Tag Archive | Báo Doanh Nhân

GS Hoàng Minh Giám kể về những ngày vận nước “nghìn cân treo sợi tóc” (P 11)

(DVT.vn) – Năm 1952, Paul Mus viết sách cho biết, hồi đầu năm 1947, Ballaert cho rằng chỉ cần ba tuần lễ là y “đè bẹp cuộc kháng chiến của Việt Nam”!

Năm năm sau, trong quyển sách Việt Nam, cuộc chiến tranh xét về mặt xã hội học (Vietnam, sociologie d’une guerre) xuất bản năm 1952, P. Mus có phê phán nội dung của bản thông điệp mà ông ta đã có trách nhiệm chuyển đến Hồ Chủ tịch tại thị xã Thái Nguyên. Người cố vấn đặc biệt, phái viên của Bollaert kể rằng, lúc đó bọn thực dân Pháp ở Paris và Sài Gòn đều nhất trí cho rằng chúng nắm chắc chiến thắng trong tay rồi, chẳng bao lâu nữa chúng sẽ đè bẹp cuộc “kháng chiến của Việt Nam”, vậy không nên nhận đàm phán.

Đình Tân Trào không xa trụ sở Bộ Ngoại giao.

Theo tác giả, bộ trưởng Bộ chiến tranh của Pháp lúc bấy giờ nhận định rằng: “Vấn đề quân sự ở Đông Dương có thể coi như xong rồi” (il n’y a plus de problème militaire en Indochine); một nhân vật quan trọng trong giới Pháp khẳng định: “Chỉ ba tuần lễ nữa thôi! Mọi điều sẽ được giải quyết tốt, miễn là không đặt vấn đề đàm phán!” (Encore trois semaines! Tout ira bien, pourvu que l’on ne négocie pas!).

Đường về…

… châu tự do Sơn Dương.

Và chính vì thế, khi nói đến ngừng bắn, thực dân Pháp đã đưa ra những điều kiện phi lý, mà bản thân P. Mus cũng nghĩ rằng phía Việt Nam không thể nào chấp nhận.

Khi Paul Mus ra về rồi, Bác và chúng tôi còn ngồi lại khoảng một tiếng nữa để đợi cho ông ta đi xa rồi mới về nơi ở. Lúc đó, vào khoảng 1 giờ sáng, Bác không về chỗ ở của mình mà về Sơn Dương, chỗ cơ quan Bộ Ngoại giao.

Việc Bác Hồ từ nơi nào đến gặp Paul Mus, việc đó, ngoài anh Phan Mỹ thì không ai biết cả. Bác bảo tôi: “Bây giờ chú về với tôi bằng xe com-măng-ca”. Lúc ấy xe đã đợi sẵn ở đó, theo sự bố trí của anh Phan Mỹ.

Lúa không lo giặc về khi mùa màng thôn quê (lời bài hát của Văn Cao).

Chúng tôi đi xe tới đèo Khế thì trời bắt đầu sáng. Bác bảo chúng tôi: “Thôi, chúng ta xuống đi bộ, vì nếu đi xe, máy bay địch dễ phát hiện”. Tôi và Bác đi bộ về khu tự do Sơn Dương và ghé vào chỗ Bộ Ngoại giao. Tôi hứa với Bác là sẽ nhớ và viết lại lời của bức thư thông điệp mà Bollaert gửi Bác qua Paul Mus. Hai ngày sau, tôi gửi bài viết đó cho văn phòng của Bác.

Lúc ở Việt Bắc, tôi thỉnh thoảng mới gặp Bác ở các cuộc họp Hội đồng Chính phủ. Còn ngày thường gặp Bác rất khó vì Bác hay thay đổi chỗ ở và Bác giữ nguyên tắc bí mật, tránh tiếp xúc nhiều, đồng chí Phạm Văn Đồng lúc đó ở gần Bác và ít khi thay đổi chỗ ở. Bác bảo tôi: “Nếu chú có việc gì quan trọng mà không gặp trực tiếp Bác được, thì báo cáo với chú Tô” (bí danh của anh Đồng).

Trong các cuộc họp ở Hội đồng Chính phủ, ở Việt Bắc, Bác là người phát biểu đầu tiên. Bác nói độ 10 đến 15 phút về tình hình thế giới, sau đó nói về vấn đề chính của cuộc họp, ví dụ về Bản tuyên bố của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1950), về việc sẵn sàng thiết lập quan hệ ngoại giao với tất cả các nước, về kế hoạch cải cách ruộng đất và v.v.

Ta yêu những rừng Việt Bắc/ Nơi ta khôn lớn nên người (thơ Nguyễn Đình Thi).

Còn anh Văn thì báo cáo về tình hình quân sự. Cũng có lúc, anh Tạ Quang Bửu hoặc anh Hoàng Anh báo cáo về việc triển khai hoặc kết quả các chiến dịch. Thường thường, các buổi họp của Hội đồng Chính phủ nhanh, gọn.

Các cơ quan bộ ở Việt Bắc lúc đó cũng ít người. Đông nhất là văn phòng của Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng, khoảng 30 đến 40 người. Phần lớn các bộ đóng trụ sở ở ATK Sơn Dương, cũng có một số bộ phận khác đóng rải rác ở các tỉnh xung quanh.

Mình về rừng núi nhớ ai/ Trám bùi để rụng, măng mai để già (thơ Tố Hữu).

Trụ sở Bộ Ngoại giao của ta lúc đó đóng ở gần một làng hẻo lánh cách huyện lỵ Sơn Dương khoảng 11 km. Đóng trụ sở ở gần Bộ Ngoại giao còn có các bộ khác như: Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ (Bộ Nội vụ lúc đầu do cụ Tôn Đức Thắng làm Bộ trưởng một thời gian ngắn, sau đó Bác mời cựu khâm sai Bắc Kỳ là cụ Phan Kế Toại lên giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ), Bộ Lao động…

Từ chỗ Bộ Ngoại giao chúng tôi đi tiếp quãng nữa thì tới con suối Lê, qua suối Lê đi tiếp một đoạn nữa thì tới xã Tân Trào, nơi có đình Tân Trào – địa điểm Bác họp và ra Lệnh Tổng khởi nghĩa 1945.

Những ngày sống bên con suối Lê, Tân Trào thật là gian khổ. Nhưng, về sau nhớ lại, chúng tôi luôn cảm thấy rằng đó là những ngày đẹp nhất, thiêng liêng nhất trong cuộc đời của nhiều người chúng tôi.

Hà Nội, năm 1986
H. M. G.
(Ảnh: Internet)

dvt.vn

GS Hoàng Minh Giám kể về những ngày vận nước “nghìn cân treo sợi tóc” (phần 10)

Kháng chiến toàn quốc bùng nổ tại Hà Nội.

(DVT.vn) – Tháng 4/1947, tại vùng căn cứ kháng chiến Thái Nguyên, Hồ Chủ tịch tiếp đặc phái viên của cao ủy Bollaert, bác bỏ những yêu sách láo xược của phía Pháp.

Sau ngày kháng chiến toàn quốc bùng nổ (19/12/1946), quan hệ ngoại giao giữa ta và Pháp còn rất thưa thớt. Ngoài một vài bức điện hoặc lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cho đại diện Chính phủ Pháp (Léon Blum, Moutet), có một vài cuộc tiếp xúc giữa đại diện Chính phủ ta với các lãnh sự Mỹ, Anh, Ấn Độ và đại biểu Hội Chữ thập đỏ quốc tế; các cuộc tiếp xúc đó là do Pháp đề nghị, nhằm giải quyết cái gọi là “vấn đề tù binh Pháp”.

Hạ tuần tháng 4/1947, ta gửi cho Pháp một thông điệp đề nghị ngừng bắn. Lúc đó đô đốc d’Argenlieu cao ủy Pháp tại Đông Dương đã bị về vườn và cao ủy mới là Bollaert đã đến Đông Dương.

Chủ tịch Hồ Chí Minh trong ngày đầu kháng chiến ở căn cứ địa Việt Bắc.

Một ngày đầu tháng 5/1947, có cuộc gặp gỡ giữa tôi và lãnh sự Anh Tressor Wilson gần cầu Đuống. Sau mấy phút trao đổi ý kiến về “vấn đề tù binh” và tình hình chung, viên lãnh sự Anh nói:

– Ông có biết ông Paul Mus? Ông ấy nói đã có dịp gặp ông ở Hà Nội và đã được yết kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh trước ngày 19 tháng 12/1946.

– Có, đúng như vậy.

– Ông P. Mus muốn gặp ông. Ông ấy đã đi theo tôi đến phía bên kia cầu Đuống, cách đây độ một cây số, và đang chờ ở đó. Nếu ông đồng ý tiếp, thì ông ấy sẽ đến ngay.

– Ông ấy muốn gặp tôi về việc gì? Ông có biết không?

– Ông ấy nói rằng có một việc rất quan trọng, và ông ấy tha thiết muốn gặp ông. Hiện nay ông ấy là một người giúp việc thân cận, một cố vấn của cao ủy Bollaert.

– Được. Nhờ ông báo cho ông P.Mus rằng tôi vẫn sẵn sàng gặp ông ấy.
Một lát sau, P.Mus đến. Sau khi chào hỏi, ông ta vào đề ngay:

– Tôi có một việc rất quan trọng, bí mật và gấp, muốn được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh, tôi được ủy nhiệm chuyển trực tiếp đến Chủ tịch một thông điệp của cao ủy Bollaert. Nếu có thể, tôi sẵn sàng đi theo ông ngay bây giờ.

– Rất tiếc. Đi ngay bây giờ thì không được. Tôi sẽ báo cáo với Chủ tịch. Tôi sẽ trả lời cho ông biểt quyết định của Người. Ông cho biết nên trả lời cho ông bằng con đường nào, vừa nhanh chóng vừa đảm bảo bí mật?

– Cảm ơn. Đề nghị ông trả lời cho tôi bằng điện đài.

Các chiến sĩ vệ quốc quân lên đường chiến đấu chặn bước tiến của quân thù.

P. Mus đọc một câu có nghĩa lóng, và nói tiếp: “Bắt đầu từ ngày kia, mỗi buổi sáng, hồi 9 giờ, bộ phận nghe đài của chúng tôi sẽ đón nghe đài của các ông, nghe được câu lóng đó, tôi sẽ đến địa điểm này, đúng giờ hẹn, để được dẫn đến gặp Hồ Chủ tịch và trao trực tiếp bản thông điệp của cao ủy Bollaert.

Sau đó, điện đài của ta báo cho phía Pháp biết Hồ Chủ tịch bằng lòng tiếp đặc phái viên của cao ủy Bollaert. Đúng hẹn, người của ta chờ P. Mus ở cầu Đuống và dẫn vào vùng giải phóng. Để bảo đảm bí mật và vì các đường cái đã bị dân công đào, cắt, ông ta đã phải đi bộ qua các làng phần lớn đã sơ tán, và đi ban đêm. Và một buổi tối trung tuần tháng 5/1947, P. Mus đã được Hồ Chủ tịch tiếp, lúc đó khoảng 22 giờ, tại Thái Nguyên.

Phát thanh truyền lệnh kháng chiến toàn quốc tại Hà Nội.

Thị xã Thái Nguyên đã tản cư triệt để, và tiêu thổ kháng chiến. Các đồng chí bảo vệ đã tìm được một ngôi nhà tuy không nguyên vẹn, nhưng cũng còn được một gian tương đối khả quan, có bàn và ghế, có thể dùng làm nơi Bác tiếp người phái viên bí mật của Bollaert.

Tôi chờ P.Mus và đưa ông ta vào gian nhà yết kiến Hồ Chủ tịch. Dưới ánh sáng của ngọn đèn măng-sông, tôi cảm thấy ông ta xúc động được gặp Bác, được Bác tiếp, giản dị, lịch sự như lúc ở phòng khách tại nhà 12 Ngô Quyền, Hà Nội.

P. Mus cảm ơn Hồ Chủ tịch đã vui lòng cho ông ta gặp để làm nhiệm vụ do cao ủy Đông Dương giao cho và xin phép đọc cho Bác nghe (đọc thuộc lòng) bản thông điệp không ghi vào giấy (messenger verbal) của Bollaert, trả lời bức thư đề nghị ngừng bắn của Chính phủ ta đề ngày 25/4/1947.

Thông điệp của Bollaert nêu lên bốn điều kiện cho ngừng bắn:

1- Quân đội Việt Nam phải nộp vũ khí cho Pháp.
2- Quân đội Pháp được quyền đi lại tự do trên đất nước Việt Nam.
3- Chính phủ Việt Nam phải trả lại cho Pháp tất cả những người nước ngoài (ý nói: người Nhật và người Pháp) đã chạy sang phía Việt Nam.
4- Chính phủ Việt Nam phải trao cho Pháp tất cả những người nước ngoài (ý nói người Nhật và người Pháp) đã chạy sang phía Việt Nam.

Sau khi nghe những điều kiện láo xược đó của cao ủy Pháp, Hồ Chủ tịch nghiêm nét mặt, nhưng bình tĩnh và giọng nói ôn tồn. Người nói:

– Ông Mus, tôi biết ông đã tham gia cuộc kháng chiến chống Hitler của nhân dân Pháp, điều đó có đúng không?

– Thưa Chủ tịch, đúng.

– Vậy ông hãy trả lời tôi: Nếu ở địa vị tôi, ông sẽ có thái độ thế nào với bản thông điệp của ông Bollaert? Ông có nhận những điều kiện đó không?

P. Mus lúng túng… Bác nói tiếp:

– Tôi nghe nói ông Bollaert cũng đã tham gia cuộc kháng chiến chống Hitler và có thành tích. Những điều kiện ông ấy đòi chúng tôi phải đầu hàng. Ông Mus, bản thân ông có nghĩ rằng chúng tôi có thể đầu hàng không? Lại còn điều kiện liên quan đến những người nước ngoài đứng trong hàng ngũ kháng chiến Việt Nam chống thực dân. Phải là một con người hèn mạt, mới chấp nhận điều đó. Nếu tôi chấp nhận, tôi là kẻ “hèn mạt” (Si j’acceepte, je serais un lâche). Và tôi nghĩ rằng trong Liên hiệp Pháp không có chỗ cho những kẻ hèn mạt (Je pense que dans l’ Union française, il ne doit pas y avoir de place pour des lâches).

P. Mus im lặng, gật đầu, tỏ ý đồng tình. Rồi nói:

– Tôi hiểu, thưa Chủ tịch, tôi hiểu…

Thế rồi không nói đến bản thông điệp nữa.

Bác giải thích về lập trường của Chính phủ và nhân dân ta: Yêu chuộng hòa bình, muốn có quan hệ tốt với nhân dân Pháp, nhưng kiên quyết kháng chiến để bảo vệ độc lập và thống nhất của Tổ quốc mình.

P. Mus thừa nhận rằng đó là những tình cảm và ý chí chính đáng, hứa sẽ báo cáo với cao ủy Bollaert những ý kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông ta chúc sức khỏe Bác, và lúc chào từ biệt, tỏ ra cảm động thực sự. Lời cuối cùng của ông ta lúc ra về là:

– Chúc Chủ tịch dũng cảm (Du courage, Monsieur le Président!).

Bác đáp lại:
– Luôn luôn! Tất nhiên! (Toujours! Naturellement!).

Một sự việc nhỏ có lẽ đã làm cho P. Mus ngạc nhiên: Khi cuộc tiếp kiến kết thúc, các đồng chí phục vụ đã bưng ra mấy cốc rượu sâm banh để Bác mời khách uống trước khi ông ta rút lui vào bóng tối đêm khuya.

(Còn nữa)

dvt.vn

GS Hoàng Minh Giám kể về những ngày vận nước “nghìn cân treo sợi tóc” (P 9)

Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1946

(DVT.vn) – Hội nghị Fontainebleau thất bại. Bác Hồ ký với Moutet bản Tạm ước, rồi rời Toulon ngày 19/9/1946 cùng một số trí thức Việt kiều: Trần Đại Nghĩa, Trần Hữu Tước…

Về chương trình nghị sự, hai đoàn quyết định một chương trình gồm 5 điểm:

1- Vị trí của Việt Nam trong Liên hiệp Pháp, và quan hệ ngoại giao của Việt Nam với các nước ngoài;
2- Liên bang Đông Dương;
3- Vấn đề thống nhất ba kỳ và trưng cầu dân ý;
4- Vấn đề kinh tế;
5- Dự thảo một hiệp ước.

Thành lập các tiểu ban:

1- Tiểu ban chính trị (gồm tất cả hai đoàn);
2- Kinh tế – Tài chính;
3- Văn hóa;
4- Quân sự;
5- Chương trình nghị sự.

Lâu đài Fontainebleau.

Ngày 13/7 bắt đầu thảo luận vấn đề 1.

Ngày 12. Bác mở Hội nghị báo chí để trình bày lập trường của Việt Nam. Bác nói: “Quan hệ giữa Pháp và Việt Nam phải do một Hiệp ước quy định.

Về kinh tế và văn hóa, chúng tôi tán thành một “liên kết” (association) với nước Pháp trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp (dans le cadre de l’Union Française).

