Tag Archive | CAND

Nội dung cần ngắn gọn, súc tích nhưng lời văn phải trong sáng dễ hiểu

Đó là ý kiến của GS.TS Nguyễn Văn Hiệp – Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trong cuộc trao đổi với phóng viên Báo CAND xung quanh việc góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.

PV: Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đang được tổ chức lấy ý kiến đóng góp rộng rãi các tầng lớp nhân dân, Giáo sư có thể cho biết Viện Ngôn ngữ học đã có sự tham gia đóng góp như thế nào vào Dự thảo?

GS.TS Nguyễn Văn Hiệp: Thực hiện sự chỉ đạo của Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, ngày 4/3 vừa qua, Viện chúng tôi cũng đã triển khai Hội nghị lấy ý kiến góp ý cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đến tất cả các phòng, trung tâm trực thuộc Viện.

Cá nhân tôi và 100% cán bộ viên chức trong Viện đều nhất trí rằng Dự thảo cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn và định hướng phát triển của đất nước, giải quyết những vấn đề vướng mắc, bất cập còn tồn tại của thực tiễn trong quá trình thực thi Hiến pháp 1992.

Nội dung của Dự thảo cũng thể hiện sự phù hợp với luật pháp quốc tế, đáp ứng nhu cầu và xu thế hội nhập với thế giới hiện nay. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp bao gồm: Lời nói đầu, 11 Chương, 124 Điều. So với Hiến pháp năm 1992 giảm một Chương, 23 Điều.

Trong số 11 Chương của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp có một Chương hoàn toàn mới:  Chương X: Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử Quốc gia, Kiểm toán nhà nước. Trong số 124 Điều của dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 có tới 11 Điều được viết hoàn toàn mới, 102 Điều sửa đổi bổ sung. Điều này cho thấy việc Hiến pháp lần này được sửa đổi và bổ sung khá toàn diện.

PV: Qua nghiên cứu các bản Hiến pháp từ trước đến nay, Giáo sư có thể đưa ra một sự so sánh về văn phong, ngôn ngữ và cách hành văn của các bản Hiến pháp?

GS.TS Nguyễn Văn Hiệp: Trước năm1945, Việt Nam không có Hiến pháp. Từ sau khi thành lập nhà nước cộng hòa đầu tiên cho đến nay đã có 4 bản Hiến pháp được ra đời, đó là các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 (được sửa đổi vào năm 2001). Mỗi bản Hiến pháp đều ghi nhận những thành quả cách mạng to lớn mà nhân dân Việt Nam đã đạt được, tạo nền tảng vững chắc cho sự ổn định và phát triển đất nước.

Hiến pháp năm 1946 bao gồm lời nói đầu và 7 chương, 70 điều được viết theo tư tưởng pháp quyền. So với 3 bản Hiến pháp còn lại thì đây là bản Hiến pháp chứa đựng các câu văn ngắn gọn, mạch lạc, từ ngữ giản dị, dễ hiểu. Các điều khoản rõ ràng, khúc chiết không mập mờ khó hiểu. Các điều khoản ngắn gọn nhưng chứa đựng nhiều ý.

Ngay từ Lời nói đầu đã thể hiện lời văn trong sáng, mạch lạc: “Cuộc Cách mạng Tháng Tám đã giành lại chủ quyền cho đất nước, tự do cho nhân dân và lập ra nền dân chủ cộng hòa. Sau tám mươi năm tranh đấu, dân tộc Việt Nam đã thoát khỏi vòng áp bức của chính sách thực dân, đồng thời đã gạt bỏ chế độ vua quan. Nước nhà đã bước sang một quãng đường mới”.

“Với tinh thần đoàn kết, phấn đấu sẵn có của toàn dân, dưới một chính thể dân chủ rộng rãi, nước Việt Nam độc lập và thống nhất tiến bước trên đường vinh quang, hạnh phúc, cùng nhịp với trào lưu tiến bộ của thế giới và ý nguyện hòa bình của nhân loại”.

Có những điều chỉ có một câu ngắn gọn, từ ngữ bình dân ai đọc cũng có thể hiểu được. Đơn cử như Điều thứ 4: Mỗi công dân Việt Nam phải: Bảo vệ Tổ quốc; Tôn trọng Hiến pháp; Tuân theo pháp luật. Điều thứ 5: Công dân Việt Nam có nghĩa vụ phải đi lính. Điều thứ 9: Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện. Điều thứ 14: Những người công dân già cả hoặc tàn tật không làm được việc thì được giúp đỡ. Trẻ con được săn sóc về mặt giáo dưỡng.

PV: Là một nhà nghiên cứu chuyên về ngôn ngữ học, Giáo sư đóng góp gì cho Dự thảo. Đặc biệt là về nội dung kỹ thuật lập hiến cũng như ngôn ngữ, lời văn trong Hiến pháp?

GS.TS Nguyễn Văn Hiệp: Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 cần ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu với đại đa số người dân nhưng vẫn phải khái quát được đầy đủ các nội dung cơ bản của Hiến pháp. Tôi xin góp ý một số ý kiến cụ thể như sau:

Về nội dung: Hiến pháp đã quy định tiếng Việt là ngôn ngữ quốc gia, nên thêm quy định cụ thể nhằm đảm bảo vai trò chữ quốc ngữ bên cạnh tiếng Việt. Đề nghị giữ nguyên, không nên bỏ điều 41 Hiến pháp năm 1992: “Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp phát triển thể dục thể thao; khuyến khích và giúp đỡ phát triển các hình thức tổ chức thể dục, thể thao tự nguyện của nhân dân”.

Khoản 3 trong Dự thảo nên ghi rõ “vai trò lãnh đạo của Đảng được đảm bảo bằng pháp luật và do luật định”. Như vậy sự lãnh đạo của Đảng sẽ có giá trị về mặt pháp lý và thể hiện trước pháp luật về hành động của các tổ chức Đảng và đảng viên, đồng thời sẽ đảm bảo sự minh bạch về chính trị trong vai trò lãnh đạo của Đảng và hạn chế những tiêu cực trong Đảng như Nghị quyết Trung ương 4 đã nêu.

Nên mở rộng quyền giám sát, phản biện cho tổ chức Mặt trận để góp phần xây dựng chính quyền vững mạnh. Cần bổ sung và làm rõ thẩm quyền của Chủ tịch nước trong giám sát hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng bởi đây là các chức danh do Chủ tịch nước giới thiệu để Quốc hội bầu.

Chủ tịch nước cũng phải có quyền triệu tập (chứ không phải yêu cầu như dự thảo ghi) Chính phủ và Thủ tướng họp bàn những vấn đề liên quan. Cần tiến hành một số cải cách như quy định người dân được bầu trực tiếp Chủ tịch nước, nhất thể hóa vai trò Tổng Bí thư và Chủ tịch nước…

Về hình thức: Lời nói đầu như trong bản Hiến pháp 1992 về cơ bản đầy đủ, sâu sắc, trong đó có quy định về chế độ chính trị. Tuy nhiên, nên viết cho mạch lạc hơn, nên bổ sung thêm sự khẳng định rõ độc lập, chủ quyền của dân tộc ta và mục tiêu xây dựng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

Một số điều nên bổ sung làm cho rõ, ví dụ: Điều 15 nên bổ sung làm rõ “quyền con người” và “quyền công dân” là gì. Điều 16: Khoản 1, nên bổ sung cụm từ “chính đáng và hợp pháp” sau từ “quyền”: “Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền chính đáng và hợp pháp của người khác”.

Điều 32: Khoản 2 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp quy định: “Người bị buộc tội có quyền được Tòa án xét xử. Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm”. Trước hết về mặt thuật ngữ, quy định “Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm” rất dễ bị hiểu nhầm. Vì tội phạm là một khái niệm được quy định trong Bộ luật Hình sự, ví dụ: tội trộm cắp tài sản; tội vu khống; tội nhận hối lộ…

Do đó để cho người dân dễ hiểu hơn thì quy định này nên viết là: “Không ai bị kết án hai lần về một hành vi phạm tội”.

Điều 39: Nên bổ sung thêm quyền kết hôn đồng giới. Điều 66 về quyền của người khuyết tật là “được học văn hóa và học nghề” là chưa đầy đủ. Họ cũng có đầy đủ quyền công dân và được Đảng, Nhà nước đối xử công bằng. Vì vậy, nên sửa thành “được học theo nhu cầu” để không giới hạn nhu cầu học tập, nghiên cứu của người khuyết tật, giống như các công dân khác.

Ngoài ra, trong chương II, tại một số điều khoản, khi thì dùng từ “mọi người”, khi thì dùng “công dân”, vậy cũng cần làm rõ “mọi người” bao gồm những đối tượng nào. Điều 75: Khoản 1 có quy định nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội trong đó có dùng từ “làm” chưa phù hợp với văn phong khoa học: Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật. Đề nghị sửa lại: “… Soạn thảo, ban hành và sửa đổi Hiến pháp; soạn thảo, ban hành và sửa đổi luật”.

Sử dụng các cụm từ, thuật ngữ nên thống nhất ví dụ như: theo luật định, do luật định, cách dùng từ công dân, mọi người, theo pháp luật/ theo quy định của luật /theo quy định của pháp luật/theo luật định (điều 11, 22, 24, 26, 31, 32, 54, 56, 57, 58, 59, 101, 105, 110, 113, 114); do Hiến pháp và luật quy định/do pháp luật quy định/do luật định (điều 20, 23, 37, 48, 56, 69, 81, 107, 110, 112, 113, 114, 120, 121, 122);  theo Hiến pháp và pháp luật/theo pháp luật (điều 8, 15, 51, 64); chấp hành Hiến pháp và pháp luật/chấp hành pháp luật/thực hiện Hiến pháp và pháp luật (điều 8, 10, 84); nơi ở/chỗ ở (điều 36, 37); văn bản quy phạm pháp luật/ văn bản/văn bản pháp luật (điều 75, 79, 103, 105, 116); ban bố tình trạng khẩn cấp/công bố tình trạng khẩn cấp (điều 79, 93); Viện kiểm sát/Viện kiểm sát nhân dân (điều 114); thống nhất hay hợp nhất; với tất cả các nước/với các quốc gia, vùng lãnh thổ, tổ chức quốc tế”? (điều 12, 55)… Bên cạnh đó cần sử dụng thống nhất các hình thức chính tả, và viết hoa như: Nhà nước/nhà nước, dấu chấm/chấm phẩy sau các điều khoản.

