Tag Archive | CAND

Hội nghị đánh giá kết quả lấy ý kiến đóng góp về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992

Ngày 15/3 tại Hà Nội, Bộ Tư pháp tổ chức Hội nghị đánh giá kết quả lấy ý kiến đóng góp về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Đồng chí Hà Hùng Cường, Ủy viên TW Đảng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp chủ trì hội nghị.

Thông qua việc lấy ý kiến, Bộ Tư pháp có đánh giá chung về bản Dự thảo Hiến pháp 1992 như: Có nhiều đổi mới trong việc phân công thực hiện quyền lực, xác lập cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; Cơ chế đảm bảo dân chủ đã có những bước tiến bộ. Xác lập cơ chế bảo đảm phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN…

Về cơ bản, dự thảo Hiến pháp năm 1992 đã đặt nền móng pháp lý cho việc giải quyết những vấn đề bất cập, tồn tại của thực tiễn được đúc kết trong quá trình tổng kết việc thi hành Hiến pháp 1992. Đồng thời, đảm bảo là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có tính dự báo và ổn định lâu dài, kế thừa với sự điều chỉnh hợp lý những giá trị phản ánh đặc thù chính trị – pháp lý được ghi nhận tại các bản Hiến pháp của nước ta.

Tuy nhiên, nhiều ý kiến cũng cho rằng, có một số quan điểm, định hướng lớn của Đảng, Nhà nước thể hiện trong Cương lĩnh, Nghị quyết Đại hội Đảng khóa XI, Nghị quyết TW2 và 5 khóa XI và trong Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi Hiến pháp năm 1992 chưa được thể chế hóa triệt để, nhất là về kiểm soát quyền lực, về phân công nhiệm vụ giữa các cơ

C. Hồng
cand.com.vn

Chế định Bảo vệ Tổ quốc cần được thiết lập một cách chặt chẽ trong Hiến pháp

Góp ý kiến vào “Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992”

PGS,TS Hà Việt Dũng (Thiếu Tướng, Hiệu Trưởng Trường Đại Học ANND)
Qua nghiên cứu các quy định của Hiến pháp 1992 và Dự thảo Hiến pháp (sửa đổi năm 2013), PGS,TS Hà Việt Dũng Thiếu tướng, Hiệu trưởng Trường Đại học ANND kiến nghị sửa đổi, bổ sung chế định Bảo vệ Tổ quốc.

Thực tế đã cho thấy, lịch sử lập hiến của nước ta đã trải qua nhiều giai đoạn với sự ra đời của bản Hiến pháp đầu tiên – Hiến pháp 1946 – một đạo luật căn bản, “luật gốc” và đã trải qua nhiều lần bổ sung, sửa đổi. Với vị trí là một chế định quan trọng nên từ trước tới nay, chế định Bảo vệ Tổ quốc luôn được đề cập và từng bước bổ sung ngày càng hoàn thiện hơn. Qua nghiên cứu các quy định của Hiến pháp 1992 và Dự thảo Hiến pháp (sửa đổi năm 2013), chúng tôi kiến nghị sửa đổi, bổ sung chế định Bảo vệ Tổ quốc trên một số nội dung cụ thể sau:

Một là, cần thiết nên bổ sung thêm một nội dung quy định về khái niệm bảo vệ Tổ quốc. Trên thực tế, Bảo vệ Tổ quốc là một chế định quan trọng được đề cập đến trong nội dung tất cả các Hiến pháp từ Hiến pháp 1946,1959, 1980 và Hiến pháp 1992, song từ trước đến nay chưa có bản Hiến pháp nào có nội dung quy định giải thích về khái niệm Bảo vệ Tổ quốc. Do vậy, cần thiết nên có một điều hoặc có nội dung giải thích về thuật ngữ này trong chương IV. Theo chúng tôi, có thể hiểu khái niệm bảo vệ Tổ quốc như sau: “Bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời. Bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội; bảo vệ Đảng, Nhà nước bảo vệ nhân dân và chế độ XHCN

Hai là, cần thiết nên bổ sung quy định rõ trong Hiến pháp lực lượng vũ trang nhân dân bao gồm những lực lượng nào. Thực tế cho thấy, tại chương IV của dự thảo, tất cả các điều đều có liên quan đến thuật ngữ “lực lượng vũ trang nhân dân”, song lực lượng vũ trang nhân dân bao gồm những lực lượng nào lại không có điều khoản nào xác định rõ. Theo đó, cần xác định ngay trong Hiến pháp lực lượng vũ trang bao gồm các lực lượng cụ thể là: Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và lực lượng dân quân tự vệ.

Ba là, cần thể chế quan điểm Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, toàn diện về mọi mặt đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, giữ vững an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội vào chế định bảo vệ Tổ quốc trong Hiến pháp sửa đổi. Đây là nội dung quan trọng xác định nguyên tắc lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; đồng thời, chỉ rõ sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc ở nước ta.

Bốn là, đối với Điều 44 Hiến pháp 1992 (Điều 69 Dự thảo). Từ những vấn đề đã nêu trên (điểm 1, 2, 3), theo chúng tôi cần thiết bổ sung sửa đổi Điều 69 của dự thảo là: “Bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời. Bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội; bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ nhân dân và chế độ XHCN. Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội là sự nghiệp của toàn dân. Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, toàn diện về mọi mặt đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, giữ vững an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân trong đó lực lượng vũ trang nhân dân bao gồm Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và Dân quân tự vệ giữ vai trò nòng cốt; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới”.

Năm là, đối với Điều 45 Hiến pháp 1992 (Điều 70 Dự thảo). Cần bổ sung nội hàm về tham gia bảo vệ chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời của Tổ quốc, giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống. Đây là vấn đề đã được Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI xác định rõ. Do vậy, Hiến pháp cần bổ sung vấn đề bảo vệ chủ quyền biển đảo, vấn đề an ninh phi truyền thống nhằm tạo cơ sở pháp lý cao nhất để bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Như vậy, Điều 45 (Điều 70 của dự thảo) sẽ được sửa đổi là: “Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, biển đảo, biên giới, vùng trời, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế”.

Sáu là, đối với Điều 46 Hiến pháp 1992 (Điều 72 dự thảo) và Điều 47 Hiến pháp 1992 (Điều 73 dự thảo). Điều 46 và 47 Hiến pháp 1992 (Điều 72 và 73 dự thảo) quy định việc xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng cách mạng chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại. Theo chúng tôi không cần giữ cụm từ “cách mạng” trong các điều này. Theo đó, các điều này được chỉnh sửa như sau: Điều 46 (Điều 72 dự thảo): Quân đội nhân dân Việt Nam được xây dựng chính quy tinh nhuệ, từng bước hiện đại; lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ được xây dựng hùng hậu, rộng khắp, cùng với Quân đội nhân dân làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng. Điều 47 (Điều 73 dự thảo): Công an nhân dân Việt Nam được xây dựng chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, làm nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự an toàn xã hội, đấu tranh phòng chống tội phạm.

