Tag Archive | Hồ sơ tư liệu

Người Hà Nội đầu tiên

Năm 823, viên quan đô hộ của Nhà Đường là Lý Nguyên Hỷ, đã phải tổ chức một cuộc tế lễ lớn để phong ông là “Đô phủ Thành hoàng”.

Năm 866, võ tướng khát máu, quan cai trị cáo già của Nhà Đường, đồng thời là phù thủy cao tay Cao Biền, cũng đã phải xây đền phụng thờ ông, và gia phong ông là “Đô phủ Thành hoàng thần quân”.

Đến năm 1010 thì chính người khai sinh kinh đô Thăng Long Lý Thái Tổ đã đề bạt vinh danh ông tới đỉnh cao tôn quý trong cõi tâm linh là: “Quốc đô định bang Thành hoàng Đại vương”.

Khởi từ chức thiêng là thần linh của ngôi làng Hà Nội gốc, tọa lạc đầu tiên ở chỗ có ngọn núi Nùng mà sau đấy những kẻ ngoại bang từ phương Bắc đến, lấy đất làng để xây đắp tòa phủ thành đô hộ, có tên là “La Thành” của chúng. Ông đã hiển linh giữa dòng sông-được ông “cho mượn” nhân danh để mà thành thủy danh-chảy ngang qua dãy tường lũy phía Bắc của tòa phủ thành đô hộ. Đúng vào mùa mưa, nước ở mé trong nội đồng dâng cao hơn mực nước ngoài cửa sông, khiến sông không chảy từ cửa vào đồng, mà đổi dòng chảy ngược. Ông đã làm cho kẻ đô hộ Lý Nguyên Hỷ phải hoảng sợ khi tin rằng: Dòng sông mang tên ông, sở dĩ thành “nghịch thủy”-giống như phong trào chống đối của dân chúng khi ấy đang dâng cao-là do oai linh của ông. Cuộc tế lễ long trọng năm 823 để tôn ông làm thần Thành hoàng của tòa phủ thành đô hộ, có lý do từ đó.

Đền Bạch Mã, 76 Hàng Buồm, Hoàn Kiếm, Hà Nội.

Gần nửa thế kỷ sau, ông lại hiển linh giữa đám mây ngũ sắc. Vẫn ở trên dòng sông mang tên ông, nhưng lần này thì uốn khúc mé ngoài cửa Đông tòa phủ thành đô hộ-bấy giờ đã được viên “Kinh lược sứ” Cao Biền mở mang thành “Đại La” – một lần nữa. Và cuộc chiến huyền kỳ trong cõi tâm linh, giữa ông-đại diện và tượng trưng cho dân chúng cùng văn hóa bản địa-với kẻ đứng đầu thế lực ngoại bang thống trị đã dẫn đến kết cục toàn thắng thuộc về ông khi những trận sấm sét kinh hoàng đã đánh nát vụn như cám đám bùa yểm bằng kim loại mà phù thủy Cao Biền toan dùng để diệt trừ ông. Ngôi đền cổ nhất đất Thăng Long-Hà Nội, về sau và đến tận bây giờ vẫn có tên quen thuộc “Bạch Mã”, do chính kẻ thất trận đã cho xây cất để “chào thua” ở ngay nơi đã diễn ra trận chiến tâm linh năm 866, và để tôn phong ông lên hàng “Thần quân”-đứng đầu các vị thần linh, đã xuất xứ từ hoàn cảnh đó.

Ngôi đền thiêng “Bạch Mã”, có tên lạ này, và trở thành tòa “Đông trấn chính từ” (đền chính, trấn giữ mạn Đông) kinh thành Thăng Long là bởi những lần hiển linh còn quan trọng hơn nữa của ông ở buổi đầu thời định đô Thăng Long. Trong đó đặc sắc nhất là cuộc hóa thân thành hình tượng Ngựa Trắng, để giúp Lý Thái Tổ xây vòng thành lũy bao quanh Kinh thành.

Trong thế giới của ngôn ngữ biểu tượng, Ngựa Trắng chính là hình ảnh của Mặt Trời. Nếu bằng chu kỳ đều đặn của một ngày đêm, Mặt Trời thực hiện một vòng tuần hoàn linh diệu trên vũ trụ: Mọc ở phương Đông, lặn ở phương Tây, để rồi hôm sau lại tái hiện từ phương Đông… Thì Ngựa Trắng trong giấc mơ cầu mộng của Lý Thái Tổ cũng hiện ra từ ngôi “Đông trấn chính từ”. Đi một vòng thần thánh trên vùng đất thiêng “Rồng hiện lên” mới được đặt định là Thành Kinh đô nước Việt từ Đông sang Tây, rồi lại trở về điểm xuất phát, biến mất vào trong ngôi đền cổ, để khoanh lại miền đế đô Kinh kỳ ấy cho thành một vùng “Thánh địa” có “Địa linh nhân kiệt” ở bên trong.

Người định đô Thăng Long, khi cứ nương theo dấu chân Ngựa Trắng mà xây đắp thành công vòng tường lũy bao quanh Kinh thành, thì chính là đã thực hiện được cái “quy hoạch” linh thiêng cho tòa Kinh đô nước Việt, do ông-trong hình tượng Ngựa Trắng-vạch ra. Vì thế, ông phải và xứng đáng được nhận danh hiệu cùng thiên chức thiêng quý nhất: “Quốc đô định bang Thành hoàng đại vương” để ngự tại ngôi đền Bạch Mã đặng bảo trợ cho cái địa bàn mà ông đã là người cắm đất xây ngôi làng-Hà Nội – gốc đầu tiên. Ngôi làng cổ ấy, ngay từ thời gian đầu Công nguyên, đã nhờ “cặp mắt xanh” của ông, mà có thế “Nhìn sông tựa núi” tuyệt hảo.

Sông, ở đây chính là dòng “Nước chảy trong ngần/ Có con buồm trắng chạy gần chạy xa”. Từ hai nghìn năm trước, vốn là một nhánh chính bên bờ phải của dòng sông Mẹ (sông Cái, Hồng Hà) uốn lượn tắm tưới và nối đường đi lại cho cả một miền “ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa Nam, Bắc, Đông, Tây” – Như lời Người định đô Thăng Long nghìn năm sau sẽ nói.

Còn núi, thì vốn là một doi đất cao ở bên và là sản phẩm đắp bồi, từ dòng chảy của nhánh sông rồi sẽ mang tên của ông, có cảnh trí tự nhiên cực kỳ tươi tốt, nên đã thành tên gọi núi Nùng. Những cái nhìn huyền thoại và phong thủy, từ rất lâu trước khi có tên gọi núi Nùng (nghĩa là tươi tốt), đã nhận ra ở đấy có một “huyệt đạo”. Dưới thông sâu đến âm ty địa phủ, trên nối cao tới thiên đường thượng giới. Vì thế gọi đây là núi Long Đỗ (Rốn Rồng).

Ngôi làng-Hà Nội-gốc đầu tiên đã tựa vào ngọn Long Đỗ (Rốn Rồng) ấy mà xây dựng. Vì thế, có tên đầu tiên là Hương Long Đỗ (Làng Rốn Rồng). Và tên của vị thần bảo hộ của làng, vì thế cũng được gọi là Thần Long Đỗ. Chính là vị thần đã hiển linh trong thời chống Bắc thuộc làm khiếp vía những kẻ ngoại bang đã xây phủ đô hộ ở ngay trên đất làng của thần, và trợ giúp Lý Thái Tổ khi Người định đô Thăng Long, cũng lấy ngôi làng của thần làm tiêu điểm để mở rộng ra thành tòa Kinh đô nước Việt.

Đấy là những điều đã được các bộ sách địa chí, sưu tập thần tích: “Tây Hồ Chí” thế kỷ thứ 19, “Lĩnh Nam chích quái” thế kỷ thứ 14, và nhất là “Việt điện u linh” thế kỷ thứ 14 ghi lại theo phương pháp tư duy và bằng bút pháp trung cổ: Phủ mây mù và vàng son huyền thoại lên trên và lẫn vào trong những hạt nhân hiện thực của lịch sử.

Gạn lọc và giải ảo cho những hiện thực lịch sử ấy, đã thấy được mấy câu quý giá trong sách “Việt điện u linh”, nhưng là dẫn lại các sách “Giao châu ký” và “Báo cực truyện” đầu Công nguyên mà viết rằng: “… Có người họ Tô tên Lịch, đời đời ở đất (núi) Long Đỗ, dựng làng bên bờ sông (Tô Lịch), nhà không giàu có lắm, nhưng tề gia lại biết lấy đạo hiếu đễ làm đầu, ba đời biết nhường nhịn mà ở chung với nhau… Gặp năm mất mùa, thóc thiếu, biết đem của cải trong nhà chia cho mọi người trong làng. Vì thế, lấy tên Tô Lịch đặt làm tên làng…”.

Một chuỗi liên hệ dễ dàng nhận ra ở đây, câu sử bút này: Tô Lịch là người “già làng” đứng đầu hương Long Đỗ. Ông đã cho hương Long Đỗ “mượn” nhân danh của mình để thành địa danh làng Tô Lịch. Một tên gọi khác nữa của hương Long Đỗ (Cũng như đã cho con sông chảy bên làng “mượn” tên thành sông Tô Lịch) – làng Tô Lịch, tức hương Long Đỗ, có thần làng là thần Long Đỗ. Thần Long Đỗ là linh khí của người đứng đầu làng Tô Lịch khi đã lìa đời mà thành thần, hóa thánh. Vậy cuối cùng – thần Long Đỗ, chính là ông Tô Lịch.

Cuộc gạn lọc, giải ảo cho hiện thực lịch sử thế là đã đi đến đích: Người họ Tô tên Lịch, chính là nhân vật lịch sử có thật, ở thời gian đầu Công nguyên, đã là người đứng đầu làng (hương) Long Đỗ, dựa vào núi Long Đỗ (núi Nùng) mà cắm đất lập ngôi làng – Hà Nội – gốc đầu tiên, có vị thế “tựa núi nhìn sông”, mà nghìn năm về sau vẫn luôn là ở chỗ chính tâm của tất cả các tòa: từ Phủ thành Đại La, đến Kinh thành Thăng Long.

Ông là người Hà Nội gốc đầu tiên, cũng là người đầu tiên sống, nêu gương và để lại truyền thống nghìn năm văn hiến thi thư, bên cạnh và cùng với truyền thống đấu tranh anh hùng, cũng nghìn năm, cho lịch sử và văn hóa Thăng Long-Hà Nội, bằng phẩm chất sống nhân nghĩa, hiếu thuận của mình.

Giáo sư Lê Văn Lan
qdnd.vn

Advertisement

Hà Nội những đổi thay về hành chính thời thuộc địa

Thống trị về hành chính

Chiếm Hà Nội năm 1883, ngoài các hành động quân sự, việc đầu tiên mà người Pháp quan tâm là tổ chức lại bộ máy cai trị thành phố theo kiểu mới. Một viên công sứ được chỉ định làm công việc quản lý hành chính thành phố. Đó là ông Bon-nan (Bonnal), người đã chọn một ngôi nhà trên phố Hàng Gai làm trụ sở. Trên tấm ảnh chụp năm 1884 ta còn thấy ngôi nhà trước cửa treo tấm biển hình bầu dục ghi tên “Tòa công sứ Pháp” (vị trí nhà này về sau là nhà in Lê Văn Phúc, nay là Công ty sản xuất và xuất khẩu Thủ công mỹ nghệ, 80 Hàng Gai). Công việc của công sứ buổi đầu chủ yếu là việc trị an và ổn định việc chiếm đóng của người Pháp. Về sau tòa công sứ lại được chuyển về phố Nhà Chung, gần với dinh cơ của Tổng đốc Hà Nội. Còn cảnh binh Pháp thì đóng tại hai ngôi nhà xây kiểu Tàu ở phố Hàng Bồ và Hàng Bè. Nhưng các ngôi nhà đó quá đổ nát nên đến năm 1893 lại phải chuyển sang đóng tạm ở phố Cầu Gỗ và trên đất trường thi hương cũ của Hà Nội. Mãi đến tháng 9-1904, doanh trại chính thức của cảnh binh mới được xây dựng trên đất trường thi cũ, để trở thành phố Trường Thi.

Tòa Công sứ Pháp ở phố Hàng Gai. Ảnh tư liệu

Nhưng Hà Nội không thể duy trì lối cai trị như các tỉnh, mà phải được tổ chức như các thành phố ở châu Âu. Vì vậy, ngày 19-7-1888 Thống sứ Bắc Kỳ ký quyết định thành lập Hội đồng thị chính thành phố Hà Nội và chỉ định một viên đốc lý trong thời hạn 3 năm. Cùng lúc đó, chính quyền bảo hộ Pháp yêu cầu triều đình Huế chuyển Hà Nội thành lãnh thổ của Pháp tức là thành khu nhượng địa, do người Pháp trực tiếp cai trị, khác với các tỉnh khác ở Bắc Kỳ là đất bảo hộ (theo dụ ngày 1-10-1888 của vua Đồng Khánh). Địa giới Hà Nội cũng được mở rộng, năm 1899 phần đất còn lại của hai huyện Thọ Xương, Vĩnh Thuận và một số xã thuộc hai huyện Từ Liêm, Thanh Trì được nhập vào thành phố thành khu ngoại thành. Năm 1915, Pháp đổi tên khu này thành huyện Hoàn Long, nhưng lại nhập vào tỉnh Hà Đông. Đến năm 1942, huyện Hoàn Long gồm 8 tổng, 60 xã được nhập lại vào thành phố, gọi là Đại lý đặc biệt Hà Nội, tồn tại cho đến năm 1945.

Viên đốc lý Hà Nội do Thống sứ Bắc Kỳ chỉ định, về sau do chính Toàn quyền Đông Dương quyết. Ông đốc lý gọi theo tiếng Pháp là “công sứ-thị trưởng” (résident-maire), có nghĩa là ông ta chỉ như một viên công sứ cai trị một tỉnh của xứ bảo hộ, không có quyền quyết định về ngân sách, mà phải theo chỉ thị của Thống sứ Bắc Kỳ.