PV: Xin trân trọng cảm ơn Giáo sư về những đóng góp rất cụ thể và tâm huyết!

Xuân Luận (thực hiện)
cand.com.vn

Người dân tin tưởng, phấn khởi tham gia xây dựng Hiến pháp

Một khí sắc mới, rất tâm huyết và trí tuệ, đang dâng lên từ cuộc sinh hoạt chính trị lớn – toàn dân tham gia góp ý sửa đổi Hiến pháp, đưa công cuộc đổi mới tới một bước phát triển mới về chất.

Từ từng hộ gia đình, người dân ở những làng quê đến từng cơ quan, tổ chức, người Việt Nam ta đã và đang tin tưởng, phấn khởi tham dự nhiều cuộc hội nghị, hội thảo, tọa đàm góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 – cuộc kiến tạo lớn để thiết kế một đạo luật gốc cho Nhà nước và xã hội Việt Nam.

Sửa đổi Hiến pháp – một việc hệ trọng của đất nước, thu hút trí tuệ, lay động nhận thức, cổ vũ tinh thần, khích lệ hành động công nhân, nông dân, trí thức và chiến sĩ cả nước thắp lên niềm hy vọng lớn về tương lai tươi sáng của dân tộc Việt Nam. Sức mạnh của trí tuệ Việt Nam không chỉ tham gia góp ý kiến đối với Hiến pháp và thi hành Hiến pháp mà còn chủ động phản bác những tiếng nói lạc lõng chống lại Hiến pháp.

Chúng ta biết rằng hoạt động lập hiến không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của một cá nhân, tổ chức nào mà xuất phát từ nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật của các quan hệ xã hội, tuyệt nhiên không được tùy tiện, hết sức tránh những tác động khiến người ta dè dặt, thậm chí muốn né tránh một số chủ đề “nhạy cảm”.

Quy luật cũng như thực tiễn cho thấy quá trình xây dựng Hiến pháp cũng là quá trình các thế lực thù địch, phản động tập trung tấn công vào cách mạng nước ta quyết liệt nhất. Nhìn lại lịch sử lập hiến của nước ta, bản Hiến pháp năm 1946 vẫn mãi là một bản Hiến pháp tiến bộ, nhưng lại phải ra đời trong điều kiện kẻ thù rắp tâm phá hoại, đất nước trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”.

Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, đồng bào vui sướng được hưởng quyền lợi của người dân độc lập, tự do. Với ý chí sắt đá của một dân tộc quyết tâm bảo vệ nền độc lập, tự do vừa mới giành được, trong niềm vui háo hức, toàn thể nhân dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt gái trai, già trẻ đã dành trọn một ngày – ngày lịch sử vĩ đại 6-1-1946, toàn dân đi bỏ phiếu.

Tinh thần đó, đã mang lại kết quả 89% tổng số cử tri trên cả nước đi bỏ phiếu, nhiều địa phương có số cử tri đi bỏ phiếu đạt 95%. Hiến pháp năm 1946 là một bản Hiến pháp mẫu mực trên nhiều phương diện, không kém một bản Hiến pháp nào trên thế giới, là hiện thực sống động về thể chế nhà nước cộng hòa, dân chủ – một loại hình nhà nước pháp quyền cách mạng của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Ngày nay, ý chí và nguyện vọng của nhân dân đang được thể hiện sâu sắc trong quá trình góp ý sửa đổi Hiến pháp năm 1992, đâu đó vẫn còn những kẻ xấu muốn đẩy sự bình yên của Tổ quốc ta vào rối loạn để rồi nhân dân phải chịu mọi hậu quả. Nhân dân là cái cớ để họ tranh giành ảnh hưởng trong cái gọi là “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập”.

Qua các thời kỳ kiến quốc, nước ta đã có 4 bản Hiến pháp và hiện nay là dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Nguồn sức mạnh lớn nhất vận hành sự nghiệp vĩ đại ấy chính là ý chí và trí tuệ Việt Nam. Sự gắn kết của khối đại đoàn kết dân tộc xung quanh hạt nhân lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam đang thắp lên niềm tin lớn về một bản Hiến pháp sửa đổi hướng đến mục tiêu cao cả là tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.

Nhân dân là chủ thể sáng tạo ra Hiến pháp, vừa ủy quyền cho Quốc hội lập hiến, vừa tham gia góp ý kiến vào quá trình xây dựng Hiến pháp, đồng thời nhân dân là chủ thể lớn nhất thực hiện Hiến pháp, phát hiện những điểm chưa phù hợp của Hiến pháp khi đưa vào cuộc sống. Khi nhân dân nhận thức rõ âm mưu và hoạt động của các thế lực thù địch chống phá sự nghiệp cách mạng do Đảng ta lãnh đạo thì không một thế lực nào có thể làm quần chúng nhân dân quay lưng lại với Đảng, với chế độ XHCN, với Hiến pháp.

Và ngược lại thì dù Quân đội, Công an có hùng mạnh, tinh nhuệ đến đâu cũng không cứu vãn được tình hình và chệch hướng, sụp đổ là tất yếu. Chúng ta cần nghiêm túc suy nghĩ, đánh giá khách quan những biến động chính trị – xã hội ở Liên Xô, Đông Âu trong những năm 1989-1991.

Vào những ngày này, các thế lực thù địch cũng đang ra sức truyền bá quan điểm “trung lập hóa lực lượng vũ trang”, về thực chất là lôi kéo Quân đội, Công an xa rời lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và CNXH, vì hạnh phúc của nhân dân, tách Quân đội, Công an ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, hòng xóa bỏ những điều cơ bản trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Hãy cảnh giác và không bao giờ chấp nhận quan điểm đó, bởi đó là nguyên nhân đưa đất nước lâm vào khủng hoảng chính trị – xã hội

Hoàng Tương
cand.com.vn

Nước Mỹ không bình yên

QĐND – Thêm một lần nữa, nước Mỹ lại rúng động bởi những tiếng nổ!

Hai vụ nổ trên khu vực đích đến của cuộc thi marathon lâu đời nhất trên thế giới diễn ra ở Bô-xtơn, thủ phủ bang Ma-sa-chu-xét, vào lúc rạng sáng 16-4 theo giờ Hà Nội đã khiến cho thế giới phải chứng kiến những hình ảnh ám ảnh từng diễn ra cách đây hơn 10 năm, khi tổ chức khủng bố Al Qaeda tấn công hai tòa tháp chọc trời ở Niu Y-oóc khiến hàng ngàn người Mỹ thiệt mạng.

Cũng may là vụ nổ diễn ra khoảng hai giờ sau khi những vận động viên đầu tiên của cuộc thi chạy marathon đã băng qua vạch đích, trong khi các khán giả thì đã bắt đầu lục tục rời khỏi khu vực đông đúc nhất này của cuộc thi chạy.

Mặc dù vậy, những số liệu ban đầu cho thấy đã có ít nhất 3 người thiệt mạng và hàng trăm người khác bị thương. Hình ảnh cho thấy những người bị thương nằm la liệt trên phố chính Boylston của thành phố Bô-xtơn, chờ các nhân viên cứu thương đưa đi cấp cứu. Nhiều người trong số này đang ở trong tình trạng nguy kịch.

Nhưng có lẽ nguy kịch hơn chính là tâm trạng của những người Mỹ trong thời điểm này, khi ám ảnh về một vụ khủng bố tiếp theo vụ 11-9 lại diễn ra trên đất Mỹ!

 Khói trắng bao trùm cả khu vực về đích cuộc đua marathon. Ảnh internet.

Vẫn những hình ảnh bi thảm quen thuộc, khi các nạn nhân của vụ nổ, máu me bê bết được đưa lên xe cứu thương; khói bốc mù mịt trên bầu trời Bô-xtơn trong khi những người thân của các nạn nhân mếu máo gọi điện thoại đi đâu đó…

Một vùng cấm bay trên không phận Bô-xtơn cũng được ngay lập tức được thiết lập, gợi nhớ đến những gì đã diễn ra ở các thành phố lớn của nước Mỹ hơn mười năm trước. Tại Niu Y-oóc, tình trạng an ninh cũng được thắt chặt mặc dù chưa có một bằng chứng nào về những nguy cơ tiếp theo sẽ đe dọa thành phố đã từng một lần phải hứng chịu hậu quả thảm khốc của hoạt động khủng bố này.

Chưa có một cá nhân hay tổ chức nào lên tiếng nhận trách nhiệm về vụ tấn công này và cũng còn quá sớm để đưa ra kết luận chắc chắn về động cơ cũng như mục đích của những kẻ đứng đằng sau vụ nổ, nhưng những giả thiết cũng như các hoạt động điều tra sơ khởi đều nghiêng về khía cạnh đây là hoạt động tấn công khủng bố.

Và đó mới là điều đáng lưu tâm.

Bởi, sau vụ tấn công kinh hoàng 11-9-2001 nhằm vào những biểu tượng quyền lực kinh tế và chính trị ở Niu Y-oóc, Oa-sinh-tơn, nước Mỹ dường như đã làm tất cả những gì có thể để tránh nguy cơ xảy ra một vụ tấn công khủng bố thứ hai trên lãnh thổ Mỹ.