Lý do tồn tại của Liên bang Đông Dương là sự cần thiết phải phối hợp các hoạt động (coordonner les activités) của Việt Nam, Lào và Campuchia. Nó phải chủ yếu là kinh tế (économique). Liên bang Đông Dương không được biến thành một Phủ toàn quyền trá hình (gouvernement général déguisé).

Nam bộ là đất của Việt Nam, là thịt của thịt chúng tôi, là máu của máu chúng tôi. Một cuộc trưng cầu ý dân (référandum) sẽ tốn kém lắm. Nếu chúng ta có thể thỏa thuận với nhau và miễn tổ chức trưng cầu ý dân thì tốt hơn. Nếu không thể miễn, thì chúng ta sẽ tổ chức một cách thành thực và thẳng thắn, và kết quả sẽ cũng thế thôi.

Phái đoàn Chính phủ Việt Nam tại Hội nghị Fontainebleau năm 1946.

Người Pháp sẽ có quyền tiếp tục lập các xí nghiệp (entreprises), quyền tự do kinh doanh của họ sẽ giống như người Việt Nam…”

Ngay từ lúc các tiểu ban bắt đầu thảo luận các vấn đề ghi trong chương trình nghị sự, rõ ràng là quan điểm của hai bên xa nhau rất nhiều, nếu không muốn nói là trái ngược nhau.

Các tiểu ban làm việc một tuần, rồi hai tuần, rồi ba tuần, vẫn chưa kết thúc được vấn đề nào. Ngày 26/7, chính trưởng đoàn Pháp Max André đã phải thốt lên:

– Bao thời gian đã trôi qua! Các tiểu ban của chúng ta chưa “xây dựng” được gì cả? Vì sao?
Trưởng đoàn Phạm Văn Đồng nói thẳng:
– Cái gì cản trở chúng ta, làm cho chúng ta chưa kết luận được một điểm nào? Đó là sự thiếu lòng tin cậy.

Ngày 26/7, có tin d’Argenlieu đã có một hành động mới, nhằm phá hoại Hội nghị: Ông ta triệu tập một hội nghị sẽ họp ngày mồng 1/8 tại Đà Lạt; thành phần hội nghị đó gồm những đại biểu của Nam kỳ, Campuchia, Lào, các dân tộc thiểu số Tây Nguyên và những quan sát viên miền Nam Trung kỳ, để thảo luận vấn đề “Liên bang Đông Dương”.

Hôm đó, mở đầu buổi họp Tiểu ban chính trị, anh Đồng phản đối quyết định của Cao ủy Đông Dương, vì nó là một sự vi phạm Hiệp định 6/3 tiếp theo nhiều vi phạm khác, một chứng cớ “mới” của chính sách “việc đã rồi” mà “chúng tôi kịch liệt phản đối”.

Trưởng đoàn Phạm Văn Đồng và thiếu nhi Việt kiều.

Anh Đồng nhờ Max André chuyển lời phản đối đó cho Chính phủ Pháp, và mong được trả lời càng sớm càng tốt.

Ngày mồng 1/8, Tiểu ban nghiên cứu vấn đề Liên bang Đông Dương bắt đầu họp, anh Đồng đứng dậy và nói:

“Ngày 26/7, tôi đã nhờ ông trưởng đoàn Pháp chuyển một thư phản đối về việc triệu tập Hội nghị họp ngày hôm nay tại Đà Lạt. Chúng tôi vẫn chưa được trả lời. Lập trường của chúng tôi là:

Nêu vấn đề Nam bộ nam Trung bộ và Liên bang Đông Dương là do các nhà chức trách Pháp ở Nam kỳ quyết định, thì Hiệp định sơ bộ 6/3 không có giá trị, và Hội nghị Fontainebleau không có lý do tồn tại; nếu Hiệp định sơ Bộ 6/3 có giá trị, thì chỉ Hội nghị Fontainebleau có thẩm quyền để thảo luận vấn đề nói trên.

Vì lòng tự trọng, chúng ta phải chấm dứt tình trạng nhập nhằng này, và đình chỉ Hội nghị của chúng ta cho đến khi nào cái nhập nhằng đó chấm dứt”.

Thế là buổi họp chấm dứt. Và Hội nghị cũng chấm dứt bởi vì, sau đó, chỉ có những cuộc gặp và trao đổi ý kiến lẻ tẻ, không có cuộc họp giữa hai Đoàn. Bác quyết định sẽ rời nước Pháp ngày 14/8.

Ngày 8/8, Max André nói với ta: Hội nghị Đà Lạt do d’Argenlieu triệu tập ngày 1/8 chỉ để trao đổi ý kiến, không quyết định gì cả, và đề nghị Hội nghị Fontainebleau lại họp.

Bác quyết định hoãn ngày về nước, và ngày 12/8 tuyên bố với báo Libération: “Tôi không đặt điều kiện cho việc tiếp tục Hội nghị. Và ngày 15/8, Bác tuyên bố với báo Franc-Tireur: “Tôi đến đây để xây dựng hòa bình. Tôi không muốn về nước với hai bàn tay không. Tôi muốn đem về cho nhân dân Việt Nam những kết quả cụ thể, sự hợp tác mà chúng ta đều mong muốn”.

Trong lúc đó, cũng có những lời phát biểu “ngược dòng” của một số nhân vật Pháp như de Gaulle và Herriot.

De Gaulle cảnh cáo: “Có nguy cơ tan rã Liên hiệp Pháp”.

Herriot lên tiêng: “Nếu Liên hiệp Pháp không có quyền quyết định về vấn đề ngoại giao và quốc phòng của các thành viên, thì còn gì là Liên hiệp Pháp?”.

Bắt đầu từ ngày 3/9, ta và Pháp thỏa thuận cử một tiểu ban gồm bảy đại biểu: ba người Pháp (Pignon, Torel, Gouron) và bốn người Việt Nam (Phạm Văn Đồng, Phan Anh, Trịnh Văn Bính, Dương Bạch Mai) dự thảo trong bảy ngày (3-10/9) một thỏa thuận về các vấn đề cơ bản là:

1- Độc lập của Việt Nam
2- Vấn đề ngoại giao
3- Vấn đề quân sự
4- Vấn đề Nam bộ

Nhưng sau bảy ngày, tiểu ban ấy không đi đến một thỏa thuận nào cả.

Thế là Hội nghị Fontainebleau đã kết thúc ngày mồng 10/9/1946, nếu không nói là ngày mồng 1/8/1946.

Đoàn ta rời Paris ngày 13/8 đi Toulon và ngày 16/8 xuống tàu Pasteur về nước.

Bác cũng về bằng tàu thủy, để có thể nghỉ ngơi. Chiếc tàu Dumont d’Urville mà Chính phủ Pháp dành cho Bác bị hư hỏng nhẹ, cần sửa chữa, cho nên Bác ở lại Paris thêm mấy ngày. Sáng 14/8, Bác gặp Moutet, trao đổi ý kiến về vấn đề ký một Tạm ước (Modus Vivendi), rồi Bác đi chào tạm biệt Bidault. Nửa đêm hôm đó, Bác gọi điện thoại cho Moutet, đến nhà ông ta, thảo luận thêm về nội dung bản Tạm ước, và ký bản đó với Moutet.

Nội dung bản Tạm ước không giải quyết cụ thể vấn đề nào cả, chỉ nêu những thỏa thuận về nguyên tắc mà những tiểu ban hỗn hợp (commissions mixtes) sẽ cụ thể hóa cách thức thực hiện. Như thế có nghĩa là cuộc đàm phán sẽ tiếp tục, một hiệp định đầy đủ và dứt khoát (un accord total et définitif) sẽ được thảo luận trong cuộc đàm phán sắp tới, chậm nhất vào tháng 1/1947.
Bác rời Paris ngày 16/9 và ngày 19 rời Toulon về nước.

Ngày 18/10, d’Argenlieu đón Bác ở vịnh Cam Ranh, trao đổi ý kiến về vấn đề thực hiện bản Tạm ước.

Bác về đến Hải Phòng ngày 21/10/1946. Bác đã cử một phái đoàn đại diện Chính phủ ta tại Pháp, gồm: Hoàng Minh Giám (trưởng đoàn) và hai đoàn viên (Trần Ngọc Danh, Dương Bạch Mai).

Bác đã nhận một số Việt kiều tình nguyện về nước hoạt động, phục vụ đất nước: Trần Hữu Tước, Võ Quý Huân, Đặng Chấn Liêu, Lâm Ngọc Huấn, Trần Đại Nghĩa…

(Còn nữa)

dvt.vn

GS Hoàng Minh Giám kể về những ngày vận nước “nghìn cân treo sợi tóc” (P 8)

(DVT.vn) – D’Argenlieu muốn chủ trì Hội nghị Fontainebleau nhưng không thành. Sainteny định hạn chế các hoạt động của Bác Hồ nhưng thất bại. Nhiều tờ báo Pháp tỏ thiện cảm với Bác.

Bác dành thì giờ tiếp các nhà kinh doanh Pháp. Họ chăm chú nghe Bác trình bày chủ trương của ta là tôn trọng quyền lợi kinh tế của Pháp và muốn được sự giúp đỡ về kinh tế, kỹ thuật của Pháp để khắc phục tình trạng lạc hậu của đất nước. Họ đặt nhiều câu hỏi cụ thể, và tỏ ra hoan nghênh những lời giải thích của Bác.

Sau này, trong quá trình Hội nghị Fontainebleau, Bác tổ chức những cuộc họp báo, hoặc tiếp riêng phóng viên của một số trong những tờ báo cánh tả, ủng hộ ta như: Giải phóng (Libération), Chiến đấu (Combats), Người du kích (Franc-Tireur), Dân chúng (Le Populaire), Nhân đạo (L’Humanité), để trình bày lập trường của Việt Nam đối với các vấn đề đang tranh luận ở Hội nghị. Ảnh hưởng của Bác về mặt tranh thủ dư luận là rất lớn.

Lâu đài Fontainebleau gần thủ đô Paris.

Phóng viên các báo đến rất đông, mỗi khi Bác triệu tập, vì họ rất thích nghe những lời giải thích, những tuyên bố của Bác. Họ nhận thấy trong đó bản chất cao thượng của một lãnh tụ có tầm vóc khác thường, nhưng rất khiêm tốn, có lúc dí dỏm, và luôn luôn có sức thuyết phục lớn.

Một hôm, một nhà báo hỏi:

– Thưa Chủ tịch, xin cho phép tôi hỏi một câu về đời tư của ngài: Trong cuộc đời đấu tranh cách mạng, ngài đã bị ở tù bao lâu?

Bác trả lời:

– Đấu tranh cách mạng, bị bắt vào tù, đó là việc khó tránh. Và sống trong nhà tù, thì thời gian bao giờ cũng là lâu cả (en pison, le temps est toujours long!). Mọi người đều cười, và câu chuyên chuyển sang vấn đề khác.

Phía Pháp muốn hạn chế hoạt động của Bác, nhưng thất bại. Sainteny kể rằng Chính phủ Pháp đã giao cho ông ta nhiệm vụ đó, nhưng vì Bác không phải là một thành viên của Đoàn, Bác là khách của Chính phủ Pháp, và có rất nhiều người Pháp ủng hộ tích cực, cho nên ông ta đã chịu thất bại.

Phía Pháp tưởng rằng việc họp Hội nghị ở Fontainebleau (cách Paris 60 km) sẽ giảm ảnh hưởng của Hội nghị đối với dư luận. Họ đã thất bại, một phần lớn do hoạt động khôn khéo và uy tín rất lớn của Bác.

Về thành phần Đoàn Pháp, ngoài một số người đã dự Hội nghị Đà Lạt (Pignon, Torel, Gouron, Messmer…) có thêm một số người chuyên môn và kỹ thuật, và đặc biệt có thêm ba nghị sĩ là: Jugias (Đảng MRP), Lozeray (Đảng Cộng sản) và giáo sư Paul Rivet (Đảng SFIO). Nghị sĩ MRP và nghị sĩ cộng sản không có hành động gì đặc biệt, Nghị sĩ SFIO thì khác hẳn.

Bác Hồ và Trưởng đoàn Phạm Văn Đồng ở Pháp.

Ngày mồng 5/7 (một ngày trước ngày Hội nghị Fontainebleau bắt đầu), Đoàn Pháp họp để nghe đoàn trưởng phổ biến lập trường của Chính phủ Pháp trong vấn đề Việt Nam. Lúc buổi họp kết thúc, giáo sư Paul Rivet nói với trưởng đoàn:

– Ngày mai, tôi sẽ không đến Hội nghị.

Trưởng đoàn ngạc nhiên hỏi:

– Vì sao?

Paul Rivet trả lời:

– Tôi từ chức.

Ngay tối hôm đó, Paul Rivet viết thư cho Moutet, bộ trưởng Bộ Pháp quốc hải ngoại: “Tôi đã từ chối tham dự Hội nghị Fontainebleau, vì tôi không muốn là một người bị lừa dối, một con tin, một kẻ đồng lõa (Je ne veux eetre ni dupe, ni otage, ni complice). Tôi đã thấy một ý đồ mà tôi không thể nào chấp nhận: tổ chức một hội nghị không phải để làm cho nó thành công, mà trái lại, để làm cho nó thất bại”.

Trưởng đoàn Pháp là Max André, nguyên trưởng Đoàn Pháp tại Hội nghị trù bị Đà Lạt, một đảng viên MRP, ủy viên Hội đồng quận Seine đã được Edmond Michelet giới thiệu với de Gaulle, và tháng 1/1946 đã được cử sang Đông Dương nghiên cứu tình hình, được gặp Bác Hồ ngày 21/1. Không biết khi trở về Pháp, ông ta đã báo cáo như thế nào. Một số cán bộ của ta nói rằng ông ta gửi cho Bác một bức thư rất “láo xược”. Bản thân tôi không được đọc bức thư đó. Sau này tôi có đọc một bài phát biểu của Edmond Michelet nói rằng ông ta rất tiếc đã giới thiệu Max André với de Gaulle: “Bidault và tôi đã tín nhiệm anh ấy. Đó là một sai lầm. Nếu chúng ta cử một người khác vào vị trí của anh ấy thì tình hình đã chuyển biến theo một hướng khác”.

Đoàn ta gồm một số đại biểu đã dự Hội nghị trì bị Đà Lạt (Trịnh Văn Bính, Tạ Quang Bửu, Nguyễn Văn Huyên, Dương Bạch Mai…), một số đại biểu mới (Phạm Văn Đồng, Hoàng Minh Giám, Phan Anh…), một đại biểu Việt kiều sống tại Pháp: Bửu Hội… Trưởng đoàn là Phạm Văn Đồng.

Ngày 6/7/1946, Hội nghị Fontainebleau khai mạc. Có hai sự cố:

1-D’Argenlieu ngỏ ý muốn “chủ trì” Hội nghị. Đoàn ta không đồng ý. Nhưng đoàn Pháp nói rằng ông đô đốc không chịu từ bỏ tham vọng của mình và đang chuẩn bị đến hội trường. Chúng tôi cảnh cáo rằng nếu ông ấy đến thì chúng tôi sẽ không dự buổi họp. Sau một thời gian chờ đợi, Max André cho biết: “Đô đốc sẽ không đến vì lý do sức khỏe”.

2- Buổi khai mạc bắt đầu bằng một diễn văn ngắn, chào mừng và chúc mừng, vô thưởng vô phạt của Max André. Diễn văn của trưởng đoàn ta thì khác hẳn, lên án những hành động của phía Pháp đã vi phạm Hiệp định sơ bộ 6/3: không đình chỉ chiến sự, đã đánh chiếm vùng cao nguyên Plây-cu – Kon-tum chiếm phủ toàn quyền cũ, và nghiêm trọng hơn cả là sự lập ra một chính phủ bù nhìn ở miền nam Việt Nam. “Nếu coi Hiệp định sơ bộ 6/3 chỉ là một phương tiện để có thể kéo quân vào bắc Việt Nam, để đẩy mạnh chiến tranh ở miền nam Việt Nam, buộc chúng tôi chấp nhận “những việc đã rồi”, thì không thể nào đi đến một sự thỏa thuận hòa bình và hữu nghị mà hai dân tộc chúng ta đều mong ước”.

Bài diễn văn của anh Đồng không làm cho đoàn Pháp vui lòng, nó thật là một sư “tiến công” bất ngờ, gây xôn xao dư luận. Những người thuộc giới thực dân, phái hữu, tất nhiên không thỏa mãn. Nhưng những người tiến bộ, những người có khuynh hướng dân chủ thì ủng hộ, tán thành bài diễn văn “không ngoại giao”, nhưng chân thật và đúng đắn đó…

(Còn nữa)

dvt.vn

Câu chuyện về một nền hòa bình bị bỏ lỡ: Phần cuối

Hồ Chí Minh và những người chung quanh

Chủ tịch Hồ Chí Minh với thiếu nhi Pháp.

(DVT.vn) – Luôn khát khao hòa bình, luôn tôn trọng các dân tộc, tôn giáo, con người và lúc nào cũng nổi bật văn hóa Việt Nam, đó là con người Hồ Chí Minh.