Hội đồng thị chính đầu tiên gồm 12 người Pháp, 2 người Việt và 2 người Tàu. Họ họp 4 lần mỗi năm, và quyết định của nó chỉ có giá trị thực hiện sau khi được Thống sứ chuẩn y. Tòa thị chính tất nhiên có một thành huy với một câu châm ngôn bằng chữ La-tinh rất kỳ quặc, biểu trưng cho tính tự trị của thành bang phương Tây, nhưng lại phụ thuộc chặt chẽ vào chính quyền cấp trên. Châm ngôn của Hà Nội là Dislecta fortitudine prosfera, có thể là tiếng La-tinh của các giáo sĩ Dòng Tên thế kỷ 17, nhưng thực ra nghĩa của nó không rõ ràng, có thể suy diễn theo nhiều cách, hoặc do viết sai chính tả. Có thể hiểu là “Cái ta muốn được phát hiện bằng lòng dũng cảm”, cũng có thể hiểu “Của cải ta mong muốn chỉ đạt được bằng lòng dũng cảm”. Thành huy của Hà Nội là hình tượng hai con rồng quấn hai bên thanh kiếm đâm xuống hồ (truyền thuyết về Lê Lợi), trên có một mặt trời màu đen, có tường thành bao quanh.

Từ năm 1891, hội đồng thị chính được cử tri đoàn bầu lên, được chia thành hai đoàn: Cử tri đoàn người Pháp, bầu ra 10 ủy viên bằng bầu cử phổ thông trực tiếp và một cử tri đoàn “bản xứ”, chỉ những người đóng thuế đến một mức nào đó mới có quyền đi bầu. Cử tri đoàn bản xứ bầu ra 4 ủy viên người Việt, không có người Tàu nữa. Họ không đại diện cho ai vì đều là những người thuộc tầng lớp giàu có mới nổi lên, phần lớn đã Pháp hóa và gắn với hệ thống thuộc địa, bảo đảm sự giàu sang của họ. Cho nên, các ủy viên này không gây trở ngại cho công việc cai trị vì người Pháp vẫn giữ quyền quyết định.

Nhà sử học Pháp Phi-líp Pa-panh (Philippe Papin), khi tìm hiểu lịch sử Hà Nội đã lưu ý đến hình ảnh ông hội đồng thị chính Nguyễn Lễ, sinh năm 1895 ở Bắc Ninh, du học ở Pháp và trở về Việt Nam năm 1914 với tấm bằng kỹ sư cho phép ông ta vào làm ở Hãng rượu Đông Dương. Năm 1926, ông tham gia Hội đồng thị chính thành phố Hà Nội, biểu quyết một cách ngoan ngoãn mọi quyết định do người Pháp đưa ra, rồi nhờ sự ủng hộ của họ, đã trở thành người đứng đầu hướng đạo sinh và ra tờ bán nguyệt san Thẳng Tiến, in đến 1.500 bản. Rõ ràng Nguyễn Lễ và các đồng nghiệp của ông không có cái gì chung với người dân thường thành phố. Có lẽ vì thế mà nhà văn Vũ Trọng Phụng đã dùng hình mẫu này để xây dựng nhân vật trong cuốn tiểu thuyết Giông tố.

Nhà số 80 Hàng Gai ngày nay. Ảnh tư liệu.

Hội đồng thị chính quản lý thành phố Hà Nội trong 60 năm. Nó có phương tiện để đạt tham vọng của mình, vì tòa Thống sứ Bắc Kỳ không muốn mang gánh nặng cai trị thành phố Hà Nội, từ năm 1891 đã giao cho nó quản lý phần thu trực tiếp (thuế đất đai, thuế môn bài và thuế thân). Nhưng các chương trình đô thị hóa, xây dựng và phát triển thành phố rất tốn kém, và tòa thị chính vì thiếu tiền, buộc phải vay mượn, tăng đảm phụ khiến thuế khóa thêm nặng nề. Tăng thuế, khủng hoảng tài chính và các vụ bê bối tạo thành cái nền của lịch sử tòa thị chính Hà Nội.

Bị chiếm đất đai

Trước khi người Pháp đến, 15% đất đai thuộc khu buôn bán của thành phố Hà Nội, cùng với 55% đất đai vùng ngoại vi, đều thuộc sự quản lý của tập thể cộng đồng dân cư địa phương. Sau khi thành lập, Hội đồng thị chính tìm cách chiếm đoạt những đất đai đó nhằm thực hiện chính sách đô thị hóa và xây dựng các công trình công cộng. Được nhà cầm quyền bảo hộ chấp thuận năm 1903, tòa thị chính tuyên bố từ nay sẽ là chủ sở hữu duy nhất những đất công làng xã thuộc thành phố. Đường lối của người Pháp được tiến hành theo ba giai đoạn: Trước hết là tịch thu đất công, rồi cộng đồng người Pháp tìm cách mua lại ồ ạt đất tư, cuối cùng tòa thị chính thi hành chính sách cấm xây dựng đối với người bản xứ, bị coi là làm mất mỹ quan và kém vệ sinh.

Tòa thị chính mở một cuộc “săn lùng đất công” rộng lớn, chỉ trong mấy tháng đã tịch thu gần một phần ba số đất công (2.333 thửa trên 8.528 thửa). Nhưng người dân thành phố đã nhanh chóng phản ứng lại, với sự đồng lõa của chức sắc địa phương. Họ làm giấy chứng nhận các đất công đó thực tế là đất tư, và nộp đơn kiện khiến tòa thị chính lúng túng, không thể trả tiền để chuộc lại và cũng không thể thắng kiện được. Đành phải đi đến thỏa hiệp: Tòa thị chính sẽ thuê những đất công đó, khiến nó trở thành “đất của thành phố”, còn người chiếm hữu vẫn được sử dụng như cũ. Như vậy, người chủ sở hữu có một vị thế hợp pháp và thành phố, ngoài việc được thu tiền thuê đất, còn đảm bảo là trên đất đó sẽ nhanh chóng được xây dựng nhà gạch, nhằm loại bỏ nhà tranh và những kiến trúc tạm bợ. Tiếp đấy, do ngân sách thiếu hụt, thành phố phải không ngừng bán lại những mảnh đất thuộc thành phố cho dân, mà ưu tiên bán cho những người đã thuê sẵn. Năm nhiều năm ít, việc cho thuê đất và bán đất công xưa đã đem lại 5% cho ngân sách hằng năm của thành phố.

Tòa Thị chính thành phố. Ảnh tư liệu

Trong các khu phố nội thành, tình hình có khác vì đất ở đây nằm trong quy chế đất tư. Đến năm 1927, 4.000 người Pháp và Âu đã chiếm hữu một nửa diện tích hiện có, còn lại 120.000 người Việt bị dồn vào trong 45% đất đai. Người Hoa chiếm 5% dân số, nhưng không phải là những chủ đất lớn, vì họ thích đầu tư vào việc buôn bán đem lại nhiều lời lãi hơn. Diện tích trung bình của các chủ sở hữu là 265m2 đối với người Việt, 504m2 đối với người Hoa và 2.037m2 đối với người Âu. Trong số này, gia đình Ê-mi-năng-tơ (Éminente) chiếm 46 mảnh đất và 6ha, gia đình Đờ-măng-giơ (Demange) chiếm 19 mảnh và 2,5ha, nhà Vi-téc-bô (Viterbo) 1,5ha liền một mảnh trên đại lộ Găm-bét-ta (Gambetta) (Trần Hưng Đạo), hiệu tạp hóa Đờ-bô (Debeaux) có 16 mảnh và 2ha, nhà Đờ-lút-xtan (Deloustal) 6,5ha…

Nhưng trong những khu phố khá giả, vẫn có những chủ đất lớn người Việt. Lê Văn Phúc, người đã mở nhà in ở số 80 Hàng Gai đã có 3.000m2 đất, nhà doanh nghiệp Bạch Thái Bưởi có gần 4.000m2, Hoàng Gia Luận có gần 6.000m2 liền một mảnh, và Vũ Thị Tín có hơn một héc-ta ở ngoại ô phía nam thành phố. Trong 6 mảnh đất tư có diện tích hơn một héc-ta, thì một của người Pháp, 2 của người Hoa và 3 của người Việt. Người Pháp chiếm một nửa đất đai thành phố, nhưng không phải chỉ có họ. Cho nên trên bốn con đường tiêu biểu cho khu phố Tây là đại lộ Gambetta (Trần Hưng Đạo) và Gia Long (Hàng Bài), đường Pôn Be (Paul Bert) (Tràng Tiền) và Thợ Nhuộm, những doanh nhân, luật sư, giáo sư, bác sĩ người Việt cũng sở hữu 42 mảnh đất và gần 20% đất đai. Đó là những nhân vật mà người Pháp hy vọng có thể dựa vào để thiết lập nền bảo hộ của mình. Nhìn chung, người Pháp và giới thượng lưu Việt chiếm hai phần ba đất đai thành phố, điều đó minh họa rõ nét bản chất của chế độ thuộc địa.

Nhiều vị ủy viên Hội đồng đã mua đất của thành phố với giá rẻ mạt, rồi chỉ cần một chữ ký để chuyển đổi rồi bán lại đắt hơn vài tuần sau. Hệ thống đó phổ biến dưới thời thuộc địa đã khiến cho nhiều người trở nên giàu có. Năm 1896, viên kế toán tòa thị chính bị tù vì biển thủ. Năm 1905, nhà chức trách cấp trên buộc phải giải tán Hội đồng thị chính và kiểm soát chặt chẽ tòa thị chính. Một vị ủy viên Hội đồng người Pháp là bác sĩ Le Lan đã vạch trần mọi thủ đoạn làm giàu của các nhân viên xung quanh ông đốc lý, bắt đầu từ ông chủ sự lục lộ Ma-la-ba (Malabar), mà tên tuổi đã xuất hiện trong mọi vụ bê bối thời đó.

Mâu thuẫn trong chính sách cai trị

Trong thời gian đầu, chính quyền thuộc địa tiếp tục sử dụng các quan lại người Việt thuộc hai huyện của thành phố, để quản lý công việc thường ngày như thu thuế, điều tra, xử án, giải quyết tranh chấp… Nhóm giúp việc nhỏ đó chỉ có 11 người gồm tri huyện, 4 thư lại và 6 lính. Vị thế của họ thật chông chênh vì họ vừa bị nhà chức trách thành phố kiểm soát, lại nằm dưới sự quản trị của tổng đốc thành phố, mà ông này lại thuộc về triều đình Huế.

Từ tháng ba 1889, Hà Nội trở thành của Pháp, nha môn tỉnh được chuyển đi, kéo theo sự ra đi hàng loạt của các quan và sự lưu tán của tầng lớp nho sĩ. Mãi đến tháng Sáu năm 1896, các nha môn huyện mới được xóa bỏ, thay bằng một quan chức mới gọi là hiệp lý, giữ vai trò liên kết với tòa thị chính Pháp. Nhưng vừa lập ra, các chức trách của hiệp lý đã bị bãi bỏ, vì người ta nhận ra ngay rằng nó không cần thiết, vì từ đây người Việt ở Hà Nội được đặt dưới sự xét xử của tòa án Pháp (tuy họ không có quốc tịch Pháp), cho nên sự can thiệp của pháp luật bản xứ là vô dụng. Cùng lúc, thành phố được áp dụng chế độ pháp lý làm nổi lên đặc tính riêng của nó: Một người Việt ở thành phố không bị xét xử như người dân ở các tỉnh, quyền của họ không được bảo đảm bằng những điều luật như nhau.

Trừ lĩnh vực chính trị, người Hà Nội như vậy đã được pháp luật bảo vệ. Hồ sơ lưu trữ còn đầy những bản khiếu kiện của người dân chống lại người Pháp hay nhà chức trách thành phố. Hà Nội có luật sư của mình, những người này không bỏ qua khách hàng người Việt khi họ trả tiền nhiều và nhanh chóng, tức là tầng lớp thượng lưu bản xứ. Ngoài ra, nhiều người Hà Nội đã biết khai thác sự trì trệ ngập ngừng và những mâu thuẫn nội bộ của chính quyền Pháp đôi khi bị tê liệt. Điều đó thấy rõ ở sự tranh chấp giữa viên cảnh sát, người biết rõ kẻ tình nghi phạm tội, với ông quan tòa, vì không có bằng chứng, vẫn tuyên bố tha bổng. Người Việt Nam đã lợi dụng, dựa vào sự can thiệp của thống sứ, để ngăn chặn việc chiếm đoạt đất đai của tòa thị chính, rồi lại kêu gọi sự giúp đỡ của tòa thị chính khi quyền lợi của họ bị nhà chức trách bảo hộ đe dọa (ở làng quê, ở nông thôn chẳng hạn). Một chân trong thành phố, và chân kia ở ngoài, mối quan hệ chồng chéo đó với chính quyền cho phép khai thác những mâu thuẫn.

Tuy không được như Sài Gòn theo chế độ thuộc địa, nhưng người Hà Nội nếu biết vận dụng luật pháp của chính quốc, vẫn có thể tìm ra những kẽ hở để đấu tranh. Cho nên có một thời việc ra báo và xuất bản ở Hà Nội được tương đối dễ dàng hơn ở các thành phố và tỉnh lỵ khác. Đó cũng là điều kiện để các tổ chức yêu nước tranh thủ quần chúng, vận động thành lập các tổ chức yêu nước, để đấu tranh chống lại chính quyền bảo hộ.