Và mặc dù nước Mỹ vẫn còn hai cuộc chiến tranh chưa thanh lý xong hoàn toàn ở I-rắc và Áp-ga-ni-xtan, phải đối mặt với những vấn đề đối nội đau đầu như “vách đá tài chính”, tình trạng sử dụng súng đạn tràn lan hay thâm hụt ngân sách khổng lồ, nợ công chất chồng…, thế nhưng ít nhất, người dân Mỹ vẫn còn cảm thấy được an toàn trên lãnh thổ Mỹ.

Những cái chết của người Mỹ, nếu có đáng tiếc xảy ra thì cũng ở đâu đó, Li-bi, Áp-ga-ni-xtan, I-rắc… Mấy vụ xả súng ở trường học hay nơi công cộng là sản phẩm của những cá nhân có tâm thần bất bình thường, không phải là các hoạt động khủng bố được tổ chức và có chủ đích.

Nhưng giờ đây, với những vụ nổ trong Ngày Yêu Nước – một ngày lễ của bang Ma-sa-chu-xét – ở vạch đích cuộc đua marathon Bô-xtơn, một lần nữa, người dân Mỹ lại buộc phải cảm thấy bất an.

Cho dù vì bất cứ lý do gì, hành động đánh bom ở nơi công cộng, làm thiệt mạng và bị thương nhiều người, trong đó có cả trẻ em, là hành vi đáng bị lên án.

Người ta chưa quên rằng hơn mười năm trước, chính tại phi trường Logan của thành phố Bô-xtơn này, đã có hai trong số bốn chuyến bay bị bọn khủng bố không tặc để reo rắc cái chết xuống hai tòa tháp Nam và Bắc của Trung tâm thương mại thế giới tại Niu Y-oóc ngày 11-9-2001.

Kể từ đó, chính quyền thành phố Bô-xtơn đã sử dụng mọi nguồn lực để tránh nguy cơ xảy ra một vụ khủng bố. Họ đã làm được điều đó, bảo đảm an toàn cho các công dân Mỹ, cho đến trước khi xảy ra vụ nổ ở cuộc đua marathon thường niên lần thứ 117 ở Bô-xtơn!

Phát biểu với người dân Mỹ từ Phòng Tình hình tại Nhà Trắng, Tổng thống Mỹ B. Ô-ba-ma đã nhanh chóng khẳng định rằng mặc dù chưa biết ai hay vì động cơ nào tổ chức các vụ đánh bom nhưng chính quyền Mỹ sẽ làm tất cả những gì để đưa những kẻ đứng đằng sau vụ tấn công này ra ánh sáng để chịu đòn trừng phạt của công lý.

Các cơ quan chức năng của Mỹ cũng đã nhận được chỉ thị tiến hành điều tra vụ tấn công này “như là một hành động khủng bố”.

Ở thời điểm hiện tại, những gì mà Tổng thống B. Ô-ba-ma có thể làm là kêu gọi người dân Mỹ cầu nguyện cũng như gửi lời chia buồn tới gia đình các nạn nhân vụ tấn công ở Bô-xtơn.

Thêm một lần nữa, nước Mỹ không bình yên!

VĂN YÊN
cand.com.vn

Sức lan tỏa của đợt sinh hoạt chính trị đầy tâm huyết và trách nhiệm

Kể từ thời điểm triển khai Nghị quyết của Quốc hội, Chỉ thị của Bộ Chính trị về việc lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đến nay chúng ta đã cảm nhận được một không khí sôi nổi, tâm huyết đầy trách nhiệm của một đợt sinh hoạt chính trị rộng khắp của đông đảo các tầng lớp nhân dân.

Hàng trăm cuộc hội nghị, hội thảo, tọa đàm góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được tổ chức. Những ý kiến tâm huyết và trách nhiệm của nhân dân cả trong và ngoài nước cũng đã được gửi đến các tổ chức, cơ quan chức năng. Theo đánh giá của Ban Biên tập – Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 thì công tác thông tin, tuyên truyền về tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 được tiến hành bài bản, kịp thời, thường xuyên, rộng khắp và đầy đủ trên cả báo nói, báo hình, báo viết và mạng Internet.

Các báo, đài, tạp chí đã mở chuyên trang, chuyên mục thông tin về hoạt động tổ chức lấy ý kiến ở các bộ, ngành, địa phương, đăng tải ý kiến của các đại biểu Quốc hội, các chuyên gia và người dân về các nội dung cụ thể của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Nội dung mang tính xây dựng, tích cực, phục vụ trực tiếp cho việc sửa đổi Hiến pháp đảm bảo đúng định hướng. Nhiều bài viết có những lập luận sâu sắc, thuyết phục về những nội dung cơ bản góp phần tăng thêm chất lượng, trí tuệ vào quá trình xây dựng Hiến pháp.

Riêng trên Báo CAND, ngoài việc có hàng trăm tin, bài tuyên truyền, thông tin kịp thời các hội nghị, hội thảo, tọa đàm góp ý Dự thảo Hiến pháp, chuyên mục của “Góp ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992” của Báo đã có gần 100 bài viết tâm huyết, trí tuệ của cán bộ, nhân dân và bạn đọc khắp trong và ngoài nước được đăng tải. Đó là những dòng thông tin ấm nóng tinh thần trách nhiệm, tâm huyết trước một sự kiện chính trị quan trọng của đất nước. Những ý kiến đóng góp đều đã được nghiên cứu kỹ, tập trung đi sâu, làm rõ những vấn đề quan trọng của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.

Trong đó đều bày tỏ sự tán thành, nhất trí cao với nội dung Điều 4 trong Dự thảo về vai trò lãnh đạo của Đảng vì đã thể hiện súc tích, rõ ràng và sát với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhất trí cần phải Hiến định sự trung thành của lực lượng vũ trang đối với Đảng. Điều đó đã minh chứng cụ thể cho thấy vai trò lãnh đạo của Đảng có đầy đủ cơ sở, chính trị tư tưởng và pháp lý vững chắc.

Tuy nhiên, bên cạnh những dòng thông tin ấm nóng đó vẫn có những dòng chảy lệch lạc, đi ngược lại với tuyệt đại đa số nhân dân. Một số cá nhân đã lợi dụng sự kiện này để tuyên truyền quan điểm sai trái, xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm gây ảnh hưởng tiêu cực, làm mất lòng tin trong quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ ta.

Theo Ban Biên tập Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, thời gian qua đã có một số trang thông tin trên Internet, một số blog cá nhân đăng tải những góp ý, nhận định chưa phù hợp với định hướng chung. Có một số cá nhân không góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 do Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 công bố mà tự ý đưa lên mạng một bản dự thảo Hiến pháp mới và kêu gọi mọi người tham gia ký tên ủng hộ.

Bản dự thảo này có nội dung kêu gọi không quy định quyền lãnh đạo của Đảng; đa dạng hóa hình thức sở hữu đất đai, thực chất là muốn tư nhân hóa về đất đai; phi chính trị hóa lực lượng vũ trang, thay đổi toàn bộ mô hình tổ chức bộ máy nhà nước theo mô hình Cộng hòa Tổng thống…

Theo Nghị quyết của Quốc hội, tổ chức, cá nhân có quyền và trách nhiệm gửi đến Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 những ý kiến, kiến nghị về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp thể hiện sự tâm huyết và tinh thần trách nhiệm công dân đối với đất nước, nhưng việc tự ý đăng tải một dự thảo Hiến pháp khác với bản Dự thảo do Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 công bố để kêu gọi mọi người ký tên ủng hộ là trái pháp luật.

Bởi vì, theo Nghị quyết của Quốc hội, Quốc hội là chủ thể quyết định việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân và dự thảo Hiến pháp để lấy ý kiến nhân dân là bản Dự thảo do Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 công bố. Tự ý là một việc không đúng pháp luật, thậm chí còn đăng tải cả những danh sách ký tên không có thật. Đó là những việc làm lạc lõng trong dòng chảy đầy tâm huyết và trách nhiệm của cả dân tộc đối với một công việc hệ trọng của đất nước. Dĩ nhiên là những tiếng nói lạc lõng và sai lệch đó sẽ chẳng nhận được sự hưởng ứng và nhanh chóng bị đào thải, lãng quên.

Đánh giá của Ban Biên tập – Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 thì việc tổ chức lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã được triển khai khẩn trương, kịp thời, nhận được sự quan tâm sâu sắc, đồng thuận của đông đảo các tầng lớp nhân dân, thực sự là đợt sinh hoạt chính trị, pháp lý sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân và cả hệ thống chính trị.

Con số hơn 860.000 lượt người tham dự hội nghị, hội thảo, tọa đàm và gửi thư góp ý; hơn 33.000 lượt người góp ý trực tiếp vào Dự thảo trên trang Dự thảo online; hàng trăm thư, bài góp ý trực tiếp gửi về Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, hàng trăm bài viết trên các báo, tạp chí… là minh chứng cụ thể, sinh động của một đợt sinh hoạt chính trị đầy tâm huyết và trách nhiệm của người dân đối với một sự kiện quan trọng của đất nước

Thanh Hải
cand.com.vn

Thiếu khách quan, thừa định kiến

QĐND – Không ngạc nhiên khi báo cáo thường niên của Bộ Ngoại giao Mỹ về tình hình nhân quyền năm 2012, được công bố ngày 20-4 (giờ Việt Nam), đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ từ nhiều nước. Bản báo cáo năm nay không có gì mới và vẫn như những năm trước, chủ yếu đề cập đến cái gọi là “tình trạng vi phạm nhân quyền” tại không ít quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

Trước hết cần khẳng định rằng, đây là một báo cáo thiếu khách quan, định kiến và không phản ánh đúng tình hình của Việt Nam. Báo cáo là một kiểu áp đặt trong quan hệ quốc tế mà Việt Nam phải gánh chịu trong những năm qua và đi ngược lợi ích song phương cũng như xu hướng phát triển tốt đẹp trong quan hệ Việt Nam – Mỹ  hiện nay.