Không nên quên rằng, Hồ Chí Minh sinh năm 1890 không phải từ thời thơ ấu đã được nuôi dưỡng ngay bằng các lý thuyết xã hội chủ nghĩa nhằm làm đảo lộn cấu trúc toàn thế giới. Và sau đó, khi đã trưởng thành, ông có nghiên cứu, thấm nhuần nhưng đều là tự học. Ngược lại, từ lúc thiếu thời ông đã được dạy dỗ theo cách cổ truyền.

Nền văn hóa truyền thống mà ông được học từ lúc còn sống trong gia đình, cộng với nền văn hóa đại cương mà ông hấp thụ sau đó trong những chuyến đi xa tới nhiều nước, nhất là ở Pháp, đủ để phát triển trong ông khả năng phân tích, tạo cho ông sự mềm dẻo và tính thích tò mò nghiên cứu để vận dụng suốt đời. Ông đã đến với các lý thuyết mác-xít không phải từ mảnh đất chưa được học hành gì. Học thuyết mác-xít đã chinh phục ông khiến ông trở thành người truyền bá nhưng không phải vì thế mà ông không phân tích để vận dụng. Trước hết ông là người thực tiễn, ông luôn luôn vận dụng cẩn thận lý luận vào hoàn cảnh thực tế, đặc biệt là trong hoàn cảnh Việt Nam, có những đặc điểm cần chú trọng.

Thật vậy, tôi xin nhắc lại là, Hồ Chí Minh luôn công nhận chỉ có lý luận của những bậc thầy tư tưởng của ông mới tạo điều kiện thắng lợi cho con đường ông đã vạch ra để đạt tới mục tiêu, nhưng ông cũng hiểu rằng cần phải tôn trọng những khía cạnh của nền văn hóa Việt Nam và lúc nào cũng phải bám giữ tính chất Việt Nam. Ngay cả trong vấn đề này, ông đã nhìn đúng. Có thể đưa ra nhiều thí dụ trong lĩnh vực tôn giáo, văn hóa, giáo dục, học tiếng nước ngoài… Hồ Chí Minh đều có chính sách thích ứng với hoàn cảnh Việt Nam.

Về đặc tính cá nhân, Hồ Chí Minh không hề thay đổi chút nào tác phong của mình. Dù đã lên tới tột đỉnh quyền lực, uy tín tỏa ánh hào quang chiến thắng, những điều đó đều không ảnh hưởng tới cá tính của ông. Cho mãi tới lúc này, ông vẫn còn giữ lại được một vẻ khiêm tốn bẽn lẽn thời thanh niên khi dự hội nghị thành Tours, dược Vaillant Contutier mời “đại biểu Đông Dương” lên phát biểu, hoặc khi Le’o Poldès làm cho ông trở thành nhân vật rất được chú ý tại Câu lạc bộ ngoại thành Paris. Tôi cũng đã được nhìn thấy thái độ cư xử của ông lúc giáp mặt với Leclerc, d’ Argenlieu, Goerges Bidault, Marius Moutet… đều như nhau, cũng như những lúc ông đối diện những nhân vật lẫy lừng đến thăm ông tại Hà Nội như Khroutchev, Nehru, Mikoyan, Cyrankievicz… Tôi nghĩ, đó cũng là đặc điểm của sự nhã nhặn châu Á, khiêm tốn, không phô trương.

Tôi còn nhớ, trong chuyến thăm chính thức nước Pháp, sau khi dự tiệc chiêu đãi tại tòa thị chính Paris, ông đã cầm một quả cam rồi đưa cho một bé gái đầu tiên trong đám đông đứng hoan nghênh ông phía dưới bậc thềm ngoài cổng. Người ta có thể cho rằng đây là một cử chỉ nhằm thu hút sự chú ý của quần chúng Paris. Thế nhưng, trong bữa cơm thân mật tổ chức tại Phủ Chủ tịch, chỉ có hai vợ chồng tôi và ông Phạm Văn Đồng được ông mời đến, ông cũng cầm mấy quả quýt đưa tặng vợ tôi. Đó là ông nhằm ý định gì? Nhất định không phải để cảm hóa tôi, bởi vì tôi biết ông rất rõ. Đây có thể chỉ là phản xạ tự nhiên thừa hưởng từ những truyền thống cổ xưa của nhân dân Việt Nam, tức là dù quà tặng nhỏ bé đến đâu, thái độ cho quà vẫn quý hơn giá trị tăng phẩm. Đây có thể là biểu hiện ông hoan nghênh vợ tôi từ Pháp mới đến Hà Nội.

Chúng tôi được biết, cũng như ông, tất cả các bộ trưởng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong khi tiếp khách thì tiếp tại những dinh thự cũ của Pháp, nhưng khi trở về nhà lại sống một cách đơn giản nhất, trong những biệt thự chẳng một chút xa hoa lộng lẫy nào.

Trở lại thái độ của Hồ Chí Minh đối với các tín đồ Thiên chúa giáo nói chung. Ở đây lại càng nổi bật nhân cách của Hồ Chí Minh và sự thức thời trong chính trị của ông. Chắc hẳn, trong khi công bố chính sách tự do tín ngưỡng, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trẻ tuổi muốn chứng minh chính sách tôn trọng tự do đã được ban hành. Không nên coi nhẹ sự kiện là từ thế kỷ 16, từ lúc bắt đầu truyền đạo, đến lúc này tại Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ đã có hơn một triệu con chiên ngoan đạo. Nhưng năm 1954, một nửa số này do Ngô Đình Diệm xúi giục và liên tục lôi kéo, đã di cư vào miền Nam vì lo sợ Việt Minh. Nhưng vẫn còn có tới năm hoặc sáu nghìn tín đồ Thiên chúa giáo chọn con đường ở lại miền Bắc, bất chấp những hành động cưỡng ép di cư.

Hồ Chí Minh hiểu là phải tin tưởng ở những người chấp nhận luật pháp Việt Nam mà vẫn không từ bỏ tín ngưỡng của mình. Phạm Văn Đồng trong khi nói chuyện với tôi về tương lai của đất nước mình cũng tỏ ra rất bất bình trước việc cưỡng ép di cư các tín đồ Thiên chúa giáo và khẳng định với tôi, một khi nước Việt Nam hoàn toàn thống nhất cũng như hiện nay, sẽ không bao giờ có chuyện đàn áp tôn giáo.
Về phần tôi, cũng phải nói rằng, trong khi tiếp xúc với Hồ Chí Minh không một lần nào tôi thấy ông biểu lộ một chút gì tỏ vẻ bài xích, bi quan hoặc châm biếm đối với bất cứ một tôn giáo nào. Tôi không thể nào quên, trong cuộc hành trình đi Pháp năm 1946, trong chặng tạm dừng chân chờ đợi ở Biarritz, khi tôi sắp xếp chương trình giải trí cho ông, ông đã đề nghị tổ chức cho ông tới thăm Viện bảo tàng … tôn giáo ở Lourdes. Khi tới thăm, ông đã tỏ ra rất tò mò, muốn hiểu biết, rất lịch sự, rất tôn trọng Tổng giám mục Theas là người tiếp đón ông.

Cũng phải nhắc lại, trong thư gửi tôi đề ngày 24 tháng 2 năm 1947 ông Hồ đã tỏ ý cầu mong “Thượng đế phù hộ chúng ta”, dường như muốn lấy Đức Chúa Trời làm nhân chứng, rằng cả ông lẫn tôi đều không ai phải chịu trách nhiệm về cuộc xung đột ác liệt từ ngày 19 tháng 12 năm 1946.

Cuối cùng, thật là thích thú khi được biết, trong bản di chúc của mình, nhà duy vật chủ nghĩa này đã viết: “Tôi để sẵn sàng mấy lời này, phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác”. Quả là lời tuyên bố rất ngạc nhiên của một người theo chủ nghĩa vô thần. Nhưng cũng nên hiểu, ở Viễn Đông quan niệm “vô thần” có ý nghĩa khác với chúng ta thường nghe ở châu Âu.

Trong những năm 1954, 1955 và cả những năm tiếp theo, nhà cầm quyền nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong các dịp lễ Toussaint và Noel đều thể hiện sự quan tâm đến nguyên tắc tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng. Từ trưa ngày 24 tháng 12 năm 1955 đã tuyên bố đây là ngày lễ của giáo dân, các tín đồ được tiến hành các nghi thức tôn giáo một cách nồng nhiệt và đông đảo trong đêm hôm đó. Năm 1955, trong thư gửi giáo dân Việt Nam, Hồ Chí Minh tuyên bố: “Trong đêm Noel hòa bình thứ hai này, đồng bào ta ở miền Bắc có thể tự do cầu nguyện Đức Chúa Trời vì quân địch không còn chiếm đóng nhà thờ, giết hại dân lành nữa”. Lãnh tụ Việt Minh còn so sánh hoàn cảnh giáo dân được ở lại miền Bắc với đồng bào bị cưỡng ép di cư vào Nam đang “tưởng nhớ tới xóm làng quê hương”. Ông kêu gọi “giáo dân hai miền đấu tranh cho hòa bình và thống nhất”.

Cùng với việc tuyên truyền, giác ngộ giáo dân mà đích thân Hồ Chí Minh tiến hành, còn thành lập “Ủy ban liên lạc giáo dân yêu nước” nhằm đấu tranh cho thống nhất là “ý chí kiên quyết của nhân dân hai miền Nam Bắc”.

dvt.vn

Câu chuyện về một nền hòa bình bị bỏ lỡ: Phần 4

Hồ Chí Minh và Hội nghị Fontainebleau

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm cung điện Versailles ngày 3/7/1946.

(DVT.vn) – Sau cuộc gặp giữa Hồ Chí Minh với đô đốc d’Argenlieu trên vịnh Hạ Long, hai bên thỏa thuận thông báo cho công chúng biết nội dung cuộc hội đàm.

Văn bản liên quan đến cuộc hội đàm được soạn thảo rất công phu. Hồ Chí Minh đòi phải ghi rõ Paris đã được chọn làm địa điểm họp hội nghị. Sau nhiều lần ngần ngại và nhiều cuộc trao đổi giữa Hà Nội với Sài Gòn, cuối cùng văn bản này được hai bên đồng ý và được truyền đi qua báo chí và hệ thống truyền thanh.

Thông Cáo

Sau cuộc họp ngày 24 tháng 3 năm 1946 giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và đô đốc d’Argenlieu,Cao ủy Pháp ở Đông Dương, những điều dưới đây đã được hai bên thỏa thuận:

Một – Trong thời hạn nhanh nhất, tức ngay sau khi hoàn thành các thủ tục quá cảnh, tức vào khoảng nửa đầu tháng 4, một phái đoàn hữu nghị gồm mười đại biểu Quốc hội Việt Nam sẽ đi Paris, chuyển tới Quốc hội Pháp lời chào anh em của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Hai – Cũng trong thời hạn đó, một hội nghị trù bị sẽ mở tại Đà Lạt, giữa một bên là đoàn đại biểu Pháp gồm 12 thành viên, đặt dưới sự chủ tọa của Cao ủy Pháp tại Đông Dương, một bên là đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gồm 12 thành viên, đặt dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Chính phủ hoặc đại diện Chủ tịch.

Ba – Hội nghị trù bị này sẽ hoàn thành mọi việc chuẩn bị để một đoàn đại biểu nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có thể lên đường trong thời hạn ngắn nhất, tức vào khoảng nửa cuối tháng 5 để khai mạc hội nghị chính thức tại Paris.

Nếu những ý đồ của Sài Gòn đã được bảo vệ, tức là phải có một hội nghị trù bị tại Đà Lạt trước khi mở hội nghị chính thức tại Paris, thì phía Việt Nam cũng hài lòng do hội nghị sẽ được tiếp tục tại Paris như đã ghi rõ trong diểm 3. Trên thực tế, chúng tôi cho rằng Hội nghị Đà Lạt không chỉ chuẩn bị cho Hội nghị Paris mà còn giải quyết đầy đủ các vấn đề, để cho các cuộc hội đàm tại Paris chỉ giới hạn trong việc long trọng ký kết những thỏa thuận đã được ghi rõ tại Đà Lạt và được đề cập trong buổi lễ ký chính thức.

Về đoàn đại biểu gọi là “phái đoàn hữu nghị”, sự thỏa thuận cũng đạt được rất nhanh chóng. Những người đề nghị được cử đi rất đông. Việc thành lập danh sách xuất phát từ nhiều đòi hỏi của phía Việt Nam (Các thành phần trong đoàn đại biểu hữu nghị của Việt Nam gồm có: Phạm Văn Đồng, Trưởng phái đoàn, Trần Ngọc Danh, Đỗ Đức Dục, Nguyễn Mạnh Hà, Nguyễn Văn Luân, Trịnh Quốc Quang, Tôn Đức Thắng, Huỳnh Văn Tiểng, Hoàng Tích Trí, Nguyễn Tấn Gi Trọng).

Tôi cũng đã được quyết định trở về Pháp để chuẩn bị chuyến đi cho phái đoàn hữu nghị này và cũng để gặp lại Hồ Chí Minh khi ông đến Pháp. Tôi còn được cử vào một phái đoàn thông tin bên cạnh Chính phủ Pháp, có nhiều thông báo kịp thời những diễn biến ở Bắc Đông Dương cho chính phủ biết.

Cuối tháng 4, đoàn đại biểu hữu nghị Việt Nam rời Hà Nội, bay qua Calcutta tới Paris.

Ngày 30 tháng 4, tôi phát biểu trên đài phát thanh, cố giải thích, để mọi người nghe hiểu rằng chúng tôi vừa mới thoát khỏi vực thẳm khủng khiếp ở Bắc Đông Dương, và nếu quyết tâm thực hiện một cách rõ ràng, thẳng thắn, ta sẽ đạt được một thỏa hiệp thật sự trong tương lai.

Tôi quan niệm như đã từng dự kiến từ mười tháng trước, biết bao khó khăn phải trải qua, để có thể đạt được Hội nghị Paris tầm vóc rộng lớn của vấn đề.

Đoàn đại biểu hữu nghị của Việt Nam do Phạm Văn Đồng dẫn đầu tới Paris ngày 26 tháng 4 đã được các đại biểu quốc hội và nhiều nhân vật cấp cao của Pháp tiếp đón, và đã trở về ngày 16 tháng 5. Thời gian đoàn ở Pháp không nhằm mục đích nào khác là tiếp xúc với nhiều giới, do đó đã thực hiện một loạt dài các cuộc gặp gỡ, chiêu đãi thân mật.

Riêng Phạm Văn Đồng vẫn ở lại Paris để tham gia Hội nghị Fontainebleau.

Giữa khoảng thời gian này, ngày 31 tháng 5 Hồ Chí Minh có tướng Salan đi cùng, đã cùng với các nhà thương lượng Việt Nam rời Hà Nội lên đường đi Paris. Nhưng nội các Gouin vừa bị đổ và Georges Bidault được giao nhiệm vụ thành lập chính phủ mới. Việc chưa có chính phủ giữa lúc Hồ Chí Minh đến Pháp khiến cho chúng tôi phải buộc hai máy bay chở ông và các cộng sự viên của ông chuyển hướng tới Biarritz, là nơi các vị khách của chúng ta chờ đợi sau khi thành lập xong chính phủ mới sẽ chính thức được đón tiếp tại Paris.

Trong một buổi được mời tới tham dự một cuộc họp của Hội đồng Chính phủ, tôi được Chủ tịch Bidault giao nhiệm vụ tổ chức lịch trình cho những ngày Hồ Chí Minh ở Pháp. Cũng đã có quyết định, Chủ tịch Việt Nam và tôi không tham dự đàm phán ở Fontainebleau. Hai bên thỏa thuận, mọi cuộc tiếp xúc giữa Chủ tịch Chính phủ Việt Nam với Chính phủ Pháp đều qua tôi liên lạc. Điều lệ này giai đoạn đầu được tôn trọng nhưng sau đó đã bị phá vỡ một cách nguy hiểm. Hồ Chí Minh đã vượt lên trên đầu tôi, để làm mọi việc mà đáng lẽ tôi thấy cần phải từ chối, bởi vì tôi có những lý do đúng để làm như vậy.

Ngày 12 tháng 6, Hồ Chí Minh và những người cùng đi tới Biarritz. Ngay buổi tiếp xúc đầu tiên, tôi cảm thấy ông có vẻ bực mình. Ông nói thẳng với tôi, ông có thể quay lại Bắc Kỳ. Đối với ông, cuộc hội nghị đã dự kiến đến nay có vẻ như vô ích, bởi vì nước Pháp đã đơn phương đi ngược lại những thỏa thuận trong Hiệp định ngày 6 tháng 3, tự ý định đoạt số phận của Nam Kỳ. Ông liên tưởng tới việc ngày 1 tháng 6, giữa lúc ông đang bay trên vùng trời Trung Đông thì được tin nước Cộng hòa tự trị Nam Kỳ tuyên bố thành lập.

