Thư viện

Tín tâm và quyết tâm

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài của Đảng ta luôn nhấn mạnh vai trò của việc quán triệt và thực hiện có hiệu quả nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng. Người coi tự phê bình và phê bình là “vũ khí sắc bén”, là “thang thuốc đặc trị” những căn bệnh nguy hiểm mà một số cán bộ, đảng viên mắc phải như tham ô, lãng phí, quan liêu …

Và để thang thuốc này thực sự có tác dụng, bên cạnh thái độ nghiêm túc, trung thực, Người còn đòi hỏi ở mọi người mà trước hết là ở từng cán bộ, đảng viên phải có tín tâm và quyết tâm trong thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Bác chỉ rõ: “Trong Đảng, nơi có một vũ khí mạnh nhất để khắc phục khó khăn là phê bình và tự phê bình. Nó là vũ khí sắc bén, dùng nó thì phải đau khổ. Mà đau khổ thì sẽ đi đến thành công. Mà muốn thành công thì phải tín tâm và quyết tâm”.

Tín tâm không gì khác chính là lòng tin. Lòng tin ở trong mỗi cán bộ, đảng viên. Đây là vấn đề rất quan trọng, đặc biệt là trong quán triệt, thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Bởi suy đến cùng tự phê bình và phê bình là quá trình tự đấu tranh không khoan nhượng diễn ra trong nội tại mỗi cán bộ, đảng viên; trong nội tại từng tổ chức, đơn vị: Đó là đấu tranh giữa cái tích cực với cái tiêu cực, giữa cái tốt với cái xấu, giữa cái tiến bộ với cái lạc hậu, giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể … Cuộc đấu tranh này diễn ra liên tục, gay go và quyết liệt vì nó trực tiếp liên quan tới lợi ích, tới thể diện và lòng tự trọng của mỗi người. Do đó, từng cán bộ, đảng viên chỉ có thể thực hiện tự phê bình và phê bình một cách có hiệu quả khi và chỉ khi họ có tín tâm, có lòng tin: Tin vào ý chí cố gắng, nghị lực phấn đấu của bản thân; tin vào tinh thần đấu tranh, tính chiến đấu của đảng viên và tổ chức đảng … Lòng tin là cơ sở thôi thúc họ vươn lên khắc phục khó khăn trong công tác, là động lực giúp họ tự đấu tranh và đánh bật những cái tiêu cực, lạc hậu ra khỏi bản thân mình, tổ chức mình

Song nếu chỉ dừng lại ở tín tâm, dừng lại ở lòng tin thì chưa đủ. Muốn thực hiện tự phê bình và phê bình một cách hiệu quả, cùng với tín tâm mỗi người còn cần phải có quyết tâm. Tín tâm là cơ sở của quyết tâm, nếu không có tín tâm thì không thể có quyết tâm được. Mục đích cuối cùng của tự phê bình và phê bình là gì? Đó chính là giúp cho từng cán bộ, đảng viên cũng như các cơ quan, tổ chức nhận rõ và khắc phục được những khuyết điểm, hạn chế mà mình đã mắc phải, để mọi người cùng nhau tiến bộ hơn, công tác tốt hơn. Để thực hiện được mục đích này hoàn toàn không đơn giản. Nó đòi hỏi mỗi người nhất là cán bộ, đảng viên phải có ý chí quyết tâm rất cao. Quyết tâm để tự chiến thắng chính mình, đấu tranh và loại bỏ những cái xấu, cái tiêu cực ở ngay trong chính con người mình; trong cơ quan, đơn vị mình.

Tín tâm và quyết tâm luôn có mối quan hệ khăng khít với nhau, đóng vai trò là những nhân tố quan trọng không thể thiếu để tiến hành tự phê bình và phê bình có hiệu quả. Tình trạng cán bộ, đảng viên ở một số cơ quan, tổ chức còn tự phê và phê bình một cách chung chung, hình thức chính là do họ chưa có đủ tín tâm và quyết tâm. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Có quyết tâm, tín tâm thì tiến bộ. Người kém tranh đấu thì thoái bộ”.

Quán triệt và thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4 Khoá XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, chúng ta đang đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng trên cơ sở nâng cao chất lượng thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Thiết nghĩ từng cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp trước hết cần làm tốt công tác giáo dục tư tưởng, xây dựng niềm tin, ý chí quyết tâm, xây dựng tín tâm và quyết tâm trong thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình ở mỗi cán bộ, đảng viên. Đây là cơ sở quan trọng, trực tiếp quyết định đến hiệu quả thực hiện tự phê bình và phê bình ở mỗi cơ quan, đơn vị, mỗi tổ chức đảng và trong toàn Đảng hiện nay.

Tạ Quang Đạo
daidoanket.vn

Chủ tịch Hồ Chí Minh và “quan hệ đặc biệt” Việt Nam – Lào

“Việt – Lào hai nước chúng ta; tình sâu hơn nước Hồng Hà – Cửu Long” (Hồ Chí Minh).

Khi nói về mối quan hệ nghĩa tình giữa hai Đảng, hai nước, hai dân tộc Việt Nam và Lào, Bác Hồ kính yêu của chúng ta – Người đã dày công vun đắp cho mối quan hệ Việt – Lào đã nhấn mạnh, đó là mối “quan hệ đặc biệt”. Và đúng như vậy, để nói cho hết về mối “quan hệ đặc biệt” ấy cần phải ngược dòng lịch sử, để lịch sử chứng minh cái nghĩa, cái tình và tấm lòng thủy chung, son sắt, sát cánh bên nhau của hai Đảng, hai dân tộc Việt – Lào trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung, giành độc lập cho dân tộc và cùng nhau xây dựng hòa bình, hướng tới tương lai hạnh phúc.

Chu tich HCM va quan hẹ VN-Lao

Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Cay-xỏn Phôm-vi-hẳn

Nền tảng của quan hệ Việt – Lào xuất phát từ quan hệ truyền thống lâu đời giữa hai nước láng giềng gần gũi, cùng chung sống trên bán đảo Đông Dương. Mối quan hệ truyền thống ấy trở nên “đặc biệt” từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện (sau này là Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào) trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng của hai dân tộc Việt Nam và Lào, cùng sát cánh bên nhau chiến đấu chống kẻ thù chung, xây đắp nên tình đoàn kết keo sơn, thuỷ chung, son sắt Việt – Lào.

“Quan hệ đặc biệt” trên nền tảng của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần cách mạng quốc tế cao cả.

Là một người yêu nước và là một người cộng sản với tinh thần quốc tế cao cả, ngay từ năm 1921, khi đấu tranh cho phong trào giải phóng “các dân tộc thuộc địa”, lên án chế độ hà khắc của các nước đế quốc đối với các dân tộc bị áp bức, Nguyễn Ái Quốc đã dũng cảm đứng lên tố cáo chế độ thực dân Pháp tại Đông Dương. Người đã mô tả nỗi khổ cực của nhân dân hai nước Việt – Lào trong chế độ bắt phu đi làm tạp dịch, làm đường tại Đông Dương của Pháp: Chúng không hề phân biệt ai là Việt, ai là Lào, mà chỉ coi là dân Đông Dương thuộc Pháp; nếu trốn đi phu hay nổi dậy chống lại đều bị bắn chết, những ai ốm đau đều phải gửi xác lại nơi “rừng xanh núi đỏ”. Trên các đoạn đường xuyên Đông Dương đều có xác phu Việt bên cạnh xác phu Lào. Người viết: “Ở Luông Pha-băng nhiều phụ nữ nghèo khổ thảm thương phải mang xiềng đi quét đường chỉ vì một tội không nộp nổi thuế”. Những tiếng nói đanh thép của Nguyễn Ái Quốc trong “Bản án chế độ thực dân Pháp” đã lột tả được cái tận cùng của sự tàn ác, vô lương tâm của chủ nghĩa đế quốc, lột tả nỗi đau đớn của những dân tộc bị áp bức và bị buộc làm nô lệ trong chế độ thực dân.

Trong những năm đầu thành lập Đảng và trong suốt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của cách mạng hai nước Việt – Lào, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi mối quan hệ đoàn kết Việt – Lào vừa là nghĩa vụ quốc tế, vừa là lợi ích sống còn của mỗi nước. Tại Hội nghị Trung ương tháng 10 năm 1930, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương đã xác định đường lối cách mạng của ba nước Đông Dương và khẳng định: Ba nước Đông Dương cần phải đoàn kết chống ách thống trị của bọn thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc… Sau Hội nghị, thực hiện tư tưởng chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một số đảng viên của Đảng từ Việt Nam và Thái Lan đã sang hoạt động xây dựng cơ sở cách mạng ở Lào, các Chi bộ cộng sản sau đó đã được thành lập ở Sa-va-na-khet, Tha-khek và Viêng Chăn. Tháng 9 năm 1934, Đảng bộ Đảng Cộng sản Đông Dương đã được thành lập tại Lào, chịu trách nhiệm lãnh đạo phong trào cách mạng Lào. Kể từ đó, cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân hai nước ngày càng phát triển trong tình đoàn kết chiến đấu, tạo nên sức mạnh chung để cùng tiến hành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám (Cách mạng Lào cũng đồng thời thắng lợi vào tháng 8 năm 1945), giành độc lập cho nhân dân.

“Quan hệ đặc biệt” trên tinh thần “giúp bạn là tự giúp mình”, coi trọng quyền dân tộc tự quyết cũng như tính độc lập, tự chủ cách mạng của mỗi nước.

Hiểu rõ về tầm quan trọng của mối quan hệ Việt – Lào trong sự nghiệp cách mạng của hai nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn: “Cách mạng Lào không thể thiếu sự giúp đỡ của cách mạng Việt Nam và cách mạng Việt Nam cũng không thể thiếu sự giúp đỡ của cách mạng Lào” và “Ta phải nhận thức rõ rằng, hai dân tộc anh em Miên, Lào được giải phóng, thì nước ta mới được giải phóng thực sự và hoàn toàn”. Để từ đó, với tinh thần “giúp bạn là tự giúp mình”, Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã cử hàng chục vạn con em yêu quý của mình sang công tác và phối hợp với quân và dân Lào chiến đấu tại các chiến trường của Lào, máu của biết bao anh hùng, liệt sỹ Việt Nam hòa quyện với máu của quân và dân Lào để đem lại thắng lợi vẻ vang cho hai dân tộc. Cũng với tình cảm đặc biệt ấy, Đảng, Chính phủ và nhân dân Lào đã dành phần đất của mình cho Việt Nam mở tuyến đường vận tải chiến lược cho chiến trường miền Nam (Đường Hồ Chí Minh) và với ý chí “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, lớp lớp các đoàn quân lên đường ra trận cùng nhân dân chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa Xuân 1975, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Thắng lợi quyết định ấy đã tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng Lào giành thắng lợi hoàn toàn và lập nên nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào ngày 2-12-1975. Khi nhận định về ý nghĩa thắng lợi của cách mạng Việt Nam năm 1975, đồng chí Cay-xỏn Phôm-vi-hản, Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Lào khẳng định “Do mối quan hệ khăng khít giữa cách mạng ba nước Lào, Việt Nam, Căm-pu-chia và với tính chất Đông Dương là một chiến trường, thời cơ khách quan do thắng lợi hoàn toàn của nhân dân hai nước anh em đem lại, nhất là của cách mạng Việt Nam, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với cách mạng nước ta (Lào)”. Điều thần kỳ lịch sử đó còn phải kể đến một trong những nguyên nhân cơ bản là hai Đảng đã lãnh đạo nhân dân hai nước luôn trân trọng và biết phát huy mối quan hệ đặc biệt Việt – Lào.

Thực tế lịch sử cho thấy, quan hệ đặc biệt Việt – Lào là kết quả của việc vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lênin của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh thực tiễn của cách mạng Việt Nam và Lào, là sản phẩm của việc kết hợp đúng đắn chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Trong khi giải quyết đúng đắn và sáng tạo mối quan hệ đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế, đề cao tình đoàn kết, sự ủng hộ và tương trợ lẫn nhau giữa các dân tộc bị áp bức trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng quyền dân tộc tự quyết cũng như tính độc lập, tự chủ cách mạng của mỗi nước. Theo Người “kháng chiến Việt – Miên – Lào là chung của chúng ta, là bổn phận của chúng ta. Việt Nam kháng chiến có thành công thì kháng chiến Miên, Lào mới thắng lợi và kháng chiến Miên, Lào có thắng lợi thì kháng chiến Việt Nam mới hoàn toàn thắng lợi”. Người khẳng định “Chính phủ, mặt trận và nhân dân Việt Nam ra sức hết lòng, thành thực giúp đỡ mặt trận nhân dân Lào, Miên một cách không có điều kiện”; “Mà giúp nước bạn tức là tự giúp mình” nên “phải ra sức giúp đỡ một cách tích cực, thiết thực hơn”. Trong quá trình giúp cách mạng Lào, Người chỉ rõ, khi giúp bạn, phải nắm vững nguyên tắc dân tộc tự quyết. Việc gì cũng phải đựơc Đảng và nhân dân Lào đồng ý rồi mới làm. Bởi vì, người làm nên lịch sử Lào không ai khác chính là nhân dân Lào, cách mạng Lào phải do nhân dân Lào tự làm lấy, sự nghiệp cách mạng Lào phải do Đảng Nhân dân cách mạng Lào lãnh đạo. Tại Hội nghị Trung ương III (khóa II), Hồ Chủ tịch nêu rõ: “cho đến nay chúng ta phải cố gắng giúp đỡ hơn nữa” và cũng từ đó, nhiệm vụ giúp đỡ cách mạng Lào ngày càng được tăng cường, quan hệ đoàn kết Việt – Lào càng thêm gắn bó, mật thiết.

Theo thời gian, mối “quan hệ đặc biệt” Việt – Lào được Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng và dày công vun đắp ngày càng được tăng cường và phát triển, trở thành động lực thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước. Đặc biệt từ khi hai nước thực hiện công cuộc đổi mới với nhiều khó khăn và thách thức, nhưng với truyền thống tốt đẹp của mối “quan hệ đặc biệt” và dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào, quan hệ giữa hai nước ngày càng được tăng cường, mở rộng và giành được những thắng lợi to lớn. Đó cũng là thành quả được kết tinh từ lịch sử, từ sứ mệnh mà hai Đảng, hai dân tộc đã chung sức, chung lòng, chung vai gánh vác qua những chặng đường đầy khó khăn, gian khổ của cuộc đấu tranh giành độc lập và giải phóng đất nước./.