Dưới nhãn quan bị chi phối bởi thành kiến chính trị, lại dựa trên những thông tin sai lệch một cách có chủ ý về Việt Nam, những người soạn thảo Báo cáo nhân quyền tiếp tục coi Việt Nam là một nhà nước “chuyên chế” mà ở đó  “quyền chính trị của công dân, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tôn giáo bị hạn chế”…

Hãy nhìn sang nước Mỹ. Không thể phủ nhận rằng nước Mỹ giàu có. Nhưng điều đó cũng không có nghĩa là nước Mỹ không có những vấn đề về quyền con người. Trong những năm qua, rất nhiều tổ chức quốc tế đã đưa ra những báo cáo về tình trạng vi phạm nhân quyền ở Mỹ liên quan đến việc tra tấn và đối xử ngược đãi tù nhân, phân biệt chủng tộc, hay khởi xướng những cuộc chiến tranh tàn khốc… Nhưng ở đây, chỉ xin bàn đến một trong những quyền cơ bản nhất của con người: Quyền được sống.

Có lẽ, chưa có nước nào mà người dân lại dễ dàng sở hữu súng đạn như ở Mỹ. Cũng chính từ sự lỏng lẻo trong việc kiểm soát súng đạn, bắt nguồn từ chính sách lợi ích nhóm, Mỹ đã “vinh dự” được sở hữu vị trí “quán quân” về số người chết do bạo lực trong số 17 quốc gia phát triển được khảo sát. Với 310 triệu khẩu súng đang lưu hành tự do trên thị trường, số người chết hằng năm vì súng đạn ở Mỹ lên đến hàng chục, thậm chí hàng trăm nghìn người với những vụ xả súng dường như đã trở thành “cơm bữa”.

Ấy vậy mà cho tới giờ, sau quá nhiều cái chết oan uổng, giới làm luật ở xứ Cờ hoa mới chỉ “quyết tâm” bỏ phiếu tán thành việc thảo luận một dự luật an toàn súng đạn. Nhưng, đó mới chỉ là thảo luận, bởi còn nhiều rào cản đến từ những khoản “đóng góp” mà giới chính khách trót nhận từ giới vận động hành lang. Và từ giờ cho tới khi dự luật (may mắn) được thông qua, ai biết được sẽ còn bao nhiêu cái chết oan uổng vì những “cân đo đong đếm” giữa lương tâm và “đồng bạc xanh” của những chính khách Mỹ? Vậy thì quyền cơ bản nhất của người dân Mỹ ở đâu khi mạng sống của đa số họ lại phụ thuộc vào một nhóm thiểu số?

Quay trở lại vấn đề nhân quyền ở Việt Nam. Báo cáo năm 2012 của Bộ Ngoại giao Mỹ nhấn mạnh rằng, “tình hình nhân quyền Việt Nam trong năm qua đã xấu đi…”. Như thế nào là xấu?

Nhân quyền là vấn đề rộng lớn mang tính nhân văn xã hội. Chính vì thế, một báo cáo về tình hình nhân quyền muốn có sức thuyết phục, trước hết phải dựa trên những đánh giá về những việc mà Chính phủ, quốc gia đó đã làm để người dân có cuộc sống ngày càng đầy đủ hơn cả về vật chất và tinh thần, nhất là ở những nước nghèo, đang phát triển. Đó là những nội hàm rất cơ bản của nhân quyền. Thế nhưng, các nhà soạn thảo báo cáo nhân quyền của Bộ Ngoại giao Mỹ lại chỉ dựa trên những thông tin một chiều mang tính chất định kiến, vô trách nhiệm và áp đặt. Báo cáo đã chỉ trích Việt Nam về “hạn chế quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí”; thậm chí đánh đồng những kẻ vi phạm pháp luật bị xử lý với các “nhà hoạt động chính trị”. Đáng nói là, những “nhà hoạt động chính trị”  được gắn mác là “bất đồng chính kiến”, mà bản báo cáo tung hô lại là những kẻ thời gian qua đã có nhiều hành động chống phá Nhà nước Việt Nam. Việc chính quyền các cấp có những biện pháp ngăn chặn những hành vi chống đối đó, không phải là vi phạm nhân quyền, mà chính là nhằm cho người dân được sống trong đất nước hòa bình, ổn định – một trong những quyền thiêng liêng nhất của con người.

Thời gian qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn đáng tự hào trong việc bảo đảm quyền con người trên tất cả các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, được LHQ và cộng đồng quốc tế ghi nhận. Ðó là những thành tựu không thể phủ nhận trong việc thực hiện hiệu quả các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs); giảm nhanh tỷ lệ đói nghèo, nâng cao mức sống mọi mặt cho người dân, đồng thời thực hiện hiệu quả các công ước về bảo đảm quyền phụ nữ, trẻ em. Chỉ số phát triển con người của Việt Nam liên tục trong những năm gần đây được nâng lên. Báo cáo về phát triển con người năm 2013 của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) công bố hôm 17-4 cho biết, Việt Nam là nước đứng thứ ba trong ASEAN về chỉ số bình đẳng giới, đồng thời đứng thứ 48 trên toàn thế giới về chỉ số này.

Bên cạnh đó, mọi quyền của người dân Việt Nam, trong đó có quyền làm chủ, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tôn giáo… đều được Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước CHXHCN Việt Nam bảo đảm. Nhà nước Việt Nam luôn tạo điều kiện để báo chí phát triển bằng cách tạo dựng khuôn khổ pháp lý đầy đủ và chính sách thuận lợi nhằm bảo đảm tự do báo chí và tự do ngôn luận. Điều phối viên thường trú LHQ tại Việt Nam, bà Pratibha Mehta trong cuộc trả lời phỏng vấn báo giới đầu tháng 4 vừa rồi đã nhận xét, Việt Nam đã không ngừng cải thiện hệ thống pháp luật và tư pháp, xây dựng một nhà nước pháp quyền, tăng cường các thể chế quốc gia bảo vệ quyền con người. Trước đó, Nghị sĩ E.Faleomavaega – thành viên Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ, trong chuyến thăm Việt Nam tháng 12 năm ngoái, cũng đánh giá rằng, Việt Nam đang làm tất cả những gì tốt nhất cho vấn đề nhân quyền. Lời nói của những người có uy tín như thế liệu đã đủ để Bộ Ngoại giao Mỹ thay đổi cách nhìn và cách tiếp cận về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam hay chưa?

Không phủ nhận rằng, vẫn còn những điều bất cập trong đời sống kinh tế-xã hội ở Việt Nam, ví dụ như nạn tham nhũng, tình trạng quan liêu…. Nhưng đó là những vấn đề mà bất cứ một xã hội nào trong quá trình phát triển của mình cũng phải đối mặt. Và Việt Nam đang nỗ lực hoàn thiện hệ thống tư pháp của mình để đẩy lùi và xử lý triệt để tệ nạn này.

Cũng không phủ nhận rằng, giữa Việt Nam và Mỹ đang tồn tại một khoảng cách nào đó về nhân quyền. Điều này bắt nguồn từ nhiều lý do, như sự khác biệt về văn hóa, về truyền thống lịch sử, trình độ phát triển… Nhưng cần phải nói rõ rằng, thực hiện về nhân quyền ở mỗi nước dựa trên những đặc thù về lịch sử văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng, điều kiện kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia. Không có một quốc gia nào trên thế giới được coi là hình mẫu nhân quyền cho quốc gia khác. Do vậy, không thể áp đặt hoặc sao chép máy móc các tiêu chuẩn về quyền con người của nước này cho nước khác.

Với tinh thần hòa hiếu, Việt Nam luôn sẵn sàng hợp tác và đối thoại với các nước và các tổ chức quốc tế, trong đó có Mỹ về các vấn đề còn có những cách nhìn khác biệt, trong đó có vấn đề quyền con người. Trong bối cảnh quan hệ Việt Nam – Mỹ không ngừng phát triển như hiện nay, thiết nghĩ, việc cần làm là tăng cường đối thoại và hiểu biết lẫn nhau, thu hẹp bất đồng. Có như vậy, quan hệ hợp tác Việt Nam – Mỹ mới được thúc đẩy và phát triển, đáp ứng lợi ích của nhân dân hai nước.

SONG ANH
qdnd.vn

Sức mạnh của Quân đội ta gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng

Quân đội ta do Đảng, Bác Hồ sáng lập và rèn luyện. Sức mạnh của Quân đội ta trong suốt chiều dài lịch sử gần 70 năm qua gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng. Điều đó đã làm cho Quân đội ta bách chiến bách thắng, góp phần cùng với dân tộc làm nên những thắng lợi huy hoàng vẻ vang nhất trong lịch sử”, Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn – Cục trưởng Cục Tuyên huấn – Bộ Quốc phòng nhấn mạnh.

– PV: Qua nghiên cứu bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, Trung tướng cảm tâm đắc nhất là những vấn đề gì?

– Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn: Điều tôi tâm đắc nhất là Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã bám sát Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và các văn kiện khác của Đại hội lần thứ XI của Đảng và kết quả tổng kết 20 năm đổi mới. Chính Hiến pháp đã thể chế hóa đường lối lãnh đạo của Đảng bằng pháp luật của Nhà nước, bằng ý chí của nhân dân.