Đào Hùng
qdnd.vn

Tướng Nguyễn Sơn văn võ song toàn

QĐND – Ngày 1-10-1908, Nguyễn Sơn cất tiếng khóc chào đời tại phố Yên Ninh, Ba Đình, Hà Nội với tên khai sinh là Vũ Nguyên Bác. Ông là người con thứ tư trong một gia đình nông dân kiêm tiểu thương gốc ở làng Kiêu Kỵ, Gia Lâm. Trong gia đình sáu anh em (năm trai, một gái), ông là người được học hành chu đáo hơn cả. Tốt nghiệp trung học, ông vào học Trường Cao đẳng Sư phạm Bắc Kỳ. Tuổi học trò thường hay nghịch ngợm, gây gổ đánh nhau. Có một lần, ông rủ đám bạn trường ông cùng với đám bạn bên trường Bưởi đánh học trò trường Tây cho chừa cái thói lên mặt con nhà giàu, thói “chó cậy gần nhà” của lũ hợm. Ông bị cảnh sát làm phiền. Và có lẽ vì thế, ông thôi học. Rồi ông gặp Nguyễn Công Thu, phái viên của Nguyễn Ái Quốc từ Quảng Châu, Trung Quốc về. Bởi đã có sẵn lòng ghét Tây, ông đã bị chinh phục bởi những lời tuyên truyền của phái viên cách mạng. Ông được Nguyễn Công Thu đưa sang Quảng Châu tham dự lớp huấn luyện chính trị của Nguyễn Ái Quốc. Ông mang tên mới là Lý Anh Tự cùng với gia đình họ Lý của những nhà cách mạng Việt Nam tại đây mà tộc trưởng là Lý Thụy, tức Nguyễn Ái Quốc như ta đã biết. Tốt nghiệp, ông được kết nạp vào Việt Nam Thanh niên Cách mạng trước mộ Liệt sĩ Phạm Hồng Thái trong Nghĩa trang Hoàng Hoa Cương, nơi yên nghỉ của 72 chiến sĩ cách mạng Tân Hợi. Tiếp đó, ông được Nguyễn Ái Quốc lựa chọn gửi sang học Khóa IV, Trường Quân chính Hoàng Phố của Chính phủ Cách mạng Quảng Châu do chuyên gia quân sự Xô-viết trực tiếp giảng dạy. Ông học tập rất chăm chỉ trên lớp cũng như ngoài thao trường bởi vì ông ý thức rằng những kiến thức thu nhận được ở đây sẽ rất cần cho sự nghiệp tương lai của ông và dân tộc. A.I. Trê-rê-pa-nốp, một giáo viên Xô-viết của trường đã nhận xét về những học viên Việt Nam, trong đó có ông: “Trong số những học viên của chúng tôi có khoảng 30 người Việt Nam. Họ rất nghiêm chỉnh, cần cù lao động, dốc mọi sức lực để học tập bởi vì họ biết rằng, để giành chính quyền về tay công nông phải cầm lấy vũ khí chiến đấu và chỉ có tri thức quân sự mới giúp họ bảo vệ cách mạng khỏi thù trong giặc ngoài” (A.I. Trerepanop, Ghi chép của một cố vấn quân sự ở Trung Quốc. M. 1976). Cũng có thể nói, dưới mái trường này lần đầu tiên những thanh niên yêu nước Việt Nam, trong đó có ông, tiếp nhận những kiến thức cơ bản về nghệ thuật quân sự theo quan điểm Mác – Lê-nin (Soviet Volunteers in China 1925-1945, Progress Publishers, M.1980). Đang học thì xảy ra chính biến Tưởng Giới Thạch. Nhận rõ bản chất của cánh hữu trong Chính phủ Quảng Châu, ông gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc chiến đấu cho quyền lợi của quần chúng nghèo khổ. Tháng 12-1927, ông tham gia Khởi nghĩa Quảng Châu theo tiếng gọi của những cộng sản Trung Quốc chân chính như Trương Thái Lôi, Diệp Đình, Diệp Kiếm Anh, Nhiếp Vĩnh Trăn. Công xã Quảng Châu bị dìm trong máu. Cánh hữu trong Chính phủ Quảng Châu nhân đó đàn áp khốc liệt Đảng Cộng sản Trung Quốc và tổ chức cách mạng Việt Nam đang hoạt động ở đây. Quảng Châu không còn là miền đất hứa của các nhà cách mạng Việt Nam. Việt Nam Thanh niên Cách mạng phải di chuyển địa bàn hoạt động đến hai nơi: Hồng Công và Xiêm. Nguyễn Sơn về vùng Đông Bắc nước Xiêm hoạt động trong Việt kiều. Ông đã góp phần vào sự ra đời của một số Chi bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng trong Việt kiều yêu nước. Tháng 6-1928, ông trở lại Trung Quốc và được điều về phụ trách công vận của Nghiệp đoàn thủy thủ Hồng Công. Nhưng khi Đệ tứ phương diện quân dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông, Chu Đức, Trần Nghị thoát vòng vây, tiến về vùng Đông Giang, Quảng Đông cần được tăng cường những cán bộ quân sự được đào tạo chính quy, ông liền xung phong. Khi đến nơi thì Đệ tứ phương diện quân đã di chuyển, nên ông ở lại Đông Giang, gia nhập Quân đoàn Hồng quân số 11, tham gia chiến tranh du kích ở đây. Câu chuyện đổi tên “Hồng Thủy-Mãnh thú” của ông cũng diễn ra tại đây. Xin được dẫn một đoạn văn khái quát về những năm tháng chiến đấu của Hồng Thủy trên đất Trung Quốc của Lý Linh thay cho sự miêu tả dài dòng:

“Hồng Thủy là một cuốn sách ghi lại toàn bộ quá trình về Trường Quân sự Hoàng Phố, khởi nghĩa Quảng Châu, năm lần chống vây quét, cuộc trường chinh hai vạn năm nghìn dặm và tám năm kháng chiến.

Lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn. Ảnh tư liệu

Hồng Thủy là một khối thép không han gỉ trong đói rét cực nhọc, không run sợ trước mọi sự hăm dọa, không ngã gục trong mưa bom bão đạn, không giận hờn bởi sự hiểu lầm hoặc bị xúc phạm. Ánh thép như ngời lên một chân lý sâu xa: Trong lò luyện của những nghịch cảnh và chà xát không loại sáp nào có thể tồn tại, còn gang thép vẫn là gang thép, tôi luyện càng nhiều chất thép càng tinh.

Hồng Thủy là một ngọn đèn, đốt cháy hết mình mà không mảy may tính toán thiệt hơn, chỉ cốt rọi sáng vào thế giới u tịch không cần phân biệt nơi đó là đâu, càng làm tăng thêm giá trị của nguồn sáng. Một người yêu nước chưa hẳn đã là một chiến sĩ quốc tế, còn trong cơ thể của người chiến sĩ quốc tế thì bao giờ cũng dồn dập chảy dòng máu yêu nước.” (Trần Kiếm Qua. Hồng Hà nhớ, Hoàng Hà thương).

Cách mạng Tháng Tám thành công. Nước ta thành nước độc lập, dân ta thành người tự do. Nhưng các lực lượng thù địch không muốn thế – cây muốn lặng, gió chẳng đừng. Dân Sài Gòn đứng dậy chống thực dân Pháp quay trở lại. Theo tiếng gọi của Tổ quốc, ông mang tên mới Nguyễn Sơn trở về giúp nước trong lúc nguy nan. Ông được cử làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Nam Trung Bộ. Ông đã tổ chức chiến đấu dũng cảm bảo vệ những vùng đất chiến lược và tích cực xây dựng lực lượng, đặc biệt là đã mạnh dạn cho ra đời Trường Lục quân Quảng Ngãi nổi tiếng một thời.

Từ năm 1947, ông được điều về đảm nhiệm Tư lệnh Khu IV, đóng tại Nông Cống, Thanh Hóa. Một trong những vấn đề Tư lệnh Nguyễn Sơn quan tâm hàng đầu là bồi dưỡng đội ngũ cán bộ. Các lớp học ngắn ngày được tổ chức, đầu tiên là lớp bồi dưỡng cán bộ trung cấp gồm 50 người, tiếp đến là các lớp bổ túc cán bộ đại đội, lớp bồi dưỡng ngắn ngày cho các ủy viên thường vụ, thường trực ủy ban các tỉnh Liên khu IV, riêng khóa 7 đã có 120 người theo học. Theo sáng kiến của Tư lệnh Nguyễn Sơn, ngày 30-11-1947, Đại hội tập, tức Hội thao quân sự, lần đầu tiên được tổ chức rầm rộ tại núi Nưa, Nông Cống. Học tập lý thuyết quân sự được kết hợp nhuần nhuyễn với thực hành là như vậy. Trên nền tảng đó, Nguyễn Sơn đã viết, dịch và cho xuất bản vào năm 1949 những tác phẩm về lý luận quân sự như: Chiến thuật, Dân quân, một lực lượng chiến lược, Chủ nghĩa Lê-nin, Chiến tranh cách mạng và vấn đề chiến lược của Béc-tôn Phrai-xen và Chiến tranh cách mạng Trung Hoa và vấn đề chiến lược của Mao Trạch Đông. Tư lệnh Nguyễn Sơn còn là cha đẻ của Trường Thiếu sinh quân Liên khu IV ở Thọ Xuân.

Đất Thanh Hóa còn là vườn ươm của đội quân văn hóa tư tưởng mà Mạnh Thường Quân không ai khác, chính là Tư lệnh Nguyễn Sơn. Ông là người đã thành lập Trường Văn hóa Kháng chiến đào tạo nhiều khóa. Và chính ông là người đã giúp đỡ và mạnh dạn sử dụng nhiều nhân sĩ trí thức, văn nghệ sĩ những ngày đầu kháng chiến còn gian khổ và lưỡng lự phân vân quyết tâm đi theo kháng chiến. Chính ông là người đã tập hợp và cộng tác với các nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhà phê bình… cùng nhau bước đầu xây dựng lý luận văn nghệ kháng chiến ở Liên khu IV, đã bảo tồn tuồng chèo, bài hát trữ tình, khôi phục điệu múa Xuân phả đã bị mai một… Là một nhà quân sự, nhưng ông rất mê văn học nghệ thuật. Ông đã từng lên bục thuyết trình say sưa và hấp dẫn về Truyện Kiều của Nguyễn Du suốt một ngày cho học viên Trường Thiếu sinh quân và Trường Văn hóa kháng chiến.

Tháng 1-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh phong quân hàm Thiếu tướng cho Nguyễn Sơn vì công lao to lớn của ông trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp. Ngày 9-10-1948, Thứ trưởng, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, phái viên của Hồ Chủ tịch từ Việt Bắc vào Thanh Hóa chủ trì Lễ thụ phong cho Thiếu tướng Nguyễn Sơn. Nhân chuyến đi này, Phạm Ngọc Thạch chuyển tận tay tướng Nguyễn Sơn bức Thiếp thư của Hồ Chí Minh với 12 chữ Hán được viết nắn nót, ngay ngắn dặn dò ông:

“Đảm dục đại (Mật phải lớn)

Tâm dục tế (Tâm hồn trong sáng, tế nhị)

Trí dục viên (Suy nghĩ phải vẹn toàn, chu đáo)

Hành dục phương” (Hành động phải ngay thẳng, đúng đắn).

Tháng 10-1950, Nguyễn Sơn trở lại Trung Quốc. Ông tốt nghiệp xuất sắc Học viện Quân sự Nam Kinh, sau đó được phân công đảm nhiệm chức Phó cục trưởng Cục Điều lệnh, Giám đốc Tòa soạn tạp chí Huấn luyện chiến đấu. Ông đã viết nhiều bài xã luận, bình luận về các vấn đề quân sự, góp phần vào sự nghiệp hiện đại hóa quân đội Trung Quốc. Năm 1955, Nguyễn Sơn là người nước ngoài duy nhất được Chính phủ Trung Hoa phong quân hàm Thiếu tướng.

Mùa hè năm 1956, do nhiều năm “Bắc chiến Nam chinh” đầy gian khổ, ông mắc bệnh hiểm nghèo. Chính phủ và Quân đội Trung Hoa hết lòng chữa chạy theo Đông y và có ý định đưa ông sang Mát-xcơ-va chữa chạy theo Tây y, nhưng ông cảm thấy không thể vượt qua căn bệnh quái ác này. Ông muốn được trở về Tổ quốc và được trút hơi thở cuối cùng trên mảnh đất “chôn nhau cắt rốn” của mình. Chính phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã bố trí một chuyến tàu hỏa đặc biệt để ông trở về nước. Buổi tiễn biệt ông tại sân ga Bắc Kinh thật lưu luyến và cảm động. Nguyên soái Diệp Kiếm Anh, các tướng lĩnh cao cấp và các nhà ngoại giao không cầm được nước mắt. Ngày 27 tháng 9 năm 1956, chuyến tàu đặc biệt đưa Lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn rời đất nước Trung Hoa về lại Việt Nam, quê hương ông.

Ngày 21 tháng 10 năm 1956, tướng Nguyễn Sơn trút hơi thở cuối cùng trong sự luyến tiếc, đau buồn của gia quyến, bạn bè và những đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước và Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày 22-10-1956, lễ tang tướng Nguyễn Sơn được tổ chức trọng thể tại Hà Nội. Trong Lời điếu đọc trước linh cữu ông, đồng chí Hoàng Anh, thay mặt Tổng Quân ủy và Bộ Quốc phòng, đã khẳng định, tướng Nguyễn Sơn mất “quân đội chúng ta mất một Thiếu tướng có tài, Tổ quốc và Chính phủ, Đảng mất một người cán bộ tốt” .

Và trước linh cữu khói hương nghi ngút tướng Nguyễn Sơn, đồng chí Hoàng Anh, thay mặt Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân xin hứa với ông: “Vĩnh biệt đồng chí hôm nay, chúng tôi biến lòng thương nhớ đồng chí thành sức mạnh trong công việc xây dựng Quân đội nhân dân tiến dần từng bước tới chính quy hóa và hiện đại hóa, góp phần vẻ vang của mình trong công cuộc củng cố hòa bình cho nước nhà”.

Tướng Nguyễn Sơn về với cõi vĩnh hằng không vượt qua tuổi mụ 49. Trong bài thơ khóc tướng Nguyễn Sơn, nhà thơ Hữu Loan, người đã có thời làm việc với tướng quân trên đất Thanh Hóa, tác giả bài thơ nổi tiếng Màu tím hoa sim (vừa mới mất), đã phần nào phác họa được tính cách mạnh mẽ, pha chút ngang tàng của ông:

“Nguyễn Sơn như con tàu biển khổng lồ

Mang giông tố đại dương đi đến đâu

không cho sóng ngủ

Nguyễn Sơn như núi lửa mọc ở đâu

Là gây những đám cháy

Vòng quanh…”.

Con người Nguyễn Sơn là thế. Những nơi Nguyễn Sơn đi qua, những công việc Nguyễn Sơn đã làm đã để lại những dấu ấn không phai mờ. Lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn là con người văn võ song toàn. Chiến công của quân dân ta trong hai cuộc trường chinh chống Pháp, chống Mỹ vĩ đại có một phần trải nghiệm của Nguyễn Sơn. Và cuối cùng, bức tượng đài tình hữu nghị Việt – Trung được kết dính bởi một phần máu thịt của Nguyễn Sơn.

PGS.TS Phạm Xanh
qdnd.vn

Bác sĩ Trần Duy Hưng với Hà Nội những năm đầu Độc lập

QĐND – Ngay sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền cách mạng lâm thời Hà Nội đã mời các nhân sĩ Hà Nội như cụ Nguyễn Văn Tố, bác sĩ Nguyễn Văn Luyện, bác sĩ Trần Duy Hưng… tham gia chính quyền nhân dân. Các “sĩ phu Bắc Hà” đã vui vẻ nhận lời. Khi về Hà Nội, nhận thấy ở bác sĩ Trần Duy Hưng một nhân cách, một tấm lòng son sắt vì nước, vì dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị ông làm Thị trưởng Thành phố Hà Nội. Ông đã đáp lại rằng: “Thưa Cụ, chức Chủ tịch xin Cụ chọn người khác xứng đáng hơn, tôi không quen làm…”. Nghe vậy, Cụ Hồ đã động viên: “Tôi có quen việc làm Chủ tịch nước đâu, chúng ta cứ làm rồi sẽ quen…”. Và từ ngày 30-8-1945, ở tuổi 33, ông đã là Chủ tịch đầu tiên của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội.