Theo Tạp chí Xây dựng Đảng
Huyền Trang (st)
bqllang.gov.vn

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Hoàng thân Xuphanuvông.

Tháng 8 năm 1945, cả Đông Dương thuộc Pháp sôi sục khí thế cách mạng. Nhân dân Việt Nam, Lào và Campuchia đứng dậy giành chính quyền sau 100 năm sống dưới ách nô lệ của thực dân Pháp. Lúc này Hoàng thân Xuphanuvông đang sống ở thành phố Vinh để xây dựng cầu Yên Xuân bắc qua sông Cả. Ngày 2-9-1945, Bác Hồ đã cử ông Lê Văn Hiến vào mời Hoàng thân ra Hà Nội để bàn việc Liên minh Việt – Lào trong tương lai nhằm chống thực dân Pháp đang âm mưu trở lại xâm lược Việt – Lào.

Đây là lần đầu tiên Hoàng thân được tiếp kiến vị Chủ tịch của nước Việt Nam. Nhưng trước đó, lúc đang là sinh viên của Trường Đại học Quốc gia cầu đường của Pháp ở Paris, Hoàng thân đã được nghe tên và đọc sách, báo cách mạng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc viết. Hoàng thân ngưỡng mộ và kính trọng vị lãnh tụ Việt Nam đó cho đến khi được tiếp kiến Bác Hồ, Hoàng thân đã vui mừng biết được Nguyễn Ái Quốc chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh.

bh - hoanfg thnan
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Hoàng thân Xuphanuvông.

Những ngày ở Hà Nội, Bác Hồ và Hoàng thân thân thiết như người nhà. Hai vị cùng ăn cơm rau muống, muối vừng ngay trong nhà bếp và trải chiếu nằm ngủ bên nhau giữa sàn nhà.

Khi hai vị đã bàn bạc xong xuôi việc chuẩn bị kháng chiến chống thực dân, đế quốc thì Hoàng thân được điện của người anh ruột là Hoàng thân Phếtxarạt gọi về Lào để tham gia vào chính quyền cách mạng Lào mới được thành lập.

Mặc dầu sau Lễ Quốc khánh đầu tiên của Việt Nam, Bác Hồ rất bận nhưng vẫn lo chu đáo việc tiễn Hoàng thân trở về Lào. Bác đã giao cho Bí thư Xứ ủy, Chủ nhiệm Việt Minh Trung bộ Nguyễn Chí Thanh lập một đội giải phóng quân để hộ tống, bảo vệ Hoàng thân về Lào.

Theo dõi những diễn biến ở mặt trận Lào, Bác Hồ đã chỉ thị cho ông Nguyễn Đức Quỳ, đại diện ngoại giao của Việt Nam ở Thái Lan hết lòng chuẩn bị đón tiếp Hoàng thân và Liên quân lánh nạn qua đất Thái. Trong trận này Lê Thiệu Huy, Thư ký của Hoàng thân cùng vài chiến sỹ Việt Nam bảo vệ Hoàng thân đã hy sinh. Hoàng thân cũng bị thương nặng. Được Chính phủ Thái Lan và Thủ tướng Priđi Phnômyong giúp đỡ, nhân dân và liên quân Việt – Lào được cư trú và được chăm sóc trên đất Thái. Hoàng thân được đưa về Băng Cốc cứu chữa…

Sau khi bình phục, Hoàng thân đã tập hợp lại lực lượng khẩn trương mua sắm vũ khí, luyện tập quân sự… Việc chuẩn bị trở về Lào chiến đấu đang diễn ra thì các thế lực phản động Thái Lan do Pháp và Mỹ xúi giục, đã lật đổ Priđi Phnômyong, đưa Phibun Sôngkham lên làm Thủ tướng phản động, chống cộng điên cuồng, khủng bố Việt kiều và từ chối ủng hộ phong trào kháng chiến của nhân dân Lào.

Trong bối cảnh khó khăn đó, Bác Hồ đã phái ông Nguyễn Tử Quỳ đem một đội quân đi đón Hoàng thân. Đêm 18-11-1949, Hoàng thân cùng các cộng sự bí mật vượt sông Mê Kông từ Thái trở về Lào, được đội quân của Nguyễn Tử Quỳ đón tiếp, bảo vệ và hộ tống Hoàng thân về chiến khu Việt Bắc.

Những ngày ở Việt Bắc, Bác Hồ lại tiếp đón Hoàng thân như người bạn tâm đắc, lại cùng nằm chung trên sạp lán, cùng ăn chung cơm rau gian khổ ở chiến khu. Sau những lúc bàn bạc chuyện đánh Pháp, chống Mỹ giúp Lào trong công cuộc kháng chiến cứu nước, Bác Hồ và Hoàng thân lại cùng nhau đánh bóng chuyền, cùng ra ngồi câu cá thư giãn ven bờ suối; cùng chân đất vác cuốc đi trồng rau, trồng khoai tăng gia sản xuất.

Lần này, từ Việt Bắc trở về Lào, Hoàng thân cùng Đảng Nhân dân cách mạng Lào mở Đại hội thành lập Chính phủ kháng chiến và Mặt trận Lào yêu nước. Đại hội đại biểu của nhân dân các bộ tộc Lào đã bầu Hoàng thân Xuphanuvông làm Thủ tướng Chính phủ kháng chiến Lào, kiêm Chủ tịch Mặt trận Lào yêu nước.

Từ đó, Bác Hồ đã cử quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam qua giúp Lào cùng đánh giặc. Hoàng thân đã cùng nhân dân Lào chiến đấu đánh Pháp, chống Mỹ cho đến ngày giành lại được độc lập tự do hoàn toàn cho đất nước Lào.

Trong hai ngày 1 và 2-12-1975, Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc Lào tuyên bố xóa bỏ vĩnh viễn chế độ phong kiến lỗi thời, tiếp nhận đơn xin thoái vị của vua Lào để thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Đại hội đã bầu Hoàng thân Xuphanuvông làm Chủ tịch nước kiêm Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Tối cao và bầu ông Cayxón Phômvihãn làm Thủ tướng Chính phủ.

* * *

Mùa xuân năm 1990, tôi được Ủy ban Khoa học – Xã hội Lào mời đến Viêng Chăn để dịch cuốn sách “Hoàng thân Xuphanuvông – nhà lãnh đạo cách mạng” (do các lãnh tụ, chính khách, văn nghệ sĩ, trí thức trên thế giới viết về Hoàng thân Xuphanuvông) ra tiếng Việt.

Đây là những ngày tôi được sống gần gũi trong gia đình Hoàng thân, mới thấu hiểu tình cảm sâu đậm của Bác Hồ đối với Hoàng thân cũng như Hoàng thân và gia đình đối với Bác Hồ.

Sống trong nhà Hoàng thân, thường trong bữa cơm, lúc ngồi nghỉ ngơi bên bàn trà, Hoàng thân thường kể chuyện Bác Hồ cho chúng tôi nghe rằng, hồi ở chiến khu Việt Bắc, Hoàng thân đã cùng Bác Hồ chơi thể thao, tập thể dục, múa hát tập thể với cán bộ trong cơ quan; cùng tăng gia sản xuất, cuốc đất trồng rau.

Có một buổi sáng Hoàng thân dậy sớm và hỏi tiến sĩ Xinava (nay là Thứ trưởng Bộ Năng lượng – Khoáng sản) con út rằng: “Có nhớ hôm nay là ngày gì không?” Xinava thưa: “Ngày 19Tháng 5 – Ngày sinh của Bác Hồ”.

Con nhớ thế là tốt – Hoàng thân nói: Vậy thì các con đi mua trái cây ngon và hoa tươi về chúng ta cúng Bác Hồ.

* * *

Một hôm, Hoàng thân dẫn tôi vào phòng riêng chỉ tay vào bức tranh Bác Hồ ngồi với Lênin do ông tự tay vẽ bằng sơn dầu lên bức tường cạnh bàn viết của mình. Sau đó Hoàng thân xúc động chỉ từng món quà Bác Hồ tặng lúc ở Việt Bắc và Hà Nội, rồi lấy từ trong hòm ra từng thứ quà của Bác Hồ và nâng niu trên tay chiếc khăn phu-la len, xúc động nói: “Đây là chiếc khăn len Bác Hồ tặng trước khi Bác qua đời chưa đầy một tháng”.

Về sau này được gặp gỡ và làm việc với Bác Hồ nhiều lần, nhưng Hoàng thân vẫn nhắc lại cái buổi ban đầu bằng giọng bồi hồi: “Cuộc tiếp kiến lần đầu tiên với Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giúp tôi khẳng định dứt khoát phải theo đuổi sự nghiệp cách mạng, đến với Đảng Cộng sản và dấn thân vào công cuộc chiến đấu cứu dân, cứu nước Lào”…

Nhà văn Trần Công Tấn
Theo 
www.sggp.org.vn

Kim Y
ến (st)

Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đặt nền móng cho quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam

Trong lịch sử quan hệ quốc tế từ xưa tới nay, quan hệ Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam là quan hệ đặc biệt. Mối quan hệ đặc biệt ấy phát triển từ quan hệ truyền thống, do Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng nền móng và chính Người cùng đồng chí Kayxỏn Phômvihản, đồng chí Xuphanuvông và các thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước, nhân dân hai nước dày công vun đắp; đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trong quá trình tìm đường cứu nước của mình, Nguyễn Ái Quốc rất quan tâm đến tình hình tại Lào. Người không chỉ lên án chế độ thực dân Pháp nói chung mà còn tố cáo cụ thể sự tàn bạo của thực dân Pháp ở Lào. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên – tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp sáng lập đã gây dựng được cơ sở tại Lào. Thông qua hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Lào, Nguyễn Ái Quốc thấy đây là điều kiện thuận lợi để người Việt Nam vừa tham gia cuộc vận động cứu nước tại Lào, vừa sát cánh cùng nhân dân Lào xây dựng mối quan hệ đoàn kết khăng khít giữa Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã lập Hội Ái hữu, Hội Việt kiều yêu nước, mở các lớp huấn luyện cách mạng trên đất Lào.

Trên thực tế, từ nửa sau những năm 20 thế kỷ XX, Lào là một đầu cầu trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng cứu nước mới của Nguyễn Ái Quốc vào Đông Dương. Năm 1928, đích thân Người bí mật tổ chức khảo sát thực địa tại Lào càng cho thấy mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng Lào. Cũng trong năm này, Chi bộ Thanh niên cộng sản đầu tiên được thành lập tại Viêng Chăn, đồng thời đường dây liên lạc giữa nhiều thị trấn ở Lào với Việt Nam được tổ chức.

Chu tich HCM nguoi dat nen mongHướng dẫn nông dân nước bạn Lào thu hoạch lúa – Ảnh: Tư liệu 

Như vậy, Lào trở thành địa bàn đầu tiên trên hành trình trở về Đông Dương của Nguyễn Ái Quốc, nơi bổ sung những cơ sở thực tiễn mới cho công tác chính trị, tư tưởng và tổ chức của Người về phong trào giải phóng dân tộc ở ba nước Đông Dương. Quá trình Nguyễn Ái quốc đặt nền móng cho quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam báo hiệu bước ngoặt lịch sử trọng đại sắp tới của cách mạng Việt Nam cũng như cách mạng Lào.

Trong suốt quá trình lãnh đạo phong trào cách mạng, Đảng Cộng sản Đông Dương còn đề ra những chủ trương và giải pháp cụ thể chỉ đạo các cấp bộ đảng và phong trào cách mạng Đông Dương cũng như tăng cường mối quan hệ mật thiết, nương tựa lẫn nhau của hai dân tộc Việt Nam và Lào trên hành trình đấu tranh giành tự do, độc lập cho mỗi dân tộc.

Điều này thêm một lần nữa khẳng định quá trình chuẩn bị công phu về mọi mặt chính trị, tư tưởng, và tổ chức cho cách mạng Việt Nam, đồng thời với việc quan tâm xây dựng nhân tố bên trong cho cách mạng Lào, cả về phương diện tổ chức lẫn chỉ đạo thực tiễn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã thật sự tạo ra nền tảng hoàn toàn mới về chất cho lớp người cộng sản Đông Dương đầu tiên, bất luận họ là người Việt Nam, người Lào, hay là người Campuchia. Đây chính là nền móng vững chắc của quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam mà Nguyễn Ái Quốc là kiến trúc sư vĩ đại của tình đoàn kết đặc biệt đó.

Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời Hoàng thân Xuphanuvông đến Hà Nội. Cuộc gặp gỡ đã có tác động mạnh mẽ, quyết định đối với Hoàng thân trong việc chọn lựa con đường làm cách mạng.

Sau năm 1975, quan hệ Việt Nam và Lào bước sang trang mới: Từ liên minh chiến đấu chung một chiến hào sang hợp tác toàn diện giữa hai quốc gia có độc lập chủ quyền. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra như vũ bão, đẩy nhanh xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Do đó, các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam và Lào, đều có cơ hội và điều kiện thu hút vốn đầu tư, kinh nghiệm quản lý, sử dụng các thành tựu khoa học công nghệ của thế giới để đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế, xây dựng đất nước…

Đặc biệt, từ ngày 15 đến ngày 18/7/1977, Đoàn đại biểu cao cấp của Đảng và Chính phủ Việt Nam do Tổng Bí thư Lê Duẩn và Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu sang thăm hữu nghị chính thức Lào. Hai bên đã trao đổi ý kiến về các vấn đề quốc tế quan trọng mà hai bên cùng quan tâm, cũng như các vấn đề nhằm phát triển mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Đảng, Chính phủ và nhân dân hai nước, trên cơ sở đáp ứng nguyện vọng thiết tha và lợi ích sống còn của hai dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Ngày 18/7/1977, hai nước chính thức ký kết các Hiệp ước: Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào; Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào và ra Tuyên bố chung tăng cường sự tin cậy và hợp tác lâu dài giữa hai nước.