Đặc biệt Hiến pháp lần này chủ yếu đi sâu, làm rõ quyền dân chủ của nhân dân. Dự thảo đã cố gắng đưa vào những vấn đề về thể chế hóa và thực hiện toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân. Thực hiện Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Vấn đề này không phải phủ nhận những Hiến pháp trước đó như Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 1980… mà lần này Dự thảo đã cố gắng cụ thể hóa hơn, sát hơn phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Thứ hai điều tôi tâm đắc Dự thảo quy định rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước với vai trò thống lĩnh các lực lượng vũ trang nói chung cũng như Quân đội nói riêng.

– PV: Vai trò, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với lực lượng vũ trang đã được cụ thể trong Dự thảo, Trung tướng có suy nghĩ như thế nào về nội dung này?

– Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn: Quân đội ta do Đảng, Bác Hồ sáng lập và rèn luyện. Sức mạnh của Quân đội ta trong suốt chiều dài lịch sử gần 70 năm qua gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng.

Điều đó đã làm cho Quân đội ta bách chiến bách thắng, góp phần cùng với dân tộc làm nên những thắng lợi huy hoàng vẻ vang nhất trong lịch sử. Quân đội và nhân dân ta đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, tiếp tục là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước vừa qua và hiện nay. Việc Đảng lãnh đạo Quân đội đã trở thành truyền thống, lịch sử. Đó cũng là một trong những nguyên nhân có ý nghĩa quyết định làm nên sức mạnh của quân đội.

Vừa qua có một số người cho rằng phi chính trị hóa quân đội. Điều này không mới. Vì ngay từ khi đất nước ta giành được hòa bình thống nhất cho đến nay, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách tuyên truyền phát động tư tưởng phi chính trị hóa quân đội, tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng. Và hôm nay những người đó chỉ nhắc lại cái mà các thế lực thù địch đã nói.

Về mặt lý luận chẳng có quân đội nào phi chính trị bởi vì quân đội là công cụ của một nhà nước mà nhà nước bao giờ cũng đại diện cho một giai cấp thống trị. Chẳng có nhà nước nào phi giai cấp.

Chỉ khác là giai cấp vô sản, giai cấp công nhân đã công khai quyền lãnh đạo, còn giai cấp tư sản, phong kiến che giấu việc này. Lý do đơn giản là họ đại diện cho một thiểu số trong cộng đồng quốc gia, dân tộc. Nếu công khai việc này vô hình trung họ thừa nhận nhà nước đó không đại diện quyền lợi và lợi ích của cả dân tộc bởi vậy họ che giấu. Còn giai cấp vô sản đại diện cho lợi ích của cả dân tộc vì họ là tuyệt đại đa số cho nên đảng của giai cấp vô sản công khai tuyên bố là đảng cầm quyền lãnh đạo nhà nước và quân đội.

Rất đơn giản thôi nếu quân đội Mỹ phi chính trị thì cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam hay những cuộc chiến tranh sau này như cuộc chiến tại Iraq, Afghanistan, Libya… có sự tham gia quân đội Mỹ đều vì mục đích chính trị của nhà nước cầm quyền của giai cấp tư sản, chế độ tư bản. Cho nên mọi luận điệu tuyên truyền phi chính trị hóa quân đội đều nhằm mục đích tách Quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, làm suy yếu chế độ xã hội chủ nghĩa và cơ hội để thay đổi chế độ.

Như tôi đã nói ở trên, Hiến pháp lần này là cụ thể hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở đất nước ta, do đó sự lãnh đạo của Đảng và nguyên tắc Hiến định sự trung thành của lực lượng vũ trang đối với Đảng phải được cụ thể trong Hiến pháp.

– PV: Từ góc độ một nhà nghiên cứu quân sự, theo Trung tướng Hiến pháp cần phải bổ sung và làm rõ thêm những vấn đề đối với chế định bảo vệ Tổ quốc?

– Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn: Theo tôi Hiến pháp lần này cần khẳng định rõ hơn nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đi liền với bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa chứ không bảo vệ Tổ quốc chung chung.

Thứ hai cần làm rõ vai trò vị trí của lực lượng vũ trang nói chung, của Quân đội nói riêng. Đây là lực lượng đang làm nhiệm vụ thiêng liêng cao quý nhất bởi vì bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng cao quý của mỗi công dân.

Thứ ba là Hiến pháp cần làm rõ Quân đội nói riêng và lực lượng vũ trang nói chung sinh ra để bảo vệ Tổ quốc.

Quan điểm quốc phòng là tự vệ, bảo vệ sự nghiệp lao động hòa bình của nhân dân, bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Nêu những vấn đề này để từ đó nhà nước cần có những chế độ chính sách phù hợp nhằm thu hút nhân tài trực tiếp tham gia nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Có chính sách đầu tư thỏa đáng, tạo sức mạnh tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc.

Ngoài ra, tôi cũng muốn nêu thêm một vấn đề là cần khẳng định trong Hiến pháp đất đai là sở hữu toàn dân và cụ thể hóa quyền làm chủ của nhân dân đối với đất đai. Bởi vì khi nói đất đai là của toàn dân thì quyền quyết định sử dụng đất đai phải được toàn dân tham gia thông qua dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Khắc phục tình trạng tùy tiện ở một số nơi, một số lúc, ở cấp này, cấp khác thay đổi mục đích, quyền sử dụng đất không tính đến vai trò sở hữu toàn dân đối với đất đai.

Đặc biệt là đất sử dụng cho mục đích nông nghiệp, cụ thể là trồng lúa. Chúng ta biết rằng đất trồng lúa là đất bờ xôi ruộng mật được bồi trúc qua hàng nghìn năm gắn bó với người nông dân qua hàng nghìn đời nhưng chúng ta chuyển đổi mục đích sử dụng có nơi còn lãng phí, đưa tài sản quý giá này sang mục đích khác là phải tính đến hiệu quả phải được cao hơn song thực tiễn có nhiều địa phương đã để xảy ra lãng phí rất lớn.

Chính vì vậy Hiến pháp lần này cần phải chế định rõ ràng vấn đề đó.

– PV: Xin trân trọng cảm ơn đồng chí Trung tướng!

Xuân Luận (thực hiện)
cand.com.vn

Cần làm rõ hành vi gây nhiễu chính sách Nhà nước về bất động sản

Chúng tôi cho rằng, việc sử dụng khái niệm “cứu bất động sản” là sai lệch chủ trương của Chính phủ. Gói hỗ trợ 30 nghìn tỉ đồng nhằm vào đối tượng nào, cần phải xác định rõ. Chính phủ không sử dụng gói 30 nghìn tỉ để hỗ trợ bất động sản, hay cứu bất động sản như nhiều thông tin đưa.

Liên tục trong thời gian từ cuối năm 2012 tới nay, trên nhiều diễn đàn, cụm từ “giải cứu bất động sản” xuất hiện nhan nhản và nó trở thành điệp khúc được nhiều chuyên gia bất động sản (BĐS) vin vào để biện luận về chính sách của Chính phủ trước tình trạng BĐS hiện hành. Tuy nhiên, khi chúng tôi rà soát lại các văn bản liên quan, không hề văn bản nào của Nhà nước có từ “giải cứu bất động sản”… Điều này cũng nhiều lần được lãnh đạo bộ chức năng lưu ý, việc tùy tiện nói Chính phủ dùng nguồn vốn giải cứu bất động sản là sai sự thật, gây tâm lý không tốt và ảnh hưởng nhiều mặt.

Đầu năm 2013, khi Chính phủ ban hành Nghị quyết 02/NQ-CP, ngày 7/1/2013, nhiều diễn đàn đồng loạt đưa tin, Chính phủ đã quyết định dùng Nghị quyết 02 để cứu bất động sản, cứu thị trường tài chính, nhà đất vốn đang rất ảm đạm. Việc đưa ra các ý trên làm nhiễu loạn thông tin về chính sách của Nhà nước đối với thị trường bất động sản, gây ra những hiệu ứng không tốt trong đời sống xã hội.

Thực tế, Nghị quyết 02/NQ-CP, ngày 7/1/2013 của Chính phủ không có nội dung nào đề cập chuyện “giải cứu” thị trường bất động sản, không có gói kích cầu, rót vốn “cứu” bất động sản. Nghị quyết 02 của Chính phủ quy định một số chính sách mới với 3 nhóm: tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh; hỗ trợ thị trường; giải quyết nợ xấu. Có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp, cá nhân tham gia phát triển nhà ở xã hội và nghiên cứu, ban hành chính sách tín dụng ưu đãi để người thu nhập thấp, cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang, công nhân, người lao động có thể mua, thuê và thuê mua nhà để ở phù hợp với thu nhập chính đáng.

Thị trường bất động sản đang xuất hiện nhiều thông tin gây nhiễu loạn.

Mới đây, Ngân hàng Nhà nước đưa ra dự thảo Thông tư quy định về cho vay hỗ trợ nhà ở xã hội theo Nghị quyết 02 của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) khẳng định mức lãi suất ưu tiên 6%/năm trong 3 năm là phù hợp và sẽ không tăng thêm hạn mức cho gói tín dụng hỗ trợ thị trường bất động sản, hiện nay là 30.000 tỷ đồng. Theo đó, NHNN khẳng định chỉ có người thu nhập thấp, cán bộ công chức, viên chức, lực lượng vũ trang thuê, thuê mua nhà ở xã hội và thuê, mua nhà ở thương mại có diện tích nhỏ hơn 70m2, giá bán dưới 15 triệu đồng/m2 mới nằm trong diện được vay ưu tiên. Đối tượng mua nhà ở xã hội chưa nằm trong lần xem xét này.

Mặc dù quy định của Chính phủ và dự thảo Thông tư của NHNN như vậy nhưng trên nhiều diễn đàn bất động sản, hàng loạt ý kiến cho rằng, Chính phủ tung gói kích cầu trị giá 30 nghìn tỉ đồng để cứu bất động sản, nhằm giúp thị trường này “phá băng”. Từ suy luận đó, nhiều bài phản biện nói rằng, rót 30 nghìn đồng cứu bất động sản tức là “cứu nhà giàu”, “cứu doanh nghiệp”, từ đó đặt ra nghi ngờ về tính hiệu quả của nguồn vốn mà Chính phủ bỏ ra.