Quyết định này là nhằm đáp ứng với một bộ phận đòi ly khai của dân chúng Sài Gòn, đồng thời chỉ là một giải pháp quá độ, đã bị Hồ Chí Minh và đoàn đại biểu Việt Nam rất nhạy cảm với bất cứ điều gì động chạm đến sự thống nhất của ba kỳ, coi như “một chuyện đã rồi” không thể nào chấp nhận được. Sự kiện này được lực lượng chống đối ở Việt Nam khai thác, nói rằng nước Pháp “một lần nữa đã không tôn trọng những điều họ cam kết”, Hồ Chí Minh và những nhà lãnh đạo chủ chốt của Việt Nam vừa mới đi xa, vậy mà Pháp đã lợi dụng sự vắng mặt của họ, lợi dụng việc quân Pháp trở lại Bắc vĩ tuyến 16, để núp dưới bóng quân đội Pháp thiết lập lại những quyền lợi của Pháp ở Đông Dương, Hiệp định ngày 6 tháng 3 chỉ là một trò bịp v.v…

Tôi đã phải giải thích rất lâu với Hồ Chí Minh và những người cùng đi rằng quyết định này chỉ là tạm thời và không cản trở gì hết đến tương lai của Nam Bộ. Văn bản tuyên bố thành lập Chính phủ Nam Kỳ tự trị đã ghi rõ, việc thành lập chính phủ này là: “Sự chờ đợi kết quả của việc trưng cầu ý dân trong tương lai, như Hiệp định Sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946 đã ấn định”. Cuộc trưng cầu ý dân dự kiến trong Hiệp định Sơ bộ sẽ được tiến hành đúng lúc. Đến lúc đó sẽ duy trì hay hủy bỏ quyết định thành lập Chính phủ Nam Kỳ tự trị, tùy theo ý nguyện của dân chúng. Những lời trình bày này có vẻ đã tạm yên lòng Chủ tịch và những người cùng đi.

…Ở Hà Nội vẫn còn có Võ Nguyên Giáp được coi như một nhân vật đáng gờm nhất. Nhân vật hùng mạnh này đã chế ngự hội nghị trù bị tại Đà Lạt khai mạc ngày 18 tháng 4 dưới sự chủ tọa của đô đốc d’Argenlieu. Nguyễn Tường Tam dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam với tư cách là Bộ trưởng Ngoại giao.

Tại Đà Lạt, mọi người đã thừa nhận rằng việc “trang bị” cho cái khung của Hiệp định ngày 6 tháng 3 thật là rất khó khăn. Mặc dù bầu không khí thân ái bao trùm hội nghị nhưng đến ngày 11 tháng 5 đã phải kết thúc bằng một thất bại gần như hoàn toàn.

Trong khi đó, tại Biarritz, Hồ Chí Minh cùng với sĩ quan tùy tùng là đại úy Huỳnh và Hoàng Minh Giám là một cộng sự viên trung thành, cùng đến ở tại khách sạn Carlton. Đó cũng là nơi tôi đến ở cùng với hai trong số cộng sự viên của tôi là Louis Fauchier Magnan và Philippe Quennouelle.

Trong thời gian chờ đợi, Chủ tịch của Việt Nam nghỉ mát trên bờ biển xứ Basque. Ông đi tìm hiểu xứ sở này, chơi bài, dự chiêu đãi, câu cá, thăm viện bảo tàng Lourdes v.v… Hồ Chí Minh đã trở lại vui vẻ, tươi cười. Ông vẫn nhã nhặn, giản dị như xưa nay vốn thế. Ông quan tâm đến tất cả mọi thứ, nói chuyện thân mật với dân cày, dân chài, làm họ ngạc nhiên vì ông tuyệt đối không say sóng biển. Nhiều người Việt Nam sinh sống tại Pháp đến thăm ông. Không khí trở lại bớt căng thẳng. Nhưng điều đó vẫn không ngăn được Bộ trưởng Không quân đi cùng với hai hoặc ba nghị sĩ cộng sản trách chúng tôi về những điều kiện không thoải mái của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đang bị “giữ chân” tại Biarritz. Nhưng Hồ Chí Minh tỏ ra có nhã ý không phàn nàn về sự đón tiếp chậm trễ tại Paris. Ông tuyên bố là ông rất vui khi được nghỉ tại bờ biển xứ Basque.

Cuối cùng, chính phủ đã ấn định chương trình đón tiếp chính thức Chủ tịch Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian từ 22 tháng 6 đến 4 tháng 7. Sáng 22, chúng tôi rời Parme-Biarritz bay đến sân bay Bourget ở Paris. Hôm đó thời tiết đẹp. Cảm thấy thời gian còn sớm, tôi cho máy bay lượn nhẹ một vòng để các vị khách ngắm những lâu dài Loire từ trên cao. Chuyến bay du lịch này làm tôi nhớ lại hàng loạt chuyến bay nhiều vô kể dể chụp ảnh trên không mà tôi đã tiến hành ở chính nơi đây trong thời kỳ tôi theo học khóa sĩ quan thám không ở Tours, trước khi chiến tranh bùng nổ ít ngày. Về phần Hồ Chí Minh trong khi bay trên thành phố này, không biết ông có nhớ rằng năm 1920 ông đã dự hội nghị thành Tours cùng với Marcel Cachin và hội nghị này đã khai sinh ra Đảng Cộng sản Pháp không.

Đến 16 giờ, chúng tôi tới vùng trời Paris. Sân bay Bourget đen nghịt người. Bộ trưởng Bộ Pháp quốc hải ngoại Marius Moutet và nhiều quan chức dân sự, quân sự thay mặt Chính phủ Pháp ra đón. Trên sân ga hàng không, phấp phới tung bay những lá cờ Pháp và Việt Nam. Tôi liếc nhìn vị khách của chúng tôi. Nét mặt ông lộ rõ vẻ xúc động. Cặp mắt ông sáng ngời. Cổ họng ông như nghẹn ngào muốn nói câu gì đó.

Máy bay hạ cánh rồi đứng im trên đường băng. Quốc thiều Pháp và Quốc thiều Việt Nam lần lượt vang lên. Hồ Chí Minh đứng nghiêm, chiếc mũ cát cầm trong tay. Liệu ông có nghĩ rằng, hai mươi ba năm trước đây, ông đã rời mảnh đất này của Pháp ra đi để rồi hôm nay nước Pháp lại nghênh đón ông như một nguyên thủ Quốc gia?

Chuyến đi thăm chính thức của Hồ Chí Minh được ghi trong chương trình nghi lễ bằng một loạt hoạt động chính thức vẫn thường dành cho thượng khách. Mọi người nhìn thấy Chủ tịch của Việt Nam tới thăm Khải Hoàn môn, Cung điện Versailles, Tòa Thị chính, lăng tẩm Mont-Valérien, xem biểu diễn tại Nhà hát lớn, đặt vòng hoa tại Đài tượng niệm các binh sĩ Đông Dương tử trận trên đất Pháp, được chôn cất tại nghĩa trang Nogent… Chiếc xe chở Chủ tịch có môtô hộ tống xuất hiện liên tục trên các đường phố thủ đô Pháp.

Hồ Chí Minh cũng tổ chức nhiều buổi tiếp khách, chiêu đãi, và họp báo tại khách sạn Royal Monceau, là nơi ông nghỉ cùng với nhiều người cùng đi. Các nhà báo và các nhà hoạt động chính trị, đại biểu quốc hội, doanh nghiệp thường tới gặp Hồ Chí Minh. Bầu không khí bao trùm những cuộc gặp đó rất thân mật. Hình như đã tìm lại được khí hậu thuận lợi cho cuộc đàm phán.

Ngày 6 tháng 7, hội nghị Fontainebleau bắt đầu làm việc, các đoàn đại biểu có mặt tại Fontainebleau bao gồm:

Đoàn đại biểu Pháp: – Chủ tịch: Max André. Các thành viên: Juglas, Lozeray, Baudet, tướng Salan, đô đốc Barjot, Pignon, Torel, Bayen, Messmer, Gonon, Bourgoin, d’Arcy, Gayet, Bousoquet.

Đoàn đại biểu Việt Nam: Chủ tịch: Phạm Văn Đồng. Các thành viên: Trịnh Văn Bính, Tạ Quang Bửu, Dương Bạch Mai, Chu Bá Phượng, Đặng Phúc Thông, Nguyễn Mạnh Hà, Nguyễn Văn Huyên, Huỳnh Thiên Lộc, Phạm Khắc Hòe, Hoàng Minh Giám. Các chuyên viên: Nguyễn Độ, Hoàng Văn Đức, Vũ Trọng Khánh, Hồ Đắc Liên, Nguyễn Văn Luyện, Nguyễn Văn Tịnh, Nguyễn Đắc Khê.

Cả hai đoàn đều ăn ở tại những khách sạn ở Fontainebleau. Các phòng làm việc được bố trí tại một cánh của tòa lâu đài. Người ta có thể nhận thấy ngay trong “tuần trăng mật” mới mẻ này xuất hiện nhiều bất đồng hơn hòa đồng. Phạm Văn Đồng là Chủ tịch đoàn đại biểu Việt Nam đã thay đổi thái độ khác với hai tháng trước, khi dẫn đầu phái đoàn hữu nghị.

Với những lời lẽ cứng rắn đôi khi gay gắt, Phạm Văn Đồng phản ánh tâm trạng của các đại biểu Việt Nam. Những đại biểu này không che giấu sự lo ngại bị lừa bịp bởi một chính sách nhiều mưu mô của phía Pháp.

Tôi đã viết rằng, bản Hiệp định Sơ bộ ngày 6 tháng 3 nếu đã dẫn đến việc kết thúc sự chiếm đóng của đội quân Lư Hán, việc quân đội Pháp trở lại Đông Dương với việc đặt một nước Việt Nam tự do vào khối Liên hiệp Pháp thì cũng mới chỉ vạch ra những nét đại cương cho một sự thỏa hiệp. Cần phải có thêm những hiệp nghị riêng cho từng lĩnh vực, với những chi tiết cụ thể hơn.

Hội nghị trù bị Đà Lạt, như đã thấy đã không đạt được một tiến bộ nào, không ký kết được điều gì sau khi đã ký Hiệp định Sơ bộ tại Hà Nội. Cũng dễ hiểu khi cho rằng tại Hội nghị Fontainebleau vẫn còn tồn đọng những trở ngại chính cần vượt qua, đặc biệt là:

– Sự hợp nhất ba “kỳ”, tức là sáp nhập Nam Kỳ vào Việt Nam.

– Vấn đề thuế quan (chính từ vấn đề này mà bốn tháng sau đã xảy ra cuộc xung đột đẫm máu của sự cố không thể nào dàn xếp được tại Hải Phòng).

– Vấn đề đại diện ngoại giao. Nước Pháp muốn đặt Liên bang Đông Dương trong khối Liên hiệp Pháp, chủ trương không để cho Việt Nam được quyền tự chủ trong quan hệ quốc tế, trong khi đó Việt Nam lại muốn được toàn quyền độc lập trong việc đàm phán và ký hiệp ước với nước ngoài.

– Vấn đề tiếng Pháp: nước Pháp muốn ngôn ngữ Pháp phải là ngôn ngữ thứ hai bắt buộc phải giảng dạy ở Việt Nam. Phía Việt Nam lại đơn giản cho rằng tiếng Pháp chỉ là sinh ngữ được ưu tiên trong các sinh ngữ khác.

Về vấn đề chuyên gia kỹ thuật và tài sản của Pháp ở Việt Nam, hai bên cùng có những quan điểm khác biệt và bám giữ đến cùng lập trường không thay đổi của mình. Nếu Việt Nam hoàn toàn chấp nhận việc nhờ cậy các chuyên gia Pháp thì họ lại muốn tự họ được lựa chọn chuyên gia và không đồng ý sự ưu tiên mang tính chất bắt buộc.

Vấn đề bồi thường liên quan đến các tài sản của Pháp gặp tai họa hoặc bị cướp đoạt cũng dẫn đến hai bên từ chối mọi trách nhiệm nếu xảy ra xung đột. Hơn nữa, phía Pháp cũng từ chối bồi thường theo chỉ định tương tự.

Chỉ nêu lên vài thí dụ trên đây, cũng đủ thấy, mặc dù đại đa số các thành viên đều có thiện chí và ước muốn thỏa hiệp nhưng bên nào cũng giữ vững lập trường khó xoay chuyển.

Thất bại của Hội nghị Fontainebleau, ít nhất là một phần, đã bắt đầu thấy rõ khi Pháp được tin ngày 1 tháng 8 năm 1946 tại Đà Lạt tiến hành một hội nghị “Liên bang” nhằm xác định vị trí của Liên bang Đông Dương, không chỉ với Campuchia và Lào, mà cả Nam Kỳ. Nguồn tin này đã lập tức cắt đứt ngay Hội nghị Fontainebleau. Sau đó, nhờ có Hồ Chí Minh, vài ngày sau mới lại tiếp tục họp trở lại. Nhưng đến lúc này thì cả hai bên đều mất lòng tin đối với nhau.

Trong một buổi tranh cãi gay gắt với Hồ Chí Minh xoay quanh chủ đề này, lần đầu tiên Chủ tịch đồng ý với tôi là ông không nên vắng mặt quá lâu hơn nữa. Nhưng ông nói với tôi:

– Tôi biết, ông đang liên tưởng tới vấn đề gì, nhưng tôi làm sao trở về nước với “hai bàn tay không”?
“Bàn tay không” đó là một công thức mà tôi thường được nghe và từ hôm đó trở thành nỗi ám ảnh thường xuyên của ông.

Còn đoàn đại biểu đàm phán của Việt Nam thì đã trở về tay không. Phạm Văn Đồng đã đóng cửa Hội nghị Fontainebleau đi xuống Marseille đáp tàu biển về nước và sẽ tới Hải Phòng ngày 3 tháng 10.

Hồ Chí Minh không về cùng với đoàn Việt Nam. Chuyến thăm chính thức nước Pháp đã kết thúc. Ông không còn là khách mời của Chính phủ Pháp nữa. Ông rời khách sạn Royal Monceau, đến ở trong một biệt thự của ông Aubrac tại Soisy-sous-Montmorency. Ông tỏ rõ thái độ muốn đi tới cùng. Cũng như Marius Moutet, ông muốn tránh sự đổ vỡ và ngày 14 tháng 9 đã cùng ký với Marius Moutet bản Tạm ước nhằm cứu vãn tình hình.

Tuy vậy, ông vẫn lo ngại điều tồi tệ nhất sẽ xảy ra. Ông thấy trước khả năng có thể bùng nổ xung đột vũ trang và đã nói với tôi bằng thái độ kiên quyết:

– Nếu cần phải chiến đấu, chúng tôi sẽ chiến đấu. Một người các ông có thể giết chết mười người chúng tôi. Mười người chúng tôi sẽ giết một người của ông. Nhưng cuối cùng, chính các ông sẽ là người nản lòng bỏ cuộc.

Từ lâu, tôi đã tăng cường thúc đẩy Chính phủ Pháp thu xếp để tổ chức việc về nước của Hồ Chí Minh được nhanh nhất. Ngày về đã được ấn định là ngày 14 tháng 8, nhưng Hồ Chí Minh muốn tranh thủ thời gian còn lại. Ông từ chối đi máy bay, viện lý do sức khỏe. Có lẽ ông nghĩ tới một âm mưu ám hại ông, dễ thực hiện trong chuyến bay. Ông đòi trở về trên một tàu chiến Pháp và Bộ Hải quân đã dành cho ông con tàu Dumont d’Urville dự kiến sẽ đi Đông Dương để ông sử dụng. Những cố gắng của tôi nhằm thu xếp cho ông trở về Hà Nội bằng các phương tiện nhanh nhất đã thất bại. Thế là, bốn mươi tám giờ sau khi ký bản Tạm ước, Hồ Chí Minh rời Paris ngày 16 tháng 9 trên một toa xe lửa đặc biệt đi xuống Marseille và quân cảng Toulon.

Tại Monte’limar là nơi đoàn tàu dừng lại vài phút, toa xe chở chúng tôi lập tức bị những người Việt Nam đứng đợi trên sân ga ùa tới. Hầu hết những người này đều là công nhân làm việc tại một doanh trại gần đó. Cuộc đón tiếp Chủ tịch nước Việt Nam rất nồng nhiệt. Chúng tôi được biết cách đây mấy ngày đoàn đại biểu Việt Nam rời Hội nghị Fontainebleau ra về cũng được những người công nhân này hoan hô nhiệt liệt, ca ngợi thái độ không khoan nhượng của những đại biểu dự đàm phán.

Hồ Chí Minh đứng trên bậc lên xuống toa xe đặc biệt, nói vài lời với đám đông. Ông giải thích tại sao ông lại ký bản Tạm ước. Ông cũng yêu cầu mọi người tiếp tục làm việc bên cạnh “những anh em người Pháp” vì nước nhà đang cần nhiều công nhân lành nghề và chuyên viên kỹ thuật.

Đến Marseille, tại doanh trại Mazargues là nơi tập trung hàng ngàn người Việt Nam đứng đón, những tiếng hoan hô chen lẫn tiếng hô vang: “Độc lập!”. Tại đây, Hồ Chí Minh vẫn nói chuyện một cách từ tốn, ca ngợi tình hữu nghị Pháp – Việt. Ngược lại, chính hai đồng bào tôi là nghị sĩ tỉnh Marseille, đại biểu cộng sản trong Hội đồng thành phố, lại phát biểu chống Pháp. Với thái độ hung hăng khác hẳn giọng điệu mềm mỏng của Hồ Chí Minh, hai vị đại biểu người Pháp này đã cổ vũ các công nhân Việt Nam đấu tranh tới cùng chống lại “sự áp bức thực dân của Pháp”.