Từ đó đến nay, trung bình mỗi năm đã có trên 30 đoàn từ cấp trung ương đến cấp tỉnh sang trao đổi với nhau những kinh nghiệm về giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, về công tác tư tưởng, lý luận, công tác dân vận. Quan hệ giữa các Bộ, ban, ngành, đoàn thể, địa phương, nhất là các tỉnh biên giới kết nghĩa đều có những trao đổi hợp tác và mối quan hệ đó ngày càng đi vào chiều sâu với nội dung thiết thực và có hiệu quả./.

Theo Báo Quảng Trị online
Huyền Trang (st)

Hồ Chí Minh với cách mạng Lào

Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trong lịch sử xây dựng và bảo vệ đất nước, hai dân tộc láng giềng anh em Lào và Việt Nam cùng chung một kẻ thù và có chung một nguyện vọng thiết tha là sống trong hòa bình, độc lập và hữu nghị. Xét về lịch sử, Lào và Việt Nam có nhiều nét tương đồng, cùng sống trong một khu vực, cùng chung dãy núi Trường Sơn, cùng uống nước một dòng sông. Hai dân tộc Lào và Việt Nam nương nhờ vào nhau, giúp đỡ nhau như hai anh em ruột. Mối quan hệ láng giềng anh em đó bao giờ cũng thiết tha tình nghĩa và trong sáng tạo thành truyền thống quý báu, tạo thành sức mạnh và là nhân tố góp phần tạo nên thắng lợi của hai nước Lào và Việt Nam, điều này được các nhà lãnh đạo hai nước đánh giá và khẳng định.

Nhân kỷ niệm 120 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh mỗi chúng ta càng biết ơn và kính trọng Người. Chủ tịch Hồ Chí Minh – người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Đông Dương, tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, luôn quan tâm sâu sắc vấn đề giúp đỡ xây dựng, phát triển lực lượng, phát huy tinh thần độc lập tự chủ của cách mạng Lào, Người luôn là kim chỉ nam, là ngọn đuốc soi đường cho các thế hệ người Việt Nam cũng như nhân dân các bộ tộc Lào trong sự nghiệp cách mạng của mỗi nước.

Nhìn lại lịch sử của hai dân tộc Lào và Việt Nam trong công cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ: Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp đã xâm lược các nước Đông Dương Lào, Việt Nam và Campuchia. Như vậy, dưới ách thống trị của bọn thực dân, đất nước mất quyền độc lập, dân chủ, tài nguyên thiên nhiên đã bị khai thác và phá hoại.

Mặc dù, nhân dân ba nước Đông Dương bị đàn áp dã man, nhưng với tinh thần yêu nước cao cả, lòng căm thù giặc sâu sắc, nhân dân ba nước đã tiến hành cuộc đấu tranh kiên cường, dũng cảm. Ở Lào và Việt Nam cũng không ít liên minh chiến đấu của nhân dân hai nước. Chẳng hạn: Phong trào của ông Kẹoông Cômmạđăm, phong trào của Chạuphạ Pắtachay, Phò Kạđuột,… Các phong trào này đều có sự kết hợp với cuộc nổi dậy của người dân ở Tây Nguyên và Tây Bắc Việt Nam. Mặc dù các phong trào đấu tranh của nhân dân hai nước tiến hành một cách tự phát nhưng cùng bản chất là chiến đấu chống quân xâm lược để giành lại độc lập cho đất nước của dân tộc Lào và Việt Nam.

Trên hành trình tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc với lòng yêu nước nồng nàn đã từng bước đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, tiếp cận tư tưởng giải phóng của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Từ thực tế tình hình trong nước và các nước Đông Dương lúc đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định đường lối cứu nước, Người nói: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản1. Như vậy, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời năm 1930 do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, đã trở thành điểm khởi xướng, bước ngoặt trong tình đoàn kết và hợp tác giữa hai dân tộc, hai nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Chính tình đoàn kết thân ái là điều kiện căn bản cho cuộc thắng lợi của cách mạng hai nước. Người khẳng định: Thắng lợi của nhân dân Lào cũng là thắng lợi của nhân dân Việt Nam. Cũng như cố Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản luôn quan tâm nhắc nhở cán bộ, đảng viên, chiến sỹ và nhân dân các bộ tộc Lào phải giữ gìn tình đoàn kết, mối quan hệ thiết tha, tình nghĩa trong sáng thủy chung với mối tình thân ái thắm thiết mà các nhà lãnh đạo hai nước xây đắp. Trong hội nghị rút kinh nghiệm công tác tác chiến tại Lào ngày 21-9-1965 Chủ tịch nói: Nhìn lại lịch sử hai mươi năm đấu tranh vừa qua, bất kể trong hoàn cảnh nào, ở đâu, hai anh em Lào và Việt Nam chúng ta cũng luôn luôn sống chết có nhau, cùng nhau làm cách mạng. Thắng lợi của cách mạng Lào là thắng lợi chung của chúng ta. Hai anh em chúng ta đồng cam cộng khổ, bát cơm chia đôi, cọng rau bẻ nửa, sướng khổ có nhau, quan hệ giữa hai dân tộc chúng ta là quan hệ đặc biệt.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm sâu sắc về vấn đề giúp đỡ xây dựng và phát triển lực lượng, phát huy tinh thần độc lập tự chủ của cách mạng Lào, coi giúp đỡ Lào vừa là trách nhiệm vừa là nghĩa vụ và coi đây là một nội dung quan trọng nhất của tình đoàn kết và liên minh chiến đấu Việt – Lào. Nhân dân Lào cũng như nhân dân Việt Nam từ hoàn cảnh mất nước, chịu cảnh nô lệ, không được bình đẳng trong mọi lĩnh vực. Người còn khẳng định “Thắng lợi của nhân dân Lào cũng là thắng lợi của nhân dân Việt Nam”2Trong lần gặp làm việc đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản vị lãnh đạo kính yêu – người con yêu quý của nhân dân các bộ tộc Lào năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Người Việt Nam cũng như người Lào có nhu cầu cấp bách là phải đoàn kết đánh đuổi thực dân Pháp để cứu nước. Người Lào cần phải thành lập tổ chức người Lào kháng chiến, phải gây dựng cơ sở cách mạng trong nước, phải xây dựng lực lượng vũ trang là một trong những vấn đề quan trọng nhất.

Với sự hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau, cách mạng của hai nước đã từng bước giành được thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của nhân dân Việt Nam thành công đã tác động và tạo cơ hội thuận lợi cho cuộc khởi nghĩa tuyên bố độc lập của nhân dân Lào cho thế giới biết vào ngày 12-10-1945.

Trong cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược, đế quốc Mỹ là kẻ thù nguy hiểm và tàn bạo nhất của nhân dân Lào và Việt Nam cũng như của nhân dân yêu chuộng hòa bình và độc lập dân tộc trên thế giới. Đế quốc Mỹ có lực lượng quân đội thiện chiến, có vũ khí hiện đại, có âm mưu nham hiểm, xảo quyệt. Vì vậy, cuộc đấu tranh để giành thắng lợi của nhân dân Lào và Việt Nam đã trở thành sự nghiệp khó khăn, quyết liệt buộc nhân dân hai nước phải tiếp tục đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau chặt chẽ hơn nữa, đi vào chiều sâu và toàn diện vì sự sống còn của hai dân tộc, hai nước.

Thấy được trách nhiệm lịch sử đó, nhân dân hai dân tộc Lào – Việt Nam ngày càng tăng cường tình đoàn kết chiến đấu chặt chẽ, toàn diện và đa dạng hơn. Trên cương vị là người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng Cộng sản Đông Dương, Chủ tịch Hồ Chí Minh được sự tín nhiệm của những người cách mạng và nhân dân các bộ tộc Lào, Chủ tịch đã góp phần quan trọng vào quá trình phát triển của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Lào. Năm 1948 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đội xung phong vùng Lao Nửa với nội dung: “Việc thành lập khu căn cứ Lào độc lập là nhiệm vụ cấp bách; Ban lãnh đạo đội xung phong vùng Lao Nửa phải cố gắng xây dựng cơ sở nhân dân ở vùng địch tạm chiếm cho bằng được. Tôi xin chúc Ban lãnh đạo hãy nhanh chóng thành lập khu giải phóng dân tộc”. Như vậy, ngày 20-0l-1949 đã đi vào lịch sử của cách mạng Lào, đội Lạtsạvông đã được thành lập và trở thành lực lượng vũ trang cách mạng và đây là tiền thân của Quân đội Nhân dân Lào hiện nay. Sự ra đời của đội Lạtsạvông là sự giúp đỡ, chỉ đạo sát sao của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đã đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của cách mạng Lào. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao nghĩa vụ quốc tế giúp đỡ cách mạng Lào, coi đó vừa là trách nhiệm quốc tế, vừa là tự bảo vệ cách mạng Việt Nam. Người còn khẳng định trách nhiệm của cách mạng Việt Nam đối với việc giúp đỡ cách mạng Lào là “phải đề cao tinh thần hy sinh quốc tế”3. Thực tế đã chứng minh cho chúng ta thấy, tinh thần hy sinh quốc tế đó với sự hợp tác giúp đỡ lẫn nhau, vì sự sống còn của lực lượng quân đội hai nước trong sự nghiệp bảo vệ và phát triển vùng giải phóng của Lào cũng là một chiến trường quyết liệt, góp phần đấu tranh tiêu diệt kẻ thù, phân chia và hạn chế lực lượng của địch; với tinh thần hy sinh của quân tình nguyện Việt Nam, đã làm cho cách mạng Lào giành được thắng lợi này đến thắng lợi khác. Ví dụ: Chiến dịch Luổng Nậm Thà năm 1962; Chiến dịch Nậm Bạc, Phả Thi năm 1968; Chiến dịch Cụkiệt năm 1969… Các cuộc chiến đó đã thể hiện mối quan hệ, tình đoàn kết, sự hy sinh xương máu trong cuộc chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Mối tình đó được các nhà lãnh đạo cấp cao của hai Đảng sáng lập, giữ gìn, vun đắp ngày càng tốt đẹp như câu thơ của Bác Hồ ca ngợi tháng 3-1963 rằng:

”Thương nhau mấy núi cũng trèo,

Mấy sông cũng  lội, mấy đèo cũng  qua.

Việt Lào, hai nước chúng ta,

Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long”4.

Chủ tịch Hồ chí Minh còn đánh giá: Sự nghiệp cách mạng của hai dân tộc Việt Nam – Lào đặc biệt gắn liền và ảnh hưởng lẫn nhau. Cách mạng Lào không thể tách rời sự giúp đỡ của cách mạng Việt Nam và Cách mạng Việt Nam cũng không thể tách rời sự giúp đỡ của cách mạng Lào.

Như vậy, từ đầu năm 1951 tại Đại hội II, Đảng Cộng sản Đông Dương Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: ”Ở Lào cố gắng thành lập Đảng cách mạng, sau đó củng cố Đảng để Đảng có khả năng lãnh đạo cuộc cách mạng ở Lào, về phần Việt Nam luôn sẵn sàng ủng hộ và giúp đỡ các đồng chí Lào”. Cho nên từ năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mong muốn Lào có một chính Đảng để lãnh đạo cách mạng Lào giành độc lập dân tộc. Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã đề xuất việc đổi tên Đảng Cộng sản Đông Dương thành Đảng Lao động Việt Nam để lãnh đạo cách mạng Việt Nam và tạo thành tiền đề cho Đảng Nhân dân Cách mạng Lào được thành lập để lãnh đạo cách mạng Lào. Ngày 22-3-1955, với sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Nhân dân Lào đã chính thức ra đời do Chủ tịch Cayxỏn Phômvihẳn sáng lập và trực tiếp lãnh đạo. Với tư cách là Tổng Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản đã kết hợp chặt chẽ với Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng mối quan hệ, tình đoàn kết đặc biệt Lào – Việt Nam để Đông Dương trở thành chiến hào chung trong cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược. Như Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản từng nói: Số phận đã gắn bó hai nước chúng ta, nhân dân Lào sẽ làm hết sức mình để góp phần vào thắng lợi chung của nhân dân Việt Nam anh em. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng nhắc nhở rằng: Giúp đỡ bạn để bạn trưởng thành, không làm thay bạn. Đây là mục tiêu rất quan trọng được Hồ Chí Minh nhắc đi nhắc lại. Tư tưởng của Người là luôn tôn trọng độc lập dân tộc, quyền tự chủ của các bộ tộc Lào, giúp đỡ quốc tế đối với bạn Lào là vô cùng trong sáng, thủy chung, không tiếc xương máu và vật chất, giúp bạn phải làm sao cho bạn càng tin tưởng ở bản chất cách mạng và truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình. Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản khẳng định “Tư tưởng và tình cảm của Bác Hồ là ngọn đuốc soi đường, là nguồn cổ vũ sức mạnh đoàn kết đấu tranh của nhân dân các bộ tộc Lào chúng tôi. Từ ngày cách mạng Lào còn trứng nước cho đến lúc đã trưởng thành, Bác Hồ luôn luôn quan tâm dẫn đường chỉ lối”.

Vì vậy, với sự giúp đỡ của Việt Nam, cách mạng Lào đã thu được thắng lợi này đến thắng lợi khác, từ việc giành độc lập dân tộc trọn vẹn từ thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đến việc xây dựng một nước Cộng hòa dân chủ Nhân dân Lào phồn vinh. Cho đến nay với cách mạng Lào, với nhân dân các bộ tộc Lào, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn sống động, là kim chỉ nam, là ánh sáng ngời ánh hào quang, tỏa sáng hôm qua, hôm nay, mãi mãi về sau và được hai Đảng, hai Nhà nước vận dụng vào cuộc cách mạng trong từng giai đoạn nhất định để tiến lên xã hội chủ nghĩa.

Hiện nay, mối quan hệ hữu nghị truyền thống, tình đoàn kết đặc biệt và sự hợp tác toàn diện giữa Lào và Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản kính yêu gây dựng và vun đắp được phát huy và bảo vệ bằng sự hy sinh máu thịt của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân hai nước từ nhiều thế hệ đã và đang được củng cố và phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Đó là động lực, là quy luật của sự tồn tại và phát triển, là yếu tố đảm bảo thắng lợi của cách mạng mỗi nước chúng ta, là tài sản quý báu của nhân dân hai nước để muôn đời con cháu chúng ta kế tục mãi mãi.