Chúng tôi cho rằng, việc sử dụng khái niệm “cứu bất động sản” là sai lệch chủ trương của Chính phủ. Gói hỗ trợ 30 nghìn tỉ đồng nhằm vào đối tượng nào, cần phải xác định rõ. Chính phủ không sử dụng gói 30 nghìn tỉ để hỗ trợ bất động sản, hay cứu bất động sản như nhiều thông tin đưa. Ở đây có sự nhầm lẫn lớn về đối tượng được hỗ trợ. Nếu nói 30 nghìn tỉ hỗ trợ, cứu bất động sản, tức đối tượng nhằm vào thị trường bất động sản, vào doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh bất động sản.

Trong khi đó, thực chất của chủ trương Chính phủ là nhằm hỗ trợ người nghèo, người chưa có nhà ở có điều kiện thuê, mua nhà bằng gói hỗ trợ 30 nghìn tỉ. Tạo điều kiện cho người nghèo, người thu nhập thấp có nhà ở là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta và được đưa ra từ nhiều nhiệm kỳ nhưng chưa có điều kiện thực hiện đồng bộ do giá bất động sản quá đắt đỏ. Khi thị trường này trầm lắng, giá bất động sản hạ xuống, giao dịch ít, thì đây là điều kiện tốt nhất để người nghèo, người thu nhập thấp có điều kiện tiếp cận nhà ở.

Hướng dẫn mới nhất của NHNN cho rằng, dự thảo Thông tư quy định rõ, việc cho vay có bảo đảm hay không có bảo đảm do ngân hàng xem xét, quyết định. Ngoài ra, các quy định về giao dịch bảo đảm đã đầy đủ quy định về các tài sản và hình thức bảo đảm, vì vậy nếu chỉ quy định bảo đảm bằng chính căn nhà mua hoặc dự án đang xây dựng vào Thông tư là không đầy đủ và có thể hạn chế việc tiếp cận vốn của khách hàng.

Đối với một số ý kiến đề nghị mở rộng thêm nội dung đã được quy định trong Nghị quyết 02 như đề nghị cho vay ưu đãi với những căn hộ dưới 80m2, thay vì tối đa 70m2; thời hạn cho vay hỗ trợ là 20 năm, thay vì 10 năm; mua đất nền, mua nhà riêng lẻ trong khu dân cư cũng nằm trong đối tượng được vay hỗ trợ…, NHNN chuyển cho Bộ Xây dựng và các bộ, ngành liên quan nghiên cứu và tham mưu cho Chính phủ theo chức năng. Ngoài ra, một số ý kiến lo ngại việc không quy định tỷ lệ cho vay giữa doanh nghiệp và cá nhân, hộ gia đình sẽ dẫn đến việc doanh nghiệp vay nhiều hơn. Tuy nhiên, theo NHNN, việc quy định cụ thể tỷ lệ, ví dụ 65% cho doanh nghiệp và 35% cho cá nhân, hộ gia đình trong Thông tư là không khả thi.

Thực tế, để gói 30 nghìn tỉ của Nhà nước đến đúng đối tượng cần vay mua nhà còn là quá trình không đơn giản. Rất nhiều lo ngại việc thủ tục hành chính lòng vòng, phát sinh nhũng nhiễu, tiêu cực khi người nghèo tiếp cận được nguồn vốn. Thêm nữa, dù lãi suất chỉ 6%/năm, nhưng một căn hộ ở Hà Nội ít nhất cũng 1-2 tỉ đồng, đồng nghĩa lãi suất 60-120 triệu/năm. Người thu nhập thấp, thu nhập trung bình để trả được số tiền lãi 60-120 triệu đồng mỗi năm là bài toán quá khó, chưa kể để họ tiếp cận được nguồn vốn đó, còn phải “đi vòng” như thế nào

Đăng Trường
cand.com.vn

Trung thành với Đảng, với chế độ cũng có nghĩa là trung thành với Tổ quốc, với nhân dân

Góp ý kiến vào “Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992”

Ngọc Thư
Trong tính hiện thực của nó, Tổ quốc luôn luôn gắn liền với một chế độ chính trị, với một lực lượng cầm quyền. Nói cách khác Tổ quốc luôn luôn mang tính lịch sử cụ thể. Nói về Tổ quốc mà không nói đến chế độ xã hội, không nói đến lực lượng cầm quyền chẳng khác nào nói về sở hữu mà không nói đến chủ thể sở hữu là ai.

Thời Lý, Tổ quốc là nơi Vua Nam ở – “Nam đế cư” (Thơ Thần – Lý Thường Kiệt); Thời Trần, Tổ quốc trước hết là “thái ấp”, là “xã tắc tổ tông” nhà Trần (Hịch tướng sỹ của Trần Hưng Đạo). Khi Pháp cướp được nước ta có nghĩa những ông chủ thực sự của Tổ quốc ta lúc đó là thực dân Pháp. Bởi vậy có thể nói ngày nay Quân đội ta “trung với Đảng”, “bảo vệ Tổ quốc” cũng có nghĩa là trung thành với Tổ quốc, bảo vệ Tổ quốc và nhân dân.

Đối với dân tộc ta, Đảng Cộng sản Việt Nam chẳng những là người khai sinh mà còn là người rèn luyện, giáo dục Quân đội, Công an là người đề ra đường lối quân sự cách mạng, thống lĩnh các lực lượng vũ trang. Trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là người lãnh đạo, chỉ đạo phối hợp các mặt trận đấu tranh, quân sự, chính trị, ngoại giao mà còn là người chỉ đạo chiến lược, trực tiếp chỉ đạo quân đội ta trong những cuộc tiến công, những chiến dịch, chiến lược lớn như chiến dịch Điện Biên Phủ, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975.

Trong các xã hội hiện đại, không có quân đội nào không gắn với đảng chính trị cầm quyền. Ở một số quốc gia, quân đội còn tuyên thệ trung thành với người đứng đầu nhà nước (đương nhiên cũng là người đứng đầu đảng chính trị cầm quyền).

“Form”, mẫu kịch bản đảo lộn chính trị hoặc cách mạng xã hội ở nhiều quốc gia, khu vực khởi đầu thường là những cuộc binh biến. Nếu đi sâu nghiên cứu thì ở đó đằng sau quân đội là những tổ chức chính trị, những đảng chính trị đang hoạt động… Tiếp đó là sự can thiệp dưới những hình thức khác nhau của những lực lượng chính trị từ bên ngoài, vì lý do “dân chủ”, “nhân quyền” (chẳng hạn), nhằm chuyển chế độ xã hội hoặc chí ít là lực lượng cầm quyền hiện hữu sang lực lượng chính trị mới mà người ta mong đợi.

Trong thời đại ngày nay, các quốc gia – dân tộc không chỉ đối diện với nguy cơ an ninh truyền thống mà còn đối diện với nguy cơ an ninh phi truyền thống, không chỉ đối diện với những cuộc chiến tranh xâm lược bằng lực lượng vũ trang chớp nhoáng từ bên ngoài mà còn phải đối diện với những cuộc chiến tranh “không khói súng”, “diễn biến hòa hình”, bạo loạn lật đổ, gắn với các hình thức “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và chiến tranh kinh tế – giành giật “biên giới mềm”. Trong đó không loại trừ có tình huống “đối tác” có thể trở thành “đối tượng” đấu tranh. Đó là những cuộc chiến tranh không còn theo nghĩa đen mà là thay đổi chế độ xã hội hoặc thay đổi ê-kíp lãnh đạo, cầm quyền. Chính vì vậy mà ngày nay chiến lược bảo vệ Tổ quốc không chỉ là xây dựng quân đội tinh nhuệ, bảo đảm trang thiết bị hiện đại mà còn phải có Bộ tham mưu kiên định về chính trị, tuyệt đối trung thành với dân tộc, với chế độ xã hội, có khả năng đánh giá đúng tình hình, phân tích tình huống, không sa vào cạm bẫy, các thủ đoạn chính trị, quân sự xảo quyệt của đối phương. Điều này càng nói lên rằng để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân ngày nay, quân đội càng không thể nằm ngoài chính trị, không thể thoát ly sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng lãnh đạo, cầm quyền.

Với tầm tư duy chính trị sâu rộng, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong dịp kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Quân đội ta đã nói: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng chiến thắng” (Hồ Chí Minh tuyển tập, T II, NXB ST, HN, 1980. Tr 345).

Đặt trong bối cảnh chính trị quốc tế và trong nước hiện nay, Điều 70 của Dự thảo Hiến pháp 1992 sửa đổi dựa trên nội dung chủ yếu câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài nói chuyện trên: “Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế” chẳng những là phù hợp, hơn nữa còn là cần thiết.

Tất nhiên nội dung trung thành với Đảng ngày nay có nội dung cụ thể. Trung thành với Đảng lúc này là trung thành với Cương lĩnh, đường lối của Đảng được Đại hội XI thông qua. Trung thành với Đảng là kiên định mục tiêu và con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH hướng đến xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, đồng thời thực hiện đường lối đối ngoại: “Độc lập tự chủ… giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho sự phát triển”. Trung thành với Đảng trong lúc này còn có nghĩa Quân đội ta là lực lượng ủng hộ tích cực và kiên quyết cuộc đấu tranh chống tham nhũng, chống lợi ích nhóm.