(Còn nữa)

dvt.vn

Câu chuyện về một nền hòa bình bị bỏ lỡ: Phần 3

Hiệp định sơ bộ 6/3

Chủ tịch Hồ Chí Minh và ông Sainteny tại Hạ Long năm 1946.

(DVT.vn) – Cuối cùng, vào lúc rạng đông ngày 6 tháng 3, Hoàng Minh Giám đến chỗ tôi và nói: “Chủ tịch chấp nhận các điều kiện”.

Chúng tôi thỏa thuận, đến buổi trưa sẽ họp một lần nữa để hoàn chỉnh các Hiệp định Sơ bộ và đến buổi chiều sẽ chính thức ký vào 16 giờ.

Khoảng 9 giờ, tôi được tin binh lính của Lư Hán bắn vào các đơn vị quân Pháp đang ngược dòng sông.

Những tin tức đầu tiên không được rõ lắm, nhưng vẫn có thể hình dung được hiểm họa. Sư đoàn quân Trung Quốc viện cớ không nhận được “một cách đầy đủ chính thức” về thỏa thuận giữa Chính phủ Trùng Khánh và Pháp về việc quân Pháp đổ bộ nên đã nổ súng. (Cần nhớ rằng, hôm đó là ngày 6 tháng 3 và thỏa thuận Pháp – Hoa đã được ký kết tại Trùng Khánh từ ngày 28 tháng 2!). Một lần nữa, lại có một đơn vị lính Trung Quốc không chịu phụ thuộc vào ban tham mưu của Lư Hán với lý do chỉ tiếp nhận huấn thị của Chính phủ Trung ương ở Trùng Khánh.

Điều đó, ít nhiều cũng là lời giải thích có tính chất tương đối chính thức mà Ban chỉ huy quân đội Tưởng Giới Thạch tại Hà Nội thường sử dụng thay cho lời xin lỗi. Có thể đặt ra câu hỏi một cách đơn giản là, nếu không có sự tiếp tay của ban tham mưu Lư Hán tại Hà Nội và sự xúi giục của các cơ quan mật vụ của tướng Tiêu Văn thì làm sao tướng Uông chỉ huy sư đoàn 130 lại có thể tự ý gây ra sự cố có thể hủy hoại những cuộc đàm phán Pháp – Việt đang diễn ra tại Hà Nội, kéo dài thêm tình hình căng thẳng và nhân đó cũng kéo dài thêm thời gian đóng quân của Trung Quốc tại Bắc Kỳ.

Những tin tức về cuộc đánh úp này sau đó dần dần được biết rõ hơn. Ở đây tôi chỉ tóm tắt là, giữa lúc các tàu chiến Pháp đang từ từ ngược sông Sài Gòn để cập bến cảng thì bị quân đội Trung Quốc ở hai bên bờ sông bắn thẳng vào họ.

Đến 12 giờ 30 ngày 6 tháng 3, khi Hồ Chí Minh, Hoàng Minh Giám, Pignon và tôi tiếp tục cuộc họp tranh luận cuối cùng thì những cuộc xung đột dữ dội ở Hải Phòng, cách Hà Nội hơn một trăm kilômét đã hoàn toàn chấm dứt.

Các thành viên trong Chính phủ Việt Nam có được biết tin về cuộc xung đột ở Hải Phòng không? Có thể có. Nhưng vẫn có thể nghĩ rằng vì không được biết gì về cuộc đụng độ này, các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng không biết tình hình nghiêm trọng do sự việc này gây ra. Hồi đó, họ chưa có mạng lưới thông tin vô tuyến, còn hệ thống thông tin liên lạc của Trung Quốc thì rất tồi.

Về phần tôi, sở dĩ tôi được biết tin này, đó là nhờ các điện đài xách tay mà tôi đã bí mật mang từ Côn Minh về Hà Nội hồi tháng 8 năm 1945. Một số máy đã được đặt tại Hải Phòng. Từ những thiết bị này, trung tá hải quân Legendre, người có hiểu biết sâu sắc về tính cách đội quân của Tưởng Giới Thạch, ngày hôm đó đã thông báo rất kịp thời cho tôi về bước ngoặt bi thảm của những sự cố ngay khi mới xảy ra.

Tại Hà Nội, đến 13 giờ ngày 6 tháng 3 đã đạt được thỏa thuận các điều khoản trong Hiệp định Sơ bộ. Chúng tôi hẹn gặp lại nhau vào hồi 16 giờ 30 để ký chính thức.

Trong khi chờ đợi giờ phút lịch sử này, chúng tôi sống trong lo sợ, hồi hộp theo dõi sự phát triển của các hoạt động quân sự tại Hải Phòng và những cuộc đàm phán tiếp theo, chỉ lo các nhà lãnh đạo Việt Nam không ký nếu họ được biết tin quân đội Trung Quốc chống lại cuộc đổ bộ của Pháp.
Phía Trung Quốc cũng xúc động vì sự chống trả của Pháp đã phá hủy hàng mấy trăm tấn vũ khí và đạn dược chiến lợi phẩm của Trung Quốc chất đống ở Hải Phòng chờ đưa về Mãn Châu. “Sự cố” Hải Phòng có thể lan rộng thành một đám cháy lớn. Có thể tính đến một cuộc nổi dậy ở vùng đồng bằng do dân chúng phấn khích vì bị lôi cuốn vào cuộc tuyên truyền chống Pháp, hoặc sự can thiệp của toàn bộ số quân Trung Quốc đến “ứng cứu” cho sư đoàn 130 của họ đang bị Leclerc “đánh”.

Cuối cùng, còn phải tính đến số tù binh Nhật đang tập trung tại Hồng Gai. Trừ số đã chạy theo Việt Minh, số còn lại đang đặt dưới sự quản lý của Trung Quốc và được Trung Quốc đối xử một cách khoan dung rất đáng lo ngại. (Những tin tức tình báo cho biết, phần lớn số tù binh Nhật Bản tại Hồng Gai mà Trung Quốc có nhiệm vụ giải giáp, vẫn được giữ lại vũ khí).

Tất cả những lực lượng chống đối vô kỷ luật, bố trí phân tán và trang bị kém này, Leclerc dứt khoát không thể nào chống lại được khi chỉ có trong tay khoảng 2000 quân đổ bộ, rút từ các đơn vị đang làm nhiệm vụ bình định tại Nam Kỳ. May mắn làm sao, đội quân viễn chinh còn có những vũ khí hiện đại và một lực lượng pháo binh rất mạnh của hạm đội.

Ở Bắc Kỳ, 30.000 người Pháp có thể bất ngờ trở thành nạn nhân trong cuộc tổng nổi dậy giữa lúc họ tưởng rằng đã đến đoạn chốt của những đau khổ dai dẳng. Thảm họa lo lắng từ tám tháng nay và thường đã may mắn tránh khỏi, thì nay viên tướng Mãn Châu Uông Huân chỉ huy sư đoàn 130 thuộc quân đoàn 53 đóng tại vùng Hải Phòng, có thể gây ra bằng cách đột ngột phá hoại toàn bộ sự kiên trì được tiến hành với biết bao nỗ lực và hy sinh.

Đó là sự lo sợ rất dễ hình dung khi chúng tôi chờ đợi giờ phút ký bản Hiệp định Sơ bộ ghi nhận thỏa thuận để quân đội Pháp trở lại Bắc Kỳ một cách hòa bình.

Tuy nhiên, đến 16 giờ các đại biểu Việt Nam đã tới chỗ hẹn. Đó là một biệt thự mà Hồ Chí Minh đã chọn làm nhà ở. Đây cũng là nơi tiến hành lễ ký Hiệp định.

Vũ Hồng Khanh, Phó chủ tịch Quân ủy hội, Nguyễn Tường Tam, Bộ trưởng Ngoại giao và thủ lĩnh Việt Nam Quốc dân đảng, Hoàng Minh Giám, Tổng thư ký và là cộng sự viên đắc lực của Hồ Chí Minh, các quan sát viên các nước Đồng minh: Anh, Mỹ, Hoa và cả Pháp nữa vì Hồ Chí Minh muốn Louis Caput (thư ký nhóm Mác-xit Pháp –An-nam) cũng được mời tới dự. Tôi được cử thay mặt Cao ủy Pháp ở Đông Dương là người đã trao cho tôi các quyền hạn được Chính phủ lâm thời Cộng hòa Pháp ủy nhiệm. Cùng đi với tôi có tướng Salan, ông Léon Pignon và vài cộng sự viên cơ quan ủy viên Cộng hòa Pháp tại Hà Nội.

Bản Hiệp định được đọc to trước mặt cử tọa đứng trong phòng. Hồ Chí Minh ký đầu tiên. Liền sau đó, Vũ Hồng Khanh cũng đặt bút ký. Hồ Chí Minh đã buộc được một con người khét tiếng chống Pháp, cầm đầu một lực lượng đối lập hiếu chiến phải ký tên phía dưới chữ ký của ông coi đó như một đảm bảo chống lại luận điệu tuyên truyền xuyên tạc là ông phản bội sự nghiệp giành độc lập của Việt Nam.

Đến lượt tôi ký thay mặt cho nước Pháp.

Như vậy là đã kết thúc một trong những thời kỳ bi thảm nhất mà người Pháp phải trải qua ở Viễn Đông.

Ngày 2 tháng 4, bản Hiệp định Sơ bộ này được bổ sung thêm bằng những điều khoản phụ, do tướng Salan và các ủy viên hội đồng quốc phòng Việt Nam là Võ Nguyên Giáp và Vũ Hồng Khanh soạn thảo và ký tên, chi tiết hóa những điều kiện về việc quân đội Pháp trở lại khu vực Bắc vĩ tuyến 16, việc thay thế quân đội chiếm đóng của Tưởng Giới Thạch, việc bố trí nơi đóng quân và thành lập ban chỉ huy hỗn hợp các đơn vị tiếp phòng quân Pháp – Việt.

Hiệp định 6 tháng 3 năm 1946, sau vài lần được phân tích, phê phán, dù sao cũng mang lại quyền được sống cho gần ba mươi nghìn người Pháp, thay đội quân chiếm đóng của Lư Hán bằng đội quân của Leclerc, giữ Việt Nam trong Liên bang Đông Dương.

Hiệp định ngày 6 tháng 3 mới chỉ phác họa sơ bộ những nét đại cương và ghi nhận trong tương lai cần đàm phán tiếp những điều khoản đầy đủ hơn để củng cố sự thỏa thuận Pháp – Việt. Đây mới chỉ là một cái khung. Sau này cần phải ghi thêm những điều khoản chính xác để đảm bảo một sự hòa đồng tin cậy và một sự hợp tác có kết quả.

8 giờ sáng ngày 7 tháng 3, tôi cho kéo quốc kỳ Pháp tại mặt tiền trụ sở cơ quan Ủy viên Cộng hòa Pháp vừa mới dọn tới ít lâu tại Viện Radium phố Richaud.

Việc cần làm bây giờ là phải tuyên bố, giải thích, để dân chúng Pháp, Việt Nam và người Hoa chấp nhận ý nghĩa, tinh thần, tầm vóc bản Hiệp định vừa ký kết. Tôi nói “chấp nhận” là vì trước khi những từ ngữ chính xác của bản Hiệp định được công bố thì từ hai phía Pháp và Việt Nam đã có những lời phê phán theo từng mức độ từ nhẹ nhàng dè dặt đến dữ dội nhất.

Về phía Pháp, một số kẻ khó bảo bị kích động bởi tư tưởng phục thù rửa hận rất dễ hiểu, không thể chấp nhận bỏ qua cơ hội: “trừng trị” những người An-nam. Người ta sẽ bỏ qua sự trả thù hởi lòng hởi dạ bấy lâu nóng ruột chờ đợi hay sao?

Tuy nhiên, đây chỉ là ý nghĩ của thiểu số. Còn đại đa số người Pháp thì, với tinh thần nhạy cảm trước những thực tế và những quyền lợi của Pháp, họ hiểu ngay thời điểm trả đũa đã qua, bây giờ phải nghĩ đến công việc tái thiết, không nên mất thời giờ nhiều lại quá khứ. Sự nghiệp, công trình của Pháp đã bị lung lay, cần phải củng cố bằng cách cứu vãn những gì có thể cứu được.

Cuối cùng, đồng bào của chúng tôi đã từng quá đau khổ, quá mệt mỏi, cho nên đều đồng ý tiếp thu sự hòa dịu được ghi trong bản Hiệp định, để tận hưởng quyền được sống trên giải đất này. Mãi về sau, chỉ sau khi được núp dưới sự che chở của những cỗ xe bọc thép do tướng Leclerc mang tới, an ninh đã được đảm bảo, đến lúc đó mới lại nảy sinh những lời chỉ trích, phản kháng. Đó là phản ứng tất nhiên, nhưng thật nguy hiểm!

Về phía Việt Nam, tình hình trái ngược hẳn. Hiệp định ngày 6 tháng 3 vừa mới ký đã bị lực lượng đối lập gồm những phần tử cực đoan dân tộc chủ nghĩa, thân Quốc dân đảng Trung Quốc tạo thành phe quá khích, khai thác để chống lại Hồ Chí Minh.

Hồ Chí Minh không lạ gì tâm trạng này. Ông đề nghị với tôi, cùng ra một bản thông cáo chung, dán trên các đường phố Hà Nội, nội dung như sau:

Chính phủ Pháp thừa nhận Việt Nam tự thành lập một chính phủ riêng của mình và để cho Việt Nam hoàn toàn tự do trong việc thiết lập chính quyền. Chính phủ Việt Nam không phản đối việc quân đội Pháp trở lại một cách hòa bình để thay thế quân đội Trung Quốc làm nhiệm vụ ở khu vực Đông Dương từ Bắc vĩ tuyến 16 trở lên.

Việc đầu tiên thực hiện Hiệp định Sơ bộ là đình chỉ mọi cuộc xung đột trên toàn lãnh thổ Đông Dương, 24 giờ sau khi bản thông cáo này được truyền đi trên các làn sóng đài phát thanh Hà Nội và đài phát thanh Sài Gòn.

J.R Sainteny                                                                                    Hồ Chí Minh
            Ủy viên Cộng hòa Pháp                                                                    Chủ tịch Chính phủ
             tại Bắc Đông Dương                                                                  Việt Nam Dân chủ cộng hòa
              Đại diện Chính phủ
                      Lâm thời
                Cộng hòa Pháp

(Còn nữa)

dvt.vn

Câu chuyện về một nền hòa bình bị bỏ lỡ – Phần 2

Nỗ lực ngăn chặn cuộc chiến tranh toàn diện

Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

(DVT.vn) – Hồ Chí Minh rất vui khi gặp Quennouelle và đã có nhã ý gọi viên sĩ quan này một cách rất hóm hỉnh là “Ông nhảy dù”.

…Tất cả những gì tôi đã thấy được, nghe được trong chuyến về Pháp ngắn ngày hồi tháng 3 mà Leclerc và nhiều tướng lĩnh, đô đốc đã bộc lộ cảm tưởng trong khi nói chuyện với tôi là phải cố tìm mọi cách tránh giải pháp vũ lực.

Mười ba tháng sau, tức ngày 13 tháng 2 năm 1947 khi chiến tranh đã bùng nổ, trong bản báo cáo về tình hình quân sự tại Bắc Kỳ, tôi đã viết:

“Chúng ta không có phương tiện, cũng không có ý định dấn thân vào một cuộc chiến tranh kéo dài. Vậy mà, tôi thấy rằng hiện nay hình như lại có chủ trương tiến hành những hoạt động quân sự làm phân tán lực lượng của chúng ta và đẩy lùi những kết quả đã đạt được ra xa…”.

Lúc đó, tôi đã chuẩn bị tiếp nhận quan điểm của tướng Leclerc, trùng hợp hoàn toàn với quan điểm của tôi.

Vì vậy, tôi đã làm việc không ngừng để đạt được hai Hiệp định Pháp-Việt và Pháp- Hoa ký kết tại Hà Nội và tại Trùng Khánh.

Sẽ dài dòng nếu nhắc lại ở đây chi tiết những buổi nói chuyện rất nhiều và rất dài, trong đó Hồ Chí Minh và các cố vấn của ông tranh luận với tôi từng câu, từng chữ để đi tới bản Hiệp định Pháp- Việt. Đã biết bao lần chúng tôi có cảm tưởng không thể nào đạt được thỏa thuận, trước cảm giác thất vọng vì chúng tôi không bao giờ có được tiếng nói chung. Hồ Chí Minh đòi phải được suy nghĩ cẩn thận, phải tham khảo ý kiến của các cộng sự, các cố vấn, đôi khi cả cố vấn của ông, tức Bảo Đại.

Về phía tôi, tôi cũng phải thường xuyên hỏi ý kiến Phủ Cao ủy đặt tại Sài Gòn, trước khi chấp nhận
một câu, một chữ trong đàm phán.

Chỉ riêng việc định nghĩa nội dung từ “Độc lập” đã làm những cuộc đối thoại giữa chúng tôi vấp váp nhiều nhất và cũng nhiều lần đức đoạn.