Một lần nữa chúng tôi khẳng định rằng sẽ tiếp tục hợp tác với Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam anh em, sẽ làm hết sức mình để bảo vệ và phát huy quan hệ hữu nghị, tình đoàn kết đặc biệt và sự hợp tác toàn diện của hai nước. Đó chính là thể hiện lòng trung thành và tình cảm của mình đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản kính yêu, người đã gây dựng, vun đắp và giáo dục bồi dưỡng, chúng ta nâng niu mối quan hệ hữu nghị và tình đoàn kết đặc biệt hiếm có này. Mối quan hệ ấy sẽ kết trái đẹp tươi bội phần và trở thành tài sản vô giá không phai mờ, để lại cho con cháu chúng ta tiếp tục kế thừa và gìn giữ.

___________

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.9, tr.314.

2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.6, tr.514.

3. Kho Lưu trữ Trung ương: Phông Ban Chấp hành Trung ương khoá III, ĐVBQ 140.

4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.11, tr.44.

GS, TS. Kikẹo Khàykhamphithun
Ủy viên Trung ương Đảng, Giám đốc Học viện Chính trị và hành chính quốc gia Lào
Theo Báo Điện tử Đảng Cộng sản
Huyền Trang (st)
cpv.org.vn

 

 

 

Người cán bộ không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân

Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta thấy nổi bật lên tư tưởng lớn vì con người và sự chăm lo cho hạnh phúc của con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nêu cao vai trò và vị trí của con người. Người cho rằng con người không những là động lực của cách mạng, mà còn là đối tượng phục vụ của cách mạng. Nhưng khi nói tới con người là Chủ tịch Hồ Chí Minh nói ngay tới đạo đức của con người. Và Bác cho rằng: Đó là cái gốc của một con người, hơn nữa là của một con người cách mạng.

nguoi can bo khong co dao duc thi tai gioi2Chủ tịch Hồ Chí Minh trong phòng làm việc của Người ở Chiến khu Việt Bắc.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng, trong tác phẩm “Hồ Chí Minh một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp” đã viết:

“Trong luận điểm về cách mạng của Hồ Chí Minh, trung tâm là luận điểm về con người. Luận điểm về con người thể hiện ngay trong con người Hồ Chí Minh, con người lao động, con người cách mạng, con người của lý tưởng, con người của hành động, con người luôn luôn vươn lên phía trước.

Luận điểm về con người của Hồ Chí Minh là luận điểm về các tầng lớp nhân dân, nhất là nhân dân lao động, tin ở dân, dựa vào dân, bồi dưỡng sức dân, phát huy năng lực của dân. Lực lượng cách mạng theo Hồ Chí Minh là lòng dân, có lòng dân là có tất cả, mất lòng dân là mất hết”. Nước lấy dân làm gốc.

Hồ Chủ tịch đánh giá rất cao vai trò của con người, cũng vì thế Người đánh giá cao vai trò của cán bộ, đảng viên. Ngày 20 tháng 2 năm 1947, nói chuyện với cán bộ tỉnh Thanh Hoá, Người nói: “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người đem chính sách của Chính phủ, của đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được”.

Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” viết tháng 10 năm 1947, Bác viết: “Có cán bộ tốt việc gì cũng xong. Muôn việc thành công và thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém. Đó là một chân lý nhất định”.

Báo Sự thật số 77, trong bài “Cán bộ tốt và cán bộ xoàngBác lại viết: “Đi đến nơi nào có cán bộ tốt thì cảnh tượng tốt bày ngay ra trước mắt… Nơi nào cán bộ xoàng thì vùng đó đang ngủ say. Trên giấy thì cái gì cũng có. Nhưng sự thật thì việc gì cũng uể oải, lúi xùi”. Và cuối cùng Bác viết: “Cán bộ mà lên mặt quan cách mạng thì mọi việc đều lủng củng. Cán bộ mà biết làm cho dân tin, dân phục, dân yêu thì việc gì cũng mĩ mãn”.

Và rất nhiều lần khác, Bác đã nói với chúng ta, người cán bộ tốt phải là người có đạo đức cách mạng. Phải giữ vững đạo đức cách mạng mới là người cán bộ cách mạng chân chính. Người còn nói: “Mọi việc thành hay bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay là không”. Và Người nhấn mạnh “Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.

Vấn đề đạo đức cách mạng là một vấn đề lớn mà Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm hàng đầu trong việc giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân ta. Yêu quý con người, tin tưởng ở con người, nhưng Bác cũng luôn luôn đòi hỏi rất cao đối với con người. Ngay trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” viết từ năm 1927, một tác phẩm nhập môn của người cách mạng, Bác Hồ đã nêu lên 23 điều trong tư cách một người cách mạng, trong đó Người đã nói tới những đức tính cần kiệm, vị công vong tư, nói thì phải làm, phải biết hy sinh, ít lòng tham muốn về vật chất…

Sau Cách mạng Tháng Tám, trên Báo Cứu quốc ngày 12-10-1945, Bác lại viết: “Muốn được dân yêu, muốn được lòng dân, trước hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy, phải có một tinh thần chí công vô tư”.

Trên Báo Sự thật ngày 2-9-1947, Bác lại viết: “Muốn được dân tin, dân phục, dân yêu, cán bộ phải tự mình… siêng năng, tiết kiệm, trong sạch, chính đáng. Nếu không thực hành bốn điều đó, mà muốn được lòng dân thì cũng như bắc dây leo trời”, “Một hột gạo, một đồng tiền, tức là mồ hôi nước mắt của đồng bào. Vì vậy, ta phải ra sức tiết kiệm. Hoang phí là một tội ác. Có tiết kiệm, không hoang phí xa xỉ, thì mới giữ được liêm khiết, trong sạch. Nếu hoang phí xa xỉ, thì ắt phải tìm cách xoay tiền. Do đó mà sinh ra hủ bại, nhũng lạm, giả dối. Thậm chí là chợ đen, chợ đỏ, thụt két, buôn lậu. Có cần mới kiệm. Có cần, kiệm mới liêm. Có cần, kiệm, liêm mới chính”.

 

Tiết mục văn nghệ chào mừng Hội nghị tổng kết 3 năm Cuộc vận động sáng tác, quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí về chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” (Hà Nội, tháng 5-2011). Ảnh: Xuân Thu

Tại chiến khu Việt Bắc, trong tác phẩm “Sửa đổi lề lối làm việc” Bác lại dành hẳn một chương nói về “Tư cách và đạo đức cách mạng” để nói khá kỹ về tư cách của một Đảng chân chính cách mạng và đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên. Bác đã nêu rõ: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”, “Phải đem tinh thần yêu nước và cần, kiệm, liêm, chính mà dạy bảo cán bộ, đảng viên và nhân dân”, “Đảng không che giấu những khuyết điểm của mình, không sợ phê bình. Đảng phải nhận khuyết điểm của mình mà tự sửa chữa, để tiến bộ…”.

Đối với cán bộ, đảng viên Bác nói cần có 5 điều: Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm. Đó là đạo đức cách mạng. Bác chỉ rõ: “Trong Đảng ta còn có những người chưa học được, chưa làm được 4 chữ chí công vô tư, cho nên mắc phải chứng chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm, thí dụ những bệnh sau đây: Bệnh tham lam, bệnh lười biếng, bệnh kiêu ngạo, bệnh hiếu danh, thiếu kỷ luật, óc hẹp hòi, óc địa phương, óc lãnh tụ… và những bệnh khác: bệnh hữu danh vô thực, kéo bè kéo cánh…”.

Đặc biệt những năm cuối đời, biết mình sắp sửa phải đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại càng thể hiện sự lo lắng của Người, mối quan tâm sâu sắc của Người đối với Đảng ta, đất nước ta, nhân dân ta, và nhất là cán bộ, đảng viên ta.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng có lần đã viết: “Xem một đôi bức ảnh Hồ Chủ tịch, có người nói mắt Người có hai con ngươi và tin rằng vì chỗ đó, Người là một ông Thánh. Làm gì có chuyện hoang đường như thế! Mắt Hồ Chủ tịch cũng như mắt mọi người, nhưng sáng hơn mắt mọi người nhiều lắm vì Người biết nhìn, nên nhìn thấy những cái mọi người không nhìn thấy: Hiện tại, tương lai, cái nhỏ, cái to…”.

Và chính vì tầm nhìn sâu xa ấy, mà Bác đã dặn lại chúng ta những điều tâm huyết, đặc biệt trong tác phẩm: “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” và trong Di chúc của Người. Đây là những tác phẩm có giá trị không chỉ cho những thế hệ hôm nay, mà còn cho những thế hệ mai sau để tiếp tục cuộc hành trình lịch sử của mình.

Song, học Hồ Chủ tịch khó hay dễ? Và chúng ta có thể học được tấm gương đạo đức của Bác hay không? Điều này thì Thủ tướng Phạm Văn Đồng, gần 60 năm trước đã trả lời rồi: “Học Hồ Chủ tịch thực ra dễ lắm, vì những điều Hồ Chủ tịch dạy chúng ta đã sẵn có trong tâm hồn, trong trí óc. Chúng ta hãy hồi tỉnh lại, chúng ta sẽ thấy hiểu Hồ Chủ tịch hơn nhiều và làm những điều Hồ Chủ tịch dạy sẽ không khó nữa” (Hồ Chủ tịch hình ảnh của dân tộc Việt Nam  Tháng 8-1948).

Còn Bác Hồ thì nói với chúng ta: “Người đảng viên, người cán bộ tốt, muốn trở nên người cách mạng chân chính, không có gì là khó cả. Điều đó hoàn toàn do lòng mình mà ra. Lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào, thì mình sẽ tiến đến chỗ chí công vô tư. Mình đã chí công vô tư thì khuyết điểm sẽ càng ngày càng ít, mà những tính tốt ngày càng thêm ra”.

Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã đi xa, nhưng Người đã để lại cho chúng ta một di sản vô cùng quý báu, đó là tư tưởng Hồ Chí Minh và một tấm gương đạo đức cách mạng sáng ngời.

Nguyên Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân khi vào thăm khu nhà Bác ở, đã ghi vào sổ cảm tưởng 10 chữ: “Một cuộc đời cách mạng – Một tấm gương liêm khiết”.

Nhà thơ Chế Lan Viên đã viết:

“Ôi giữa lòng ta Bác đến tự bao giờ
Bác vĩ đại nhưng chẳng làm ai kinh ngạc
Mỗi buổi sáng, nhìn lòng ta, ta thấy Bác
Nước mắt ràn, ta cảm hết ơn sâu…”

Một nhà thơ miền Nam lại viết Hãy suy nghĩ về Người, để mà yêu đất nước nghe con”.Học và làm theo Bác là công việc suốt đời. Nhớ Bác, học và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cũng là để chúng ta xây dựng Đảng ta trở thành một Đảng đạo đức và văn minh, như Bác hằng mong muốn./.

Theo Bùi Công Bính/Báo Nam Định online
Huyền Trang (st)

Tên Người là cả một niềm thơ

Trong cuộc đời sáng tác của nhiều nhạc sĩ, có được một ca khúc hay về Bác Hồ thực sự là một niềm tự hào. Bởi, nói như nhà thơ Cu Ba Phêlic Pita Rôđờrigết thì “Hồ Chí Minh, tên Người là cả một niềm thơ”. Dưới đây là tâm sự của các nhạc sĩ Cao Việt Bách, Văn Dung, Đăng Nước về những tác phẩm: “Tiếng hát từ thành phố mang tên Người”, “Những bông hoa trong vườn Bác”, “Chúng con bên giấc ngủ của Người”.

tho1

            Nhạc sĩ Cao Việt Bách: “Bác như đang hiện diện trong ngày vui”

tho2

            Ngay sau ngày đất nước toàn thắng, nhà báo Đăng Trung mang “khoe” với tôi bài thơ “Tiếng hát từ thành phố mang tên Người” anh vừa sáng tác  dựa trên cái tứ “Ai vô thành phố Hồ Chí Minh rực rỡ tên vàng” của nhà thơ Tố Hữu và sự kiện năm 1911, Bác ra đi tìm đường cứu nước. Tôi và nhà báo Đăng Trung đã bàn với nhau và cùng quyết tâm “Phải có một cái gì về sự kiện trọng đại này”…

Ngay hôm sau, tôi đem đến anh bản thảo ca khúc “Tiếng hát từ thành phố mang tên Người” hoàn chỉnh. Cả hai chúng tôi đã ôm chầm lấy nhau và hát vang: “Thành phố Hồ Chí Minh/ Ngời ngời rực sáng tương lai /Trong mỗi trái tim, trong mỗi ước mơ, trong mỗi cuộc đời ta luôn có Bác“… Hình ảnh Bác Hồ như đang hiện diện trong ngày vui đại thắng. Nhạc phẩm “Tiếng hát từ thành phố mang tên Người” đã vang trên làn sóng Đài Tiếng nói Việt Nam vào những ngày đầu tháng 5 năm 1975, mau chóng được đông đảo thính giả cả nước đón nhận.

Năm 1977, đoàn ca nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam lần đầu tiên trình diễn tác phẩm này trên sân khấu Nhà  hát Thành phố Hồ Chí Minh. Dàn hợp xướng có tới 160 người. Khán phòng chật cứng người nghe. Bỗng tất cả khán giả đứng hết cả lên, đồng thanh hát cùng  dàn hợp xướng. Tôi cảm động quá, đứng trên bục chỉ huy tôi quay hẳn người lại, bắt nhịp cho khán giả. Tiếng hát của cả ngàn người hòa cùng dàn hợp xướng vang ngân… Đây có lẽ là bản giao hưởng hợp xướng đông người tham gia nhất, hùng tráng nhất trong cuộc đời làm nhạc trưởng của tôi. Tôi đánh nhịp cho mọi người mà nước mắt cứ trào ra…

Có lẽ cảm xúc về lần biểu diễn ấy tôi sẽ không bao giờ quên.