Bảy là, đối với Điều 48 Hiến pháp 1992 (Điều 73 Dự thảo). Điều này cần bổ sung thêm vấn đề “công nghiệp an ninh” và khái quát hơn về chế độ chính sách với lực lượng vũ trang. Theo đó, cần thể chế hóa quan điểm của Đảng về “xây dựng nền công nghiệp an ninh” và bổ sung mối quan hệ giữa kinh tế với an ninh vào Điều 48 Hiến pháp 1992 (Điều 73 dự thảo) cụ thể như sau:“Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân, giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân; thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, chính sách hậu phương đối với lực lượng vũ trang, xây dựng công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh, bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang, kết hợp quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ và chiến sĩ, công nhân, nhân viên lực lượng vũ trang, xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ đất nước”.

Sửa đổi Hiến pháp là vấn đề cần thiết nhưng cũng rất hệ trọng nên phải tiến hành một cách chặt chẽ, khoa học, có sự tham gia của các chuyên gia và lấy ý kiến rộng rãi nhân dân. Về chế định Bảo vệ Tổ quốc, chúng tôi nêu một số nội dung cơ bản cần sửa đổi, bổ sung trong Hiến pháp để cùng trao đổi

H.V.D.
cand.com.vn

Quân đội phải tuyệt đối trung thành với Đảng

Tọa đàm góp ý kiến vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp về xây dựng quân đội và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc:

Ngày 13/3, Báo Quân đội nhân dân tổ chức buổi tọa đàm góp ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 về xây dựng quân đội và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, từ Điều 69 đến Điều 73 nằm trong Chương Bảo vệ Tổ quốc.

Nội dung buổi tọa đàm tập trung vào các vấn đề: Khẳng định bản chất giai cấp của quân đội nói chung và Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam nói riêng; sự cần thiết phải Hiến định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với lực lượng vũ trang (LLVT) nói chung và QĐND Việt Nam nói riêng trong Hiến pháp; nội hàm và hình thức thể hiện vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với QĐND Việt Nam trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 và một số nội dung khác.

Các vấn đề trên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng không chỉ quyết định đến vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng, an ninh, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và xây dựng quân đội mà còn là những định hướng, là con đường để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trung tướng, PGS.TS Nguyễn Tiến Bình, nguyên Chính ủy Học viện Quốc phòng nêu ý kiến: “Lý luận và thực tiễn tổ chức và hoạt động của quân đội trong lịch sử nhân loại, nhất là thực tiễn gần 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của QĐND Việt Nam đã chứng minh và khẳng định vấn đề có tính quy luật: phải luôn coi trọng hàng đầu việc xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chính trị – tinh thần là đặc trưng bản chất và là ưu thế vượt trội trong sức mạnh của quân đội ta – một quân đội kiểu mới trong lịch sử nhân loại, mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, có tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Bản chất chính trị của quân đội kiểu mới thể hiện tập trung rõ nét ở lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội (CNXH), vì hạnh phúc của nhân dân… cốt lõi là sự trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước XHCN và gắn bó máu thịt với nhân dân; ở cơ chế lãnh đạo, chỉ huy thực hiện nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội…”.

Các đại biểu dự buổi tọa đàm.

Trung tướng Nguyễn Tiến Bình cũng khẳng định: “Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với quân đội, xây dựng quân đội luôn vững mạnh về chính trị là nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong xây dựng QĐND Việt Nam. Đây là một vấn đề chiến lược không chỉ có ý nghĩa quyết định đối với sức mạnh chiến đấu của quân đội, mà còn liên quan trực tiếp đến sự an nguy của đất nước và sự sống còn của chế độ XHCN. Sẽ mắc sai lầm nghiêm trọng về chiến lược và phải trả ngay những giá đắt nếu xa rời nguyên tắc đó. Sự sụp đổ và tan rã của Liên bang Xô viết, sự mất ổn định và lâm vào khủng hoảng của một số nước cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, những biến động chính trị, xã hội ở khu vực Bắc Phi – Trung Đông từ năm 2010 đến nay… cho chúng ta những bài học sâu sắc về vấn đề này. Với lẽ đó, cần hiến định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với LLVT nói chung và QĐND Việt Nam nói riêng”.

Tiến sỹ Cao Đức Thái, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quyền con người thì nêu quan điểm khẳng định chưa ở đâu và chưa bao giờ quân đội trung lập về chính trị: “Quân đội không phải là một lực lượng chính trị tự lập, không phải là một nhánh quyền lực. Quân đội quốc gia nào cũng luôn gắn với một lực lượng chính trị nào đó. Ngày nay, trong các cuộc khủng hoảng chính trị, xã hội, quân đội luôn là đối tượng của các lực lượng chính trị tranh thủ, lôi kéo nhằm biến quân đội thành công cụ giành giật chính quyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân…”. Đặt trong bối cảnh chính trị quốc tế và trong nước hiện nay, Điều 70 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 dựa trên nội dung chủ yếu câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phù hợp, hơn nữa là cần thiết. Trong bối cảnh có một bộ phận đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống… sự trung thành với Đảng lúc này là trung thành với cương lĩnh, đường lối gắn liền độc lập với CNXH của Đảng, là ủng hộ những nhân tố, những cán bộ, đảng viên ở các ngành, các cấp kiên định mục tiêu xây dựng XHCN, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, chống lợi ích nhóm. Quan điểm cho rằng quân đội chỉ “phải trung thành với Tổ quốc”, không gắn với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là xa lạ với lịch sử cách mạng của dân tộc ta”.

Thiếu tướng, PGS.TS Nguyễn Vĩnh Thắng, Viện trưởng Viện khoa học, Xã hội và Nhân văn quân sự đề nghị bổ sung, hoàn thiện thêm Điều 71. Phải xác định rõ hơn QĐND làm nòng cốt trong vấn đề gì, bổ sung cụm từ “bảo vệ Tổ quốc” vào câu: “…cùng với QĐND làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng” thành “…cùng với QĐND làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng bảo vệ Tổ quốc”.

Tại buổi tọa đàm còn có nhiều ý kiến tham luận của các đại biểu là Giáo sư, Tiến sỹ trong quân đội, nêu bật cơ sở khoa học cả về lý luận và thực tiễn để phản bác lại những âm mưu, luận điệu chống phá của các thế lực thù địch phản động, cơ hội chính trị hòng “phi chính trị hóa” quân đội, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang nói chung và QĐND Việt Nam nói riêng

Việt Hà
cand.com.vn

Cần thành lập HĐ An ninh quốc gia thay cho HĐ Quốc phòng và An ninh

Đại Tá, PGS. TS Nguyễn Hữu Duyện – Hiệu Trưởng Trường Trung Cấp CSND VI
Từ Hội đồng Quốc phòng tối cao được thành lập theo Sắc lệnh số 206 – SL ngày 19/8/1948 đến Hội đồng Quốc phòng theo các Hiến pháp năm 1959, 1980 và Hội đồng Quốc phòng và An ninh ngày nay theo Hiến pháp 1992, cơ quan này mang các tên gọi khác nhau có sự điều chỉnh bổ sung quyền hạn nhiệm vụ nhưng chủ yếu vẫn là nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, còn bảo vệ ANQG thì vẫn còn rất mờ nhạt.

Mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ An ninh Quốc gia theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI là: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời……”.