Nhiều lần, những cuộc đối thoại đứt đoạn này kéo dài nhiều ngày, thậm chí nhiều tuần, cho tới khi một người trung gian có thiện chí đã tìm cách để những người đối thoại Pháp và Việt Nam lại giáp mặt nhau. Đó là Louis Caput được các giới Việt Nam, phe xã hội hoặc Mác-xit tín nhiệm, coi như một người chân thành, trung thực. Tình hữu nghị của Caput đối với Việt Nam được thể hiện trong việc ông đã ủng hộ nhiều khát vọng của nhân dân Việt Nam, nhưng ông cũng thuộc phái không kém phần hăng hái trong việc bảo vệ sự có mặt và những quyền lợi của Pháp ở Đông Dương.

Mãi tới ngày 16 tháng 2, sau một cuộc họp kéo dài vừa mới được nối lại, lần đầu tiên chúng tôi mới có cảm giác là có khả năng đạt được thỏa thuận. Hồ Chí Minh đã định rõ các khát vọng của ông và những điều kiện do ông đề xuất. Tôi quyết định đi Sài Gòn thỉnh thị ý kiến tướng Leclerc lúc này đang tạm quyền chức vụ Cao ủy thay đô đốc D’Argenlieu về Pháp công tác, trước khi đệ trình Chính phủ Pháp.

Ngày 18 tháng 2, tôi đi Sài Gòn. Tướng Leclerc là người hiểu rõ sự cần thiết phải đạt được hiệp định, ngày 14 đã điện về Pháp nói rõ, để đạt được hiệp định này thì không ngần ngại tuyên bố danh từ “Độc lập” cho Việt Nam. Trong cuộc gặp tướng Leclerc, chúng tôi đều hiểu ngay là có thể đi tới đích.

Những nét đại cương của đề án này lập tức được điện cho đô đốc D’Argenlieu để ông có thể trình bày với Chính phủ Pháp – Leclerc kết thúc bức điện bằng một câu như sau:

“Tôi nhắc lại, các đề nghị cụ thể của Chính phủ Pháp cần phải được gửi tới ngay, nếu không có thể bỏ lỡ cơ hội”.

Cũng xin nhấn mạnh, trong bức điện này không có vấn đề phải tuyên bố ngay danh từ “Độc lập”.

Phản ứng đầu tiên của Paris là thuận lợi. Tôi quay trở lại Hà Nội ngay. Hôm sau, tôi nhận được bản dự thảo Hiệp định về nguyên tắc mà đô đốc D’Argenlieu ủy nhiệm cho tôi nhân danh Chính phủ Pháp chuyển tới Hồ Chí Minh.

Điện trả lời của Chính phủ Pháp phê chuẩn những điểm đề nghị mà chúng tôi đã gửi đi trong bức điện ngày 18. Có một vài điểm cần xác định thêm, nhưng nội dung cơ bản đã được duyệt.

Đó là công nhận Việt Nam “là một quốc gia tự do trong Liên bang Đông Dương và trong khối Liên hợp Pháp” mà Chính phủ Hồ Chí Minh đã chọn, trước khi ký Hiệp định Sơ bộ ngày 6 tháng 3.

Hồi đó, có lời đồn đại nói rằng Chính phủ Pháp đã bị đặt trước “một việc đã rồi”. Lời đồn đại này do một số nghị sĩ Pháp đưa ra trong cuộc họp Quốc hội Pháp, nói rằng, Chính phủ Pháp chẳng được biết tin gì về những cuộc đàm phán diễn ra tại Hà Nội và mãi tới ngày 7 tháng 3, sau khi hiệp định đã ký kết, mới được báo cáo. Việc chính phủ duyệt y những đề nghị của chúng tôi trước khi ký hiệp định một lần nữa đã chứng minh những lời đồn đại này là không chính xác.

Ngay trước khi ký kết hiệp định, tôi đã gặp Hồ Chí Minh nhiều lần sau khi Chính phủ Pháp từ Paris đã điện trả lời những đề nghị của chúng tôi trình lên chính phủ ngày 18 tháng 2. Đến khi bản hiệp định có thể được ký, tôi cũng đòi nhấn mạnh với vị Chủ tịch Chính phủ Việt Nam là, bên cạnh chữ ký của người đứng đầu chính phủ hiện hành, nên có thêm chữ ký của các đảng phái để phản ánh đầy đủ chính kiến của công luận Việt Nam hồi đó.

Thật vậy, ngày 31 tháng 10 năm 1945, chính phủ cũ của Việt Nam đã được từ chức. Số đại biểu Quốc hội cũng đã giảm từ 444 xuống 291. Chính phủ mới thành lập ngày 3 tháng 11 gồm đại đa số là thành phần thân Việt Minh. Ngày 2 tháng 3 năm 1946, Quốc hội Việt Nam họp tại Nhà hát lớn Hà Nội đã biểu quyết bằng hình thức giơ tay, công nhận chính phủ mới, gồm có:

Chủ tịch: Hồ Chí Minh (Việt Minh).

Phó chủ tịch: Nguyễn Hải Thần (Việt Nam Cách mệnh Đồng minh hội).

Ngoại giao: Nguyễn Tường Tam (Việt Nam Quốc dân đảng).

Nội vụ: Huỳnh Thúc Kháng, nhà cách mạng lão thành ở Huế, thuộc chủ nghĩa dân tộc đi theo chủ nghĩa cộng sản, cựu Tổng biên tập tờ Tiếng Dân.

Cứu tế: Chu Bá Phượng (không đảng phái).

Tài chính: Lê Văn Hiến (Việt Minh).

Quốc phòng: Phan Anh, nguyên Bộ trưởng Thanh niên trong Chính phủ Trần Trọng Kim

Y tế: Trương Đình Tri, cựu đại úy bác sỹ (Đồng minh hội).

Giáo dục: Đặng Thai Mai (Việt Minh).

Tư pháp: Vũ Đình Hòe (Việt Minh).

Công chính: Trần Đăng Khoa (Nam Kỳ).

Nông nghiệp (Bồ Xuân Luật vốn là trung sĩ lính cảnh vệ Đông Dương, chạy sang Trung Quốc năm 1940 (Việt Nam Cách mệnh Đồng minh hội).

Bảo Đại vẫn là cố vấn tối cao của chính phủ này, một chính phủ được thành lập dưới sức ép của tình hình thời cuộc và của những đòi hỏi cấp bách.

Cùng trong lúc tiếp tục đàm phán nhằm cho phép quân đội Pháp trở lại Bắc Kỳ, chúng tôi cũng phải tính trước đến khả năng thất bại và chuẩn bị các biện pháp ứng phó.

Đạo quân viễn chinh Pháp đã xuống tàu, nhưng vì những lý do về thủy triều, chỉ có thể đổ bộ lên Hải Phòng trong khoảng thời gian từ ngày 5 đến ngày 7 tháng 3. Nếu đến thời hạn cuối cùng Hiệp định vẫn chưa được ký kết thì vẫn cứ phải đổ bộ bằng vũ lực và sẽ gặp nhiều rủi ro cho dân chúng Pháp.
Chúng tôi đã thỏa thuận với tướng Leclerc, dù thế nào cũng phải đổ bộ đúng hạn định và phải chuẩn bị sẵn sàng những hoạt động quân sự để bảo vệ dân chúng Pháp đang sống tại Hà Nội chống lại những phản ứng của Trung Quốc và Việt Nam như: nhảy dù biệt kích xuống các điểm nhạy cảm, thả dù vũ khí xuống các binh sĩ Pháp đang bị nhốt tập trung trong thành Hà Nội v.v…

Leclerc đã cử ra Hà Nội trung úy hải quân Philippe Quennouelle, là một trong những trợ lý của thiếu tá Pouchardier, chỉ huy đội biệt kích đã được chỉ định sẽ nhảy dù xuống Hà Nội. Bước ngoặt trong cuộc đàm phán đã cho phép chúng tôi tiết kiệm được các hoạt động quân sự. Sau khi tới Hà Nội, Quennouelle đáng lẽ tham gia đội biệt kích dù thì lại ở bên cạnh tôi để cùng tham gia đàm phán… Hồ Chí Minh rất vui khi gặp Quennouelle và đã có nhã ý gọi viên sĩ quan này một cách rất hóm hỉnh là “Ông nhảy dù”.

Đối với tôi “ông nhảy dù” quả là một cộng sự quý, một đồng đội khó ai sánh kịp. Sau này, trong đêm 19 rạng ngày 20 tháng 2 năm 1946, khi bùng nổ chiến tranh, Quennouelle cùng với vài binh sĩ nữa đã bảo vệ trụ sở làm việc của tôi trước sự tiến công của Việt Minh.

Theo dự kiến, Hiệp định sẽ được ký kết chậm nhất là vào đêm ngày 5 rạng ngày 6 tháng 3 năm 1946. Nhưng, mãi tới quá nửa đêm, các nhà thương lượng đôi bên vẫn còn sa lầy trong bế tắc. Pignon và tôi rút về nhà riêng, sau khi đề nghị Hồ Chí Minh suy ngẫm thêm. Tôi cũng nói rất rõ với Hồ Chí Minh, để lại đến hôm sau thì chắc chắn là quá chậm. Hồ Chí Minh cũng biết, các tàu chiến của Pháp chở Leclerc và đội quân viễn chinh đã tới sát bờ biển Bắc Kỳ.

Trong khi đó, từ tối ngày 5 tháng 3, Leclerc đã cho người mang đến cho tôi một thư riêng, trong đó ông đề nghị tôi bằng bất cứ giá nào cũng phải đi đến ký kết. Leclerc đã được báo tin về những ý đồ của các chỉ huy đội quân Lư Hán chiếm đóng Bắc Kỳ đang muốn chống lại quân Pháp đổ bộ, vi phạm hoặc cố làm ra vẻ không biết gì về những thỏa thuận đã đạt được giữa Pháp và Trung Quốc tại Trùng Khánh. Vì vậy, ông ngại sẽ xảy ra điều tệ hại nếu đổ bộ mà không có sự thỏa thuận.

(Trong lá thư viết tay của đại tá Lecomte là người tham dự cuộc hội đàm giữa đại diện hai ban tham mưu Pháp – Hoa cũng cho biết, trong cuộc họp này phía Pháp đã vấp phải mọi lý do trì hoãn cuộc đổ bộ. Các tướng lĩnh Trung Quốc được biết về giải pháp bó buộc của Leclerc phải đổ bộ đúng hạn định, đã lường được sự thỏa thuận của Trung Quốc. Nhưng họ cũng không thể chấp nhận sự nguy hiểm đó. Vì vậy, một người trong hàng ngũ của họ là tướng Tchao có ý thức hơn về thảm kịch đang có nguy cơ xảy ra, đã tự thân chinh đi gặp Hồ Chí Minh, đề nghị Hồ Chí Minh thỏa thuận với tôi và không ra lệnh chống lại cuộc đổ bộ để tránh một sự bùng nổ chiến tranh toàn diện).

(Còn nữa)

dvt.vn

Câu chuyện về một nền hòa bình bị bỏ lỡ – Phần 1

Những trò Tàu

Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1946

(DVT.vn) – Nỗ lực tìm kiếm hòa bình của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào những năm 1945-1946 được kể lại trong hồi ký của một chỉ huy tình báo Pháp, ông J.P. Sainteny.

Lý do chính thức về sự có mặt của quân đội Trung Quốc như mọi người đều biết, là để giải giáp vũ khí các đơn vị quân đội Nhật Bản đóng ở bắc vĩ tuyến 16 với số quân vào khoảng 35.000 người. Vậy mà, người ta có thể ước lượng tới 130.000 quân Trung Quốc kéo vào Bắc Đông Dương, và nếu thêm cả những “bậu xậu” đi theo phục vụ thì có tới gần 200.000 người Trung Quốc đã “đổ xô” vào xứ Bắc Kỳ.

Rất dễ dàng hình dung được tâm trạng những người lính Trung Quốc này, vốn là dân các tỉnh rộng lớn tiếp giáp với Đông Dương như Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, vào lúc họ có dịp thực hiện những ước mơ bấy lâu ve vuốt họ. Và thế là, không cần phải chiến đấu, Hoa Nam đã có thể chiếm lĩnh các cửa biển thiên nhiên của xứ Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ, giơ bàn tay nắm lấy Hoa kiều ở Đông Dương ngồi lên một vùng mà nhiều người trong bọn họ cứ ngoan cố cho rằng đây là một tỉnh chư hầu của Trung Quốc, và mọi người đều coi là miền đất hứa, đến đây với tư cách là ông chủ.

Thay cho việc kể lể dài dòng, tôi xin nêu lên tóm tắt một số sự cố điển hình để có thể hiểu rõ hơn tình hình về sự chung đụng quyền hành, một trong những thí dụ này là chuyện chiếc máy bay Dakota xuất phát từ Vinh.

Tôi đã dự định đưa từ Vinh vào Nam Kỳ một vài người Pháp đau bệnh cần chữa trị gấp. Số chỗ đã được dành sẵn cho họ trong chiếc máy bay quay trở lại Sài Gòn. Tất cả những giấy phép hạ cánh đã nhận được đủ. Phải có giấy phép của những nhà chức trách Trung Quốc và Việt Nam thì một chiếc máy bay Pháp mới được hạ cánh xuống sân bay Vinh. Những tiếp xúc với người Trung Quốc được thực hiện với một ban liên lạc, gọi là “Ban liên lạc Pháp – Hoa” thiết lập từ khi Bộ tư lệnh Trung Quốc có mặt tại Hà Nội. Về phía Pháp có các đại úy Lonbaton, Gribelin Bérard và trung úy Augier. Loa phóng thanh trên sân bay báo tin máy bay đã tới. Phải đưa nhanh những người bệnh lên máy bay để máy bay tiếp tục bay vào Sài Gòn, đưa người bệnh tới bệnh viện ngay trong tối hôm đó.

Thế nhưng, ngày hôm sau Sài Gòn báo tin máy bay vẫn chưa tới. Đã chuẩn bị tổ chức tìm kiếm, thì đội phi hành đoàn trong chiếc Dakota báo tin máy bay vẫn hãy còn ở Vinh vì các nhà chức trách Trung Quốc chưa cho bay.

Chúng tôi lập tức kêu cứu tới Bộ tư lệnh Trung Quốc tại Hà Nội. Họ xác nhận các giấy phép đều hợp lệ và đã gọi điện cho ban chỉ huy quân đội Trung Quốc tại Vinh là chiếc Dakota vẫn đang bị bao vây.

Bốn mươi tám giờ đã trôi qua. Mặc dù đã có lệnh từ Hà Nội, nhà chức trách Trung Quốc ở Vinh vẫn không cho chiếc máy bay của chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình.

Tôi tới gặp tướng Lư Hán, yêu cầu ông đích thân gọi điện cho Vinh để khẳng định mệnh lệnh giải phóng cho chiếc máy bay. Tướng Lư Hán đã làm theo, nhưng mấy giờ sau chúng tôi được biết, những mệnh lệnh của ông vẫn không được thực hiện.

Mấy ngày sau, chất vấn về ác ý đã gây ra sự cố ở sân bay Vinh, ban tham mưu Trung Quốc mới giãi bày một cách thành thật rằng, đúng là giấy phép có ghi rõ chiếc Dakota của Pháp có thể hạ cánh xuống Vinh để mang đi vài người Pháp sống tại thị xã này, nhưng lại không ghi là chiếc máy bay này được tiếp tục cất cánh. Vì vậy, khi máy bay hạ cánh đã được tiếp nhận rất lịch sự, nhưng không được phép rời khỏi Vinh.

Những sự cố tương tự như vậy kéo dài suốt hơn một năm. Nếu có những sự cố nhẹ nhàng, nếu có những việc lạm dụng quyền hành rất nhiều như tất cả mọi quân đội chiếm đóng đều gây ra, thì hỡi ôi!

Vụ giấy bạc mệnh giá 500 đồng Đông Dương xảy ra hồi cuối tháng 11 năm 1945 đe dọa dẫn đến thảm họa. Đầu đuôi câu chuyện như sau:

Tháng 8 năm 1945, vài tuần trước khi sụp đổ, Nhật Bản đã cho in từ nhà máy in của ngân hàng Đông Dương mà họ chiếm được hàng trăm triệu giấy bạc mệnh giá 500 đồng. Trong đó mối quan tâm đáng lo ngại, xuất phát từ quan điểm chính thống về tiền tệ, một buổi sáng các nhà chức trách ở Sài Gòn tuyên bố, dĩ nhiên không báo trước, hủy bỏ toàn bộ những loại tiền mệnh giá 500 đồng đã in trong khoảng thời gian từ 9 tháng 3 đến 25 tháng 9 năm 1845. Còn những số tiền cùng loại đã in từ trước thì đã tạm cất giữ trong các ngân hàng. Hành động này là hoàn toàn chính đáng. Nhưng Sài Gòn đã không lường hết những hậu quả xảy ra ngay tức khắc.

Thật vậy. Bởi vì số lớn tiền giấy mệnh giá 500 đồng in trong mùa thu 1945 là nằm trong tay Bộ tư lệnh quân đội Trung Quốc ở Hà Nội và những doanh nghiệp lớn của người Hoa ở Bắc Đông Dương. Tôi được mời đến một cách lịch sự, để giải thích về chủ trương này và sau đó là để hoãn thực hiện không thời hạn. Trong trường hợp ngược lại, tôi được cảnh báo là sẽ rất khó trấn an được dân chúng Việt Nam đang rất “xúc động” trước việc ăn hiếp một cách không thể chấp nhận được.