Các đại biểu Quốc hội của Hà Nội ra mắt cử tri ngày 12-1-1946, trên sân vận động ở khu Việt Nam Học xá (Trường Đại học Bách khoa hiện nay). Từ trái sang phải: Kỹ sư Nông lâm Hoàng Văn Đức, Chủ tịch Hồ Chí Minh, bác sĩ Trần Duy Hưng, bác sĩ Nguyễn Văn Luyện, luật sư Vũ Đình Hòe, nhà giáo Nguyễn Thị Thục Viên.

Bác sĩ Trần Duy Hưng sinh ngày 16-1-1912, là con trưởng trong một gia đình trung lưu và có truyền thống hiếu học. Cha ông là một viên chức quê ở thôn Hòe Thị, nay thuộc xã Xuân Phương, Từ Liêm, Hà Nội, mẹ là con gái họ Phạm, một dòng họ lớn ở làng Ngọc Hà. Sau khi tốt nghiệp Trường Bưởi (nay là Trường Chu Văn An), ông theo học Trường Y khoa Đông Dương. Ngay trong thời kỳ này, ông cùng với Tạ Quang Bửu, Lưu Hữu Phước, Tôn Thất Tùng… là những người sáng lập Hướng đạo sinh ở Việt Nam, một phong trào có uy tín của thanh niên trí thức lúc đó, do Hoàng Đạo Thúy làm thủ lĩnh. Với cây đàn vi-ô-lông và cùng bạn bè, ông đã nhiều lần về các vùng quê đàn hát những bài ca yêu nước.

Sau khi tốt nghiệp, ông và em gái mở phòng khám tại nhà riêng ở số nhà 73 phố Hàng Bông Thợ Nhuộm. Là một bác sĩ đa khoa giỏi, nhưng điều ông được đồng nghiệp và người dân Hà Nội thời đó yêu quý nhiều hơn là ở tấm lòng đức độ của một người thầy thuốc sẵn sàng cưu mang và cứu giúp dân nghèo. Em gái ông, bà Trần Thị Mỹ, lúc đó đã tham gia Việt Minh, nên chính tại cơ sở chữa bệnh này, hai anh em ông đã cứu giúp và chở che cho những cán bộ Việt Minh như Nguyễn Đình Thi, Văn Cao… giữa vòng vây ráp của mật thám Pháp.

Với cương vị là Chủ tịch Ủy ban nhân dân Hà Nội (theo Sắc lệnh ngày 22-11-1945, được đổi thành Ủy ban hành chính) trong những ngày đầu của chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ông đã tập hợp được đông đảo các tầng lớp quần chúng nhân dân Thủ đô ủng hộ cách mạng, bảo vệ chính quyền non trẻ, “diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”. Ông được nhắc đến với tác phong giản dị, gần gũi, lắng nghe và giải quyết kịp thời các phản ánh và tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Đêm Giao thừa Bính Tuất năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và bác sĩ Trần Duy Hưng đã đi thăm các gia đình nghèo ở Hà Nội. Là chủ tịch của một thành phố lớn, nhưng ông tự soạn thảo các công văn, diễn văn, thư từ, điện tín và tự lái ô tô.

Ngày 6-1-1946, nhân dân cả nước đi bầu đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam độc lập. Nhân dân Hà Nội đã lựa chọn được 6 đại biểu. Chủ tịch Hồ Chí Minh được số phiếu cao nhất và sau đó là bác sĩ Trần Duy Hưng. Tại cuộc họp Quốc hội thứ nhất vào ngày 2-3-1946 tại Nhà hát Lớn, Hà Nội, ông đã được Quốc hội bầu vào Ban soạn thảo Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Với trọng trách này, bác sĩ Trần Duy Hưng không chỉ chăm lo tới người dân trong nước mà kể cả người Việt Nam ở nước ngoài. Báo Cứu quốc, cơ quan của Tổng bộ Việt Minh số 398, ra ngày 6-11-1946, có tường thuật lại ý kiến của bác sĩ Trần Duy Hưng trong buổi họp Quốc hội góp ý kiến cho bản Hiến pháp 1946: “Công dân Việt Nam ở nước ngoài được Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bảo đảm về quyền lợi” với mục đích “là để nước ngoài nhận cái địa vị của nước Việt Nam và nhận cái chủ quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”.

Chính vì vai trò và sự tận tâm của bác sĩ với Thủ đô nên kẻ thù luôn tìm cách mua chuộc, hãm hại ông, nhằm làm giảm uy tín của chính quyền cách mạng. Nhiều báo những năm đó đã đăng tải vụ kẻ thù tiến hành bắt cóc ông. Báo Dân quốc số ra ngày 21-12-1945 có thuật lại vụ này: “Hồi hơn 12 giờ trưa ngày 19-12-1945, bác sĩ Trần Duy Hưng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội, bị một bọn 3 tên mang súng định bắt cóc ở ngay trước cửa nhà ở phố Hàng Bông Thợ Nhuộm. Một trong 3 tên đó mặc giả lính Trung Hoa, hai tên kia mặc âu phục. Trong khi ông Hưng đang quay xe để vào nhà thì nhân lúc không để ý, 3 tên Việt gian đã ngồi chờ sẵn ở một hàng nước trước cửa, nhảy xổ lên ô tô gí súng vào người và bắt ông lái xe đi. Nhưng ông Hưng vẫn giữ được cấp trí, tắt ngay máy đi và bóp còi lên. Kẻ gian thấy bị lộ bèn xô ông Hưng vào một bên giữ chặt lấy ông và định cầm lấy tay lái nhưng không vặn được xe đi. Trong khi ấy, người nhà bác sĩ Hưng biết có sự biến chạy ra và đồng thời anh em tự vệ trong phố cùng đổ đến. Thấy nguy, 3 tên Việt gian bỏ chạy, ông Hưng được tự do, rút súng bắn chỉ thiên, nhưng bọn bắt cóc cứ chạy, 2 tên tẩu thoát được, còn 1 tên đến đầu phố thì bị anh em tự vệ bắt”.

Cũng trong giai đoạn này, thực hiện Thông cáo của Chính phủ “về việc đặt tên đường phố và công viên tại các thành phố và tỉnh lỵ” đáp ứng mong muốn của nhân dân Thủ đô được sống trong một đất nước độc lập, ngày 1-12-1945, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội Trần Duy Hưng đã ký tờ trình về việc đặt tên phố và công viên Hà Nội. Nguyên tắc đặt tên phố là: Giữ nguyên tên cũ của Hà Nội 36 phố phường; đường phố Hà Nội mang tên các “anh quân, danh tướng, văn gia, chiến công, các nhà cách mạng cũ và mới”; các danh nhân ngoại quốc có liên lạc với Việt Nam; các tên phố và vườn hoa trong từng khu vực có liên lạc với nhau; các vĩ nhân danh tiếng nhất đặt phố to nhất, và được chia ra từng khu vực có liên quan đến nhau. Ví dụ: Khu độc lập có vườn hoa Độc lập (nay là quảng trường Ba Đình) và các phố Dân chủ Cộng hòa (nay là Điện Biên Phủ), Tự Do (nay là Bà Huyện Thanh Quan), Hạnh phúc (nay là Tôn Thất Đạm), Dân Quyền (nay là Hoàng Văn Thụ), Hùng Vương (nay vẫn giữ tên cũ); Khu Quốc Tử Giám có các phố như Chu Văn An, Ngô Sĩ Liên…; Khu trường đại học có các phố Lê Thánh Tôn, Trạng Trình, Hàn Thuyên…; Khu quanh thành cổ có tên các phố Phan Đình Phùng, Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu…; Khu bờ sông tên phố là tên các chiến công và các tướng đã đánh các trận Bạch Đằng, Tây Kết, Vạn Kiếp, Vân Đồn, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Nguyễn Khoái… Khu hồ Hoàn Kiếm có Vườn hoa Chí Linh, các phố Lê Thái Tổ, Nguyễn Trãi, Lê Lai, Lê Thạch…; Khu giải phóng có phố Gia Phong, Đô Lương, Thái Nguyên, Tân Trào. Ngoài ra có mấy khu không liên lạc với tên phố nhưng để nhắc lại cảnh đau đớn của ách nô lệ: Cổ Am, Nghĩa Lộ… Theo nguyên tắc trên, tên một số phố thời kỳ bác sĩ Trần Văn Lai (Đốc lý Hà Nội thời chính phủ Trần Trọng Kim) đã cho đổi tên vẫn được giữ.

Tháng 2-1947, sau hai tháng chiến đấu anh dũng chống quân Pháp, Chính quyền Hà Nội rút lên Việt Bắc. Quân Pháp tạm chiếm Hà Nội. Tại chiến khu, bác sĩ Trần Duy Hưng được cử giữ chức Thứ trưởng Bộ Nội vụ (năm 1947), Thứ trưởng Bộ Y tế (năm 1954). Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, ngày 10-10-1954 bác sĩ Trần Duy Hưng, lúc này là Phó chủ tịch Ủy ban Quân chính Hà Nội, đã cùng đoàn quân chiến thắng vào tiếp quản Thủ đô. Sau đó ông trở lại với chức danh Chủ tịch Ủy ban Hành chính, rồi Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội. Năm 1977, ông xin nghỉ hưu. Ông mất ngày 2-10-1988 tại Hà Nội.

Thiếu tướng Vương Thừa Vũ và bác sĩ Trần Duy Hưng (trái) cùng bộ đội tiếp quản Thủ đô trong buổi lễ chào cờ tại sân Cột Cờ Hà Nội. Ảnh: Phan Xuân Thúy

Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có nhận xét về ông: “Một con người của nhân dân, vì nhân dân; là một trí thức để lại tấm gương sáng cho các thế hệ trí thức cả hôm nay và mai sau học tập, noi theo”.

Để ghi nhận công lao của ông, năm 2005, Nhà nước đã truy tặng ông Huân chương Hồ Chí Minh. Tháng 1-1999, một con đường đẹp của Thủ đô mới được mở trong thời kỳ đổi mới mang tên ông: phố Trần Duy Hưng. Các đường phố quanh đó mang tên những người đã từng lãnh đạo Hà Nội như Nguyễn Ngọc Vũ, Lê Văn Lương, Nguyễn Khang, Khuất Duy Tiến. Và mới đây, chuẩn bị cho đại lễ 1000 năm Thăng Long, tại cuộc họp chiều 14-7-2010 của Hội đồng nhân dân Thành phố Hà Nội, các đại biểu đã nhất trí đặt tên đoạn đường nối dài từ phố Trần Duy Hưng đến Hòa Lạc là Đại lộ Thăng Long.

Ngô Thế Long
qdnd.vn

Chiến sĩ Điện Biên “dấn thân” vào trận tuyến mới

Tới thăm nhà riêng của ông tại khu C7 – Nghĩa Tân (Cầu Giấy, Hà Nội), tôi ngạc nhiên khi thấy ông khá rành vi tính, internet và cả… chuyện thương trường. Ông bảo, từ ngày về hưu, rồi cùng cô con gái mở công ty riêng, người ta vẫn hay gọi ông là doanh nhân, nhưng với ông, hai chữ “doanh nhân” vẫn cần phải bàn thảo nhiều. Gặp và trò chuyện với ông, ít ai nghĩ rằng Đại tá, Cựu chiến binh Phạm Xuân Phương đã ở tuổi 81 và từng là cán bộ tiền khởi nghĩa…

Cuộc đối thoại thú vị với tướng Pháp Bi-gia

Ông Phạm Xuân Phương là người được sinh ra trong một gia đình viên chức có nghề thợ nhuộm ở phố Hàng Đào (Hà Nội). Khi mới 16 tuổi và đang học trường Tây, cậu học sinh Phạm Xuân Phương được bạn bè rủ tham gia hoạt động cách mạng trong phong trào học sinh cứu quốc của Hà Nội. Có tên trong số hai chục thanh niên được chọn lên Chiến khu hoạt động, Phạm Xuân Phương đã bí mật bỏ nhà đi theo cách mạng. Được biên chế vào trung đội Giải phóng quân, ông là người ít tuổi nhất. Ông tâm sự: “Ngày ấy, chúng tôi hiểu rất rõ điều gì đã thôi thúc các cô, cậu học trò sớm trở thành những chiến sĩ Việt Minh, đó là vì dân ta chết đói quá nhiều, vì dân ta đang phải chịu ách áp bức “một cổ hai tròng” của Pháp, Nhật,… Cảnh tượng ấy đã thôi thúc chúng tôi đi theo cách mạng và nhiều người đã trở thành những “ngòi nổ” mạnh mẽ trong các cuộc kháng chiến”.

Tấm ảnh ông Phương chụp với tướng Bi-gia tại Hà Nội được  đăng trên tạp chí truyền hình “Telé 7 ngày” của Pháp (số ra ngày 1-7-1994).

Sau Cách mạng Tháng Tám, ông được cử đi học tại Trường Quân chính kháng Nhật rồi trưởng thành từ một cán bộ tiểu đội ở địa bàn Chiến khu 3. Là người lính trải qua hai thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ, làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào, Cam-pu-chia và bảo vệ biên giới phía Bắc, ông vinh dự có mặt ở nhiều chiến dịch lớn. Ông kể với tôi kỷ niệm trong lần trở lại Điện Biên Phủ năm 1994, khi ông được Trung ương Hội Cựu chiến binh giới thiệu đi cùng đoàn khách du lịch Pháp tới thăm lại chiến trường xưa, trong đoàn có tướng Mác-xen Bi-gia (Marcel Bigeard) – nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn dù 6 – người từng bày tỏ nguyện vọng sau khi chết được rải tàn tro xác mình xuống chiến trường Điện Biên Phủ. Khi đi cùng, ông mới biết mục đích chuyến đi của họ là làm bộ phim tài liệu về tướng Bi-gia. Sau khi được phép của các cơ quan chức năng, đoàn làm phim đã mời ông Phương cùng cộng tác với vai trò người đối thoại với tướng Bi-gia. Ông Phương là người sành tiếng Pháp, qua những cuộc trò chuyện với đoàn làm phim, ông đã làm họ ngạc nhiên bởi thứ tiếng Pháp ông  đang dùng là một thứ ngôn ngữ cổ điển, giàu hình ảnh, phong phú về từ vựng, đôi lúc ông còn dùng cả tiếng lóng của quân đội Pháp. Họ hỏi ông học tiếng Pháp ở đâu, ông bảo: “Tôi học ở Việt Nam, chính người Pháp các anh dạy tôi đấy!”. Hôm tới cứ điểm Hồng Cúm, tướng Bi-gia hỏi ông Phương:

– Ông có nhớ sự kiện ngày 16-3-1954?