Còn bảo vệ Tổ quốc cơ bản là ngăn chặn đẩy lùi nguy cơ chiến tranh xâm lược trên bộ, trên biển, trên không và trong tình huống chiến tranh xảy ra thì có thể ngăn chặn và giành chiến thắng trong cuộc chiến tranh đó.

Nếu thống nhất cách hiểu vấn đề như vậy thì khái niệm bảo vệ ANQG đã bao hàm cả bảo vệ Tổ quốc và cũng cần nhấn mạnh bảo vệ ANQG hay bảo vệ Tổ quốc đều là nhiệm vụ của toàn dân, cả hệ thống chính trị chứ không theo quan niệm thông thường bảo vệ Tổ quốc (QP) là việc của Quân đội nhân dân Việt Nam; bảo vệ (hay giữ gìn) an ninh là việc của Công an nhân dân Việt Nam và càng không có vấn đề đặt quốc phòng quan trọng hơn an ninh, Quân đội quan trọng hơn Công an và ngược lại.

Ngoài ra, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trước đây tập trung chủ yếu vào hoạt động quốc phòng và hoạt động an ninh, còn ngày nay không thể thiếu được hoạt động ngoại giao… Trường hợp để giải tỏa xung đột, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chia rẽ các đối thủ, làm mất chỗ dựa pháp lý và cơ sở đạo đức của hoạt động gây hấn, gây chiến tranh phải bằng con đường ngoại giao, hoạt động ngoại giao.

Như vậy, tên gọi Hội đồng Quốc phòng và an ninh không còn phù hợp, không bao quát hết lĩnh vực bảo đảm An ninh quốc gia trong tình hình hiện nay. Chỉ có tên gọi Hội đồng An ninh Quốc gia là ngắn gọn và đầy đủ nhất, đồng thời cũng phù hợp với xu thế chung của các nước trên thế giới (Mỹ, Nga, Nhật Bản, Thái Lan…).

Từ những trình bày và phân tích trên đây, chúng tôi xin đề xuất sửa đổi Điều 104 của Hiến pháp 1992 về tên của “Hội đồng Quốc phòng và An ninh” thành “Hội đồng An ninh Quốc gia”. Đồng thời Khoản 2, Điều 103 sửa thành “Hội đồng An ninh Quốc gia thống nhất chỉ đạo hoạt động quốc phòng, an ninh và đối ngoại, động viên mọi lực lượng và khả năng của nước nhà để bảo vệ Tổ quốc. Trong trường hợp có chiến tranh, nguy cơ xảy ra chiến tranh, xung đột hoặc đe doạ nghiêm trọng an ninh quốc gia, Quốc hội có thể giao cho Hội đồng An ninh Quốc gia những nhiệm vụ và quyền hạn đặc biệt”.

Khi chúng ta đang xây dựng Hiến pháp theo hướng làm rõ quyền hạn, trách nhiệm của từng tổ chức, cá nhân trong bộ máy Nhà nước thì Hội đồng An ninh Quốc gia sẽ là cơ quan bảo đảm thực hiện các chức năng của Chủ tịch nước về quản lý Nhà nước; về xây dựng chính sách đối ngoại quốc phòng và an ninh.

Hội đồng tập trung phân tích thông tin giúp cho Quốc hội, Trung ương Đảng và Chủ tịch nước quyết định những vấn đề then chốt và xử lý các tình huống phức tạp trong tình hình bình thường cũng như khi có khủng hoảng.

Dĩ nhiên, Hội đồng An ninh Quốc gia không có thẩm quyền quyết định những vấn đề quan trọng về Quốc phòng an ninh và đối ngoại, không thể là “một nhà nước trong nhà nước” mà chỉ là một trung tâm phân tích thu thập xử lý các thông tin từ các bộ, ngành trước khi trình lên Chủ tịch nước, Quốc hội, Trung ương Đảng.

Trong trường hợp có khủng hoảng, Hội đồng đó có thể tham vấn các chuyên gia ở các ngành, để nghiên cứu tư vấn cho Chủ tịch nước các chính sách, quyết định về Quốc phòng, ngoại giao, an ninh.

Cơ quan này vì thế sẽ không có thực quyền nhưng lại phải thực sự có ảnh hưởng tới phần lớn các quyết định của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội và Chủ tịch nước, nhất là trong tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, xung đột pháp lý quốc tế về ngoại giao. Cơ quan này được phối hợp hoạt động cùng cơ quan hành pháp và kiểm soát việc thực thi các quyết định của Đảng, Nhà nước về ANQG.

Hội đồng sẽ là cơ quan chính giúp cho Chủ tịch nước ra các quyết định theo Hiến pháp quy định; thu thập thông tin và phối hợp những chính sách Quốc phòng an ninh, ngoại giao trong các cơ quan khác nhau của Quốc hội, Trung ương Đảng và Chính phủ.

Thành viên Hội đồng An ninh Quốc gia không chỉ có đại diện của các bộ sức mạnh chủ chốt mà còn có các bộ, ngành khác. Ngoài phần cứng là Chủ tịch nước, Thủ tướng chính phủ, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, còn thêm các ủy viên không thường trực khác do Quốc hội bầu.

Để giúp việc cho Hội đồng phải có bộ máy gọn nhẹ gồm một số cục, làm việc ở đó là những chuyên gia phân tích, dự báo và xử lý tình huống đến từ Bộ Ngoại giao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng là chính. Ngoài kiến thức chuyên môn, mối quan hệ có sẵn với các đồng nghiệp ở các bộ trên sẽ giúp họ làm việc hiệu quả hơn, nhất là khi triển khai các chủ trương của Hội đồng xuống các bộ, ngành; phối hợp giải quyết các tình huống khẩn cấp. Đây là một tổ chức trực thuộc Chủ tịch nước bên cạnh Văn phòng Chủ tịch nước.

Trên đây là một số suy nghĩ bước đầu, khái quát về tổ chức, nhiệm vụ của Hội đồng An ninh Quốc gia. Xin mạnh dạn nêu ra để tham gia đóng góp cho quá trình sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 liên quan đến nhiệm vụ bảo vệ An ninh quốc gia

N.H.D.
cand.com.vn

Tính tất yếu hiến định vai trò lãnh đạo của Đảng

Điều 4, Hiến pháp 1992 quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.

Bản dự thảo Hiến pháp 1992 (sửa đổi) bổ sung một số điểm nhằm làm rõ hơn nội dung này: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.

Lợi dụng việc lấy ý kiến nhân dân đối với dự thảo Hiến pháp 1992 sửa đổi, thời gian gần đây, trên mạng Internet gia tăng nhiều bài viết của các đối tượng thù địch, phản động và cơ hội, có nội dung kích động, bóp méo, xuyên tạc sự thật, chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Cũng có một số ý kiến do trình độ nhận thức hoặc động cơ khác nhau cùng bàn luận về vấn đề này, nhưng rơi vào cũ mòn, đưa những vấn đề không hề có căn cứ, cơ sở khoa học, vốn bị thực tiễn bác bỏ từ lâu, như việc đòi bỏ Điều 4, dự thảo Hiến pháp 1992 sửa đổi.