Không phủ nhận rằng xã hội ta còn rất nhiều vấn đề mà cán bộ đảng viên, nhân dân không hài lòng, thậm chí là bức xúc như tình trạng phân hóa giàu nghèo, tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức lối sống của một số cán bộ đảng viên như Hội nghị TW 4 (khóa XI) của Đảng đã thẳng thắn chỉ ra. Song chỉ vì vậy mà phủ nhận những vấn đề có tính quy luật trong chính trị, cho rằng: “Lực lượng vũ trang phải trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không phải trung thành với bất kỳ tổ chức nào” hoặc “Quân đội là để bảo vệ nhân dân, bảo vệ Tổ quốc;… không phải bảo vệ bất cứ một đảng phái nào” là sai lầm về nhận thức… Về khách quan, điều đó, việc làm đó chỉ làm phương hại đến an ninh quốc gia, đến sứ mệnh bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân của Quân đội.

Nói Tổ quốc, nhân dân trừu tượng, chung chung thoát ly khỏi hoàn cảnh lịch sử lúc này nếu không phải là một sự ngây thơ thì cũng là một sự ngụy biện, là sai lầm về khoa học và nguy hại về chính trị. Chưa bao giờ quân đội trung lập về chính trị được thực tiễn xác nhận. Sự khác nhau chỉ là ở chỗ người ta có nói và viết ra điều đó công khai hay không mà thôi. Còn làm thế nào để có được một chế độ xã hội, một đảng cầm quyền, một nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân như mọi người mong muốn lại là một vấn đề khác

N.T.
cand.com.vn

Đảng phải được xây dựng mạnh về mọi mặt

Góp ý kiến vào “Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992”:

Phạm Văn Thạch
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trong Điều 4 đã khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt Nam, đó là niềm tin, ý chí và nguyện vọng của mỗi người dân Việt Nam ta.

Gần đây, bên cạnh đại đa số những ý kiến phát biểu nhất trí đồng tình với dự thảo Hiến pháp 1992 sửa đổi thì cũng có những ý kiến chính danh, mạo danh và của các thế lực thù địch đòi bỏ Điều 4 trong dự thảo Hiến pháp, nghĩa là đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng.

Tuy chỉ là một số ít nhưng những ý kiến này được các thế lực thù địch thổi phồng làm nóng lên trong một bộ phận xã hội. Nhiều bài viết đã phân tích, phê phán và vạch rõ những mưu toan hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước ta.

Thực ra không phải chỉ dịp này mà đã từ mấy chục năm nay, cứ mỗi khi trên đất nước ta diễn ra những sự kiện chính trị lớn, mỗi khi đất nước đứng trước khó khăn thách thức thì các thế lực thù địch thường tung ra các “bài ca lạc điệu” này. Có thời điểm đáng chú ý như sau khi Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu sụp đổ, chúng hô hào xóa ngay những nước XHCN còn lại, tung ra các luận điệu “giật gân” như chế độ XHCN ở các nước này được chúng tính bằng ngày.

Trớ trêu thay, thực tế đã hoàn toàn ngược lại với những ảo tưởng của chúng. Do vậy, đối với những quan điểm đòi xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng lần này cũng chỉ là những quan điểm cũ rích, xa lạ đối với nhân dân ta, với đất nước ta – một đất nước mà đã có trên 80 năm Đảng và nhân dân gắn bó máu thịt với nhau để làm nên những kỳ tích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

So với Hiến pháp năm 1992, dự thảo sửa đổi Hiến pháp lần này đã cụ thể hơn về nội dung yêu cầu Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Bên cạnh khẳng định bản chất ưu việt, sứ mệnh lịch sử, dự thảo còn nêu rõ trách nhiệm của Đảng là phải gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.

Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Những nội dung ấy chính là đã phản ánh đúng nguyện vọng của nhân dân, thể hiện rõ hơn bản chất cầm quyền của Đảng ta là Đảng được xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tuy vậy theo tôi cần phải bổ sung thêm một nội dung nữa trong điều 4 của dự thảo Hiến pháp sửa đổi. Nội dung đó là: ĐẢNG PHẢI ĐƯỢC XÂY DỰNG VỮNG MẠNH VỀ MỌI MẶT ĐỂ LÀM TRÒN TRÁCH NHIÊåM LÃNH ĐẠO NHÀ NƯỚC VÀ XÃ HỘI.

Điều này đặt ra rất cần thiết không chỉ xuất phát từ yêu cầu trước mắt mà còn là một đòi hỏi lâu dài. Yêu cầu trước mắt: như Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI (Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng) đã nêu, khắc phục những biểu hiện suy thoái hiện nay trong Đảng đang là một vấn đề lớn của Đảng vì nó chứa đựng những nguy cơ tiềm ẩn liên quan đến sinh mệnh của Đảng. Nhưng yêu cầu về lâu dài mới là quan trọng.

Lãnh đạo một đất nước với gần trăm triệu dân, một đất nước có truyền thống Anh hùng để đứng lên ngang hàng với những cường quốc trên thế giới là một việc hết sức khó khăn. Trong tình hình bối cảnh quốc tế có những thuận lợi và những khó khăn thách thức xen kẽ, những vấn đề về an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống, những xung đột, nguy cơ bất ổn và diện mạo những cuộc chiến tranh hiện đại không cho phép chúng ta chủ quan.

Trước tình hình đó, yêu cầu Đảng ta phải có trí tuệ, bản lĩnh, tài năng, nhanh nhạy, phải có một đội ngũ đảng viên thật sự gương mẫu, tiên phong, thật sự phải có đạo đức thì mới có khả năng lãnh đạo đất nước vừa ổn định vừa phát triển đi lên nhanh chóng và bền vững.

Việc xây dựng Đảng vững mạnh về mọi mặt không phải chỉ làm trong một giai đoạn mà là thường xuyên liên tục và ráo riết. Trách nhiệm đó trước hết là của Đảng. Đảng phải chăm lo rèn luyện, không ngừng trau dồi về mọi mặt, trong đó tính gương mẫu và phẩm chất đạo đức là những nhân tố mang tính quyết định. Mặt khác đó cũng là trách nhiệm của nhân dân đối với Đảng.

Đảng ta đã hơn 80 năm gắn bó máu thịt với nhân dân thì những kỳ vọng và tâm huyết của nhân dân để xây dựng Đảng là một tiềm năng rất lớn, một khả năng hiện thực rất cao. Vấn đề ở chỗ là Đảng phải tổ chức tốt sự tiếp thu đó và thể hiện nó bằng hiệu quả lãnh đạo của mình

P.V.T.
cand.com.vn

Không nên thành lập Hội đồng Hiến pháp

T.S Trần Thành Hưng – Trưởng Khoa, Trường Đại Học CSND
Việc bổ sung Hội đồng Hiến pháp như dự thảo là bổ sung một cơ quan mới trong hoạt động bảo vệ Hiến pháp nhưng chưa rõ vị trí, tổ chức, nguyên tắc hoạt động, cơ chế phối hợp với các cơ quan khác và nhiệm vụ không có gì khác hơn dễ dẫn đến sự chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, cồng kềnh bộ máy mà chưa dự liệu được hiệu quả là điều nên tránh trong sửa đổi Hiến pháp, như quan điểm của Đảng đã chỉ đạo.

Theo chúng tôi, bảo vệ Hiến pháp nghĩa là bảo đảm các quy định của Hiến pháp phải được thực hiện trong thực tế theo đúng tinh thần của nó. Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy định của Hiến pháp đều bị coi là vi phạm Hiến pháp. Với tinh thần đó, để Hiến pháp không bị vi phạm phụ thuộc vào nhiều vấn đề, trong đó nổi lên:

Một là: các quy định của Hiến pháp phải phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, năng lực tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định. Hiến pháp điều chỉnh những quan hệ xã hội quan trọng trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, trong đó có những quy định mang tính định hướng phấn đấu.

Thực hiện Hiến pháp phụ thuộc nhiều vào tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước và trình độ, năng lực quản lý xã hội của bộ máy nhà nước cũng như những điều kiện liên quan khác. Vì vậy, trong Hiến pháp tồn tại những quy định chưa phù hợp với những điều kiện nói trên sẽ là mầm mống tạo ra sự vi phạm.

Hai là: có cơ chế bảo đảm quá trình xây dựng luật và các văn bản dưới luật để không vi phạm Hiến pháp. Luật, pháp lệnh được xây dựng trên cơ sở đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh và yêu cầu quản lý nhà nước trong từng thời kỳ, bảo đảm các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân.

Các cơ sở này luôn vận động biến đổi để phù hợp với tình hình đất nước trong từng giai đoạn nên các quy định của pháp luật cũng phải thay đổi theo để bảo đảm việc quản lý, phát triển đất nước. Trong khi đó, các quy định của Hiến pháp tương đối ổn định về mặt thời gian, chậm sửa đổi bổ sung. Đây là mâu thuẫn dễ dẫn đến vi phạm Hiến pháp, phải có cơ chế phản biện, kiểm tra ngay trong quá trình xây dựng luật.

Thứ ba: phát hiện kịp thời những quy định của văn bản luật và dưới luật trái Hiến pháp. Hoạt động lập pháp hết sức phức tạp, mặc dù có nhiều biện pháp, quy trình chặt chẽ nhưng không loại trừ khả năng tồn tại quy định của pháp luật trái Hiến pháp nên phải thường xuyên rà soát để phát hiện, xử lý kịp thời những quy định nói trên nhằm bảo đảm Hiến pháp không bị vi phạm.

Trong ba nội dung nói trên, hoạt động xây dựng Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và các văn bản dưới luật là yếu tố cơ bản, quyết định cho việc bảo đảm tuân thủ Hiến pháp và thống nhất của hệ thống pháp luật.