– Đó là ngày ba tiểu đoàn dù của các ông đổ bộ xuống Điện Biên Phủ và có một tiểu đoàn đổ bộ ở đây, không biết đó có phải tiểu đoàn của ông?

– Chính tôi là người chỉ huy tiểu đoàn đó.

– Ông nhớ nhất điều gì?

– Khi tôi lơ lửng trên trời, thấy những làn đạn của các ông bắn lên và lúc đáp xuống bãi đổ bộ là những loạt đại bác…

– Tôi chính là người có mặt trong Trung đoàn đang bao vây Hồng Cúm. Hồi đó, may mà chúng tôi… bắn trượt ông đấy.

Câu nói dí dỏm của ông Phương và cuộc đối thoại sau 40 năm của hai người lính từng ở hai chiến tuyến sau đó đã được phát trên truyền hình Pháp. Rất nhiều người thân, bạn bè ở Pháp đã nhận ra ông Phương – người chiến sĩ tham gia Chiến dịch Điện Biên khi ở tuổi 25…

“Dấn thân” vào chốn thương trường

Sau 48 năm quân ngũ, năm 1992, ông Phương về nghỉ hưu với quân hàm đại tá. Khi biết bố mình tuy nghỉ hưu nhưng vẫn còn trăn trở với cuộc chiến chống đói nghèo, lạc hậu, cô con gái cả Phạm Thị Lan Anh đã khởi xướng ý tưởng lập công ty riêng và mời ông Phương đảm đương vai trò quản lý. Ông nhớ lại: “Vào những năm đầu thập kỷ 90, cả hai cha con tôi còn mang nặng tư duy và lối sống bao cấp, hiểu biết về chủ trương, chính sách pháp luật liên quan đến doanh nghiệp cũng còn giản đơn, nhưng tôi coi đây là một sự “dấn thân” trên trận tuyến mới”. Sau những khó khăn ban đầu, Công ty TNHH Anh Phương do ông làm Chủ tịch Hội đồng quản trị, con gái ông là Giám đốc đã dần đứng vững với thương hiệu bê tông thương phẩm và dịch vụ công nghiệp. Giờ đây, sau hơn 10 năm, công ty do cha con ông gây dựng đã trở thành Công ty cổ phần Bê tông và xây dựng A&P với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt mức 20-25%, lương bình quân của người lao động đạt 3,4 triệu người/tháng. Ông bảo: “Một công ty do hai cha con cùng khởi nghiệp, nhưng chính con gái tôi là người táo bạo khởi xướng, khác hẳn với công ty gia đình kiểu phương Tây trong đó người cha gây dựng, quản lý và điều hành rồi chuyển giao cho con cái”.

Ở tuổi 81 nhưng hằng ngày ông Phương vẫn miệt mài làm việc bên máy vi tính.

Không muốn là người đóng vai trò “danh dự” trong công ty, ông đã dành nhiều thời gian nghiên cứu, giúp con gái định hướng, tổng kết hoạt động. Thông qua các mối quan hệ cũ, mới ở trong và ngoài nước, ông trực tiếp phụ trách các hoạt động xã hội, từ thiện và mảng chấp hành chính sách với người lao động. Doanh nghiệp của ông đã tham gia nhiều hoạt động từ thiện như: viện trợ xây dựng Bệnh viện Bình Gia (Lạng Sơn); hỗ trợ nuôi dạy trẻ em đường phố Đà Nẵng; đóng góp, tôn tạo di tích làng cổ Đường Lâm và chùa Mía (Sơn Tây, Hà Nội). Như ông tự nhận: “Tôi chỉ làm chỗ dựa tinh thần cho con gái và đảm đương vai trò “người cầm trịch” trong công ty”, nhưng với ý thức trách nhiệm của một đảng viên làm kinh tế tư nhân, ông còn đóng góp ý kiến, tham luận tại một số diễn đàn, hội thảo.

Năm 1998, tại cuộc gặp gỡ 800 doanh nghiệp tiêu biểu do Văn phòng Chính phủ phối hợp với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh, ông Phương đã có bài phát biểu được nhiều người đánh giá cao. Ý kiến của ông khi đó có nhiều điểm khá mới bởi ông đã mạnh dạn đề cập tới chuyện đảng viên làm kinh tế tư nhân. Theo ông, mặt trận chống đói nghèo đòi hỏi đảng viên phải là người tiên phong bởi mình là đảng viên mà nghèo, lại không biết làm ăn thì khó có thể vận động được người khác. Bởi vậy, người đảng viên không những phải tự mày mò, tìm bước đi để thành công trong việc làm kinh tế mà còn phải tự đổi mới tư duy để chiến thắng cái cũ kỹ, lạc hậu. Ông nêu lên những trăn trở của mình về hai chữ “doanh nhân”, khi mà những người từ tầng lớp “con buôn” trước đây đã trở thành lớp người được trọng thị và có nhiều đóng góp trong xã hội. Theo ông, các cấp, ngành cần dày công nghiên cứu, tìm hiểu kỹ hơn về họ, phải nhận diện doanh nhân thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau và đi sâu tìm hiểu những nét khác biệt của từng thành phần kinh tế trong một cộng đồng doanh nhân đa dạng về quy mô, tính chất, từ đó mới có thể đưa ra được nhiều đường lối, chính sách “đúng và trúng” về đội ngũ này.

Như lời ông tâm sự, cả đời ông trước sau vẫn chỉ là một người lính, một đảng viên bình thường với niềm tự hào nho nhỏ là đã đem hết sức mình để hoàn thành nhiệm vụ ở mỗi “trận tuyến”. Những năm tháng thử sức trong cơ chế thị trường đã đem lại cho ông nhiều niềm vui, nhưng đó cũng là quãng thời gian ông da diết nhớ tới đồng chí, đồng đội, những người đã cùng ông chia ngọt sẻ bùi và mãi mãi nằm xuống để ông, gia đình ông và tất cả chúng ta có được ngày hôm nay…

Bài và ảnh: Minh Tuệ
qdnd.vn

Người con của đất Kẻ Chợ

Tôi xin phép được gọi anh Nguyễn Siêu Hải là người con đất Kẻ Chợ vì gia tộc anh, chỉ kể đến anh, đã có 13 đời sinh cơ lập nghiệp tại đây. Hà Nội xưa vốn gọi là Kẻ Chợ. Với thuận lợi trên và thừa hưởng một gia tài văn bản học quý của ông cha để lại, anh am hiểu nhiều chuyện xưa tích cũ của quê hương cách đây nhiều thế kỷ.

Anh sinh năm 1924, đỗ tú tài thì gặp Cách mạng Tháng Tám, vậy là trở thành anh Giải phóng quân lên Sơn La tiễu phỉ, rồi anh Vệ quốc đoàn khiêng pháo hành quân đánh giặc. Vừa đánh giặc vừa ký họa bằng bút sắt, vừa viết văn. Truyện ký Voi đi của Siêu Hải in trong Tạp chí Văn nghệ năm 1949 gây được tiếng vang lớn vì miêu tả hiện thực rất sống động và chân thực, được đưa vào sách giáo khoa dùng trong trường học, được các nhà xuất bản tái bản 19 lần.

Mùa xuân năm 1990, Siêu Hải đến chúc Tết Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại nhà riêng. Đại tướng ân cần hỏi: “Vẫn viết đấy chứ?”. Ảnh do nhân vật cung cấp

Thu – Đông 1947, giặc Pháp mở cuộc hành quân quy mô lớn đánh lên Việt Bắc với tham vọng tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến của ta. Siêu Hải là người có sáng kiến đề nghị cấp trên cho chuyển pháo đến sát mép nước, thực hiện đặt gần bắn thẳng. Sau đó tại khúc Đoan Hùng của sông Lô, anh chỉ huy trung đội sơn pháo của ta bắn chìm 3 tàu chiến, bắn trọng thương một chiếc khác, góp phần cùng các đơn vị bạn bẻ gãy trận càn của giặc Pháp do tên quan năm Com-muy-nan chỉ huy.

Nhạc sĩ Văn Cao có Trường ca sông Lô nổi tiếng. Siêu Hải là người trong cuộc nên có một trường ca bằng văn xuôi để tạo nên đôi bạn song hành. Vậy là Siêu Hải viết, viết rồi sửa chữa đến bốn lần. Tiểu thuyết Sông Lô ra đời cũng được dư luận hoan nghênh. Một thời gian sau, khi tái bản mang tên mới Sông Lô xanh (theo tác giả tâm sự, cái tên mới ít nhiều gợi cho bạn đọc âm hưởng bản nhạc Đa-nuýp xanh!).

Bị cuốn hút bởi nhiều công việc khác nhau như viết sử binh chủng, làm phim giáo khoa, rồi chỉ huy một trung đoàn trọng pháo 130mm ở giới tuyến quân sự, Siêu Hải vẫn ấp ủ một ước mơ cháy bỏng là được viết một bộ tiểu thuyết dài hơi về Thăng Long-Hà Nội. Vậy mà cho đến năm 1984, bước vào tuổi lục tuần, anh mới thực hiện được. Đó là khi anh được về hưu với quân hàm đại tá, gia đình tương đối ổn định. Đề cương bộ tiểu thuyết anh đã làm xong từ lâu, nay hoàn chỉnh không tốn quá nhiều thời gian, chia thành ba tập.

Nửa chừng, di chứng sốt rét, bệnh chảy máu dạ dạy và cơ thể suy nhược buộc anh phải đi cấp cứu. Khi được ra viện, bác sĩ yêu cầu phải nghỉ ngơi không lao động trong sáu tháng. Nhưng chỉ ba tháng sau, Siêu Hải lại ngồi vào bàn và miệt mài viết. Để đến năm 1992, tập 1 của bộ tiểu thuyết mang tên Mảnh trăng Tô Lịch, gồm 29 chương, đã hoàn thành. Khi được xuất bản, tác phẩm có sức cuốn hút mạnh, các bài điểm sách trên báo chí đều khen ngợi.

Anh Siêu Hải tâm niệm: “Phải tiếp tục dấn bước, và viết cuốn sau hay hơn cuốn trước”. Vậy là trong góc nhỏ của căn nhà phố Hàng Chiếu, anh lại cặm cụi, say mê viết. Thời gian này vật giá đang leo thang, lạm phát phi nước đại, chị Chắt vợ anh nhiều khi muốn mua chục quả trứng, dăm lạng thịt bồi dưỡng cho chồng, cũng khó. Nhưng anh không để tâm đến chuyện đó. Đơn vị cũ cấp cho tấm phiếu may đo bộ lễ phục, anh cũng quên khuấy. Năm 1995 là Bóng chiều Thăng Long và năm 1997 là Nắng kinh thành được xuất bản. Vậy là trọn bộ tiểu thuyết về Thăng Long-Hà Nội đã có trên giá sách người hâm mộ, chỉ có điều chúng đã vắt kiệt sức tác giả. Bù lại, anh nhận được nhiều lời khen ngợi. Nhà nghiên cứu Phan Ngọc đánh giá: “Siêu Hải là nhà tiểu thuyết về văn hóa Việt Nam”.

Lớp đàn em chúng tôi nhớ mãi lời anh Siêu Hải thổ lộ khi trò chuyện: “Tôi chiến đấu và viết văn đều hăng say, nhưng không hề ý thức mình là nhà văn. Chẳng thế mà Hội Nhà văn Việt Nam kết nạp tôi vào Hội tới hai lần đó!”. Chuyện này trở thành một giai thoại vui trong giới văn nghệ sĩ. Do đó thật dễ hiểu vì sao mọi người đều quý mến anh, bởi anh viết văn với động cơ trong sáng, ẩn mình để viết, vượt qua tuổi già và bệnh tật để viết và cống hiến cho đời nhiều hoa thơm quả ngọt, đặc sản của Hà thành.

Đầu xuân năm nay, anh nói với tôi qua điện thoại là sẽ có món quà nhỏ đóng góp vào Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội. Đó là tiểu thuyết Thủ đô ta, dày khoảng 400 trang. Đến nay chắc đã có bản thảo hoàn chỉnh, nó đang ở trên bàn biên tập của một nhà xuất bản nào đó…

Trương Nguyên Tuệ
qdnd.vn

Người Tự vệ thành trong 60 ngày đêm quyết tử

Đại tá Nguyễn Trọng Hàm.

Trong số những người lính tham gia 60 ngày đêm quyết tử bảo vệ Thủ đô, có người là chiến sĩ Vệ quốc đoàn, chiến sĩ tự vệ chiến đấu thành Hoàng Diệu hoặc chiến sĩ công an, nhưng phần đông là những chiến sĩ Tự vệ thành tự nguyện ở lại chiến đấu giam chân địch, tạo điều kiện để toàn quốc bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp. Ông Nguyễn Trọng Hàm là một trong những chiến sĩ Tự vệ ấy…

Nguyễn Trọng Hàm sinh ra và lớn lên ở phố Hàng Thiếc (nay thuộc phường Hàng Gai, Hà Nội) trong một gia đình lao động. Sớm giác ngộ cách mạng, ông tham gia các hoạt động chống Nhật, Pháp từ những ngày tiền khởi nghĩa và trực tiếp tham gia giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám rồi hăng hái tham gia các hoạt động giữ vững chính quyền non trẻ. Trước yêu cầu nhiệm vụ mới, ông cũng là người tham gia thành lập và tích cực hoạt động trong Tự vệ thành Hà Nội từ những ngày đầu tiên. Ông đã trực tiếp xây dựng đại đội Tự vệ Thành ở khu phố Hàng Thiếc gồm đủ thành phần: Công nhân, viên chức, học sinh, sinh viên, tiểu thương, tiểu chủ…

Trong những ngày tháng mùa Đông năm 1946, khi đường phố Hà Nội sục sôi không khí chiến đấu chống trả các hoạt động phá hoại, khiêu khích trắng trợn của quân đội thực dân Pháp, Nguyễn Trọng Hàm đã chỉ huy Tự vệ thành và nhân dân các khu phố đào hào, đắp lũy, rải chướng ngại vật, dựng ba-ri-e cát ở các ngã tư, đục tường thông từ nhà nọ sang nhà kia, tạo thành các trận địa chiến đấu liên hoàn sẵn sàng đánh trả địch. Khi bọn lê dương mũ đỏ từ trong thành xông ra đi khiêu khích quấy phá, ngăn trở công tác chuẩn bị chiến đấu của ta, ông đã chỉ huy lực lượng tự vệ đánh trả quyết liệt, diệt một số tên, buộc chúng phải nhiều lần rút chạy.