Thực tiễn cho thấy, việc quy định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng trong Hiến pháp xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Mỗi quốc gia, mỗi nhà nước dựa trên đặc điểm lịch sử và chính thể để đưa ra các nội dung hiến định; căn cứ đặc điểm cụ thể mà có một đảng hay nhiều đảng chính trị. Đối với Việt Nam cũng có các giai đoạn nhiều đảng (như năm 1946, có thêm Đảng Việt cách và Việt Quốc). Ngày nay, Đảng Cộng sản Việt Nam là một đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo, đặc điểm này do lịch sử và điều kiện Việt Nam quy định. Nhìn chung, đảng, chính quyền cũng được quy định ở nhiều bản hiến pháp các quốc gia trên thế giới, mang tính phổ biến.

Theo nghiên cứu của PGS.TS Nguyễn Viết Thông, Tổng Thư ký Hội đồng lý luận Trung ương thì trên thế giới hầu hết nước nào cũng có đảng chính trị. Trong đó, hiến pháp của nhiều nước có quy định về đảng như hiến pháp của Thổ Nhĩ Kì, Ukraina, Ba Lan, Hàn Quốc… Hiến pháp của nhiều nước khẳng định việc thành lập các đảng chính trị là điều quan trọng, cần thiết để góp phần hình thành nên ý kiến, nguyện vọng, ý thức, ý chí chính trị của nhân dân.

Đối với nước ta, Hiến pháp năm 1980, năm 1992 và dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 quy định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là tất yếu khách quan, thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân Việt Nam. Việc các đối tượng thù địch, phản động hoặc nhiều người khác do trình độ hoặc động cơ khác nhau lặp đi lặp lại điệp khúc “đa nguyên, đa đảng” trên nền tư duy cũ mòn cho thấy một khi sự chống đối hoặc ý kiến không có điểm tựa khoa học và quy luật khách quan, tất yếu sẽ chỉ là trò hề chính trị hoặc rơi vào bế tắc.

Tổ chức lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là một đợt sinh hoạt chính trị quan trọng, rộng lớn trong toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị nhằm phát huy quyền làm chủ, trí tuệ, tâm huyết của các tầng lớp nhân dân, của các cấp, các ngành, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của mỗi cá nhân, cơ quan, tổ chức đối với vấn đề hệ trọng quốc gia, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đồng thời, mỗi người dân cần nêu cao cảnh giác trước âm mưu, hành động của các thế lực thù địch, lợi dụng việc góp ý sửa đổi Hiến pháp để kích động phá hoại.

Vấn đề này đã được thể hiện rõ trong Chỉ thị của Bộ Chính trị về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992: “chỉ đạo chặt chẽ công tác bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội; phối hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan kịp thời đấu tranh, ngăn chặn những hành vi lợi dụng dân chủ việc lấy ý kiến nhân dân để tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá Đảng và Nhà nước ta”

Đăng Trường
cand.com.vn

Cần bổ sung chế độ nghĩa vụ Công an, chính sách hậu phương cho lực lượng CAND

Đại Tá, PGS. TS Trịnh Văn Thanh – Phó Hiệu Trưởng Trường Đại Học CSND
Từ nhận thức về lý luận và thực tiễn vấn đề bảo vệ Tổ quốc ở nước ta từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời đến nay cho thấy vai trò nòng cốt của các lực lượng vũ trang nhân dân là rất quan trọng, trong cả thời chiến cũng như thời bình. Công an nhân dân đã sát vai cùng Quân đội nhân dân trong sự nghiệp đó.

Vì vậy, với tư cách là đạo luật cơ bản của Nhà nước, Hiến pháp là đạo luật gốc cần phải được quy định và thể hiện những vấn đề tư tưởng, cốt lõi về bảo vệ tổ quốc, về vai trò của các lực lượng vũ trang nhân dân, nghĩa vụ tham gia và chính sách hậu phương cho lực lượng vũ trang, về vấn đề kết hợp an ninh – quốc phòng – kinh tế trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Đây là cơ sở để Nhà nước xây dựng các đạo luật cụ thể cũng như các văn bản pháp luật dưới Hiến pháp cho phù hợp và không trái với những quy định của Hiến pháp. Vì vậy, những quy định của Hiến pháp về bảo vệ Tổ quốc cần được thể hiện rõ nét, đầy đủ hơn để làm cơ sở cho chính sách và văn bản pháp luật khác.

Về vấn đề Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN đã được quy định từ Điều 44 đến Điều 48 Chương IV Hiến pháp Việt Nam năm 1992 và trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp được công bố năm 2013 đã quy định ở Chương IV: Bảo vệ Tổ quốc từ Điều 69 đến Điều 73, trong đó đề cập tới vấn đề bảo vệ Tổ quốc và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.

Nghiên cứu quy định tại Điều 73 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã giữ nguyên Điều 48 của Hiến pháp 1992, nội dung cụ thể như sau: “Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân, giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân; thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, chính sách hậu phương quân đội; xây dựng công nghiệp quốc phòng, bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang, kết hợp quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ và chiến sỹ, công nhân, nhân viên quốc phòng; xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ đất nước”.

Từ sự phân tích về lý luận và thực tiễn, chúng tôi đề nghị cần phải quán triệt tư tưởng chỉ đạo và các văn kiện của Đảng vào nội dung Hiến pháp, vì vậy Điều 73 cần được sửa đổi ở một số nội dung dưới đây:

Cần phải bổ sung về chế độ nghĩa vụ Công an, vì thực tế hiện nay lực lượng CAND được tuyển thanh niên đi làm nghĩa vụ trong lực lượng CAND. Nếu thuật ngữ nghĩa vụ quân sự bao hàm cả nghĩa vụ tham gia Quân đội và tham gia Công an thì quy định hiện hành của Hiến pháp là phù hợp, còn nếu nghĩa vụ quân sự chỉ bao hàm nghĩa vụ trong lực lượng Quân đội thì không hợp lý vì Luật Công an nhân dân năm 2005 đang có hiệu lực pháp luật đã quy định vấn đề này, gọi là “phục vụ có thời hạn”, thực chất cũng là làm nghĩa vụ trong lực lượng vũ trang. Vì vậy có thể sửa “nghĩa vụ quân sự” thành “nghĩa vụ tham gia lực lượng vũ trang nhân dân”.

Về thuật ngữ “chính sách hậu phương quân đội” nêu ở Điều 73, chúng ta đều biết, trong thực tiễn các cuộc kháng chiến chống xâm lược ở Việt Nam, với đường lối chiến tranh nhân dân và nền quốc phòng toàn dân thì không chỉ lực lượng Quân đội mới ra tiền tuyến chiến đấu mà cả lực lượng Công an cũng tham gia và như vậy chính sách hậu phương không chỉ áp dụng cho Quân đội mà cần áp dụng cho cả Công an. Bởi vậy, cần sửa cụm từ “chính sách hậu phương quân đội” thành “chính sách hậu phương cho lực lượng vũ trang”.

Vấn đề “xây dựng công nghiệp quốc phòng” là hoàn toàn đúng đắn, tuy nhiên như trên đã phân tích, lực lượng Công an và nhất là lực lượng an ninh cũng cần phải xây dựng “công nghiệp an ninh” để phục vụ trong lực lượng Công an, nhằm kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng – an ninh. Cho nên cần bổ sung “công nghiệp an ninh”.