Về phía dân chúng Việt Nam, họ vẫn bình thản khi nghe thông báo về biện pháp “tiền tệ” dù có chấn động đôi chút. Bởi vì số đông họ đều là dân nghèo, đến mặt mũi tờ 500 đồng đó như thế nào họ cũng không biết. Nhưng, vào khoảng 48 giờ sau thì sự bất công trong chủ trương tiền tệ đã gây chấn động. Nhiều cuộc biểu tình và tụ họp bắt đầu làm rối loạn trật tự thủ đô Bắc Kỳ. Các chi nhánh ngân hàng không chịu đổi tiền giấy 500 và những diễn biến càng trở nên đáng lo ngại từng giờ một.

Lúc này tôi đã tới Sài Gòn để tìm hiểu rõ những nguyên nhân của quyết định cấm lưu hành loại tiền giấy mệnh giá 500 nói trên. Một số người khởi xướng được cử cùng đi với tôi ra Bắc Kỳ để trực tiếp giải thích cho các bạn Đồng minh lý do tại sao không thể để loại tiền giả này tự do lưu hành.

Trong khi đó tình hình căng thẳng đã càng cao tại Hà Nội. Ngay khi vừa tới, tôi đã được báo tin một cuộc biểu tình đã được dự kiến tổ chức ngay trước trụ sở Ngân hàng Đông Dương sau khi tôi tới.

Đúng như vậy, khoảng 14 giờ 30 có những tốp người bắt đầu tụ tập trước cửa ngân hàng, tại vườn hoa Pastuer. Đến 15 giờ số người càng đông thêm. 15 giờ 30 những phát súng đầu tiên bắt đầu nổ.

Ai là kẻ đáng ngờ đã gây ra vụ này? Các cơ quan mật vụ Trung Quốc hay là dân chúng Việt Nam đã mạo hiểm trước lửa đạn chỉ vì một tờ tiền giấy mà có lẽ họ chưa bao giờ có.

Vài người bị thương được mang vào trụ sở ngân hàng để cứu chữa. Về phía những “kẻ hành hung” cũng có những tên bị thương trong đó vài tên đến hôm sau đã chết.

Chúng tôi phải thỏa thuận với các nhà chức trách Trung Quốc tổ chức một cuộc họp dưới sự chủ tọa của tướng Gallagher, chỉ huy phái đoàn Mỹ tại Hà Nội để giàn xếp vấn đề gai góc này.

Trong cuộc họp được tổ chức tại trụ sở phái đoàn Mỹ có các tướng lĩnh chủ chốt của tướng Lư Hán, ông Lăng Kỳ Hàn đại diện Bộ Ngoại giao Trung Quốc và một đại diện nữa của Bộ Tài chính Trung Quốc. Về phía Pháp, ngoài ông Clarac là cố vấn liên bang ngoại giao và ông Francois Bloch Laine là cố vấn liên bang về tài chính cùng đi với tôi từ Sài Gòn ra Hà Nội, còn có các cộng sự viên của tôi, trong đó có ông Jean Laurent tổng giám đốc Ngân hàng Đông Dương đang ở Hà Nội vài ngày, ông Baylin, giám đốc chi nhánh Ngân hàng Đông Dương tại Bắc Kỳ, một người Pháp rất đáng ca ngợi, thông thạo tiếng Trung Quốc, chủ một gia đình vĩ đại nước Pháp. Baylin là một con người vừa thẳng thắn vừa nhân hậu, chỉ biết có bạn, nhưng lại là nạn nhân chịu tội của vụ việc này. Vài ngày sau cuộc họp, trong khi ông đang chậm rãi trở về nhà bằng bước chân tập tễnh của một thương binh loại nặng hồi chiến tranh, ông đã bị một số kẻ lạ mặt bắn chết mà không bao giờ điều tra được tung tích.

Buổi họp hôm đó kéo dài gần một giờ và kết thúc bằng lời cam kết sẽ đổi những tiền giấy mệnh giá 500 đồng mà quân đội Trung Quốc đang giữ theo giá trị bồi hoàn. Tức là, một tờ 500 đổi được một tờ 150 đồng ở Nam Kỳ hoặc 250 đồng ở Bắc Kỳ. Và đã phải tiến hành nhiều cuộc đổi tiền loại này.

Ngày 25 tháng 3, Lư Hán đòi 300 triệu đồng Đông Dương. Chúng tôi từ chối. Bộ tư lệnh độc quyền Vân Nam liền đòi Ngân hàng Đông Dương phải nộp ngay cho họ bốn mươi triệu. Bất chấp những phản kháng của Pháp, nhiều khoản nộp khác vẫn cứ đặt ra và tổng số đã lên tới 400 triệu vào cuối giai đoạn chiếm đóng. Cũng phải thêm vào đó con số 14.000 tấn gạo nộp cho cơ quan hậu cần Trung Quốc, tương đương với 27 triệu đồng theo thời giá.

Trước khi rời khỏi Bắc Kỳ, ban tham mưu của tướng Lư Hán còn đòi thêm 250 triệu đồng. Rất dễ dàng hình dung được là số tiền này không phải dùng để trả lương cho binh lính bởi vì binh lính và hạ sĩ quan Trung Quốc đều được trả lương bằng đồng tiền Trung Hoa.

Một trong những biện pháp đầu tiên của Bộ tư lệnh quân đội Trung Quốc ngay khi mới tới là buộc dân chúng miền Bắc Đông Dương phải chấp nhận đồng tiền Trung Quốc coi đó như loại tiền tệ chính thức, ngang giá với đồng Đông Dương. Hơn nữa, đồng quan kim Trung Quốc còn được áp đặt trị giá tương đương với 1 đồng 50 tiền Đông Dương và ngang với 20 đô la Trung Quốc, một loại tiền mà hình dáng khuôn khổ giống như đồng đô la Mỹ, gây cảm tưởng đó cũng là đô la Mỹ. Một bản cáo thị được dán trên tường các phố phường Hà Nội đã làm cho đồng tiền Trung Quốc trở thành loại tiền tệ chính thức và dân chúng phải chấp nhận tỉ giá:

Quân đội Trung Hoa được lệnh tiến vào Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật Bản đầu hàng. Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ mà quân đội Trung Quốc phân tán binh lực, không thể có được một hệ thống tiền tệ chung cho các cuộc giao lưu buôn bán. Vì vậy, nay ấn định tỉ giá các loại tiền Trung Hoa Dân quốc như sau:

1 quan kim = 1,5 đồng Đông Dương.
20 đô la Trung Quốc = 1,5 đồng Đông Dương.

Tỷ giá này là mệnh lệnh phải thực hiện, không được tự ý thay đổi với bất cứ hoàn cảnh nào. Kẻ nào không tuân lệnh sẽ bị Bộ chỉ huy quân đội Trung Quốc trừng trị nghiêm trọng.

Hành động độc đoán kiểu “ông hoàng” này đã dẫn đến những vụ đầu cơ tai tiếng kéo dài suốt vài tuần. Đồng quan kim được mua tận gốc tại Trung Quốc với giá rẻ gấp 5 lần sau đó đã được chuyển hàng đống vào Bắc Kỳ làm lợi cho người Hoa. Chỉ trong vài tuần, tất cả những thứ gì có thể bán được đều rơi vào tay người Hoa với giá rẻ như biếu không.

(Còn nữa)

dvt.vn

GS Hoàng Minh Giám kể về những ngày vận nước “nghìn cân treo sợi tóc” (P 7)

Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Việt Bắc

(DVT.vn) – Đoàn đại biểu Việt Nam sang Pháp dự Hội nghị Fontainebleau. Bác cùng đi với tư cách là khách của Chính phủ Pháp. Đi máy bay Dakota, 12 ngày mới tới Pháp…

Sau khi Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 được ký kết, tên thầy tu phá giới Thierry d’Argenlieu tìm mọi cách ngăn cản việc thi hành Hiệp định đó: không chấm dứt chiến sự ở miền nam, trì hoãn việc họp hội nghị chính thức giải quyết vấn đề quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Pháp.

Ý đồ của viên cao ủy nham hiểm là lợi dụng việc kéo dài thời gian để thực hiện chính sách “việc đã rồi” trước khi bắt đầu hội nghị: càn quét ở Nam Bộ, đánh chiếm Plây-cu – Kon-tum, xây dựng cái gọi là “phong trào tự trị ở Nam Bộ”…


Chính phủ kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc năm 1948.
(Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Hoàng Minh Giám là người đứng thứ tư hàng thứ hai từ phải sang).

Nhưng sau Hội nghị trù bị, Pháp không thể trì hoãn hơn nữa, mà phải chấp nhận: một đoàn đại biểu Việt Nam sẽ lên đường chậm nhất là vào cuối tháng 5 sang Paris để đàm phán, và Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ cùng đi, với tư cách là khách của Chính phủ Pháp.

Việc Bác sẽ đi Pháp không khỏi làm nhân dân và cán bộ ta lo lắng… Nhưng Bác rất bình tĩnh, và chuẩn bị chu đáo:

1. Mở rộng và củng cố khối toàn dân đoàn kết: Ngày 27/5/1946, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam ra đời (gọi tắt là Hội Liên Việt), rộng rãi hơn mặt trận Việt Minh, bao gồm tất cả những người Việt Nam (Việt Minh hay không Việt Minh), sẵn sàng đoàn kết, chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc. Ban chấp hành của Hội gồm các vị:

Hội trưởng danh dự: Hồ Chí Minh

Phó Hội trưởng: Huỳnh Thúc Kháng và Tôn Đức Thắng.

Tổng Thư ký: Cù Huy Cận.

Các Ủy viên trung ương: Trần Huy Liệu, Phạm Ngọc Thạch, Ngô Tử Hạ và Nguyễn Tường Long.

2. Cụ Huỳnh Thúc Kháng sẽ là quyền Chủ tịch nước và lãnh đạo Chính phủ theo phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.

Hai máy bay Dakota đã chở Bác và Đoàn đại biểu ta, có tướng Salan và đại tá Tutenge đi hộ tống. Trưởng đoàn ta là Nguyễn Tường Tam vắng mặt, vì lý do sức khỏe.

Dọc đường, máy bay nghỉ nhiều chặng, do đó, phải 12 ngày sau khi cát cánh từ Gia Lâm, mới đến đất Pháp. Chỉ thị của Chính phủ Pháp là: “Hãy đưa các vị ấy đi du ngoạn càng lâu càng tốt (Faire balader ces Messieurs le plus longtemps possible). Lý do là Pháp chưa có Chính phủ.

Máy bay đã bay qua Miến Điện (Myanmar), Ấn Độ, Iraq, Ai Cập, sa mạc Sahara; đã dừng lâu tại Ấn Độ (tổ chức tham quan Calcutta, thủ đô New Delhi…), Ai Cập (tổ chức tham quan thủ đô Cairo, vùng Kim tự tháp…).

Ngày 12/5, Đoàn ta đến thành phố Biarritz, thuộc vùng tây-nam nước Pháp, gần Tây Ban Nha. Chỉ có ông… phó chủ tịch quận… ra đón Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đoàn đại biểu Việt Nam ở sân bay!

Hôm sau, mới thấy Sainteny từ Paris đến, xin lỗi, vì không biết ngày giờ đến của máy bay! Rất bình tĩnh, Bác phàn nàn về hành động rất sai trái của d’Argenlieu đã cho phép thành lập một chính phủ bù nhìn ở miền nam Việt Nam (Bác nhận được tin đó khi máy bay đang bay trên vùng Syria). Và Bác nói với Sainteny: “Tôi tự hỏi có nên tiếp tục đi đến Paris hay không?”

Được tin Bác và Đoàn ta đến Biarritz, nhiều Việt kiều, nhiều nhân vật Pháp, bạn của Bác, lần lượt đến Biarritz chào và thăm hỏi. Đồng chí Charles Tillon, Bộ trưởng Bộ Quân khí đã chuyển lời chào của Đảng Cộng sản Pháp, và phàn nàn với Sainteny về sự đón tiếp quá luộm thuộm đã dành cho Bác.

Đoàn đại biểu ta chỉ ở lại Biarritz hai ngày, rồi đi Paris bằng xe lửa…

Trong thời gian Bác Hồ ở Biarritz (15 ngày), ngoài việc tiếp khách Pháp và Việt kiều, Bác tranh thủ đi thăm cùng Basque, thăm hỏi dân đánh cá, tìm hiểu đời sống, phong tục, tập quán của nhân dân địa phương.

Bác được tin: Ngày 21/6, d’Argenlieu đã ra lệnh cho quân đội Pháp chiếm phủ toàn quyền Pháp cũ, nhân dân Hà Nội đã đình công hai ngày liền để phản đối, nhưng cụ Huỳnh và anh Giáp không làm to chuyện (dĩ bất biến ứng vạn biến!…).

Bác cũng được tin ngày 24/6, Chính phủ do Félix Gouin (đảng SFIO) đứng đầu đã rút lui, nhường chỗ cho một chính phủ mới gồm ba đảng (MRP, Cộng sản, SFIO) do Bidault (chủ tịch đảng MRP) đứng đầu; Moutet vẫn giữ chức Bộ trưởng Bộ Pháp quốc hải ngoại, nhưng Bidault phụ trách vấn đề Liên hiệp Pháp (Union Française), có Alexandre Varenne (nguyên toàn quyền Đông Dương) làm phụ tá.

Ngày 22/6/1946, Bác đến Paris (sân bay Le Bourget). Đón tiếp rất long trọng, lộng lẫy tuy không có Bidault, chỉ có Moutet thay mặt Bidault. Nhưng cờ Việt Nam, cờ Pháp, kèn trống, quan khách, dân chúng, nhất là dân chúng, Việt kiều, người Pháp, báo chí, nhiếp ảnh, quay phim, rất đông, rất vui, rầm rộ, tưng bừng, nồng nhiệt, phấn khởi. Mọi người ngạc nhiên thấy một vị Chủ tịch nước rất độc đáo, ăn mặc rất giản dị, trên ngực không đeo một tấm huân chương nào, có một chòm râu thưa thớt, một bộ mặt rất hiền từ, vui vẻ, khiêm tốn, một đôi mắt rất sáng.

Mấy ngày sau, ở khách sạn Royal Monceau, đã dành riêng đón Bác, rất nhiều người (nhà báo Pháp và các nước khác, các chính khách Pháp, Việt kiều…) xin được gặp Bác. Chính phủ Pháp mời Bác thăm Điện Versailles, đi tham quan vùng Normandie (một chiến trường quan trọng trong chiến tranh vừa qua). Ngày 2/7, Bidault tiếp chính thức Bác. Ngày 3/7, Bác long trọng đi viếng Đài Chiến sĩ vô danh.

Bác dành buổi gặp mặt đặc biệt với Việt kiều, để Bác và Đoàn nói chuyện và cảm ơn sự giúp đỡ đoàn rất nhiệt tình của Việt kiều.

Bác dành thì giờ đi thăm và tiếp những người bạn cũ như Léon Blum mà Bác đã gọi thân mật là papa Blum, các đồng chí cộng sản, xã hội… đã cùng nhau chiến đấu bao nhiêu năm về trước, đồng cam cộng khổ… Bác làm quen với những bạn mới (như Edmond Michelet, bộ trưởng Bộ Quân lực, được Bidault giao trách nhiệm quan hệ trực tiếp với Bác), những nghị sĩ Pháp và thuộc địa Pháp (Angérie, Madagasca, Sénégal, Côte d’Ivoire…), các nghị sĩ này tỏ ra rất xúc động khi được gặp Bác, có người đã không cầm được nước mắt lúc chia tay.

(Còn nữa)

dvt.vn

GS Hoàng Minh Giám kể về những ngày vận nước “nghìn cân treo sợi tóc” (P 6)

Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1946.

(DVT.vn) – Theo Bác Hồ chỉ đạo, GS Hoàng Minh Giám thay mặt Đảng Xã hội Việt Nam dự Đại hội Đảng Xã hội Pháp và trình bày lập trường của Chính phủ VNDCCH.

Năm 1933, lần đầu tiên, nước Pháp có một Chính phủ Mặt trận Bình dân (Gouvernement du Front populaire). Đảng Xã hội Pháp (SFIO) được thành lập một chi nhánh tại Bắc Kỳ (Fédération SFIO du Tonkin), do Louis Caput làm thư ký, và kết nạp một số đảng viên là người Việt Nam.

Hai năm sau, lần đầu tiên Ngày Quốc tế Lao động (1/5) được kỷ niệm công khai và long trọng ở Hà Nội tại khu Đấu Xảo (nay là Cung Văn hóa lao động hữu nghị Việt – Xô) với 25 nghìn người dự. Số người Pháp dự không quá mấy chục; còn lại là người “bản xứ”: đại biểu công nhân, nông dân ngoại thành, tiểu thương, tiểu chủ, sinh viên, học sinh và giáo viên nhiều trường học (trong đó có Trường Thăng Long), công chức, nhà văn, nhà báo, đại biểu các Hội Ái hữu do Đảng Cộng sản bí mật lãnh đạo, động viên.