Những ngày tháng chạp căng thẳng cuối năm 1946, thực dân Pháp càng trắng trợn gây hấn ép buộc ta, Nguyễn Trọng Hàm đã cùng Đại đội tự vệ tự nguyện ở lại chiến đấu với lời thề “Sống chết với Thủ đô”, “Thề hy sinh đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ Thủ đô”. Sau hơn nửa tháng chiến đấu, giữa khói lửa bom đạn ác liệt, ngày 6-1-1947, Trung đoàn liên khu I được thành lập. Đến ngày 12-1-1947, Hội nghị quân sự toàn quốc họp ở Chương Mỹ (Hà Tây cũ) đã tặng đơn vị danh hiệu Trung đoàn Thủ Đô. Nhân sự kiện này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nói: “Đặt tên cho Trung đoàn ấy không có một tên nào oanh liệt hơn là tên Trung đoàn Thủ Đô”.

Sau ngày thành lập trung đoàn, Nguyễn Trọng Hàm được cử làm Trung đội trưởng Trung đội 2 thuộc Tiểu đoàn 102 (khu Đông Thành) đảm nhiệm các tuyến phố Hàng Thiếc, Hàng Bồ, Hàng Bút, Hàng Phèn, Thuốc Bắc… đánh vào các mục tiêu của Pháp ở quanh thành Cửa Đông và ngăn chặn địch từ Cửa Đông, Đường Thành đánh ra. Ông đã chỉ huy nhiều trận tập kích, phục kích vào các mục tiêu, diệt nhiều tên và phá hủy nhiều xe tăng, xe cơ giới của địch. Đặc biệt trong trận đánh quyết tử giữ vững trận địa phố Hàng Thiếc suốt 3 ngày đêm từ 7 đến 10-2-1947, Trung đội 2 do ông chỉ huy đã cùng Trung đội 3 của đồng chí Nguyễn Anh Dũng đánh bại cuộc tiến công của địch, làm thất bại âm mưu đánh sâu vào trung tâm Liên khu 1 – cơ quan chỉ huy đầu não của Trung đoàn – hòng nhanh chóng kết thúc cuộc chiến đấu của Trung đoàn Thủ Đô. Trận địa phố Hàng Thiếc cùng các tuyến phố Bát Đàn, Hàng Bồ, Thuốc Bắc đã được giữ vững cho đến đêm rút quân cuối cùng ngày 17-2-1947.

Sau 8 năm lăn lộn chiến đấu trên các chiến trường, ông đã trở thành một tiểu đoàn trưởng dày dạn kinh nghiệm trận mạc của Trung đoàn Thủ Đô, trực tiếp tham gia nhiều chiến dịch lớn từ Việt Bắc đến Tây Bắc, từ Trung du đồng bằng đến Điện Biên Phủ. Rồi lời thề “ra đi hẹn ngày về” năm xưa cũng được thực hiện. Ngày 10-10-1954, Nguyễn Trọng Hàm đã cùng Trung đoàn trở về giải phóng Thủ đô giữa rừng cờ đỏ sao vàng, giữa muôn ngàn đóa hoa tươi thắm cùng tiếng reo hò, tiếng đàn hát của hàng vạn đồng bào Hà Nội…

Sau khi Tổ quốc thống nhất, Đại tá Nguyễn Trọng Hàm được cấp trên điều động về làm Phó tham mưu trưởng Quân khu Thủ Đô. Trên cương vị mới, lúc này tuy tuổi đã cao nhưng ông luôn đề cao trách nhiệm, hoàn thành xuất sắc trọng trách của mình, được cấp trên, đồng đội và nhân dân quý trọng, yêu mến. Nghỉ hưu đã hơn 20 năm, Đại tá Nguyễn Trọng Hàm vẫn được tín nhiệm bầu làm Trưởng ban liên lạc Chiến sĩ quyết tử Liên khu I, Trung đoàn Thủ Đô. Ông sống rất tình nghĩa, chân thành, hết lòng vì đồng chí đồng đội. Mặc dù tuổi cao, sức yếu, gia đình gặp nhiều khó khăn nhưng ông luôn hăng hái tích cực hoạt động giúp đỡ những người bạn, người đồng chí đã cùng chiến đấu và trở thành tấm gương sáng cho các thế hệ con cháu noi theo.

Nguyễn Huy Du
qdnd.vn

Những người tôi thương nhớ

Hồi ấy, tôi và nhà thơ Xuân Hoàng được Hội Nhà văn cho về thâm nhập thực tế ở vùng Quảng Bình – Vĩnh Linh. Lúc này vợ con chúng tôi đều ở Quảng Bình.

Khi Mỹ ném bom, bắn phá ác liệt ở vùng Quảng Bình, Vĩnh Linh, thì tôi được Hội triệu tập ra trại sáng tác Quảng Bá, Hà Nội.

Nhà văn Trần Công Tấn và con gái Thúy Vinh ở Hà Nội.

Ra dự trại có Thu Bồn, Liên Nam, Anh Đặng… Ngồi viết sách nhưng thỉnh thoảng chạy ra hầm hố ẩn nấp khi nghe loa phóng thanh báo có máy bay địch hướng về Hà Nội. Mỗi lần như thế, Thu Bồn và tôi đội mũ sắt, đeo súng ngắn vào hông, sẵn sàng nếu bộ đội phòng không bắn rơi máy bay thì hai đứa tôi lao theo dân quân đi bắt giặc lái Mỹ.

Đứng trên bờ đê Yên Phụ – Nhật Tân, chúng tôi thấy rõ tên lửa bay, máy bay Mỹ bị nổ tung giữa bầu trời. Mọi người vỗ tay reo hò, vui mừng như trẻ con rồi lao ra bãi sông Hồng, đi bắt giặc lái.

Nhưng những ngày vui đó cũng chóng qua do Mỹ ngày càng đánh phá ác liệt hơn. Năm 1971, Hội Nhà văn sơ tán vào Bến Đục. Trại viết văn chấm dứt. Thu Bồn, Liên Nam chuẩn bị theo Văn nghệ quân đội đi sơ tán. Tôi chuẩn bị đạp xe về Quảng Bình thì vợ tôi – cô giáo Phan Thị Bích An bất ngờ đem hai con gái nhỏ: Trần Thị Ngọc Lan mới tám tuổi và Trần Thúy Vinh hai tuổi ra Hà Nội giao cho tôi và nói: “Tỉnh ủy chủ trương tất cả đảng viên cho con nhỏ đi sơ tán ra các tỉnh phía Bắc, rồi trở về mà đánh giặc. Giáo viên thì đào hầm, đưa trường lớp xuống dưới lòng đất mà dạy. Còn vài ba học sinh cũng phải bám trụ mà dạy”.

Nói rồi, Bích An ôm con nhỏ, ngủ lại một đêm. Sáng hôm sau dậy sớm, rón rén ôm hôn con rồi trở về Quảng Bình.

Mọi người đi hết, tôi cảm thấy bơ vơ. Cháu Vinh lại ốm, nằm một chỗ. Nghe còi báo động máy bay, tôi ôm con nhỏ, dắt con lớn chạy xuống hầm.

Thu Bồn nhìn cha con tôi, ái ngại nói:

– Tấn đừng lo. Mình sẽ ở lại với cha con cậu.

Ngày ngày, Thu Bồn vác súng hơi đi quanh vùng Nhật Tân – Quảng Bá bắn chim. Chim gì cũng bắn: Chào mào, họa mi, sáo sậu, cu gáy, cà cưỡng… miễn là có chim đem về lấy thịt nuôi cháu Vinh.

Anh Chế Lan Viên và Nguyễn Tuân lên thấy Vinh ốm, Chế Lan Viên đi bắt cóc về làm thịt, băm viên, nấu cháo đỗ xanh cho Vinh ăn. Anh Tuân nói: “Tấn là “nhà quân sự”, ông không thấy Quảng Bá nằm cạnh con đê và cây cầu bắc qua sông Hồng. Mỹ nó đang nhằm ném bom cho vỡ đê, sập cầu. Phải đưa con đi chỗ khác”. Nói rồi anh móc túi cho hai chục đồng, dặn: “Cầm lấy mua thức ăn nuôi cháu”. Anh còn rỉ tai: “Này này. Mua cá mè của bọn câu trộm ở hồ Quảng Bá, Hồ Tây thì rẻ hơn cá ở chợ”…

Tôi nghe anh Tuân, đem con về sơ tán giữa… trung tâm Hà Nội. Ở nhờ căn hộ của nhà văn Hoàng Lại Giang và nhà thơ Lữ Huy Nguyên tại 52  Trần Nhân Tông.

Giang và Nguyên lấy sách xếp chồng lên cái bàn viết. Chất sách cao hai bên bàn làm cái hầm cho ba cha con ẩn nấp khi máy bay Mỹ đến.

Cả xóm Trần Nhân Tông đông vui thế đi sơ tán hết chỉ còn mấy người ở lại: Giang và Nguyên, bà Lê bán cháo gà, cô Quy uốn tóc, bà Tiệp hàng xén và ba bố con tôi. Sống tạm ổn vì có người chung quanh được mấy ngày thì Giang và Nguyên đi thực tế vào chiến trường miền Nam. Lúc địch ném bom trúng ga Hàng Cỏ thì cả xóm đi hết không còn ai. Trước khi sơ tán, bà Tiệp nói: “Anh là nhà văn, nhà báo thì ở lại cùng đánh Mỹ mà viết lách. Cứ giao hai cháu Lan, Vinh đi sơ tán với chúng tôi”. Cô Quy và bà Lê cũng muốn đưa hai con của tôi theo nhưng các cháu khóc, không muốn xa bố.

Anh Nguyễn Đình Thi, Chủ tịch Hội Nhà văn biết tin, đến thăm. Anh nói sẽ cho xe Hội Nhà văn đến đón ba bố con đi Bến Đục. Tôi thưa rằng cha con tôi cần ở lại Hà Nội, tìm xe quân sự của Đoàn 559 để về lại Quảng Bình. Anh lắng nghe tôi nêu đủ lý do để ở lại Hà Nội nhưng vẫn khuyên tôi nên đem hai con đi sơ tán. Anh nói rằng sắp đến Mỹ sẽ dùng máy bay B52 ném bom rải thảm hủy diệt Hà Nội… Tôi nói, ở giữa Hà Nội như thế này là an toàn lắm rồi, vẫn chưa ác liệt bằng lúc tôi ở Quảng Bình.

Biết tôi không thể rời Hà Nội, anh Thi nói:

– Thôi được, nếu ở lại thì ở Hội Nhà văn có cái hầm ẩn nấp tốt. Tấn đem các cháu đến đó mà tránh bom ít hôm…

Sau đó là vào những ngày ác liệt trong mười hai ngày đêm tháng Chạp năm 1972 bám trụ Hà Nội trong cái hầm sách ở 52 Trần Nhân Tông. Cha con chúng tôi vẫn sống trong sự đùm bọc của người Hà Nội.

Vợ chồng các nhà văn Nguyễn Anh Tài, Văn Linh mang đến cho chúng tôi bánh mì khô (bít cốt) tem phiếu để mua gạo, đậu phụ và cá thịt. Anh Chế Lan Viên, Bùi Hiển thì cho tiền. Thu Bồn từ chỗ Văn nghệ quân đội số 4 Lý Nam Đế mang đến cho một thùng lương khô…

Bà Tiệp, bà Lê, cô Quy vài ba bữa ở nơi sơ tán đem về cho chúng tôi quả bầu, quả bí, ít khoai lang và thức ăn.

Tôi nhớ có ông già tổ trưởng dân phố tên là bác Mai. Bác mặc sơ mi, quần tít-xo màu mỡ gà, là thẳng tắp. Tay chống gậy “ba toong” đến gặp tôi. Bác lễ phép cất cái mũ phớt khỏi mái đầu bạc ra vẻ chào, giương mục kỉnh ái ngại nhìn tôi và nói:

– Bố con anh là người ngụ cư bất ngờ, cho nên tôi không thể buộc anh mang các cháu đi sơ tán như các vị khác trong phố này. Nhưng cảm phiền anh: Đầu hôm anh cho biết ba bố con có ở lại đêm không. Nhỡ nó bom sập nhà, biết có người đang ở trong nhà để cho dân quân tự vệ đến đào bới mà cấp cứu.

Nói xong bác Mai lại chống gậy đến nhà khác. Từ đó, cứ đầu hôm bác đến gặp tôi. Mở sổ tay bác ghi nắn nót tên tôi và hai cháu. Đêm lại còi báo động, súng cao xạ, tên lửa rực trời. Tiếng bom nổ chỗ này, chỗ khác.

Rạng sáng bác Mai đến ngoài ngõ hỏi chõ vào: “Anh Tấn ơi! Vẫn còn ở đấy chứ”. Tôi vui mừng báo: “Ba bố con tôi vẫn bình yên, bác Mai ạ”. Bác cười, lọc cọc chống gậy đi.

Có hôm bác hỏi xong, lại nói: “Anh ra tôi bảo cái này”. Tôi chạy ra, bác trao cho gói xôi nóng, nói: “Đem vào cho hai cháu”. Cứ như vậy. Lúc thì gói xôi, lúc ổ mì, lúc mấy củ khoai luộc. Bác góp phần nuôi bố con tôi.

Tác giả (bên trái) khai thác phi công Lô-chát Hây-đơ lái máy bay F4H bị bắn rơi tại Thác Cóc, Quảng Bình ngày 9-3-1965. Ảnh do tác giả cung cấp

Tôi nhớ cái đêm kinh hoàng, giặc Mỹ đưa máy bay B52 đến ném bom Hà Nội. Chỗ chúng tôi ở rất gần phố Khâm Thiên, ga Hàng Cỏ, Bệnh viện Bạch Mai. Bom nổ, tiếng đạn cao xạ, tên lửa bắn đuổi máy bay, bầu trời Hà Nội đỏ rực như máu. Đêm cuối năm trời rét dữ, tôi lấy tất cả chăn gối của nhà Lại Giang, Lữ Huy Nguyên ủ ấm cho hai con rồi ra ngoài trời nhìn. Bom nổ rền bốn bên. Tên lửa vạch những đường đỏ rực bay lên. Máy bay B52 bị trúng đạn, bùng cháy, những khối lửa rơi lả tả. Tiếng reo hò của những người còn ở lại Hà Nội vang rền cả phố hoan hô bộ đội tên lửa và cao xạ. Chốc sau có tiếng chân người hối hả chạy qua nhà tôi, bắc loa gọi cả xóm đến Khâm Thiên cứu người bị sập hầm. Tôi đội cái mũ sắt, đeo súng ngắn vào và dặn con gái lớn: “Lan ở nhà trông em để ba đi cứu người”.