Tương tự như vậy, cần bổ sung “kết hợp quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng” thành “kết hợp quốc phòng – an ninh với kinh tế và kinh tế với quốc phòng – an ninh”. Sửa cụm từ “bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ và chiến sỹ, công nhân, nhân viên quốc phòng” thành “bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ và chiến sỹ, công nhân, nhân viên lực lượng vũ trang”.

Từ tất cả vấn đề nêu trên, Điều 73 cần sửa lại là: “Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân, giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân; thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự – Công an (hoặc nghĩa vụ tham gia lực lượng vũ trang nhân dân”), chính sách hậu phương cho lực lượng vũ trang; xây dựng công nghiệp quốc phòng – an ninh, bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang, kết hợp quốc phòng – an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng – an ninh, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ và chiến sỹ, công nhân, nhân viên lực lượng vũ trang; xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ đất nước”

T.V.T.
cand.com.vn

Ghi nhận và khẳng định lực lượng vũ trang phải tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân

Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Anh, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Công an

Sau hơn hai tháng từ khi Bộ Công an tổ chức tham gia ý kiến đối với Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trong lực lượng CAND, đến nay 100% cán bộ, chiến sĩ Công an các đơn vị, địa phương đã có những tham luận sâu sắc, thiết thực đóng góp vào dự thảo. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, phóng viên Báo CAND đã trao đổi với Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Anh, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Công an, Ủy viên thường trực Ban Chỉ đạo tổng kết thi hành Hiến pháp năm 1992 trong CAND.

PV: Thưa đồng chí Vụ trưởng, kể từ khi Bộ Công an triển khai đợt lấy ý kiến góp ý sửa đổi Hiến pháp năm 1992, đến nay toàn lực lượng CAND đã thực hiện như thế nào?

Sau khi Quốc hội, Bộ Chính trị và Chính phủ ban hành Nghị quyết, Chỉ thị, Kế hoạch về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Bộ Công an đã nghiêm túc tổ chức triển khai thi hành trong toàn lực lượng CAND các văn bản này và xác định đây là một đợt sinh hoạt chính trị – pháp lý quan trọng, rộng lớn trong toàn lực lượng nhằm phát huy dân chủ trực tiếp, trí tuệ, quyền, nghĩa vụ của công dân đối với Tổ quốc và là trách nhiệm của mỗi cán bộ, chiến sĩ đối với việc xây dựng, sửa đổi Hiến pháp năm 1992.

Theo đó đã ban hành và tổ chức thực hiện Kế hoạch của Bộ Công an về việc tham gia ý kiến đối với Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trong CAND; tổ chức Hội nghị triển khai Kế hoạch tới lãnh đạo chủ chốt trong CAND. Đến nay đã có 106/106 đầu mối Công an các đơn vị, địa phương tổ chức thực hiện nghiêm túc kế hoạch lấy ý kiến về dự thảo.

PV: Thưa đồng chí, những vấn đề gì được cán bộ, chiến sĩ quan tâm và góp ý nhiều nhất và chất lượng các tham luận góp ý như thế nào?

Qua theo dõi và tập hợp ý kiến tham gia góp ý cho thấy: Việc lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã nhận được sự quan tâm của đông đảo cán bộ, chiến sĩ trong toàn lực lượng.

Các ý kiến đều đóng góp vào tất cả các Chương trong Hiến pháp, trong đó nhiều ý kiến tập trung đóng góp vào những nội dung có nhiều thay đổi trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 như: Chế độ chính trị; Đảng Cộng sản Việt Nam; Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; Bảo vệ Tổ quốc; Quốc hội; Chủ tịch nước; Những quy định có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của CAND… các ý kiến đều thống nhất khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội là một tất yếu khách quan; tổ chức bộ máy nhà nước phải tuân thủ nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp thực hiện và kiểm soát thực hiện giữa các cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; tất cả các ý kiến cán bộ, chiến sĩ không tán thành thành lập Hội đồng Hiến pháp; tiếp tục ghi nhận và khẳng định lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân; CAND là lực lượng vũ trang với vai trò nòng cốt trong sự nghiệp bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.

Ý kiến đóng góp của cán bộ, chiến sĩ đã thể hiện trí tuệ, tâm huyết mang tính xây dựng và trách nhiệm, đã bám sát quan điểm của Đảng; Kết luận Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI).

Các ý kiến đóng góp cũng đã kế thừa được kết quả kinh nghiệm thực tiễn qua 26 năm đổi mới, trên cơ sở tổng kết thi hành Hiến pháp năm 1992 của Công an các đơn vị, địa phương. Đây sẽ là những cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng góp phần sửa đổi Hiến pháp năm 1992.

PV: Vai trò của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu trong lực lượng CAND đối với việc góp ý vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 ra sao, thưa đồng chí?

Số lượng các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, chỉ huy các đơn vị trong CAND có vai trò quan trọng trong việc xây dựng lý luận CAND nói chung, cơ sở lý luận và cơ sở khoa học trong quá trình nghiên cứu, sửa đổi Hiến pháp năm 1992.

Các đồng chí đã có những bài viết cung cấp lý luận sắc bén trong nhiều cuộc Hội thảo của Bộ, Công an các đơn vị, địa phương, trong các Học viện, nhà trường Công an. Qua đó, xây dựng luận cứ khoa học để đóng góp với các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình sửa đổi Hiến pháp năm 1992.

Qua nghiên cứu các tham luận, tôi thấy có hàng trăm ý kiến góp ý sâu sắc, có chất lượng của chỉ huy các đơn vị, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu. Việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là sự kiện chính trị quan trọng của đất nước, được dư luận xã hội đặc biệt quan tâm, nhưng đây cũng là cơ hội mà các thế lực thù địch, phản động, đối tượng cơ hội chính trị lợi dụng tuyên truyền, xuyên tạc chống phá Đảng và Nhà nước ta.

Lực lượng Công an đã chủ động phối hợp với các ban, ngành động viên, khuyến khích các tầng lớp nhân dân tham gia góp ý một cách dân chủ; đồng thời triển khai quyết liệt các biện pháp nắm chắc tình hình, đấu tranh, ngăn chặn với hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, đối tượng cơ hội chính trị.

Thời gian tới, việc tham gia đóng góp ý kiến về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 vẫn được tiếp tục đến trước khi Quốc hội thông qua, sau đó báo cáo tổng hợp ý kiến về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 gửi các cơ quan có thẩm quyền theo quy định.

PV: Xin cảm ơn đồng chí Vụ trưởng

Nguyễn Hưng (thực hiện)
cand.com.vn

Hoàn thiện hơn nữa hiến định bảo vệ Tổ quốc

Thiếu Tướng, PGS.TS Trần Minh Thư
Bảo vệ Tổ quốc là một trong những nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của mọi quốc gia và đều được qui định trong hiến pháp của các nước. Ở nước ta, bảo vệ Tổ quốc là một trong hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Nhiệm vụ này qui định trong các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và đặc biệt được hoàn thiện tại Chương IV Hiến pháp năm 1992 về Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Hiến pháp năm 1992 đã cụ thể hóa kịp thời, đầy đủ những quan điểm, tư duy đổi mới của Đảng ta về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được đề ra trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên CNXH (năm 1991). Những qui định này đã tạo cơ sở hiến định cho việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền đất nước, bảo vệ ANQG, TTATXH, góp phần giữ vững ổn định chính trị, phục vụ đắc lực công cuộc phát triển kinh tế – xã hội.

Tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIII đã quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1992 nhằm thể chế hóa những quan điểm, chủ trương lớn được nêu trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI; bảo đảm để Hiến pháp là đạo luật cơ bản có tính ổn định lâu dài, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

Trên cơ sở kế thừa những yếu tố hợp lý cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến trong Hiến pháp năm 1992, các qui định về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã có những đổi mới cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến.

Các quan điểm đổi mới của Đảng trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã được thể chế hóa trong Dự thảo sửa đổi. Đó là khẳng định: Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH, đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Các cụm từ “Nhà nước xây dựng Quân đội nhân dân” và “Nhà nước xây dựng Công an nhân dân” được thay bằng: “Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng được xây dựng chính qui, tinh nhuệ, từng bước hiện đại” và “Công an nhân dân cách mạng được xây dựng chính qui, tinh nhuệ, từng bước hiện đại…”.

Điều đó thể hiện rõ vấn đề: Quân đội và Công an được xây dựng chính qui, tinh nhuệ, từng bước hiện đại là một yêu cầu khách quan, là trách nhiệm của Nhà nước.

Bên cạnh những ưu điểm trên, tôi thấy những qui định về bảo vệ Tổ quốc trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 vẫn còn một số nội dung cần bổ sung, chỉnh sửa, cụ thể là:

Thứ nhất, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011) Đảng ta đã xác định: “Xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang được trang bị kỹ thuật hiện đại” và “kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng – an ninh, quốc phòng – an ninh với kinh tế trong từng chiến lược, qui hoạch, chính sách phát triển kinh tế – xã hội và trên từng địa bàn”.

Tuy nhiên, ở Điều 73 của Dự thảo chưa thể chế đầy đủ các quan điểm này mà mới chỉ qui định việc xây dựng công nghiệp quốc phòng và kết hợp quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng. Vì vậy cần bổ sung vào Dự thảo nội dung xây dựng công nghiệp an ninh và mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng – an ninh, quốc phòng – an ninh với kinh tế.

Thứ hai, nên thay cụm từ “chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân” ở Điều 73 vì cụm từ này chưa thuyết phục. Các cuốn từ điển Tiếng Việt đều không có cụm từ này. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng không phải là cái có sẵn trong nhân dân cần phải phát huy. Vì vậy đề nghị thay cụm từ chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân ở Điều 73 bằng cụm từ truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc là cái đã được kết tinh từ lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.

Tại Điều 69 Dự thảo ghi: “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, giữ vững an ninh quốc gia là sự nghiệp của toàn dân”. Cách diễn đạt này làm người đọc hiểu bảo vệ Tổ quốc và giữ vững an ninh quốc gia là hai nội dung độc lập, ngang hàng nhau. Nhưng ở một số văn kiện của Đảng thì bảo vệ ANQG vẫn thuộc nội hàm của bảo vệ Tổ quốc, giữ vững ANQG là một yêu cầu đặt ra cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Với những lý do trên đây, đề nghị trình bày lại câu mở đầu ở Điều 69 nói trên là: “Bảo vệ Tổ quốc XHCN là nhiệm vụ thiêng liêng, cao quý của toàn dân”

T.M.T.
cand.com.vn

Cần khẳng định Đảng là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội

Trả lời phỏng vấn của Báo CAND về vấn đề sửa đổi hiến pháp năm 1992, ông Nguyễn Hoài Bắc – Việt kiều tại Canada cho rằng: Do điều kiện cụ thể về lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam và đất nước Việt Nam, cần phải khẳng định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng với Nhà nước và xã hội.

PV: Từ Việt Nam ra đi định cư tại Canada và trở về quê hương từ những năm cuối thập niên 90, ông có đánh giá gì về lần sửa đổi hiến pháp năm 1992?

Ông Nguyễn Hoài Bắc: Trên thực tế mà nói chưa bao giờ cộng đồng xã hội trong nước và bà con kiều bào lại đặc biệt quan tâm đến việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 lần này một cách sôi động và nhiệt huyết như vậy.

Trong các cuộc hội thảo và các tham luận trực tiếp hoặc gián tiếp với cơ quan soạn thảo, sửa đổi hiến pháp đã có nhiều ý kiến đồng thuận và cũng không ít ý kiến và quan điểm phản biện trái chiều.

Trong Dự thảo lần này, Ban soạn thảo và các cơ quan có liên quan đã có nhiều thay đổi về cách nhìn, cách đánh giá, cách đặt vấn đề trong các chương, các điều mục làm cho nội dung gần với thực tế cuộc sống của người dân và tiếp cận gần với thế giới hiện đại hơn.

Hiện nay với phương tiện thông tin đa chiều, người dân được tiếp cận nhanh nhất, chính xác nhất và được trình bày quan điểm của mình cũng rộng mở nhất. Từ đó giúp cho Ban soạn thảo cập nhật được nhiều thông tin tốt nhất và các thông tin này vô cùng hữu ích cho Việt Nam có một hiến pháp mới hoàn thiện hơn.

Muốn đạt được kết quả như mong muốn cần phải có thời gian và cân nhắc cẩn trọng về nội dung, câu từ và văn phong. Chúng ta tuyệt đối không cho phép một hiến pháp mang tính tương đối, tính dự án và chạy đua với thời gian tiến độ để hoàn thành. Có như vậy sau khi hiến pháp mới ra đời mới bảo đảm tính xuyên suốt theo chiều dài lịch sử nhiều năm sau.

PV: Trong hiến pháp sửa đổi lần này có nhiều vấn đề liên quan đến kiều bào đang định cư ở nước ngoài đã và đang trở về quê hương để đầu tư phát triển, qua nghiên cứu, ông thấy còn trăn trở điều gì?

Ông Nguyễn Hoài Bắc: Đối với Người Việt Nam đang định cư ở nước ngoài tôi thấy nên bổ sung Điều 19 mục 1: Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là bộ phận không thể tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Người Việt Nam ở nước ngoài đầu tư trực tiếp tại Việt Nam theo qui định của pháp luật được hưởng quyền lợi và nghĩa vụ như công dân Việt Nam.

Lý do nên bổ sung điều này vào hiến pháp vì: Từ khi mới thành lập nước với lực lượng Việt kiều còn ít nhưng Bác Hồ đã kêu gọi bà con kiều bào trở về góp sức xây dựng Tổ quốc. Đến nay người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã lên đến hơn 4,5 triệu người, có gần 4.000 doanh nghiệp do bà con Việt Kiều đang đầu tư trực tiếp vào Việt Nam với tổng vốn đầu tư khoảng hơn 8.4 tỷ đô la Mỹ.