Nhạc sĩ Văn Dung: Mỗi người hãy là một bông hoa đẹp

tho3

Nhạc sĩ Văn Dung chia sẻ, sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, cũng như bao nhạc sĩ khác, với niềm kính yêu và tiếc thương Bác vô hạn, ông đã sáng tác những ca khúc chứa chan tình cảm về Bác như “Tên Người sáng mãi niềm tin” (năm 1969), “Tiếng Người nói ngày ấy” (năm 1975)… Những ca khúc này đều được bạn bè đồng nghiệp và khán thính giả cả nước đánh giá cao. Nhưng không hiểu sao ông vẫn cảm thấy lòng trĩu nặng như đang mắc nợ một điều gì đó. Những suy nghĩ ấy cứ đau đáu trong ông, lúc bảng lảng, lúc lại trỗi dậy mạnh mẽ.

Năm 1970, khi bắt tay viết ca khúc “Hành khúc thanh niên cộng sản”, hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Người trồng hoa vĩ đại” cũng được nhắc qua hình ảnh “Vinh quang thanh niên được Bác chăm lo như rừng hoa lớn lên dưới cờ cách mạng”. Và cũng từ đó, ý tưởng “Mỗi người hãy là một bông hoa đẹp” cứ đeo đuổi ông.

Một buổi tối năm 1977, như thường lệ, nhạc sĩ Văn Dung lấy sách ra đọc, nhưng đọc mãi mà không thấy chữ, chỉ “nghe” thấy nhạc. Nhạc sĩ liền lấy giấy ra ghi lại những điều mà mình “nghe” thấy. Và những giai điệu cùng ca từ của “Những bông hoa trong vườn Bác” cứ thế ào ạt tuôn trào: “Những bông hoa trong vườn Bác/ Tỏa ngát hương mang tình yêu mênh mông của Người“. Ông thực tình không lý giải nổi điều kỳ lạ này. Ông không ngờ rằng vào lúc ông cảm thấy việc viết một ca khúc về Bác hình như không thể thực hiện được thì bài hát lại ra đời. Ca khúc được viết chỉ trong một giờ đồng hồ. Có lẽ đó là rất nhiều cảm xúc của ông đã được dồn nén từ lâu, để một ngày “chưng cất” thành những giai điệu bay bổng. Chỉ sau khi giai điệu cuối cùng của bài hát kết thúc, ông mới thấy nhẹ lòng trở lại, những day dứt lâu nay dường như đã được giải tỏa.

Người đầu tiên thể hiện ca khúc “Những bông hoa trong vườn Bác” là nghệ sĩ Tuyết Nhung của Đoàn Ca nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam. Bài hát ngay sau khi ra đời đã nhận được sự khen ngợi và tình yêu mến của khán giả.

Theo nhạc sĩ Văn Dung tâm sự, trong bài hát, ông không dùng nhiều từ gắn với tên Hồ Chủ tịch nhưng người nghe vẫn thấy hình ảnh Bác đọng lại, gợi niềm nhớ thương Bác khôn nguôi. Không chỉ có vậy, ông còn gửi gắm ý nghĩa sâu sắc qua những ca từ: “Mỗi mùa hoa, một mùa yêu thương/ Mỗi màu hoa, một màu yêu thương/ Gợi nhớ về bao nhiêu kỷ niệm“. Thông điệp của ông là: Chúng ta hãy trân trọng mọi cái hay, cái đẹp, làm sao để mỗi chúng ta là một mùa xuân của quê hương, đất nước.

            Nhạc sĩ Đăng Nước: “Bài hát được phổ biến rộng rãi đúng như điều tôi ước đoán”

tho4

Năm 1972, khi vừa vào học Nhạc viện Hà Nội được 3 tháng, cậu sinh viên Nguyễn Đăng Nước nhận được giấy báo nhập ngũ. Vậy là Đăng Nước lên đường, trở thành chiến sỹ của Trung đoàn Công Binh Hải Quân đóng tại Quảng Nam. Nhưng chàng thanh niên này không “xếp bút nghiên” mà đem theo giáo trình âm nhạc để tự học.

Tháng 5 năm 1976, Trung sĩ Nguyễn Đăng Nước được nghỉ phép về thăm nhà và được cùng cha là Thiếu tá Công an Nguyễn Đăng Chè vào Lăng viếng Bác. Từ tình cảm dành cho Bác dồn nén trong tim và niềm xúc động khi nhìn Đoàn đại biểu nhân dân vào Lăng viếng Bác, ngay tối hôm đó, về khu tập thể của Bộ Nội vụ (cũ) ở ngõ Chiến Thắng, Khâm Thiên (Hà Nội), nhạc sĩ Đăng Nước đã viết xong lời 1 của ca khúc “Chúng con bên giấc ngủ của Người”.

Hôm sau, Đăng Nước phải về quê Hưng Yên – nơi mẹ anh và những người thân trong gia đình đang ngóng đợi sau 4 năm xa cách. Tại đây, anh bắt tay viết tiếp lời 2. Khi trở lại Hà Nội, Đăng Nước đã đem bài hát đến Báo Công an nhân dân (cùng ở trong ngõ Chiến Thắng) hát cho các bác trong phòng cùng nghe. Ai cũng khen bài hát rất hay và xúc động, nhưng mọi người đều chung cảm nhận là hình như nó vẫn thiếu một cái gì đó.

Vậy là đêm đó, Đăng Nước đã suy nghĩ rất lâu và cuối cùng thay một nốt nhạc để đoạn cuối bài hát vút lên: “Cháu con đời đời bên Bác/ Bác ơi Bác ngủ ngon lành” như lời khẳng định Bác mất đi nhưng sự nghiệp của Người còn mãi. Bài hát hoàn thành, bằng linh cảm của một nghệ sĩ, Đăng Nước biết rằng nó sẽ được phổ biến rộng rãi. Báo Công an nhân dân là nơi đăng bản nhạc này và ngay sau đó Đài Tiếng nói Việt Nam đã cho dàn dựng.

Cho đến tận bây giờ, Đăng Nước vẫn còn một niềm trăn trở, đó là các ca sĩ Việt Nam khi thể hiện bài hát vẫn nghiêng nhiều về tình cảm bi thương, về nỗi đau mất mát khi Bác ra đi, trong khi điều nhạc sĩ muốn gửi gắm đó là một nỗi niềm “khỏe khoắn” hơn. Có lẽ, trong hàng trăm ca sĩ đã thể hiện bài hát này, nhạc sĩ Đăng Nước cảm thấy hài lòng nhất với phần thể hiện của cố Nghệ sỹ nhân dân Lê Dung./.

Theo: CAND
Kim Yến (st)

Nhà thơ châm biếm tài ba

Bác Hồ làm thơ châm biếm, đả kích chủ yếu nhằm vào kẻ thù, với một giọng văn sắc sảo, sâu cay…

Nhiều người biết Bác Hồ là nhà thơ lớn, nhưng lâu nay phần nhiều mới biết qua thơ trữ tình và chính luận, mà chủ yếu là qua “Nhật ký trong tù” và thơ chúc Tết, mừng Xuân; còn mảng thơ nữa, cũng khá độc đáo và tác động mạnh đến người đọc, người nghe là thơ châm biếm, đả kích thì còn ít người biết.

Bác Hồ làm thơ châm biếm, đả kích chủ yếu nhằm vào kẻ thù, với một giọng văn sắc sảo, sâu cay. Đáng chú ý là những bài Bác viết vào những năm trước và sau Cách mạng Tháng Tám 1945 ít lâu.

Có lẽ Bác Hồ viết bài thơ châm biếm, đả kích đầu tiên bằng tiếng Việt là bài “Tặng thống chế Pê-tanh”, đề ngày 11-7-1942. Dưới ngòi bút đả kích của Bác Hồ, tên thống chế của nước Pháp bại trận hồi ấy chẳng khác gì tên bù nhìn dưới ách chiếm đóng tàn bạo của Đức quốc xã. Lên nắm quyền trong bối cảnh nước Pháp đang lâm vào: “Vận mệnh Lang-sa lúc chẳng lành”, nên Pê-tanh có là tướng tài đi chăng nữa thì cũng chỉ là: “Pê-tanh lão tướng hoá hôi tanh”. Hai chữ “hôi tanh” làm người ta nghĩ ngay đến cảnh cá nằm trên thớt, chết đến nơi rồi, còn thống chế gì nữa. Nhưng mới chỉ đọc hai câu mở đầu ấy cũng chưa thấy hết cái hèn, cái nhục của tên tướng này, mà phải đọc hai câu sau mới thấy rõ: “Cúi đầu, quỳ gối, hàng quân Đức/ Trợn mắt, nhăn mày, chửi nước Anh”. Hai câu song thất (7 chữ) với những cặp từ hai chữ đối nhau chan chát: cúi đầu/ trợn mắt; quỳ gối/ nhăn mày, đọc đến đây thấy hiện rõ tên thống chế nhu nhược, vô tích sự. Thế nên, khi nhà thơ châm biếm hạ hai câu kết: “Già mà như chú, già thêm dại/ Tiếng xấu muôn đời nhuốc sử xanh” thì thật chí lý. Sau bài “Tặng thống chế Pê-tanh” lại là một bài “tặng” nữa: “Tặng toàn quyền Đờ-cu”, một tên đô đốc hải quân vừa được chính phủ Pháp bổ nhiệm làm toàn quyền Đông Dương, dưới gót giày của quân phiệt Nhật, mà ngay câu mở đầu, nhà thơ châm biếm đã không kiêng nể “ngài toàn quyền”- như cách gọi của kẻ xu nịnh thời ấy- chỉ thẳng vào mặt, gọi mà như chửi “bố thằng cu” (hay “bố thằng Đờ-cu” thì cũng thế) theo cách nói thông thường của dân ta: “Non nước Rồng Tiên rõ mịt mù/ Lợi quyền phó mặc bố thằng cu”. Sau hai câu thơ vạch mặt ngài toàn quyền: đối với dân Việt Nam thì lên mặt; còn đối với bọn Nhật thì quá nhu nhược “chỉ đội khu” (hay đội cái “khu đen”, theo cách nói dân gian thì cũng thế). Một “ngài toàn quyền” mà như thế thì: “Về Pháp, không cơm, e chết đói/Ở đây, hút máu, béo ni nu”, thì đúng là con chó con lăng xăng bên bọn phát xít Nhật để làm hại dân ta, chứ đâu còn là “ngài toàn quyền” nữa.

Sau Cách mạng Tháng Tám, thơ châm biếm, đả kích của Bác là những đòn trực diện chỉ mặt, vạch tên, chứ không ví von, bóng gió gì nữa. Hãy xem nhà thơ châm biếm tài ba bắt mạch căn bệnh cho tên bại tướng Pháp ở Đông Dương năm 1952: “Tướng giặc Tátxinhi/ Tháng trước về Pari/ Rồi thì nó khai ốm/ Không biết ốm bệnh chi?”. Còn “bệnh chi?” nữa, nhà thơ khẳng định dứt khoát là “nó ốm đòn”! Rồi kể luôn những trận đòn của quân ta mà Tátxinhi phải hứng chịu: “Chiến dịch Quang Trung/ Tát thua lung tung/ Chiến dịch Đề Thám/ Tát thua mặt xám/ Trận Lý Thường Kiệt/ Tát thua tê liệt/ Chiến dịch Hoà Bình/ Tát khoe khoang rinh/ “Phen này Pháp thắng/ Thật là hiển vinh”/ Kỳ thực Tát đã/ Mất mười ba dinh” (tiểu đoàn). Đến đây thì không còn gì để bắt mạch căn bệnh tên bại tướng nữa, mà chỉ còn cách: “Tát đã ốm đòn/ Vì ta luôn thắng/ Tát phải vào hòm”. (Theo cách hiểu dân gian “hòm” là áo quan, cũng có nghĩa Tát chết đi cho rồi, chứ còn sống làm gì nữa). Thơ châm biếm, đả kích của Bác Hồ mang tính trào lộng, thâm thuý, mà thật sâu cay.

Còn đối với tên đại tướng Na-va, kẻ ngay khi đặt chân sang Đông Dương đã khoe khoang “bình định Đông Dương mười tám tháng”, thì trong bài thơ viết theo thể năm chữ phá cách, ngay từ cái tên bài Bác đã vụt cho tên tướng này một roi: “Kế hoạch Na-va đầu voi đuôi chó”. Liền đó, nhà thơ không ngần ngại lột tả sự khoác lác của Na-va khi mới đặt chân sang Việt Nam bằng cứ liệu chính xác: “Hôm 15 tháng 10/ Giặc Na-va gầm thét/ Hắn mở trận Mu-nét/Hòng đánh chiếm Nho Quan/Phái 20 tiểu đoàn/ Hòng đánh chiếm Thanh Hoá/Hắn tuyên truyền bậy bạ/ “Trận này cực kỳ to/ Không có gì gay go”. Đúng như câu thành ngữ: “Cái thùng rỗng là cái thùng kêu”, quân đội viễn chinh Pháp tuy binh hùng khí mạnh, nhưng đấy là một đội quân xâm lược, phi nghĩa, nên dẫu quân đông và được trang bị vũ khí tối tân đi chăng nữa cũng cứ phải chịu thất bại trước sức mạnh đại đoàn kết và chính nghĩa của quân dân ta: “20 ngày ròng rã/ Diệt chúng gần 4 ngàn/ Kế hoạch Na-va tan/ Thành đầu voi đuôi chó”. Đọc đến đây, ta như bật lên tiếng cười reo khoái chí, không chỉ ở thắng lợi to lớn của quân ta, mà còn ở thắng lợi trong cách chơi chữ của nhà thơ châm biếm tài ba. Bởi lâu nay, trong dân gian thường nói “đầu voi đuôi chuột”, để tạo đối trọng giữa loài đầu to với loài đuôi bé, mà có lẽ đơn thuần là ám chỉ kẻ khoác lác, nói thì nhiều, làm thì ít, “mười voi không được bát nước xáo”. Nhưng ở đây, nhà thơ lại ví đầu voi với đuôi chó thì thật là thâm thuý, sâu cay, lại mang tính trào lộng cao. Bác Hồ ví kế hoạch của Na-va như “Đầu voi đuôi chó” là cả một dụng ý làm tăng tính đả kích mạnh mẽ.