Băng qua đường sắt chạy vào đầu phố Khâm Thiên đã thấy lố nhố bộ đội, tự vệ, dân quân, thanh niên xung phong tay xẻng, tay cuốc đang hối hả đào bới những căn hầm bị sập. Một số bác sĩ, y tá đang băng bó cho người bị thương. Một số bộ đội và dân phố đang khiêng những tử thi ra khỏi đống gạch ngói đổ nát. Tôi đã nhận ra các nhà văn bám trụ Hà Nội cũng trong số người đào bới hầm sập. Anh Nguyễn Tuân, Thu Bồn đội mũ sắt. Chị Giên Phôn-đa, diễn viên điện ảnh Mỹ đang đưa máy lên ghi hình… chẳng ai nói với ai lời nào, chỉ nghe tiếng thở hổn hển và tiếng đất đá cuốc xẻng chạm nhau.

Cứ thế, mọi người miệt mài hối hả đào bới hết nhà này sang nhà khác trong lúc bom đạn và tiếng máy bay rền trời.

Trời rạng dần, máy bay địch đã mất hút. Sực nhớ đến hai con, tôi chạy về phố Trần Nhân Tông, vào nhà kêu tên con, chẳng có tiếng trả lời. Căn hầm sách chỉ còn chăn gối. Hốt hoảng, tôi đi tìm quanh nhà bà Lê, bà Tiệp, cô Quy vẫn trống vắng.

Một anh tự vệ nói: “Ra hồ Ha Le. Người chết, người bị thương, người lạc vô thừa nhận đều tập trung cả ngoài ấy”.

Tôi chạy quanh hồ Thuyền Quang, chỗ trước Đại sứ quán Lào, có mấy cái xác chết. Mấy người bị thương đang được băng bó và lố nhố dăm bảy đứa trẻ con. Tôi chạy ào đến thì hai con tôi trong đám xác chết và bị thương bước ra. Vinh khóc khản cả tiếng. Lan kêu: “Ba ơi! Ba ơi! Ba đi đâu mà lâu thế?”. Tôi ôm lấy hai con. Áo cả hai đứa đều lấm máu. Tôi sờ khắp người con xem chúng bị thương ở đâu. Chẳng có vết thương nào cả. Lan nói: “Ông Mai đến không thấy ba. Ông bảo mấy cô mấy chú bế con ra đây ngồi một chỗ với các bạn khác!”.

Tôi hiểu bác Mai tổ trưởng đã chăm sóc trẻ vắng bố mẹ bằng cách này. Hỏi Lan có đói không? Khát không? Lan nói: “Các cô các chú cho ăn cho uống rồi”. Tôi thầm biết ơn các cô chú y tế, dân quân tự vệ rồi xưng tên là bố của hai cháu và xin mang con về. Tôi phải ký vào cuốn sổ của cô giữ trẻ mới được bế Vinh và dắt Lan ra khỏi đám người chết, người bị thương ở bên bờ hồ Ha Le.

Bom đạn ác liệt đến thế, người Hà Nội vẫn bình tĩnh gan lì chiến đấu và chăm sóc nhau.

Trên đường trở về phố Trần Nhân Tông, tôi lắng nghe tin chiến thắng đêm qua vang lên trên các loa phóng thanh. Các em bé bán báo ôm những xấp báo lớn, cầm trên tay tờ báo đã mở, giơ lên vẫy vẫy vừa chạy vừa reo:

– Báo mới đây. Ta đã bắn rơi nhiều máy bay B52 của giặc Mỹ, bắt sống cả bầy giặc lái dẫn về nhốt chật trại giam… Báo mới đây!

Sau tin chiến thắng là bài ca “Người Hà Nội” bi tráng vang lên trên các loa phóng thanh:

Đây hồ Gươm, Hồng Hà, Hồ Tây

Đây lắng hồn núi sông ngàn năm

Đây Thăng Long

Đây Đông Đô

Đây Hà Nội, Hà Nội mến yêu…

Giờ đây hai con tôi ở Hà Nội năm ấy đã trưởng thành: Ngọc Lan đi làm luận án tiến sĩ ở Nga đã trở về giảng dạy Trường Đại học Văn Hóa. Thúy Vinh tốt nghiệp Nhạc viện Hà Nội, giảng dạy ở Nhạc viện TP Hồ Chí Minh, học cao học ở Pa-ri và hiện đang giảng dạy đàn dương cầm ở nước ngoài. Hẳn hai cháu không bao giờ quên những ngày ở Hà Nội, đã được người Hà Nội che chở thương yêu đùm bọc. Công ơn to lớn ấy chúng tôi không bao giờ quên.

Trần Công Tấn
qdnd.vn

Bốn mươi năm, đồng đội vẫn chưa về…

Một ngày cuối tháng 3 năm 2009, cựu chiến binh Hoàng Sơn Lâm ở phường Lê Lợi (thành phố Bắc Giang) trở lại thăm chiến trường Phước Sơn (Quảng Nam) –  nơi ông làm nhiệm vụ ở Đài quan sát của Trung đoàn 230 trên điểm cao 1599 và chứng kiến sự hy sinh anh dũng của 15 chiến sĩ đặc công thuộc đơn vị bạn trong trận đánh ngày 5-8-1970. Sau chuyến đi năm ấy, ông Lâm đã cần mẫn chắp nối thông tin từ các đồng đội và được biết họ là lính đặc công của Tiểu đoàn 404 – Quân khu 5…

Chắp nối thông tin tìm tên đồng đội

Để tìm hiểu rõ hơn về trận đánh diễn ra cách đây bốn thập kỷ, cựu chiến binh Hoàng Sơn Lâm đã cất công tìm kiếm tư liệu trong các cuốn lịch sử của nhiều đơn vị đặc công trên chiến trường Khu 5, nhưng không thấy tư liệu nào nhắc đến trận đánh này. Từ thành phố Bắc Giang, ông đã đi xe buýt về Hà Nội và tìm đến Tòa soạn Báo Quân đội nhân dân. Tới Ban Tư liệu, ông tỉ mỉ lật giở những chồng báo cũ và tìm được thông tin về trận đánh đăng trên Báo Quân đội nhân dân số ra ngày 7-8-1970: “Đêm 4 rạng ngày 5-8-1970, Quân giải phóng đã tiến công quân Mỹ thuộc Lữ đoàn 196 đóng ở Khâm Đức. Địch thú nhận đây là trận tiến công lớn nhất của Quân giải phóng vào quân Mỹ sau những trận đánh ở vùng điểm cao 935 phía tây thành phố Huế”. Có được thông tin chính xác về ngày hy sinh của đồng đội, ông Lâm lại tích cực liên hệ với các nhân chứng của Tiểu đoàn 404 để biết rõ hơn về những người tham gia trận đánh. Ông và các cựu chiến binh có cùng tâm nguyện đã tới Cục Chính sách – Tổng cục Chính trị, Phòng Chính sách Quân khu 5 và tập hợp nhiều nguồn thông tin khác nhau để tìm danh sách các liệt sĩ. Sau một thời gian kiên trì tìm kiếm, họ đã biết được tên của 7 trong số 17 liệt sĩ đặc công hy sinh ngày ấy.

CCB Hoàng Sơn Lâm (đứng giữa) và CCB Tiểu đoàn 404 tới thắp hương tại nơi đồng đội hy sinh 40 năm trước. (Ảnh do CCB Tiểu đoàn 404 cung cấp)

Tìm gặp cựu chiến binh Nguyễn Văn Bắc-nguyên Trợ lý quân giới Tiểu đoàn đặc công 404 – chúng tôi đã được ông kể khá chi tiết về trận đánh bi hùng của tiểu đoàn mình. Trận tập kích vào cứ điểm Khâm Đức đêm 4 rạng ngày 5-8-1970 được xác định là một trận đánh quan trọng, đối phương là lực lượng cơ động mạnh nên mũi chủ công được tiểu đoàn lựa chọn gồm 15 cán bộ, chiến sĩ đều là những cán bộ ưu tú, dày dạn kinh nghiệm. Dù bất lợi về thời gian và cách đánh, dù vũ khí mỗi người chỉ có 1 súng AK, 2 băng đạn, 6 quả thủ pháo, song mũi chủ công được chia làm 5 tổ do đồng chí Trợ lý Tác huấn Tiểu đoàn làm mũi trưởng đã dũng cảm chiến đấu giữa vòng vây dày đặc của địch. Trong lúc chiến đấu, địch phát hiện và bịt cửa mở, tất cả 15 cán bộ, chiến sĩ của mũi chủ công đã anh dũng hy sinh trong đồn địch và hai chiến sĩ khác hy sinh ở vòng ngoài…

Điều mong mỏi sau bốn mươi năm

“Sáng 5-8, tại trận địa, chúng tôi nghe loa của địch rêu rao trên máy bay là đã “tiêu diệt 15 Cộng quân”, ngay lúc đó tôi có hỏi anh Biền là Tham mưu phó Tiểu đoàn, anh cũng xác nhận 15 anh em của ta đã hy sinh trong trận đánh vào đồn địch đêm 4-8. Sau này, khi địch rút khỏi Khâm Đức, chấm dứt đợt càn lên hành lang Khu 5, tôi còn nhớ tại nơi địch đóng quân có một hố bom được san lấp và rào dây thép gai cẩn thận. Theo phán đoán của tôi, đó có thể là nơi địch chôn thi thể của các liệt sĩ hy sinh trong trận tấn công cứ điểm Khâm Đức”, Cựu chiến binh Nguyễn Văn Bắc nhớ lại.

Khi biết Ban CHQS huyện Phước Sơn (Quảng Nam) đã hai lần tổ chức tìm kiếm hài cốt liệt sĩ Tiểu đoàn đặc công 404 vào các năm 2001, 2007 và chưa có kết quả, ngày 6-6-2009, đồng đội Tiểu đoàn đặc công 404 đã tổ chức một chuyến đi trở lại chiến trường xưa do cựu chiến binh Nguyễn Văn Bắc dẫn đầu từ Hà Nội vào Khâm Đức. Dựa vào tài liệu của Tổ chức Cựu binh Mỹ tham chiến tại Việt Nam (VVA) do cơ quan quân sự huyện lưu giữ, đoàn đã tìm kiếm ở khu vực trường bắn đoạn giáp với sông Nước Chè, nhưng kết quả vẫn không tìm thấy hài cốt các liệt sĩ. Đầu tháng 8 năm 2010, gia đình liệt sĩ Nguyễn Văn Tiến ở Quốc Oai (Hà Nội) cũng tổ chức tìm kiếm ở khu vực phía đông đường băng thuộc khu cột cờ, cũng giống như ba lần tìm kiếm trước, khu vực chôn cất các liệt sĩ vẫn chưa được xác định.

“Trở lại Khâm Đức lần thứ hai vào tháng 6 năm ngoái, tôi và các chiến sĩ Tiểu đoàn 404 chỉ thắp được cho đồng đội nén hương để anh linh các liệt sĩ được an ủi phần nào. Chúng tôi vẫn cảm thấy lòng mình day dứt bởi đã nhiều lần tìm kiếm mà các anh vẫn chưa “về”. Hy vọng trong năm nay, khi vừa tròn 40 năm các liệt sĩ ngã xuống, chúng ta sẽ tìm thấy họ”, cựu chiến binh Hoàng Sơn Lâm đã tâm sự với chúng tôi như vậy. Điều ông Lâm và các cựu chiến binh Tiểu đoàn 404 mong mỏi hiện nay là muốn được đồng đội trên khắp cả nước cung cấp thêm thông tin về danh sách các cán bộ, chiến sĩ tham gia trận tiến công cứ điểm Khâm Đức và nên chăng cần dựng một tượng đài kỷ niệm ngay tại nơi các anh đã anh dũng hy sinh…

Bùi Vũ Minh
qdnd.vn

“Sổ, tem, phiếu” thời bao cấp

“Ngẩn ngơ như người mất sổ gạo” là thành ngữ điển hình của thời bao cấp ngày xưa. “Sổ gạo” tức là “Sổ lương thực” mà Nhà nước ta thời ấy phát cho mỗi hộ gia đình. Trong sổ ghi rõ họ tên, tiêu chuẩn lương thực hằng tháng của từng người. Đầu tháng, mang “Sổ gạo” ra cửa hàng lương thực gần nhất, xếp hàng, đợi gạo. Có dạo bán cả tháng, có dạo lại chỉ bán nửa tháng một. Gọi là “Sổ gạo”, nhưng thường thường là “nửa gạo, nửa mì”. Mì, có khi là mì bột, có khi là mì sợi, do các nước XHCN ngày ấy viện trợ cho Việt Nam. Thời đánh Mỹ lại càng nhiều mì. Cũng lắm khi, thay cho mì là ngô xay, là sắn khô, và sau này là hạt bo bo.

Phiếu thực phẩm

Nông dân, hiển nhiên là không có “Sổ gạo”. Riêng những làng nghề-ví dụ như quê tôi, làm thêm nghề tằm tơ, kiêm nghề dệt lụa gia công cho Nhà nước – thì những nhà, những người thợ thủ công này, cũng có “Sổ gạo”. Bộ đội và ai làm “công nghiệp nặng”, được 21kg mỗi tháng. Ưu tiên sinh viên sư phạm, cũng vậy, còn thì tùy vào nghề mà “ăn” 19kg, 17kg, 15kg mỗi tháng. Giáo viên, thị dân thì được 13,5kg. Trẻ con còn được ít hơn nữa, theo tuổi. Ngoài số lương thực trong “Sổ gạo”, không thể mua thêm ở đâu nữa, trừ khi bỏ tiền ra mà đi ăn… phở hay mì ở ngoài. Thế nên mới có chuyện, khi vợ họa sĩ Nguyễn Quân đặt “Sổ gạo” lên bàn, chán nản thông báo: “Gạo chưa về!”, thì họa sĩ (vốn là con trai duy nhất của một thiếu tướng quân đội ta) cười bảo: “Gạo chưa về, nhưng phở về rồi!”. Thế là cả nhà bỏ tiền ra, đi ăn phở đợi gạo. Mà phở, mì thời ấy, đa số là phở “mậu dịch”, mì “không người lái”- tức là không có một chút thịt nào. Thiểu số có thịt, thì thịt mỡ, thái mỏng, dày gấp chừng năm lần tờ giấy bóng kính, quạt mạnh là bay mất! Nhân viên cửa hàng ăn ngày ấy thái thịt giỏi gấp mấy lần “thằng Mới” trong ngày làng có việc xưa kia. Cũng vì thế cho nên, những làng nấu rượu “quốc lủi” thời đó bị cấm, không được nấu rượu bằng gạo. Ở các làng Vân Hà, Đại Lâm (Hà Bắc thời đó), người ta nấu rượu bằng sắn. Nếu bất ngờ, công an và phòng thuế đến kiểm tra, chỉ cần thấy bã rượu gạo, tức là chủ lò đã “vi phạm chính sách lương thực”, và tất nhiên là không thể tha được.