Ngoài ra họ là đội ngũ trí thức có học hàm và học vị đang tham gia vào các cơ quan tổ chức ở nước sở tại với khoảng hơn 350 nghìn người. Kiều hối mỗi năm một tăng trưởng khoảng 20%, riêng năm 2012 mặc dù kinh tế trong nước và thế giới suy kiệt nhưng Kiều hối đạt 11.2 tỷ đôla Mỹ… đã minh chứng một điều rằng nếu Nhà nước biết khích lệ, kêu gọi và thu hút sức người, sức của từ những bà con Việt kiều thì thành công sẽ lớn hơn.

Về Điều 4, theo tôi nên xem xét bổ sung một vài ý sau: Điều 4 mục 1 nên được sửa: “… Đảng Cộng sản Việt Nam là đại diện cho quyền lợi hợp pháp của nhân dân và cả dân tộc Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.

Lý do thay đổi mục 1 trong Điều 4 vì: Bất cứ một chính thể nào trên thế giới khi được nhân dân giao quyền điều hành đất nước thì tôn chỉ đầu tiên được qui định trong Hiến pháp rằng chính thể đó phải là đại diện cho quyền lợi hợp pháp của nhân dân, nên chỉ cần nói Đảng Cộng sản Việt Nam là đại diện hợp pháp cho quyền lợi của nhân dân và xã hội đã đầy đủ ý nghĩa của nó rồi…

Mặt khác do điều kiện cụ thể về lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam và đất nước Việt Nam, cần phải khẳng định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng với Nhà nước và xã hội.

Trên đây là những ý kiến của riêng cá nhân tôi. Xin cảm ơn Báo Công an nhân dân đã cho tôi cơ hội được bày tỏ quan điểm của mình về góp ý vào bản dự thảo sửa đổi hiến pháp quan trọng này

Trường Minh (thực hiện)
cand.com.vn

Làm rõ quy định hài hòa lợi ích Nhà nước, người dân và nhà đầu tư khi thu hồi đất

Góp ý kiến vào “Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992”

Góp ý sửa đổi Hiến pháp năm 1992 liên quan đến chuyên đề đất đai của Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội tập trung vào tháo gỡ những vướng mắc trong công tác quản lý đất đai thời gian qua, nhất là những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống dân sinh được người dân hết sức quan tâm.

Ông Vũ Văn Hậu, Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội nêu bật những điều cần bổ sung, sửa đổi: Về quyền sở hữu toàn dân về đất đai do Nhà nước đại diện chủ sở hữu.

Ông Vũ Văn Hậu cho biết: Cán bộ, nhân viên Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội và cá nhân ông hoàn toàn thống nhất với quy định của Điều 57 dự thảo (sửa đổi, bổ sung Điều 17 Hiến pháp 1992) và kiến nghị tiếp tục kế thừa Hiến pháp 1992 quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu,

Nhà nước thống nhất quản lý, với lý do trong điều kiện kinh tế thị trường có nhiều thành phần, đa dạng hóa các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất là một đòi hỏi mang tính khách quan nhằm đáp ứng yêu cầu của hoạt động sản xuất – kinh doanh. Tuy nhiên, đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, được quy định duy nhất một hình thức sở hữu toàn dân là nhằm giữ vững, ổn định chính trị, duy trì tính ổn định trong các quan hệ quản lý và sử dụng đất đai; đồng thời góp phần giữ vững tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nước ta.

Trong trường hợp giữ nguyên chế độ sở hữu toàn dân, Nhà nước thống nhất quản lý thì phải cụ thể hóa chủ thể sở hữu trong chế độ sở hữu toàn dân; tăng cường vai trò của Nhà nước trong quản lý đất đai thông qua việc quyết định, xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, xác định giá đất, quyết định thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất và điều tiết các nguồn lợi từ đất đai.

Về Quyền quản lý nhà nước về đất đai, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất:

Khoản 1, Điều 58 (sửa đổi, bổ sung Điều 18 Hiến pháp 1992) khẳng định đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, được quản lý theo quy hoạch và pháp luật. Quy định này cho thấy việc xác định đất đai là “tài nguyên đặc biệt” và “được quản lý theo quy hoạch và pháp luật” là quy định với nội hàm bao trùm rộng nhiều ý nghĩa, thể hiện tầm quan trọng của đất đai vừa là tư liệu để phục các hoạt động sản xuất, là nơi sinh sống cư trú của con người và bởi đất đai còn chứa đựng trong lòng đất, trên mặt đất các thành phần vật chất, khoáng chất… những yếu tố cấu thành các nguồn tài nguyên.

– Khoản 2, Điều 58: Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất để sử dụng ổn định lâu dài hoặc có thời hạn… Ông Hậu đề nghị được điều chỉnh bằng cụm từ “Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất để sử dụng ổn định lâu dài hoặc có thời hạn…”. Quy định như vậy để làm rõ thêm khái niệm về “người sử dụng đất” ngoài tổ chức, cá nhân còn bao gồm: hộ gia đình, cơ sở tôn giáo, cộng đồng dân cư… đều thuộc đối tượng được Nhà nước trao quyền sử dụng đất.

Tán thành với dự thảo quy định “…Người sử dụng đất có trách nhiệm bảo vệ, bồi bổ, khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm, đúng mục đích; được chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện các nghĩa vụ liên quan theo quy định của luật. Quyền sử dụng đất là quyền tài sản được pháp luật bảo hộ”, nhưng cần quy định kiểm soát chặt chẽ việc chuyển đất nông nghiệp, nhất là đất trồng lúa, đất có rừng sang sử dụng vào mục đích khác nhằm đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, bảo vệ môi trường, sinh thái. Ngoài ra, tại khoản này đã có sự bổ sung mới khi đưa quyền sử dụng đất thành quyền tài sản. Quy định như vậy có thể hiểu quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, là cơ sở để cụ thể hóa các quy định về quyền sử dụng đất trong thị trường bất động sản…

Tại Khoản 3, Điều 58 dự thảo quy định: Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân sử dụng có bồi thường theo quy định của pháp luật trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế – xã hội.

Qua nghiên cứu và thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về đất đai, đề nghị bổ sung thêm vào sau từ “bồi thường” cụm từ “hỗ trợ” để phân biệt trường hợp người sử dụng đất nào khi bị thu hồi đất thì được Nhà nước bồi thường; trường hợp nào thì được hỗ trợ.

Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, hộ gia đình, cá nhân để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Người sử dụng đất bị thu hồi được xem xét bồi thường, hỗ trợ theo quy định của pháp luật

Thanh Phong (ghi)
cand.com.vn

Sự cần thiết phải thể chế hóa vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật

Thiếu Tướng, PGS.TS Lê Văn Đệ
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta, làm cơ sở cho việc duy trì quyền lực chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chính vì vậy việc đưa vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam vào Hiến pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hết sức cần thiết cả về tất yếu lịch sử và tất yếu khách quan của cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ cách mạng.

Nội dung Điều 4 (dự thảo Hiến pháp sửa đổi) không những khẳng định vai trò lãnh đạo thông qua việc xác định tôn chỉ, mục đích, sứ mệnh của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà còn khẳng định chân lý dân là gốc, là chủ thể của quyền lực nhà nước và là cội nguồn sức sống của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai.

Vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng, xét đến cùng, do niềm tin và quyền lực nơi nhân dân gửi gắm và ủy thác nên việc Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, nhất là phải chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình cũng là một tất yếu khách quan.

Việc chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình của Đảng được quy định trong Hiến pháp cũng phải được cụ thể hoá bằng các đạo luật thì vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội mới ngang tầm vị thế của Đảng và gắn quyền của các cấp uỷ Đảng với trách nhiệm lãnh đạo Nhà nước và xã hội; có thể kiểm soát và hạn chế được sự lạm quyền của cấp uỷ Đảng, của các đảng viên nắm giữ quyền lực; khắc phục được tình trạng tùy tiện, vô nguyên tắc của cấp ủy Đảng và những đảng viên lợi dụng danh nghĩa Đảng để mưu cầu lợi ích riêng; và là cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm khi cấp uỷ hay đảng viên làm sai.

Chính vì vậy, khoản 3, Điều 4 (dự thảo Hiến pháp sửa đổi) quy định: “Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”, đây cũng là một nội dung được quy định trong Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trong Điều lệ Đảng, điểm này vừa là quy định trong nội bộ Đảng, vừa là cam kết của Đảng với xã hội về sự hoạt động của tổ chức Đảng và đảng viên. Tuy vậy, đây cũng là một vấn đề tất yếu khách quan của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đó là, mọi công dân, mọi tổ chức đều phải sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.

Tuy nhiên, cụ thể hoá một quy định của nội bộ Đảng mang tính đương nhiên của mọi công dân, mọi tổ chức vào Hiến pháp, rõ ràng chưa làm nổi bật, chưa thể hiện sự gắn kết giữa vị thế lãnh đạo với trách nhiệm của Đảng trước Nhà nước và xã hội.

Từ sự suy nghĩ trên, tôi kiến nghị trình bày Điều 4 (dự thảo Hiến pháp sửa đổi) như sau:

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

2. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.

3. “Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội phải được đảm bảo bằng pháp luật”.

Khoản 3, Điều 4 (dự thảo Hiến pháp sửa đổi) đã đề xuất trên với ý nghĩa là một nguyên tắc của Hiến pháp và có giá trị bảo đảm về mặt pháp lý cho vị thế của Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội duy nhất, tạo cơ sở để việc chịu sự giám sát của nhân dân, nhất là chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của Đảng được cụ thể hoá bằng các đạo luật của Nhà nước.

Chỉ như vậy mới có cơ sở để yêu cầu các cấp uỷ, mọi đảng viên chịu trách nhiệm trực tiếp với pháp luật về những hành vi lãnh đạo của mình. Nếu không dễ rơi vào trách nhiệm hành chính hay trách nhiệm chính trị chung chung trong Đảng

L.V.Đ.
cand.com.vn

Đảng Cộng sản Việt Nam – Lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội phải là nguyên tắc hiến định

Thiếu Tướng, TS. Nguyễn Xuân Mười
Điều 4 (dự thảo Hiến pháp sửa đổi) nói về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội. Đây là vấn đề nguyên tắc hiến định không bàn cãi, cần được quy định rõ và chặt chẽ hơn.

Hơn 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, nhân dân ta đã tiến hành các cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc đầy gian khổ, hy sinh đã giành những thắng lợi vẻ vang và đạt được những thành tựu to lớn. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu lịch sử, là nguyên nhân thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Việt Nam.

Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, Hiến pháp và pháp luật nước ta chính là sự thể chế hóa Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng; thực chất của việc tuân thủ nghiêm minh Hiến pháp, pháp luật chính là sự thực hiện Cương lĩnh, đường lối của Đảng trong mọi hoạt động của Nhà nước, trong đời sống xã hội và như vậy mới bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng.

Điều đó, đòi hỏi mọi tổ chức Đảng và đảng viên phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; đồng thời, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội được luật hóa và việc xác định phạm vi, giới hạn, cách thức lãnh đạo Nhà nước là cơ sở pháp lý cho việc xác định trách nhiệm của Đảng trước nhân dân, trước xã hội, trước đất nước và dân tộc.

Nội dung Điều 4 khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng qua việc xác định tôn chỉ, mục đích, sứ mệnh của Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Nội dung này còn khẳng định chân lý dân là gốc, là chủ thể của quyền lực Nhà nước và là cội nguồn sức sống của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai (PGS, TS Phạm Xuân Hằng).

Thực tiễn cách mạng nước ta đã chứng minh Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Vai trò đó trong bối cảnh tình hình hiện nay phải được tiếp tục khẳng định và không thể mơ hồ, bởi ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân lao động và lợi ích của dân tộc là xây dựng một nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, Đảng Cộng sản Việt Nam không còn lợi ích nào khác.

Vai trò đó do niềm tin và quyền lực nơi nhân dân gửi gắm và uỷ thác nên khoản 2 Điều này quy định: “Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình” cũng là một tất yếu khách quan. Với nội dung khoản 3 “Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”, cũng là những nội dung được thể hiện trong Điều lệ Đảng; như ý kiến của PGS, TS Lê Văn Cương cho rằng quy định trên “hơi chung chung, thiếu cụ thể”. PGS, TS Phạm Xuân Hằng cũng cho rằng vai trò lãnh đạo của Đảng nêu như khoản 2,3 Điều 4 Hiến pháp (sửa đổi) “mà không được cụ thể hoá bằng các đạo luật thì chẳng những vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội không ngang tầm bổn phận của Đảng, mà còn chưa gắn quyền của các cấp uỷ Đảng với trách nhiệm lãnh đạo Nhà nước và xã hội; không thể kiểm soát hạn chế sự lạm quyền của cấp uỷ Đảng, của các đảng viên nắm giữ quyền lực; không khắc phục được tình trạng tuỳ tiện, vô nguyên tắc của cấp uỷ Đảng và những đảng viên lợi dụng danh nghĩa Đảng để mưu cầu lợi ích riêng; không có cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm khi cấp uỷ hay đảng viên làm sai”. Đồng tình với những ý kiến trên và với suy nghĩ riêng, tôi kiến nghị bổ sung, chỉnh lý Điều 4 như sau:

Khoản 1, bổ sung thêm từ “duy nhất” trong đoạn cuối, cụ thể: “…, là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Giữ nguyên khoản 2 như dự thảo. Khoản 3, chỉnh lý như sau: “Trong hoạt động, các tổ chức Đảng và mọi đảng viên tuân thủ Hiến pháp, pháp luật; sự lãnh đạo của Đảng được bảo đảm bằng pháp luật và do luật định”.

Nội dung Điều 4 của Hiến pháp là những vấn đề hệ trọng, “là một trong những vấn đề nền tảng của minh bạch chính trị” đề nghị cần giữ vững nguyên tắc và có nhận thức đúng đắn; không mơ hồ mất cảnh giác trước các luận điệu tuyên truyền xuyên tạc và thủ đoạn “đòi xóa Điều 4 quy định về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Hiến pháp” của các thế lực thù địch, các tổ chức phản động và số đối tượng cơ hội chính trị

N.X.M.
cand.com.vn