Gần như cả cuộc đời, Bác Hồ đã tung hoành cây bút của mình trên nhiều thể loại văn học, báo chí mà những gì giới thiệu ở bài viết này về thơ châm biếm, đả kích của Người chỉ là một phần trong kho tàng văn học mà nhà thơ lớn Hồ Chí Minh để lại cho cháu con hôm nay và mãi mãi mai sau.

Thơ châm biếm, đả kích của Bác Hồ có nội dung tư tưởng rõ ràng, súc tích, mang tính chiến đấu cao, chân thực, kịp thời nhưng vẫn bảo đảm tính điển hình hóa của văn học. Chất châm biếm, đả kích vừa sâu sắc trong nội dung, vừa thâm thuý trong ý tứ, câu chữ.

Theo CAO NĂM
Báo Hải Dương online
Huyền Trang (st)
bqllang.gov.vn

Nhân đọc bài “Bác bỏ bộ phim tài liệu xuyên tạc về Hồ Chí Minh” của NS Đào Trọng Khánh

Nhân đọc bài “Bác bỏ bộ phim tài liệu Sự thật Hồ Chí Minh xuyên tạc về Hồ Chí Minh”, xem phim “Hồ Chí Minh – bí ẩn Việt Nam” và phim “Việt Nam – Hồ Chí Minh”, chúng tôi xin trích đăng các bài viết liên quan và nêu cảm nhận của mình về những vấn đề liên quan để quý vị và bạn đọc nhận rõ bản chất của những hành động, luận điệu xuyên tạc của những kẻ nhân danh “Sự thật” để làm những việc “Trái sự thật”.

1. Năm 2009, một nhóm người lưu vong ở hải ngoại đã thực hiện bộ phim tài liệu “Sự thật về Hồ Chí Minh,” xuyên tạc lịch sử về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trước những hình ảnh nghèo nàn, chắp vá và những luận điệu vu cáo của những kẻ thực hiện bộ phim, Đạo diễn –  Nghệ sỹ nhân dân Đào Trọng Khánh đã có bài viết bình luận, bác bỏ những luận điệu sai trái trong bộ phim tài liệu trên. Báo điện tử VietnamPlus xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết trên:

Con người hãy cảnh giác!” Câu nói đó lại vang lên trước luận điệu vu cáo, xuyên tạc lịch sử của những kẻ thực hiện bộ phim tài liệu “Sự thật về Hồ Chí Minh.” Một bộ phim không có giá trị về mặt tư liệu bởi những hình ảnh nghèo nàn, chắp vá, được sử dụng tùy tiện để minh họa cho lời dẫn.

Những hình ảnh tàn sát trong phim là những bức ảnh và phim về tội ác của thực dân Pháp và xâm lược Mỹ đối với nhân dân Việt Nam trong những trận càn quét, được đem gán cho những người kháng chiến yêu nước, những chiến sỹ Cộng sản. Các tác giả phim đã “khôn khéo” lờ đi xuất xứ và nguồn gốc thực sự của những hình ảnh đó. Một dàn nhân vật “chống cộng” điên cuồng được dựng lên làm cái loa phát thanh trong những đoạn phỏng vấn trơ trụi, không có hình ảnh minh họa, không có tính điện ảnh, thường gọi là Radiofilm – loại phim chỉ có lời, giống như radio.

Với âm nhạc và cách mở đầu theo kiểu phường tuồng, bộ phim dựng một màn chữ dẫn lời của Stéphane Coustois: “Người ta bảo lịch sử là khoa học về sự bất hạnh của nhân loại, thế kỷ bạo lực đẫm máu mà chúng ta sống đã xác nhận câu nói đó một cách rộng rãi.” Sự thật lịch sử không phải chỉ là như vậy. Những nỗ lực và sáng tạo, những phấn đấu không ngừng cho sự tiến bộ, đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân loại, là những điều cơ bản từ những bước đi thần kỳ của lịch sử trên tình thần nhân văn cao cả, trong đó có sự hy sinh không tiếc thân của những nhà cách mạng trên toàn thế giới. Cách đặt vấn đề mập mờ, phiến diện mang màu sắc bi thảm, đen tối dẫn đến cách diễn giải nội dung bộ phim cũng không ngoài những nhận thức sai lệch một chiều.

Thật vớ vẩn khi một dàn “các nhà quan tâm” phát biểu một cách trầm trọng về ngày sinh và mất của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một sự thật đã được Việt Nam chính thức công bố. Vũ Ngự Chiêu, Trần Gia Phụng nhấn mạnh vào bức thư của Nguyễn Tất Thành, xin học ở trường Pháp năm 1912. Đừng quên đó là thời kỳ “tìm mọi con đường để có thể giúp dân, giúp nước” của Nguyễn Tất Thành. Đó là “từng bước, con người đến với chân lý,” cũng như sau này, tìm ra con đường giải phóng dân tộc.

Sống giữa xã hội tư bản, không hiểu được hoạt động của những nhà cách mạng, nên Sophic Quinn Judge đoán mò về quan hệ của Chủ tịch Hồ Chí Minh với những người phụ nữ như với nhà cách mạng nổi tiếng Nguyễn Thị Minh Khai. “Hình như có chuyện gì đó giữa hai người“, bà Quinn nói. Đó không phải là cách làm việc của những nhà nghiên cứu. Thao tác của những nhà nghiên cứu không có “hình như.” Chi tiết trong trường đoạn này là đơm đặt và đưa chuyện. Khó có thể tin cậy vào những tiến sỹ như kiểu Vũ Ngự Chiêu “Nhiều năm miệt mài trong những văn khố ngoại quốc” chỉ vì những chuyện ngồi lê đôi mách, chuyện riêng tư của những người khác, không liên quan đến lịch sử.

Sự vu cáo có thể trầm trọng hơn nếu họ phải đối chứng với cơ quan luật pháp ở bất cứ nước nào, đó là trường hợp của Vũ Thư Hiên, Nguyễn Minh Cầm, Bùi Tín trong chuyện bà Nông Thị Xuân. Người ta không làm bởi không muốn làm buồn lòng những người đã khuất, kể cả cụ Vũ Đình Huỳnh là thân sinh ra nhà văn Vũ Thư Hiên.

Khi biên soạn những tư liệu về Chủ tịch Hồ Chí Minh, tôi có dịp được xem bản gốc tập thơ “Nhật ký trong tù” cũng không để ý đến dòng chữ Bác ghi thêm ở ngoài bìa: 1923-1933. Sau nhiều năm có người quan tâm đến chuyện này, ông Nguyễn Huy Hoan – Phó Giám đốc Bảo tàng hồi ấy nói rằng: “Người ta không hiểu nên cứ hay suy diễn. Ông cụ ghi thế là nhắc đến cái đại hạn 10 năm theo cách tính của cụ, không phải là thời gian ra đời của tập thơ.”

Chuyện nhà thơ Paven Antôncônxki – người đã dịch tập thơ “Nhật ký trong tù” ra tiếng Nga – gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh, tôi cũng được biết, kể cả lần gặp Rút Bécsatxki từ Liên Xô sang thăm Việt Nam cũng vậy, với sự cởi mở và lòng khiêm tốn, Người tự tay pha cà phê mời khách và nói rằng: “Khi có thì giờ rảnh rỗi, chúng tôi làm thơ. Ở Việt Nam ai cũng làm thơ cả.” Người không nhận danh hiệu nhà thơ cao quý, nhưng cả thế giới đã bị thuyết phục bởi vần thơ chân thật của Người. Chiến dịch chống phá, vu cáo của nhóm người lưu vong ở hải ngoại thực là một hành động bỉ ổi.

Nghiên cứu về Di sản Hồ Chí Minh, học tập tư tưởng và đạo đức của Người không chỉ là một công trình nghiên cứu khoa học to lớn, lâu dài mà còn là sự chuyển biến tâm thức của toàn dân tộc hướng về chân – thiện – mỹ. Sự hằn học, vu cáo và xuyên tạc lịch sử là biểu hiện của sự thoái hóa về nhân cách, ngược dòng với chiều tiến hóa và sự thăng tiến tinh thần của nhân loại, tự trói buộc và đánh mất Cội nguồn. Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một huyền thoại, đúng là như vậy. Huyền thoại bao giờ cũng đẹp. Chứa đựng sự bí ẩn của tinh thần lãng mạn, phần siêu việt của nhận thức con người với thế giới. William J.Duiker – nhà báo Mỹ viết trong cuốn sách của ông về Hồ Chí Minh: “Tất cả những con người vĩ đại đều tiềm ẩn một vẻ huyền bí.” Ông dẫn lời Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời BécnaPhôn – học giả nghiên cứu về Việt Nam – trong một cuộc phỏng vấn nói: “Người già thích có một vẻ bí ẩn nho nhỏ về mình. Tôi muốn giữ lại một chút những vẻ bí ẩn của riêng mình. Tôi tin rằng anh sẽ hiểu được điều đó.

Huyền thoại Hồ Chí Minh mãi mãi là điều nhân loại trân trọng, tự hào, nhận biết và tìm lời giải đáp./. (1)

2. Hãng phim History Channel của Mỹ đã làm bộ phim “Hồ Chí Minh – bí ẩn Việt Nam” đã có những đánh giá trân trọng của những nhà nghiên cứu lịch sử, ca ngợi Bác Hồ – Người đã dẫn đường, lãnh đạo dân tộc Việt Nam đánh giặc cứu nước: “Có thể nói, hình ảnh Hồ Chí Minh là một nhà lãnh đạo ái quốc đã đấu tranh cho tự do dân tộc… Một người cộng sản quốc tế, một người chỉ huy, một người dẫn đường cho nhân dân Việt Nam” quyết tâm chiến đấu và chiến thắng thực dân Pháp và Mỹ.

Chiến thắng này đòi hỏi sự nỗ lực của con người mang trong mình một phần của Lênin, một phần của Gandhi, một phần của Khổng giáo, và trên tất cả là một con người Việt Nam” hy sinh đấu tranh để giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, mong muốn nhân dân được sống hòa bình, hạnh phúc.

Tuy nhiên, trong bộ phim “Hồ Chí Minh – bí ẩn Việt Nam” vẫn còn một số nhận định chưa chính xác, mang tính chủ quan không đúng về cuộc đời Bác Hồ như: “Từ 11 tuổi ông (Bác Hồ) đã phải lo lắng cho gia đình khi người cha bị cách chức, người mẹ mất không lâu sau khi sinh con trai thứ ba”. Lúc này cụ Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh của Bác chưa có chức ở triều đình Huế, năm Bác Hồ 20 tuổi (1910), cụ Nguyễn Sinh Sắc mới bị cách chức tri huyện Bình Khê. Hoặc cho rằng Bác Hồ có một người vợ Trung Quốc mà Bác đã bỏ khi bị bắt ở Hồng Công hoặc các nhận định về hậu quả của cuộc chiến thì chưa chính xác khi dựa vào các thông tin không xác thực hoặc có những suy đoán chủ quan. Họ cho rằng dân tộc ta đã trả giá quá đắt cho cuộc chiến tranh vệ quốc, khi đi theo đường lối của Bác Hồ và đưa ra những hình ảnh nhân dân ta khổ cực kiếm sống hàng ngày.

Như vậy, những người làm phim nước ngoài vẫn chưa hiểu về con người Việt Nam luôn “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” và Bác Hồ đã từng nói: “Dù có đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải lấy lại quyền độc lập cho dân tộc“. Dân tộc có độc lập, nhân dân mới có tự do và hạnh phúc. Tự do trong những giá trị cao đẹp và nhân văn của con người, tự do trong mối quan hệ với cộng đồng, chứ không phải tự do đứng trên pháp luật, đi ngược lại lợi ích của dân tộc, lợi ích của nhân dân. Không phải là thứ tự do “đổi trắng thay đen“, “ăn không nói có“… Còn hạnh phúc của nhân dân Việt Nam  như Bác Hồ mong muốn là “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành“, nhân dân Việt Nam mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng đang từng bước xóa đói giảm nghèo vì phải trải qua những cuộc chiến với nhiều mất mát đau thương, nên công cuộc xây dựng đất nước lại có nhiều khó khăn hơn các nước khác không bị chiến tranh và Việt Nam đã đạt được những thành tựu phát triển, cuộc sống của nhân dân ngày càng được cải thiện đã được thế giới thừa nhận. Ngay tại nước Mỹ, một trong những nước giàu nhất thế giới nhưng “số người Mỹ sống trong nghèo đói đã tăng lên 46,2 triệu người” và rất nhiều người sống cảnh vô gia cư, không một mái nhà để sinh sống trong năm 2010, theo báo cáo thường niên của Cục thống kê Mỹ (2). Vậy nghèo đói hiện nay là vấn đề chung của nhân loại chứ không riêng gì đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, Đảng và Nhà nước đang thực hiện nhiều chính sách xóa đói giảm nghèo, an sinh xã hội để từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân ta. Hiện nay nhìn các nước bị chiến tranh tàn phá, người dân sống trong chết chóc đau thương như: Iraq, Afganistan, Libya, Palestine…chúng ta càng thấy được giá trị của cuộc sống hòa bình, giá trị của độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc và của chúng ta để cùng nhau đoàn kết xây dựng đất nước thanh bình, giàu mạnh “sánh vai với các cường quốc năm châu” như mong ước của Bác Hồ kính yêu.

Còn Giáo sư, Tiến sĩ Mạch Quang Thắng cho rằng: “Việc Hồ Chí Minh có vợ, có con hay không có vợ, không có con thì chẳng ảnh hưởng gì đến tư cách, đạo đức của bản thân cả. Nếu Hồ Chí Minh có vợ, có con, nghĩa là có gia đình riêng, thì với những gì Người đã cống hiến cho đất nước, tôi vẫn nhận định được rằng: Hồ Chí Minh đã hy sinh lợi ích riêng tư để dâng hiến cho Tổ quốc thân yêu của mình. Không phải không có vợ con mới là hy sinh chuyện riêng tư. Chỉ có điều là nếu Hồ Chí Minh có vợ thì đấy mới là chính là một con người hoàn chỉnh, không phải là phản tự nhiên. Cũng chính vì thế mà chúng ta hay nói người vợ hay người chồng chính là một nửa bên kia của nhau. Hồ Chí Minh cũng không ít lần nói về cái khiếm khuyết của chính cuộc đời mình, và một trong những khiếm khuyết đó là không có vợ; do vậy Hồ Chí Minh khuyên thanh niên Việt Nam đừng nên học mình về điều đó.

