung làm của riêng). Và Bác chỉ rõ, những điều đó làm cho dân oán đến Chính phủ và đoàn thể, làm ảnh hưởng đến khối đoàn kết. “Chúng ta phải lập tức sửa đổi ngay. Chúng ta không sợ có khuyết điểm. Chúng ta chỉ sợ không có quyết tâm sửa đổi”(4).

Tại buổi lễ kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng, Bác nói: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. Theo Bác, Đảng phải là đạo đức, là văn minh thì mới hoàn thành được sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình.

Trong bản Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân, Bác viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(5). Chỉ trong một đoạn ngắn nói về Đảng, có 57 chữ, Bác đã bốn lần nhấn mạnh chữ “thật” và “thật sự”. ý Bác là vấn đề đạo đức cách mạng phải được quan tâm, phải được coi trọng. Lời căn dặn cuối cùng và tâm huyết ấy của Bác, khiến mỗi người chúng ta càng phải suy nghĩ để tu dưỡng và rèn luyện mình, xứng đáng với niềm tin yêu của Bác, của nhân dân.

Những năm vừa qua, bên cạnh thành tích to lớn có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước, đã diễn ra “những tệ nạn tiêu cực trong một bộ phận không ít cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý bao gồm: Tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tha hoá, sa đọa về đạo đức, lối sống, chạy theo địa vị, danh lợi, tranh giành, kèn cựa, mất đoàn kết nội bộ, dối trá, báo cáo không trung thực, lười biếng, suy thoái về tư tưởng chính trị, phai nhạt lý tưởng cách mạng. Những tệ nạn ấy đã trở thành nguy cơ “tự diễn biến” từ trong, không thể coi thường”(6). Là một nhà tư tưởng lớn, một nhà chiến lược và tổ chức thiên tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ lâu đã nhìn thấy nguy cơ ấy đối với một đảng cầm quyền, nếu không coi trọng sự rèn luyện, tu dưỡng và thường xuyên làm tốt công tác chỉnh đốn Đảng.

Tháng 6-1968, khi nêu ý kiến về việc làm và xuất bản loại sách “Người tốt việc tốt”, Bác đã nói: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”(7).

Rất, rất nhiều lần, Bác đã nói với chúng ta về nguy hại của chủ nghĩa cá nhân: “Chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù nguy hiểm mà mỗi người chúng ta phải luôn luôn tỉnh táo đề phòng và kiên quyết tiêu diệt”(8), “Chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng chỉ lo cho lợi ích của riêng mình, không quan tâm đến lợi ích chung của tập thể. “Miễn là mình béo, mặc thiên hạ gầy”. Nó là mẹ đẻ ra tất cả mọi tính hư nết xấu… Nó là kẻ thù hung ác của đạo đức cách mạng”(9).

Để làm cho tất cả cán bộ, đảng viên xứng đáng là những chiến sĩ cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn Đảng ta phải ra sức tăng cường giáo dục đảng viên về lý tưởng cách mạng và đạo đức của người đảng viên. Bác nêu cách làm: “Phải thực hành phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh trong Đảng. Phải hoan nghênh và khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên. Chế độ sinh hoạt của chi bộ phải nghiêm túc. Kỷ luật của Đảng phải nghiêm minh. Công tác kiểm tra của Đảng phải chặt chẽ”(10).

Rèn luyện đạo đức cách mạng là một phần quan trọng của Tư tưởng Hồ Chí Minh, của văn hoá Hồ Chí Minh. Cuộc đời của Người là một biểu tượng đẹp đẽ nhất, một tấm gương cao quý nhất của đạo đức cách mạng.

Nhớ Bác, chúng ta hãy làm đúng những lời căn dặn của Người: “Quét sạch chủ nghĩa cá nhân – Nâng cao đạo đức cách mạng”.

_____

(1) Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, H.2002, tập 12, tr.438. (2) Sđd, tr.438-439. (3,4) Sđd, tập 4, tr.21. (5) Sđd, tập 12, tr.510. (6) Trích tài liệu Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, dùng cho cán bộ chủ chốt và báo cáo viên, NXBCTQG, H.2003, tr.200. (7) Sđd, tập 12, tr.557. (8) Sđd, tập 11, tr.374. (9) Sđd, tập 10, tr.306. (10) Sđd, tập 12, tr.439.

Bùi Công Bính

xaydungdang.org.vn