Có thể nói: bảo vệ Hiến pháp phụ thuộc chính vào quá trình lập hiến và lập pháp. Vì vậy, để Hiến pháp không bị vi phạm cần phải chú trọng hiệu quả của quá trình xây dựng, sửa đổi bổ sung Hiến pháp và pháp luật. Việc kiểm tra, rà soát phát hiện văn bản quy phạm pháp luật trái với Hiến pháp để sửa chữa hoặc đình chỉ là giải quyết phần ngọn của vấn đề, không cơ bản.

Từ những phân tích trên, chúng tôi cho rằng, hiện nay không nên thành lập Hội đồng Hiến pháp như trong dự thảo (nên bỏ điều 120 trong dự thảo Hiến pháp). Bởi lẽ, thực tiễn hoạt động lập hiến, lập pháp ở nước ta trong thời gian qua tương đối chặt chẽ, có cơ chế để hạn chế đến mức thấp nhất khả năng vi phạm Hiến pháp. Nhìn chung hoạt động và cơ chế này đã và đang phát huy hiệu quả.

Xuất phát từ bản chất của Quốc hội Việt Nam – cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của toàn thể dân tộc và nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, hoạt động lập pháp của Quốc hội là thống nhất vì mục đích chung của cả dân tộc.

Việc bổ sung Hội đồng Hiến pháp như dự thảo là bổ sung một cơ quan mới trong hoạt động bảo vệ Hiến pháp nhưng chưa rõ vị trí, tổ chức, nguyên tắc hoạt động, cơ chế phối hợp với các cơ quan khác và nhiệm vụ không có gì khác hơn dễ dẫn đến sự chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, cồng kềnh bộ máy mà chưa dự liệu được hiệu quả là điều nên tránh trong sửa đổi Hiến pháp, như quan điểm của Đảng đã chỉ đạo.

Nhiệm vụ kiểm tra tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật mà dự thảo trao cho Hội đồng Hiến pháp có thể giao cho cơ quan đang thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp thực hiện

T.T.H.
cand.com.vn

Sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội là đáp ứng nguyện vọng của nhân dân

TAND tối cao tổ chức Hội nghị góp ý kiến đối với Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992:

Ngày 18/3, TAND tối cao đã tổ chức Hội nghị góp ý kiến đối với dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (khu vực phía Bắc). Đồng chí Trương Hòa Bình, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án TAND tối cao chủ trì hội nghị.

Sau một thời gian phổ biến, quán triệt, lấy ý kiến triển khai kế hoạch lấy ý kiến về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 của toàn cán bộ, công chức, lãnh đạo các cấp trong ngành Tòa án, đến nay TAND tối cao đã nhận được 73 báo cáo của Tòa án các địa phương, đơn vị thuộc TAND tối cao phản ánh hơn 2.000 ý kiến về các nội dung của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.

Các ý kiến đóng góp đều nhất trí với dự thảo và có thêm quan điểm về nội dung quan trọng và khẳng định, dự thảo đã giải quyết được những vấn đề bất cập, tồn tại của thực tiễn đặt ra trong quá trình tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992; đảm bảo quyền lực Nhà nước là thống nhất, đồng thời phân định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm, cơ chế phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; thể hiện rõ nội dung đổi mới bộ máy tổ chức Nhà nước, đổi mới hoạt động tổ chức của chính quyền địa phương theo hướng bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc quyết định và tổ chức thực hiện những chính sách trong phạm vi được phân cấp.

Đồng chí Trương Hòa Bình, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án TAND tối cao chủ trì hội nghị.

Kết luận Hội nghị, đồng chí Trương Hòa Bình nêu rõ: Các ý kiến đóng góp đề cập rất toàn diện, đầy đủ và cụ thể đến toàn bộ nội dung của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Điều đó thể hiện trách nhiệm cao của cán bộ, công chức và lãnh đạo các cấp ngành Tòa án.

Việc tiếp tục khẳng định sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và toàn xã hội trong Hiến pháp đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với lịch sử và những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta.

Việc quy định lực lượng vũ trang có nhiệm vụ tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội là đúng đắn

Nguyễn Hưng
cand.com.vn

Góp phần bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội

Dự thảo Luật Phòng, chống khủng bố:

Để phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả đối với tội phạm nói chung và tội phạm khủng bố nói riêng, góp phần đảm bảo an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, Chính phủ đã giao Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan xây dựng Dự thảo Luật Phòng, chống khủng bố. Sau nhiều lần chỉnh sửa, Ủy ban Thường vụ Quốc hội kết luận đồng ý trình dự án Luật Phòng, chống khủng bố để Quốc hội khóa XIII cho ý kiến vào kỳ họp thứ 4. Nếu được Quốc hội thông qua, Dự thảo Luật Phòng, chống khủng bố sẽ có hiệu lực từ cuối năm 2013.

Trong những năm qua, đặc biệt là sau vụ khủng bố ngày 11/9/2001 tại Mỹ, tình hình khủng bố quốc tế và khu vực diễn biến phức tạp, đe dọa nghiêm trọng hòa bình, ổn định và gây hậu quả nặng nề cho nhiều quốc gia trên thế giới.

Theo thống kê chưa đầy dủ, tính từ năm 2001 đến nay, trên thế giới đã xảy ra 5.774 vụ khủng bố làm 47.173 người thiệt mạng, 86.045 người bị thương và gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng khác.

Ở Việt Nam mặc dù chưa xảy ra vụ khủng bố nào do các tổ chức khủng bố quốc tế gây ra, tuy nhiên cơ quan An ninh đã phát hiện hàng trăm đối tượng phản động lưu vong xâm nhập nội địa, mang theo hàng tấn thuốc nổ, vũ khí và phương tiện kỹ thuật nhằm thực hiện khủng bố, phá hoại.

Để phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả đối với tội phạm nói chung và tội phạm khủng bố nói riêng, góp phần đảm bảo an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, Chính phủ đã giao Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan xây dựng Dự thảo Luật Phòng, chống khủng bố. Sau nhiều lần chỉnh sửa, Ủy ban Thường vụ Quốc hội kết luận đồng ý trình dự án Luật Phòng, chống khủng bố để Quốc hội khóa XIII cho ý kiến vào kỳ họp thứ 4. Nếu được Quốc hội thông qua, Dự thảo Luật Phòng, chống khủng bố sẽ có hiệu lực từ cuối năm 2013.

Một số hình ảnh về lực lượng Công an tham gia diễn tập phòng, chống khủng bố năm 2012.

Theo Bộ Công an, Luật Phòng, chống khủng bố góp phần thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội nói chung và phòng, chống khủng bố nói riêng. Các quan điểm, chủ trương này được thể hiện trong Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, trong đó đã đề ra “ký kết và gia nhập các công ước quốc tế về phòng, chống khủng bố quốc tế, chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, chống rửa tiền, chống tham nhũng”.

Việc xây dựng, ban hành Luật Phòng, chống khủng bố là một bước tiến trong quá trình tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vục đảm bảo an ninh, trật tự, tiếp tục góp phần thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Mặt khác, Luật Phòng, chống khủng bố cũng góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm sự thống nhất đồng bộ với các Luật khác có liên quan. Việc Việt Nam ban hành Luật Phòng, chống khủng bố nhận được sự quan tâm, ủng hộ của dư luận quốc tế và các nước có thù địch với khủng bố.

Dự thảo Luật quy định các biện pháp, cơ chế vận hành, lực lượng, quản lý Nhà nước và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng, chống khủng bố nhằm tăng cường hiệu quả, hiệu lực của công tác phòng, chống khủng bố. Luật được ban hành sẽ có tác động tích cực và là công cụ hữu hiệu bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, đồng thời góp phần kiện toàn, củng cố lực lượng cán bộ, chiến sĩ làm công tác phòng chống khủng bố.

Dự thảo Luật xác định rõ trách nhiệm của các cấp chính quyền, đoàn thể, tổ chức xã hội, cá nhân trong công tác phòng, chống khủng bố, giúp các cơ quan chức năng, chính quyền các cấp chủ động phòng ngừa, ứng phó, xử lý với các vụ việc khủng bố, bảo vệ tốt nhất tính mạng, sức khỏe, tài sản của tổ chức, cá nhân. Luật ban hành sẽ tạo cơ sở pháp lý thống nhất để tổ chức và hoạt động phòng, chống khủng bố, góp phần đảm bảo an ninh, trật tự, thu hút đầu tư, du lịch nước ngoài, phát triển kinh tế, xã hội của đất nước…

Ở nội dung chống khủng bố, dự thảo Luật quy định về: phát hiện khủng bố, tin báo và tố giác khủng bố; biện pháp chống khủng bố; chống khủng bố tại trụ sở cơ quan ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ quan đại diện tổ chức quốc tế và nhà ở của thành viên các cơ quan này; chống khủng bố cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài; điều tra, xử lý khủng bố.

Ngoài ra, trong dự thảo Luật còn quy định về tổ chức lực lượng phòng, chống khủng bố; phòng, chống tài trợ khủng bố và hợp tác quốc tế về phòng, chống khủng bố…

Dự thảo Luật Phòng, chống khủng bố gồm 8 Chương, 57 Điều. Ở nội dung phòng, ngừa khủng bố quy định 9 nhóm biện pháp là: Thông tin, tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống khủng bố; quản lý về an ninh, trật tự; kiểm soát nhập cảnh, xuất cảnh; kiểm soát hoạt động giao thông vận tải; kiểm soát giao dịch tiền, tài sản; kiểm soát hàng hóa, phương tiện nhập khẩu, xuất khẩu, quá cảnh; kiểm soát hoạt động báo chí, bưu chính, viễn thông, Internet và các hình thức khác; kiểm soát hoạt động bảo đảm an toàn thực phẩm và các hành vi làm lây lan bệnh dịch gây nguy hại cho tính mạng, sức khỏe con người; xây dựng và tổ chức thực hiện phương án về phòng, chống khủng bố.

Nguyễn Hưng
cand.com.vn