Nhưng cũng chính vì thế, mà dân Hà Bắc đã đưa được việc nấu rượu sắn lên thành “nghệ thuật”. “Rượu Vân” trở thành “đặc sản” mãi, là vậy.

Một cửa hàng thực phẩm thời bao cấp.

Bên cạnh đó, hình thành cả một nghề là nghề buôn rượu (lậu), chủ yếu là rượu Vân-rượu sắn. Có một người làm nghề này, sau bỏ nghề, kể với tôi: “Cho rượu vào săm ô-tô, thông đồng với cánh lái xe, chở về Hà Nội từ tờ mờ sáng. Đem săm ô-tô rượu để dưới vòi nước công cộng, lấy chân đạp thật lâu, rượu sẽ ngon hơn. Có đứa dã man, còn cho vào săm rượu mấy giọt thuốc trừ sâu Vô-pha-tốc, rồi cho thêm nước lã vào, đạp thật lâu. Rượu uống thấy nặng hẳn, lãi nhiều hơn!”. Trời ơi, Vô-pha-tốc là thuốc độc, cực độc, giờ đã cấm dùng! Từ khi nghe chuyện ấy, tôi và bạn bè tôi uống rượu Vân ít đi, không dám say nhiều như trước nữa. Nhưng rượu Vân không ngon bằng rượu Bắc Hà (Lào Cai) nấu bằng ngô. Rượu men lá Việt Bắc, nhẹ và nhạt! Rượu cần thì phải uống cả đêm, không hợp với phong tục “nhắm rượu” của dân Bắc Hà. Bây giờ dịch thơ Đường, thấy Lý Bạch suốt ngày say, vẫn thọ 62 tuổi, lại nghĩ, ngày ấy mình bớt rượu là dại! Và thấy Vương Tích, cũng là thi nhân đời Đường, viết: “Hôm nay ta say tràn cung mây – Ừ rằng như thế là không hay – Nhưng kìa, thiên hạ không ai tỉnh – Ta tỉnh làm chi giữa đất này?”, lại càng thêm quý rượu.

Nói vòng vo thế, để thấy rằng, “mất Sổ gạo” thật là một thảm họa, và người mất sổ ngơ ngẩn ngẩn ngơ nhất đời, là vì thế.

Trong một cửa hàng ăn uống thời bao cấp.

Bên cạnh “Sổ gạo”- “Sổ lương thực” – là “Tem gạo” và “Phiếu thực phẩm”. “Tem gạo” là để dùng khi đi công tác lẻ hoặc đi phép, có từ loại 100 gam đến 5 ki-lô-gam, 10 ki-lô-gam. “Phiếu thực phẩm” có các loại, từ cao xuống thấp, là A, B, C… N. Sổ loại A mua ở Tôn Đản (phố Tông Đản bây giờ). “Đi xe Vôn-ga, ăn gà Tôn Đản” là thế. Dân thường thì dùng phiếu N. Phiếu chia ô, đánh dấu tháng. Mỗi lần mua thức gì, cắt một ô. Có ô thịt, ô đường, ô mì chính, ô đậu phụ… Thế nên mới có chuyện, một ông tổ trưởng dân phố đi họp nghe phổ biến cách bầu đại biểu Quốc hội, về nhà phổ biến lại cho dân là “Bỏ người ở ô x…”, thì do không chú ý, một bà buột miệng kêu trời: “Thôi chết! Thế là tháng này mất đậu phụ rồi!”. Vì có nhiều loại tem, phiếu như vậy (ngoài “Sổ gạo”, “Phiếu thực phẩm”, còn có “Phiếu chất đốt”, “Phiếu vải” nữa-mỗi người 4m. Phụ nữ thì có tiêu chuẩn mua lụa đen, phíp đen để may quần), nên ở đâu cũng thấy “xếp hàng”. Xếp bằng người, xếp bằng gạch vỡ ở những cửa hàng lương thực, thực phẩm, củi, than; xếp hàng xem phim. Ở thôn quê, mỗi tháng có từ một đến hai buổi chiếu phim, do các tổ chiếu phim lưu động chiếu lần lượt ở các xã. Vé bán 1 hào một người, trẻ con thì 5 xu. Tôi, 11 – 12 tuổi, đi gánh nước thuê cho cụ Hàn ở Hoàng Mai, 40 gánh thì được 2 hào, thừa tiền xem phim. Nhưng có hôm bí, theo bạn xem phim “chui rào”, về bị anh cả bắt thức cả đêm để “kiểm điểm”! Mua “chất đốt” thì tôi lên Cầu Đổ trên phố Đại La xếp hàng. Ở đó bán củi, than – than cám, than “quả bàng” (chưa có than tổ ong như bây giờ). Sau này có cả dầu hỏa để đun bếp dầu. Ở nông thôn thì thôi, cứ đi kiếm củi, cắt rạ, vặt cỏ may, cắt lá chuối, quét lá rụng, giữ trấu… mà đun. Có lẽ không ở đâu trên thế giới này, người ta chế ra nhiều thứ bếp đun như ở ta thời ấy: Bếp dầu có bấc, không bấc. Bếp đun trấu, lò đun trấu – vừa đun vừa gõ cho trấu rơi xuống. Bếp than cám, bếp than quả bàng. Bếp đun rạ, rơm, củi (có nhà làm bếp hai ngăn, như cái lò dài, đun chính ở ngoài, hơi nóng chạy vào đun phụ ở trong). Sau này là bếp điện may-xo, đỏ rực, lộ thiên, như con giun lửa… Ấy thế mà hăng hái công tác và học tập; mà sản xuất và đánh giặc; mà sống và giúp nhau sống; mà vô tư, thanh sạch.

Ngày ấy, ở Hà Nội, nhà nào cũng có bếp dầu và ấm đun nước, gò – hàn bằng ống bơ sữa bò. Có khách, mươi phút là có nước pha trà (phích nước lúc ấy phân phối, không đủ dùng).

Thế nên mới có chuyện, cố thi sĩ Lưu Trọng Lư, khi đó là quyền Tổng thư ký Hội Nghệ sĩ sân khấu (tạm thay cụ Thế Lữ già yếu), Chủ nhiệm Tạp chí Sân khấu, “dại dột” in một bài thơ của tác giả Dũng Hiệp, có câu: “Hoan hô văn nghệ sĩ chúng ta – Uống nhiều nước pha trà, đun bằng ống bơ – Nên thơ ngân vang chất thép”…, và bị “xử lý”- thôi chức! “Con nai vàng ngơ ngác – Đạp trên lá vàng khô”, “Nụ cười đen nhánh sau tay áo”, “Áo đỏ người đem trước giậu phơi”… cũng chẳng cứu được! Chính Lưu Trọng Lư kể cho tôi nghe chuyện đó v.v…

Từ ngày “Đổi mới”, bao sự vừa kể không còn nữa. Đời sống, nói chung, đã tốt hơn nhiều. Nhưng mỗi thời có cái hay, cái dở của nó. Kể đôi lời về thời cũ, chỉ là để “ôn cố – tri tân”. Cái triển lãm “Một thời bao cấp” do ông tiến sĩ Nguyễn Văn Huy, con cụ Nguyễn Văn Huyên, cựu Giám đốc Bảo tàng Dân tộc học, là một triển lãm hay. Ai không xem, kể cũng tiếc!

Cái nước mình hay thật! Dân mình còn hay hơn: Thế nào thì cũng tìm ra “phương thức tồn tại” của mình. Sinh con đẻ cái, dựng vợ gả chồng, xây nhà xây cửa, trồng trọt chăn nuôi (cả trong toa-lét tập thể!), làm thơ và đánh giặc… không thua ai việc gì! “Bần tiện bất năng di”. Ta là “Quân tử” thật!

Có lẽ, chỉ có thời bao cấp mới đẻ ra lắm anh hùng kiểu ấy. Bây giờ lại có anh hùng kiểu khác!

Đỗ Trung Lai

Ảnh trong bài: Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
qdnd.vn

Từ Thủ đô các nhà báo ra trận

Sau ngày Ngô Đình Diệm phản bội không thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ,  phong trào đấu tranh ở miền Nam ngày càng sôi sục, tiếng vọng ra tới miền Bắc. Báo chí trên miền Bắc – lúc đó chủ yếu là Hà Nội – đã tích cực tham gia cuộc đấu tranh ủng hộ phong trào ở miền Nam lên án bọn Ngô Đình Diệm và đế quốc Mỹ, yêu cầu thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ.

Trên các báo chí lúc đó đã từng tập trung nhiều đợt tuyên truyền về cuộc đấu tranh ở miền Nam, như phản đối Diệm dùng luật 10/59 giết hại ông Hoàng Lê Kha và các đồng chí; vụ tố cáo chính quyền Sài Gòn gây ra các vụ thảm sát ở chợ Được, Vĩnh Trinh, Bến Tre; phản đối vụ thảm sát tập thể các tù chính trị ở trại giam Phú Lợi… Các nhà báo vừa hoạt động nghiệp vụ, vừa tham gia biểu tình kéo đến Ủy ban Quốc tế yêu cầu chấm dứt đàn áp, khủng bố.

Vào những năm đầu thập kỷ 60 thế kỷ trước, chúng tôi chưa hiểu rõ sự cần thiết chi viện cho miền Nam. Vài năm sau đó mới mang máng nghe có các nhà báo đã rời Hà Nội về Nam.

Luật sư Nguyễn Hữu Thọ và các nhà báo trong chiến khu. Ảnh tư liệu

Tôi biết một nhà báo quân đội đã về Nam rất sớm, đó là anh Lê Nguyên Phổ ở Tạp chí Văn nghệ quân đội. Anh là đồng hương và là bạn chiến đấu trong kháng chiến chống Pháp với Vũ Tùng (Chủ tịch Hội Nhà báo yêu nước và dân chủ miền Nam), Hoàng Lê Kha, Tỉnh ủy viên Tây Ninh. Anh vượt Trường Sơn về Nam với tên mới Bùi Kinh Lăng – tên hai con kênh anh đã sống và chiến đấu là kinh Bùi và kinh Bằng Lăng. Anh được giao phụ trách Tiểu ban Văn nghệ và sau này là Tiểu ban Báo chí.

Nhà báo Vũ Đương (Đài Tiếng nói Việt Nam) cũng rời Hà Nội về miền Nam khá sớm. Với tên mới là Thanh Nho, anh phụ trách Tiểu ban Báo chí rồi Đài Phát thanh Giải phóng. Cùng đi vào dịp đó còn có anh Bến Nghé (từ Việt Nam Thông tấn xã), anh Hoàng Hà (từ Đài Phát thanh).

Năm 1961, 1962 Báo Nhân Dân có hai đồng chí quê ở Khu 5 cũng “biến mất”: Anh Hồ Diểng, Trưởng ban Tuyên truyền thống nhất về Khu 5 làm Trưởng ban Tuyên huấn; anh Bùi Cảnh (Ban Công thương) về Nam Bộ làm Tạp chí Tiền Phong của Đảng bộ.

Năm 1964, anh Trần Phong (Tổng biên tập Báo Cứu Quốc) theo tàu chở vũ khí vào Bến Tre rồi đi bộ về Tây Ninh. Các anh Tống Đức Thắng (Trần Tâm Tri), Thái Duy (Trần Đình Vân) vượt Trường Sơn về Nam Bộ. Cũng vào năm này có nhà báo – nhà thơ Hoài Vũ, nhà báo Đinh Phong cũng vượt Trường Sơn về công tác tại Báo Giải Phóng. Cũng năm 1964, nhà báo Thụy Nga (Bảy Vân) từ Báo Hải Phòng theo tàu không số về thẳng miền Tây Nam Bộ.

Từ 1965 cho đến sau này, nhiều nhà báo ở Thông tấn xã như Võ Nhân Lý, Nguyễn Đức Giáp, Lê Đình Khuyên… cũng đã về Nam. Nhà báo Trọng Dân (Đài Tiếng nói Việt Nam); Thế Phiệt (Báo Cứu Quốc), Kim Toàn (Báo Hải Phòng), Mạnh Tùng (Báo Công Giáo)… cũng đã về tăng cường cho các báo, đài…

Trung ương Đoàn cũng cử một đoàn nhà báo về chi viện cho công tác tuyên truyền của Đoàn – trong đó có nhà văn – nhà báo Sơn Tùng.

Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ cử các nhà báo: Dương Thị Xuân Quý (về Khu 5), Lê Đoan, Lê Phương (về Nam Bộ)…

Báo Nhân Dân đã cử nhà báo Thép Mới vượt Trường Sơn vào chiến trường với tên mới Hồng Châu. Một số nhà báo về Khu 5 – trong đó có Đặng Minh Phương, Nguyễn Trọng Định, Nguyên Ngọc Tứ, Nguyễn Huy. Nhà báo Tuất Việt từ Báo Nhân Dân cũng đã có mặt ở miền Nam trước chiến dịch Mậu Thân.

Quân đội đã cử vào Nam đội ngũ nhà báo, nhà văn khá hùng hậu, như: Nguyễn Thi, Võ Trần Nhã, Phú Bằng, Ngọc Bằng, Nguyễn Trọng Oánh, Thanh Giang, Ngọc Châu… và nhiều nhà quay phim thời sự.

Đội ngũ các nhà báo từ Hà Nội vào chiến trường đã chấp nhận gian khổ, ác liệt trong nhiều tháng vượt Trường Sơn, lại chấp nhận bám sát các xóm ấp chống địch gom dân lập “ấp chiến lược”, bám sát các đơn vị bộ đội trên khắp các chiến trường. Đội ngũ đó đã kết hợp với đội ngũ các nhà báo trưởng thành từ phong trào đấu tranh ở đô thị, ở đồng bằng, trở thành đạo quân báo chí hùng hậu từ trong chiến tranh cho đến ngày tiến về giải phóng Sài Gòn. Từ Hà Nội, hàng loạt phóng viên các Báo Quân đội nhân dân, Nhân Dân, Thông tấn xã, Đài Tiếng nói Việt Nam… đã nhanh chóng bám theo các đơn vị chủ lực vượt qua các trận đánh ác liệt tiến về Sài Gòn.

Một số nhà báo ra đi từ Hà Nội nhưng không còn được trở về Thủ đô, không còn dịp đi dạo Bờ Hồ, hóng mát Hồ Tây. Vì độc lập thống nhất, họ đem theo niềm thương nhớ Hà Nội và gia đình vào cõi vĩnh hằng.

Đinh Phong
qdnd.vn