Sau ngày 2/9/1945 (nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập), một vấn đề đặt ra là có cần một Đảng Xã hội Việt Nam, không phải là chi nhánh của SFIO, mà là của những người trí thức Việt Nam yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội.

Trước khi Bác Hồ và Đoàn đại biểu ta tại Hội nghị Fontainebleau đi Pháp (31/5/1946), Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Liên Việt) ra đời (27/5/1946), với nhiệm vụ mở rộng khối đoàn kết toàn dân. Hai tháng sau (22/7/1946), Đảng Xã hội Việt Nam được thành lập, tự nguyện là một thành viên tích cực của Hội Liên Việt, cùng với các thành viên khác của Hội, ra sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đang bị nhiều giặc ngoài, thù trong quấy rối và đe dọa.

Lúc đó tôi không có mặt ở Hà Nội, mà đang công tác trên đất Pháp, trong Đoàn đại biểu Việt Nam dự Hội nghị Fontainebleau. Tôi nhận được điện của đồng chí Phan Tư Nghĩa, Tổng Thư ký Đảng Xã hội Việt Nam (và nguyên đảng viên SFIO trên đất Pháp).

Tôi báo cáo với Bác Hồ (Bác có mặt ở Paris với tư cách là khách mời của Chính phủ Pháp). Bác bảo: “Tốt lắm. Chú cố gắng làm tốt nhiệm vụ được giao”. Rồi Bác nói thêm: “Hiện nay trong Quốc hội và Chính phủ Pháp, có ba đảng lớn hơn cả là: Đảng MRP (Phong trào Cộng hòa bình dân) theo khuynh hướng De Gaulle, Đảng Cộng sản, và Đảng SFIO. Đảng MRP không ủng hộ ta. Đảng Cộng sản ủng hộ ta. Nhưng không đảng nào trong hai đảng đó chiếm được đa số. Đảng Xã hội tuy có ít phiếu hơn, nhưng đứng về phía nào thì phía đó thắng”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và các thành viên phái đoàn Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Fontainebleau tại một buổi gặp gỡ bà con Việt kiều tại Pháp.
(Trong ảnh: Người đứng thứ hai hàng thứ hai từ phải sang là GS Hoàng Minh Giám)

Bác quen nhiều đảng viên quan trọng của đảng SFIO, đặc biệt là Léon Blum, lãnh tụ của đảng. Chúng ta biết rằng trước kia Bác là đảng viên SFIO. Năm 1920, trong Đại hội họp ở thành phố Tours, Bác cùng Marcel Cachin và một số lớn đồng chí rút ra khỏi SFIO, gia nhập Quốc tế thứ ba và lập ra Đảng Cộng sản Pháp.

Để làm nhiệm vụ do Đảng Xã hội Việt Nam giao, tôi có một số thuận lợi. Louis Caput, nguyên thư ký chi nhánh SFIO Bắc Kỳ, có mặt ở Paris. Một người Pháp khác mà tôi quen từ trước Cách mạng Tháng Tám, vì người ấy cũng là đảng viên SFIO, thuộc Fédération SFIO Bắc kỳ, và dạy học ở Trường đại học Luật Hà Nội, tên là Lambrouquère và một số Việt kiều tại Pháp, trong đó có anh Đặng Chấn Liêu (em ruột anh Đặng Phúc Thông trong Đoàn ta dự Hội nghị Fontainebleau) đã giúp tôi làm quen với một số đảng viên Pháp của SFIO có nhiệt tình với nhân dân Việt Nam, thí dụ: anh Decheizèle (trong Ban Tổ chức của Trung ương Đảng SFIO), anh Jean Roux (luật gia và nhà báo, thường viết cho báo Franc Tireur và là ủy viên “Ban các vấn đề thuộc địa” (Commission des affaires coloniales của SFIO).

Caput và Labrouquère, một hôm hỏi tôi: “Anh có muốn gặp Marius Moutet không?” Thấy tôi có vẻ ngập ngừng một giây lát rồi mới trả lời: “Có, tất nhiên có”, họ nói: “Anh chớ ngại gì cả! Anh là SFIO, Moutet không thể không gặp anh!”

Tôi không nói cho họ biết lý do sự ngập ngừng của tôi trong giây lát, trước khi trả lời họ: “Có, tất nhiên có!” Lý do đó là sự việc sau đây, đã xảy ra hồi đầu năm 1946: Lúc đó tôi đã tiếp tại Văn phòng Bộ Nội vụ, Luật sư Gustave Moutet (con trai của Marius, Bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại) được cử đến Việt Nam tìm hiểu tình hình. Trong khi trả lời một số câu hỏi của Gustave Moutet, tôi nói: “Chắc ông biết rằng nước chúng tôi đã là nạn nhân của hai cuộc chiếm đóng: cái thứ nhất là của quân đội Nhật, cái thứ hai là của quân đội Tưởng…”, anh ta “chêm” luôn một câu: “Còn cuộc chiếm đóng thứ ba nữa là của các ông!” (Et une troisième occupation: la vôtre!).

Tôi sửng sốt vì câu nói quái gở đó. Tôi phải tự kiềm chế, không phản ứng câu nói đó, tôi chỉ rút ngắn buổi tiếp khách.

Một ngày cuối tháng 6/1946, Labrouquère báo cho tôi biết Marius Moutet đã gửi thiếp mời tôi đến gặp tại Bộ Pháp quốc hải ngoại. Đúng ngày hẹn, tôi đã đến, nhưng buổi tiếp đó không làm tôi phấn khởi, vì ông ta không tỏ vẻ quan tâm nghe, khi tôi trình bày lập trường của ta về độc lập, thống nhất của Việt Nam, về vị trí của Việt Nam trong Liên bang Đông Dương, trong Liên hiệp Pháp; trái lại, ông ta tỏ rất quan tâm và phát biểu nhiều về quyền lợi mà ta sẽ dành cho thực dân Pháp còn sống trên đất nước ta.

Trái với Marius Moutet, một đảng viên SFIO khác mà đoàn ta đã có dịp làm quen trong thời gian Hội nghị Fontainebleau, đã để lại cho chúng tôi một ấn tượng sâu sắc. Đó là giáo sư Paul Rivet, giám đốc Bảo tàng Con người (Musée de l’homme). Theo yêu cầu của ta là trong Đoàn đại biểu Pháp không nên chỉ có những công chức thuộc địa, Chính phủ Pháp đã đề nghị ba đảng MRF, Cộng sản, SFIO cử mỗi đảng một đảng viên tham gia đoàn Pháp. Đảng MRF đã cử ông Jugias; Đảng Cộng sản cử đồng chí Lozeray; Đảng SFIO đã cử Giáo sư Paul Rivet.

Ngày 5/7/1946, trưởng đoàn Pháp là Max André triệu tập các đoàn viên nghe thông báo nội quy của đoàn và đường lối chủ trương của Chính phủ Pháp trong Hội nghị Fontainebleau sẽ khai mạc hôm sau là ngày 6/7/1946. Buổi họp kết thúc, các đại biểu chào ra về. Khi bắt tay Paul Rivet, Max André nói: “Hẹn sáng mai nhé!” Paul Rivet trả lời: “Không! Sáng mai tôi không đến”. Max André ngạc nhiên hỏi: “Vì sao?” Và Paul Rivet trả lời: “Vì tôi từ chức” (Je suis démisionnaire).

Sau đó, Giáo sư viết một bài trên báo Le Populaire, nói lý do việc từ chức của mình, và tóm tắt trong một câu ngắn gọn: “Tôi không muốn là một người bị lừa dối, không muốn là một con tin, không muốn là một kẻ đồng lõa” (Je ne veux être ni dupe, ni otage, ni complice).

Hội nghị Fontainebleau bị bế tắc do những hành động phá hoại của bè lũ d’Argenlieu. Đoàn ta về nước. Bác cũng về nước, sau khi ký một Tạm ước (Modus vivendi) với Pháp. Bác cử một đoàn gồm ba người (Hoàng Minh Giám, Trần Ngọc Danh, Dương Bạch Mai) đại diện Chính phủ ta ở nước Pháp. Do đó, tôi có dự – với tư cách là đại diện Đảng Xã hội Việt Nam Đại hội toàn quốc (Congrès national) của Đảng SFIO cuối tháng 9 đầu tháng 10/1946. Lúc đó, tình hình Đảng SFIO không vui vẻ lắm… Tổng Thư ký sắp hết nhiệm kỳ là Daniel Mayer, không có hy vọng được tái cử, và nhiều người đã nói tên người thay thế là Guy Mollet.

Tôi đến dự Đại hội, phát biểu ý kiến, chào mừng Đại hội, trình bày tóm tắt lập trường của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong Hội nghị Fontainebleau, khẳng định ý chí của nhân dân Việt Nam là độc lập, thống nhất của Tổ Quốc mình, trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp (Indépendance et unité du Viêt-nam dans le cadre de l’Union Française).

Tổng Thư ký sắp hết nhiệm kỳ không tỏ vẻ mặn mà với sự có mặt của đại diện Đảng Xã hội Việt Nam. Nhưng sau buổi họp, một số đại biểu SFIO và một đại biểu Công đảng Anh (Parti Travailiste) cũng là khách mời của Đại hội, đến bắt tay và chúc mừng cuộc đàm phán Việt – Pháp sẽ tiếp tục đầu tháng 1/1947 (theo Tạm ước 14/9/1946) và sẽ đạt kết quả tốt.

(Còn nữa)

dvt.vn

GS Hoàng Minh Giám kể về những ngày vận nước “nghìn cân treo sợi tóc” (P 5)

(DVT.vn) – Chỉ có Bác Hồ và GS Hoàng Minh Giám giữa “vòng vây” của các chiến hạm Pháp, đạn đại bác lên nòng, Bác vẫn bình thản đối đáp với đô đốc d’Argenlieu.

D’Argenlieu đứng bên cạnh Bác, có vẻ hân hoan đắc chí giới thiệu lần lượt các chiến hạm diễu qua trên mặt biển. Bác thỉnh thoảng vẫy tay chào… D’Argenlieu trả lời, có vẻ thích thú… Có một lúc d’Argenlieu đang nói chuyện với một số sĩ quan tùy tùng đến báo cáo gì đó, Bác quay lại phía tôi và nói khẽ:

– Nó làm ra vẻ tôn trọng ta lắm. Thật ra, nó muốn phô trương lực lượng để dọa ta đó. Nhưng ta có sợ đâu!

Xong cuộc duyệt binh, d’Argenlieu mời Bác dự một tiệc trà nhẹ, ngắn, với toàn thể quan khách, rồi sau đó, mời Bác đến “phòng khách danh dự” để đàm thoại về vấn đề thi hành các điều khoản của Hiệp định sơ bộ 6/3. Dự cuộc này, ngoài Bác và d’Argenlieu, chỉ có tôi.

Phát biểu trước, Bác nhắc d’Argenlieu chú ý việc thi hành nghiêm chỉnh các điều khoản nói về trách nhiệm của hai bên phải đình chỉ ngay chiến sự ở miền nam Việt Nam, quân đội mỗi bên đóng ở đâu phải ở nguyên đó. Nếu chiến sự tiếp tục như hiện nay, thì tất nhiên không thể tạo nên không khí thuận lợi cho “cuộc đàm phán hữu nghị và chân thành” được nêu lên trong Hiệp định sơ bộ.

D’Argenlieu không đáp lời Bác, không tranh luận mà đứng dậy, một cách long trọng, xoa tay và nói:

– Thưa ngài Chủ tịch, tôi xin lưu ý Ngài một điều: xin Ngài đừng gọi tôi là “Ông đô đốc”, mà gọi tôi là “Ông cao ủy”.

Ông ta ngồi xuống, và chờ Bác nói. Tôi sực nhớ rằng từ lúc đặt chân lên chiến hạm Emile Bertin, Bác chưa hề gọi d’Argenlieu là “Ông cao ủy”.

Sau khi d’Argenlieu đã ngồi xuống, Bác liền nói với một giọng nói và một nét mặt rất bình thản:

– Thưa ông cao ủy, chúng ta tiếp tục nói về việc thi hành Hiệp định sơ bộ 6/3. Trong Hiệp định đó, đã khẳng định sự cần thiết mở lập tức cuộc đàm phán hữu nghị và chân thật (ouverture immédiate des négociations amicales et franches).

D’Argenlieu nói:

– Thưa Ngài Chủ tịch, nước Pháp sẽ nghiêm túc thi hành các điều khoản của Hiệp định sơ bộ. Nhưng hiện nay, Hội nghị nói trên chưa họp được, vì phải chờ cuộc tổng tuyển cử sắp tổ chức ở Pháp để thành lập một chính phủ mới. Vả lại, để giải quyết một số vấn đề rất mới, như vấn đề Liên hiệp Pháp (L’union française), cần có thời gian nghiên cứu, thảo luận trong Quốc hội Pháp.

Bác thấy rõ ý đồ của d’Argenlieu là trì hoãn, kéo dài thời gian, Bác nói:

– Không thể chờ lâu được. Kéo dài thời gian chờ đợi, thì rất nguy hiểm. Hiện nay, chiến tranh chưa được chấm dứt ở miền nam Việt Nam, và không phải không có nguy cơ chiến tranh nổ ra ở miền bắc. Quân đội Nhật, quân đội Trung Quốc cũng chưa rút… Tình hình có thể trở nên phức tạp, rối ren.

Lúc đó, tôi xin phép Bác phát biểu, và tôi nói mấy câu vắn tắt, nhấn mạnh ý: Không nên để cho dư luận trong công chúng Việt Nam mất tin tưởng vào thiện của phía Pháp và vào khả năng đi đến một giải pháp hòa bình và hữu nghị. (Trong thời gian đàm phán giữa Bác và Sainteny đi đến Hiệp định sơ bộ 6/3, Bác vẫn cho phép, không những cho phép mà còn phát biểu, nếu có gì quá mạnh, mình sẽ “uốn nắn”; có người đấm, có người xoa; tất nhiên đừng đấm quá mạnh, quá mức cần thiết).

Cuộc tranh luận kéo dài, Bác nói:

– Nhân dân chúng tôi rất có kỷ luật, nhưng hiện nay tình hình trong dư luận ngày càng căng thẳng. Cần có những hành động thiết thực cụ thể, để tránh một sự bùng nổ.

D’Argenlieu suy nghĩ, rồi nói:

– Trong khi chờ đợi nước Pháp có một quốc hội và một chính phủ mới, chúng tôi đề nghị tổ chức một hội nghị trù bị cho hội nghị chính thức.

Để tránh một sự bế tắc, Bác đồng ý với d’Argenlieu. Và sau khi trao đổi ý kiến, hai bên đi đến quyết định: một hội nghị trù bị Việt-Pháp sẽ họp ở Đà Lạt. D’Argenlieu cũng tán thành ý kiến của Bác sẽ cử một đoàn đại biểu của Quốc hội Việt Nam đi thăm hữu nghị Quốc hội và nhân dân Pháp để tạo không khí thuận lợi cho Hội nghị Việt – Pháp chính thức sẽ họp sau Hội nghị trù bị Đà Lạt.

Cuộc hội đàm kết thúc lúc 17 giờ 30 phút. Lễ tiễn đưa không có bắn súng, không có duyệt hạm đội trên biển như trong lễ đón, nhưng vẫn có đội quan danh dự và đông đủ quan chức văn võ của d’Argenlieu.

D’Argenlieu nói:

– Tôi rất tiếc rằng thủ tục lễ nghi không cho phép chúng tôi mời Chủ tịch ở lại đây đêm nay để ngắm “phong cảnh thần tiên” trên vịnh Hạ Long.

Bác trả lời:

– Tôi cảm ơn Ngài nhiều lắm, những rất tiếc, vì phải trở về Hà Nội ngay.
Pignon lúc đó nói:

– Xin Chủ tịch cho phép tôi trình bày một đề nghị: Chúng tôi rất hân hạnh nếu ông Giám vui lòng ở lại đây với chúng tôi, để sáng mai sẽ cùng nhau trở về Hà Nội.

Bác trả lời, rất vui vẻ:

– Điều này hoàn toàn do ông Giám quyết định. Đề nghị ông Giám trả lời Pignon.

Tôi nói:

– Tôi xin cảm ơn Hồ Chủ tịch. Tôi chân thành cảm ơn ông bạn Pignon; nhưng rất tiếc tối hôm nay tôi phải có mặt ở Hà Nội. Rất tiếc.

GS Hoàng Minh Giám tại Hội nghị Fontainebleau năm 1946 (người ngồi đầu tiên tử trái sang).
(Ảnh do chị Hoàng Vĩnh Hạnh, con gái GS Hoàng Minh Giám cung cấp)

Chiếc thủy phi cơ chở Bác, Sainteny và chúng tôi về Hà Nội.

Trên đường bay từ Hà Nội đến vịnh Hạ Long và từ vịnh Hạ Long về Hà Nội, tôi thấy Bác rất chăm chú nhìn xuống những vùng mà chiếc thủy phi cơ bay qua. Trong chuyến bay về, có một lúc Bác quay lại nói rất khẽ với tôi:

-Địa hình này không thuận lợi cho du kích chiến; nhưng có quyết tâm và biết cách đánh thì dù khó khăn thế nào, cũng vượt qua được.

(Còn nữa)

dvt.vn