Nếu Hồ Chí Minh có vợ con thật thì Hồ Chí Minh không thể giấu được trong ngần ấy năm. Giấu làm sao được trong con mắt của hàng triệu, hàng triệu con người giữa thế gian, ở đất nước Việt Nam và cả ở trên thế giới. Người bình thường đã khó giấu, huống chi Hồ Chí Minh lại là một người nổi tiếng, là con người của công chúng, thì lại càng khó giấu hơn. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Cái kim trong bọc lâu ngày rồi sẽ lòi ra”. Đã rất lâu ngày, nhưng cái bọc không thấy lòi ra một cái kim nào cả. Làm gì có cái kim nào. Còn miệng thế gian thì càng không thể nào che được.

Đã có người viết về người con gái đem lòng yêu Hồ Chí Minh, và bản thân Hồ Chí Minh cũng đem lòng yêu người con gái đó. Tôi cho rằng, trong cuộc đời Hồ Chí Minh nếu có như vậy là sự thường. Tình yêu thời trai trẻ, tại sao không? Một thanh niên thư sinh, đẹp trai, hào hoa, phong nhã, lại là con của một người đỗ đại khoa (Phó bảng), con quan, con nhà gia giáo mà không rung động trước phái đẹp, mà lại không yêu một người con gái nào đó, cũng như không có người con gái nào yêu mình, mới là sự lạ. Nhưng cần khẳng định một cách chắc chắn rằng, Hồ Chí Minh chưa bao giờ có vợ con.” (3)

Nhưng vượt lên trên tất cả, bộ phim “Hồ Chí Minh – bí ẩn Việt Nam” của Hãng phim History Channel (Mỹ) đã ca ngợi lòng yêu nước và sự hy sinh cao cả của Bác Hồ dành cho dân tộc Việt Nam, chứ không như những luận điệu vu cáo, xuyên tạc lịch sử của những kẻ thực hiện bộ phim tài liệu “Sự thật về Hồ Chí Minh

Sự thật mãi là sự thật, chân lý sẽ là chân lý. Cho dù những kẻ chuyên vu cáo, xuyên tạc có dùng bao nhiêu thủ đoạn, dựng bao nhiêu bộ phim để xuyên tạc về Bác Hồ thì một bằng chứng, sự thật sống động khẳng định giá trị về cuộc đời, sự nghiệp Hồ Chí Minh, đó là: Năm 1987, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên hợp quốc (UNESCO) đã tôn vinh Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá kiệt xuất Việt Nam. Nhân chuyến thăm Việt Nam nhân kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội tháng 10 năm 2010, Bà Irina Bokova, Tổng Giám đốc UNESCO đã trao tặng phía Việt Nam, Bảo tàng Hồ Chí Minh cuốn sách văn bản Nghị quyết của Đại hội đồng UNESSCO khóa 24 họp từ 20/10 đến 20/11/1987. Trong đó có Nghị quyết 18.65 ghi tại trang 134 và 135 về việc tôn vinh Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa kiệt xuất Việt Nam. Khi đã được UNESCO tôn vinh thì hiển nhiên Bác Hồ đã trở thành Danh nhân văn hóa thế giới, chỉ có những kẻ có dã tâm không tốt, mang nặng lòng thù hận, tâm trí có vấn đề mới dựng chuyện xuyên tạc Bác Hồ.

Và ở thủ đô Paris nước Pháp có bức tường “Những người làm nên thế kỷ 20″ (Ils ont fait le XX Siecle) có chân dung và nụ cười Bác Hồ giữa những trí tuệ, những tâm hồn lớn của nhân loại.

Không lẽ những chính khách của cả thế giới họp tại Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên hợp quốc (UNESCO) đều “mù” không biết sự thật, còn những kẻ lười biếng suy nghĩ, thích dựng chuyện lừa đảo với những luận điệu sai trái, thù địch, xuyên tạc, phản bác về cuộc đời, sự nghiệp, trước tác của Hồ Chí Minh lại có con mắt “sáng”, lê lết đi tìm “Sự thật về Hồ Chí Minh” ?./.

Xin giới thiệu bộ phim “Hồ Chí Minh – bí ẩn Việt Nam” để hiểu thêm về cách nhìn và thái độ của người Mỹ – kẻ thù của nhân dân Việt Nam trước đây đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, xét một cách toàn diện bộ phim thể hiện sự trân trọng và khâm phục Người lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam: Hồ Chí Minh

3. Tác phẩm “Việt Nam- Hồ Chí Minh” đạt giải Bông Sen Vàng năm 1985, được đánh giá như thiên anh hùng ca về truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc, gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Bộ phim dài 57 phút được thực hiện từ ngày Hãng phim Tài liệu Khoa học Trung ương còn có tên là Xí nghiệp phim Tài liệu và Khoa học Trung ương. Việt Nam – Hồ Chí Minh do NSND Đào Trọng Khánh viết kịch bản và đạo diễn với sự đóng góp tư liệu của nhiều nhà điện ảnh, nhiếp ảnh, nhà viết sử, nhà văn, nhà báo trong và ngoài nước.

Với hình ảnh, tư liệu chân thực, chắt lọc, lời bình súc tích, mang dấu ấn sử thi, bộ phim tái hiện một chặng đường dài của lịch sử Việt Nam kể từ khi thực dân Pháp xâm lược (1857) đến khi kết thúc cuộc chiến chống Mỹ cứu nước, xây dựng nền hòa bình, độc lập dân tộc.

Giá trị của bộ phim không chỉ dừng lại ở sự tái hiện khách quan, sống động các sự kiện mà còn tìm cách lý giải nguyên nhân, đúc kết thành bài học từ truyền thống lịch sử và thực tiễn đấu tranh cách mạng; khơi gợi niềm tự hào dân tộc và khẳng định công lao to lớn của lãnh tụ Hồ Chí Minh trong việc chèo chống con thuyền cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi cuối cùng.

Trải qua 25 năm nằm trong kho lưu trữ, “Việt Nam – Hồ Chí Minh”, vốn được làm từ phim nhựa màu, đã bị bay màu do khâu bảo quản nên nhà phát hành quyết định chuyển sang đen trắng để phim rõ nét. Đại diện nhà phát hành cho biết, việc đưa bộ phim tài liệu này ra thị trường là cách phổ biến một sản phẩm có giá trị về mặt lịch sử, giúp các thế hệ trẻ dễ dàng tiếp cận hơn những bài học khô cứng được dạy trong nhà trường./. (4)

———————–
(1) Bài “Bác bỏ bộ phim tài liệu Sự thật Hồ Chí Minh xuyên tạc về Hồ Chí Minh” của Đạo diễn, NSND Đào Trọng Khánh.
(2) Trích bài “Số người nghèo ở Mỹ tăng cao kỷ lục” – Báo điện tử Dân trí, 14/09/2011
(3) Trích “Nguyên nhân của các luận điệu xuyên tạc về Hồ Chí Minh và giải pháp đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc đó” của GS.TS Mạch Quang Thắng
(4) Bài “Phát hành phim tài liệu Việt Nam – Hồ Chí Minh” – Báo điện tử VnExpress, 22/4/2010

Xin trân trọng giới thiệu phim tài liệu: Việt Nam – Hồ Chí Minh

HOÀNG ANH TUẤN
bachovoihue.com

Từ những điều giản dị…

Tu nhung dieu gian diHồ Chí Minh, Danh nhân văn hóa  kiệt xuất, mang phong cách phương Đông rất rõ nét. Người chẳng những “lớn” trong việc “lớn” mà còn “lớn” cả trong nhiều việc “nhỏ” hàng ngày. Thiết nghĩ, hôm nay trong việc học tập và làm theo Bác hãy bắt đầu từ những điều bình dị, bé nhỏ trong cuộc sống hàng ngày. Đó là điều thiết thực mà mỗi chúng ta đều có thể học và làm theo Bác

Trong mẩu chuyện “Hình ảnh Bác Hồ ở vùng núi Thu-rin-gen”, Giáo sư – Tiến sĩ  Nguyễn Lai kể lại câu chuyện giữa ông và vợ chồng người phụ trách nhà nghỉ ở vùng núi Thu-rin-gen nước Đức khi giáo sư được họ mời về nhà dự bữa ăn thân mật. Người phụ nữ Đức đã tâm sự: “Chúng tôi ở xa Béc-lin, trước đây chúng tôi không may mắn để được thấy Hồ Chí Minh như người Béc-lin. Nhưng qua sách báo, chúng tôi hiểu khá nhiều điều về Hồ Chí Minh …”. Chị tiếp: “Tôi rất thích đọc tiểu sử Hồ Chí Minh … và điều chúng tôi thích nhất ở Hồ Chí Minh là điều gì, anh có biết không ?…Giản dị!”. Rồi chị hướng câu chuyện đó vào thực tại: “Anh biết không, Bác Hồ không lãng phí. Trong bữa ăn, Người không bao giờ để thừa suất ăn của mình. Người Đức chúng tôi cũng thế. Hôm nay, trong bữa ăn này, tất cả chúng ta phải giữ đúng phong cách Hồ Chí Minh… anh bạn đồng ý không?” Qua trò chuyện, ông Nguyễn Lai nhận ra: Người dân Đức có sự am hiểu khá rõ về những đức độ và sinh hoạt đời thường của Bác Hồ.

Mẩu chuyện đó cũng lý giải băn khoăn của vị giáo sư chuyên ngành Việt Nam học người Đức khi Chủ tịch Hồ Chí Minh được UNESCO tặng danh hiệu Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc – Danh nhân văn hóa kiệt xuất. Vị giáo sư đó tâm sự: Hồ Chí Minh, nhà văn hoá lớn, mang phong cách phương Đông rất rõ nét. Người chẳng những “lớn” trong việc “lớn” mà còn “lớn” cả trong nhiều việc “nhỏ” hàng ngày. Tôi suy nghĩ nhiều về điều ấy, nhưng tiếc rằng trong báo cáo của mình, tôi chưa có điều kiện để nhấn mạnh đặc điểm ấy ở Danh nhân văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh …”.

Bác Hồ chúng ta “lớn” cả trong những việc “nhỏ” hằng ngày đó phải chăng là nếp sống, sinh hoạt hết sức bình dị của Người. Khi là Chủ tịch nước, “quyền cao chức trọng”, nhưng Người không sống cách biệt mức sống của đa số nhân dân. Bác từng sống ở ngôi nhà sàn đơn sơ chỉ 6mtrong những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc. Mùa đông giá lạnh, các đồng chí Trung ương mua cho Bác chiếc chăn bông. Bác từ chối: “Nhân dân Việt Bắc còn đắp vỏ sui, Bác dùng chăn bông sao được. Dân dùng gì thì Bác dùng cái đó. Không nên tạo sự cách biệt. Vả lại, đấy cũng là cách thử thách với sức khỏe, buộc mình phải tập thích nghi với hoàn cảnh …”. Khi về Hà Nội, Người ở trong ngôi nhà chật hẹp của người thợ điện cũ trong khu Phủ Chủ tịch. Sau đó, nhà sàn của Người cũng có diện tích khiêm tốn và những đồ vật rất thông thường. Cái ăn, cái mặc của Người hết sức giản dị. Bữa ăn thường chỉ ba bốn món: tương, cà, dưa muối, cá kho lá gừng. Từ họp hành cho đến tiếp khách, đi cơ sở… đều được Người bố trí thích hợp sao cho tốn ít thời gian mà có hiệu quả.

Năm 1956, Hà Đông tổ chức Hội nghị chống hạn, Bác Hồ đến dự sớm hơn 15 phút. Bác bảo: “Thời gian là vàng ngọc. Mình đi chậm 5 phút, Hội nghị có 150 người thì mình đã lấy đi 750 phút của mọi người. Không nên như vậy”. Năm 1957, Bác đến tỉnh Hưng Yên tham gia chống hạn với nhân dân. Khi đi Bác đã cho người chuẩn bị một chiếc cặp lồng cơm độn sắn nấu dẻo. Trưa đó, Bác được UBND tỉnh mời cơm. Bác đứng rất lâu trước mâm cơm thịnh soạn và khước từ bữa cơm. Nhưng nhận thấy mọi người đều biết lỗi và rất buồn nên Bác quyết định ăn một bát cơm độn và một bát cơm trắng cùng mọi người. Khi biết, bữa ăn đó hết 400 đồng, Bác buồn và bảo: “Mình Bác đi, chỉ một bữa cơm mà chi hết 400 đồng – số tiền quá lớn, Bác không ăn hết”. Từ đó trở đi, mỗi khi đi công tác xa, Bác đều cho người chuẩn bị bữa ăn (trong chiếc cặp lồng). Đến bữa, Bác cùng chiến sĩ bảo vệ lấy ra ăn.

Trong sinh hoạt hàng ngày, không lúc nào Bác làm phiền người khác. Người tự chuẩn bị chăn màn khi đi ngủ, xếp gọn ghẽ khi thức dậy. Trời mưa, Người vẫn xắn quần đến chỗ ăn cơm, không muốn các đồng chí phục vụ phải vất vả. Người thường cùng mọi người tham gia lao động sản xuất để cải thiện đời sống. Khi ốm đau, Người chịu đựng, động viên những người xung quanh, không muốn để mọi người lo lắng quá nhiều. Có mùa hè nóng bức, lo cho sức khoẻ của Bác, mọi người đã lắp trong phòng ở của Người chiếc máy điều hoà nhiệt độ. Bác không đồng ý và bảo mọi người tháo ra đem tặng cho các đồng chí thương binh đang điều trị tại bệnh viện.

Sinh thời, Bác thường dùng chiếc xe con thương hiệu “Thắng lợi” do Chính phủ Liên Xô tặng. Lâu ngày, xe xuống cấp, các cán bộ giúp việc có ý định thay xe mới. Biết thế, Bác hỏi: “Xe hiện nay đã hỏng chưa?” và Bác kiên quyết “thuỷ chung” với chiếc xe đó cho đến cuối đời. Bác cũng đã từng phê bình những người giúp việc về việc may mới quần áo cho Bác. Bác nói: “Ai bảo các chú may quần áo mới cho Bác? Bác có hai bộ là đủ dùng rồi. Hiện nay, đồng bào đang còn nhiều người thiếu quần áo, Bác có như vậy là tốt lắm rồi”. Ngay cả chuyện mọi người đề nghị Bác thay đôi dép cao su đế đã mòn, mua đôi dép mới chỉ có 2,5 đồng nhưng Bác nói: “Vấn đề không phải là ở chỗ 2,5 đồng mà là xem đôi dép đã hỏng chưa, đã cần thay chưa. Hiện nay đôi dép này còn dùng được chưa cần thay. Lúc nào cần thay, Bác sẽ đồng ý”.

Cảm động nhất là chuyện Bác dùng tiền nhuận bút của mình (tất cả là 25.000 đồng) gửi đến Bộ Tổng Tham mưu để mua nước uống cho các chiến sĩ hay chuyện Bác chấp hành Luật Giao thông. Theo lời kể của ông Phạm Lê Ninh, nguyên Cục phó Cục Cảnh vệ kể lại, Bác nói: “Luật Giao thông của Nhà nước ai cũng phải chấp hành. Chú định xin cho xe Bác được ưu tiên, như thế là không được, vừa phạm luật, vừa không bình thường. Bác là Chủ tịch nước, ký ban hành Luật cũng phải chấp hành luật chứ ?”. Sau đó Bác lại nhắc là không nên để mọi người hiểu lầm mình cậy quyền, cậy thế…

Những câu chuyện sinh động trên cho chúng ta thêm hiểu về nếp sống bình dị của Bác, để thêm tự hào về Người. Thiết nghĩ, hôm nay trong việc học tập và làm theo Bác hãy bắt đầu từ những điều bình dị, bé nhỏ trong cuộc sống hàng ngày. Đó là điều thiết thực mà mỗi chúng ta đều có thể học và làm theo Bác.

Theo Nguyễn Thị Thọ

Tạp chí Xây dựng Đảng
Huyền Trang (
st)
bqllang.gov.vn

Vĩ nhân đời thường

(Chinhphu.vn) – Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương đạo đức của một lãnh tụ cách mạng vĩ đại, một người cộng sản vĩ đại đồng thời cũng là tấm gương đạo đức của một người bình thường, ai cũng có thể học theo để làm một người cách mạng, một người công dân tốt hơn.

Yêu thương con người là phải tôn trọng, quý trọng con người

Chủ tịch Hồ Chí Minh kéo lưới cùng ngư dân Sầm Sơn, Thanh Hoá (1960)

Trải qua quá trình 10 năm tìm tòi, khảo nghiệm, năm 1920 khi bắt gặp chủ nghĩa Mác – Lê-nin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy ở đây con đường giải phóng dân tộc, tìm thấy cái cẩm nang để giải phóng triệt để con người. Đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Bởi theo Người, tình yêu thương con người không thể chung chung, trừu tượng, mà thiết thực, cụ thể, trước hết dành cho người mất nước, người cùng khổ. Chính vì vậy, Người đã nguyện dành cả cuộc đời mình để lo giải phóng cho dân tộc, đấu tranh cho con người thoát khỏi áp bức, bất công

Ngay từ ngày đầu Cách mạng Tháng Tám thành công, tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, Người đã nêu rõ mục tiêu của Nhà nước là: Làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành. Để làm được điều đó, Người đã đề ra nhiệm vụ cấp bách là diệt giặc đói và giặc dốt. Người nhắc nhở nhiệm vụ thường xuyên là xóa đói nghèo, làm cho kinh tế phát triển; người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu và người khá giàu thì giàu thêm. Kinh tế có phát triển, đời sống đồng bào có ấm no thì đất nước mới cường thịnh.

Đặc biệt, đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng ra đời từ phong trào cách mạng của nhân dân, có thiên chức lãnh đạo cách mạng vì mục đích phục vụ nhân dân, lấy lợi ích của nhân dân làm lợi ích cao nhất của mình, thì Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng: “Tất cả đường lối, phương châm, chính sách… của Đảng đều chỉ nhằm nâng cao đời sống của nhân dân nói chung”([1]).

Người căn dặn cán bộ, đảng viên phải có thái độ yêu kính nhân dân, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, học hỏi quần chúng, thật thà, ngay thẳng, không giấu dốt, giấu khuyết điểm, giấu sai lầm; khiêm tốn, gần gũi quần chúng; không được kiêu ngạo, phải thực sự cầu thị, không được chủ quan; kiên quyết dựa vào quần chúng, giáo dục và phát động quần chúng tiến hành thắng lợi mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh, mặc dù uy tín rất cao, có khả năng thu hút, tập hợp quần chúng rất lớn, được toàn dân suy tôn là “Cha già của dân tộc” nhưng không bao giờ Người xem mình đứng cao hơn nhân dân. Nhận được thư, quà chúc mừng của nhân dân, dù bận trăm công nghìn việc, Người vẫn tự tay viết thư trả lời, cảm ơn một cách thân tình, chu đáo, nêu một tấm gương ứng xử rất văn hóa, đầy khiêm nhường và kính trọng đối với nhân dân.

Biết bao câu chuyện thường ngày đã nói lên tình thương yêu con người, sự quan tâm rất cặn kẽ, tỉ mỉ của Người đối với đồng bào, đồng chí và chiến sĩ. Làm phụ bếp bên nước Anh, khi rửa bát đĩa, Bác để riêng những thức ǎn thừa còn lại, gói vào một gói, khi về mang ra cho những người nghèo khổ ǎn xin ngoài đường. Dự tiệc chiêu đãi ở Paris, ra về Bác dành quả táo cho em nhỏ. Giữa cánh đồng khô nóng Ấn Độ, những giọt nước mắt cảm thông của Người đã rơi trên vai ông lão nông dân áo quần rách nát. Mùa hè đến, mồ hôi thấm áo, Người nghĩ đến những chiến sỹ phòng không trên trận địa nóng bỏng. Đi công tác ở nước ngoài được biết có loại cây lá xanh quanh nǎm không rụng lá, Người nghĩ tới chị lao công đêm đêm vất vả quét lá nên tìm cách đưa loại cây ấy về nước. Đưa anh hùng Trần Thị Lý đi thăm vườn Phủ Chủ tịch, Bác không đưa chị đi trên những con đường sỏi vì Bác biết chân chị dẫm trên sỏi thì ảnh hưởng vết thương trên đầu.

Trái tim Bác là vậy, trải đều tình thương yêu cho đồng bào, đồng chí. Bởi vì Bác quan niệm rằng: Yêu thương con người là phải tôn trọng, quý trọng con người. Bác tôn trọng từ các nhà khoa học, các bậc hiền tài cho tới những người lao công quét rác. Đối với Bác, từ Chủ tịch nước tới người lao động bình thường, nếu hoàn thành tốt nhiệm vụ, đều được coi trọng, đều vẻ vang như nhau.

Tư tưởng yêu thương con người được Hồ Chí Minh nêu lên và vận động mọi người cùng thực hiện suốt cả cuộc đời. Khi nằm trên giường bệnh trong những ngày Người đau nặng, Chủ tịch Hồ Chí Minh không đề cập một lời nào về diễn biến sức khỏe của mình. Những giây phút cuối cùng đó, Bác còn nghĩ đến miền Nam, đến hạnh phúc và niềm vui của đồng bào miền Bắc. Người hỏi: “Trong Nam, mấy hôm nay đánh thế nào?”, Người hỏi “Quốc khánh năm nay, có đốt pháo hoa cho đồng bào vui không?”. Và trong bản Di chúc, khi để lại “muôn vàn tình thương yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh thiếu niên và nhi đồng”, và “gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế”, Người vẫn ân cần nhắc nhở toàn Đảng phải tiếp tục chăm lo cho con người. Trước hết là những người đã hy sinh một phần xương máu cho công cuộc kháng chiến, là cha mẹ, vợ con thương binh, liệt sĩ, là bà con nông dân, là thanh niên, phụ nữ… lo cho hiện tại, lo đào tạo cho tương lai…

Rạng ngời cốt cách vĩ nhân trong đời thường

Với thế giới, cuộc đời cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh rất sôi nổi, Người là một trong những nhân vật làm nên thế kỷ XX, với đất nước, Người là vị lãnh tụ tối cao được kính mến nhưng đời sống của Người rất bình thường, vô cùng giản dị, khiêm tốn. Cuộc đời của Người, từ lúc làm một thợ ảnh bình thường ở ngõ hẻm Công-poanh, nước Pháp, đến khi làm Chủ tịch nước sống giữa Thủ đô Hà Nội, vẫn là một cuộc đời thanh bạch, giản dị, tao nhã từ câu nói, tác phong đến vật dùng tư trang hàng ngày, từ ǎn uống đến sở thích sống hoà mình với nhân dân.

Ở nơi đâu Bác cũng tạo nên một không khí bình thản, tự tại, một cuộc sống đầm ấm mang nặng tình đồng chí để vượt qua thử thách, gian nan thiếu thốn của cuộc kháng chiến. Bác yêu cầu chỗ ở cho Bác phải là nơi yên tĩnh, bí mật, nơi có bóng cây thoáng mát và có đất để tǎng gia, gần nguồn nước, phía sau có núi để dễ làm hầm trú ẩn, thuận lợi cho liên lạc dễ dàng di chuyển.

Cách chọn địa điểm dựng lán trại của Bác được anh em ghi thành bài văn vần như sau: “Trên có núi, dưới có sông – Có đất ta trồng – Có bãi ta vui – Tiện đường sang Bộ Tổng – Thuận lối tới Trung ương – Nhà thoáng gió, kín mái – Gần dân không gần đường”.

Kháng chiến thắng lợi, trở về Thủ đô Hà Nội, nhưng Bác không về ở trong ngôi nhà Toàn quyền cũ vì Bác bảo, Bác chứ không phải vua, Chủ tịch một nước còn nghèo, chưa có quyền hưởng thụ quá mức trung bình của người dân. Bác quyết định chọn cho mình ngôi nhà của người thợ điện ngày trước, nơi mà mùa nóng thì nhiệt độ cao hơn hẳn xung quanh, ngày thiếu ánh sáng phải thắp đèn.

Nǎm 1958, Trung ương quyết định xây nhà cho Bác, nhưng Bác đề nghị chỉ nên làm một căn nhà nho nhỏ theo kiểu nhà đồng bào dân tộc ở Việt Bắc, giống như ngôi nhà Bác đã từng ở trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp. Ngôi nhà sàn của Bác được xây dựng bằng gỗ bình thường, được thiết kế theo kiểu nhà sàn của đồng bào dân tộc ở Việt Bắc: nhà hai tầng, xung quanh có mành che, tầng dưới để thoáng. Nét kiến trúc thanh nhã, trang trí không cầu kỳ này khiến công trình trở thành một kiến trúc độc đáo, mang sắc thái riêng nhưng rất hài hoà với thiên nhiên và các công trình kiến trúc xung quanh.

Trong nhà chỉ có những đồ dùng rất gần gũi với Bác: Một chiếc giường đơn trải chiếu cói, cái tủ nhỏ, bộ bàn ghế, trên bàn để đèn, lọ hoa, chiếc máy thu thanh, cái quạt nan, mấy quyển sách cần thiết hàng ngày. Trước nhà là một vườn hoa nhỏ, trồng nhiều loại hoa thơm. Phía ngoài là hàng rào dâm bụt gợi nhớ hình ảnh quê hương Nghệ An, nơi Bác sinh ra và lớn lên. Trong hồ nước rộng hơn 3.000m2 trước nhà sàn, Bác nuôi cá vì theo Người nuôi cá ở đây vừa cải tạo môi trường sống trong lành, cải thiện bữa ăn hàng ngày, vừa là một cách thư giãn thú vị sau giờ làm việc khi Người cho cá ăn. Nhà sàn của Bác hoà hợp với thiên nhiên là thế đấy! Nó tạo ra nét bình dị gần gũi với mọi người dân Việt Nam ở khắp mọi miền Tổ quốc.

Khi đi thǎm các địa phương xa, phải ở lại qua đêm, các đồng chí địa phương thường bố trí cho Bác nơi ở tốt nhất, nhưng Bác cũng không đồng ý. Bác tự chọn cho mình chỗ ngủ, có khi bố trí gần bãi biển, có lúc cạnh trận địa pháo. Chủ tịch Hồ Chí Minh là vậy, với tư tưởng tác phong luôn gần dân, luôn luôn giữ mức sống như của người dân bình thường, hoà cùng nhịp sống, nỗi niềm của người dân.

Không chỉ nơi ở đơn sơ, đồ dùng của Bác cũng thật giản dị. Đôi dép cao su làm từ lốp cũ xe ôtô, Bác dùng đến mòn vẹt phải đóng đinh bao lần. Đôi dép đã theo Bác trên những nẻo đường Pắc Bó, Điện Biên trong kháng chiến, trở về thủ đô Hà Nội khi hòa bình lập lại, sang cả Ấn Độ khi Người đi thăm các nước anh em. Đôi dép đã góp phần tạo nên huyền thoại về một vị Chủ tịch nước dân chủ nhất thế giới như lời báo chí Ấn Độ đã từng ca ngợi. Rồi bộ bà ba nâu, bộ quần áo kaki, đôi tất vá đến hai, ba lần. Chỉ khi đi ra nước ngoài Bác mới mặc áo sơ mi và mới đồng ý may bộ quần áo dạ đen.

Bác thích món cá kho, bát canh và quả cà xứ Nghệ. Bác thích ăn những con cá tự nuôi, những ngọn rau tự trồng và còn chia những thứ đó cho các đồng chí sống gần Bác. Bác ngồi xếp bằng bên cửa sổ nhà sàn ngắm trăng, Bác xắn gọn quần và rảo bước nhanh qua suối hay đi bên bờ ruộng như một cụ già nông thôn thực thụ. Bác còn bế em nhỏ hoặc ngồi bón cơm cho trẻ như bất kỳ một người bình thường nào ta gặp. Bác còn nắm chắc tay gàu sòng tưới nước mà không ngỡ ngàng, lúng túng.

Là Chủ tịch nước nhưng trong nếp sinh hoạt thường ngày những việc nào làm được, Bác tự làm, việc nào không làm được Bác mới nhờ đến những anh em phục vụ. Tất cả những chi tiết đó, hình ảnh đó tự nói lên nhiều điều: một tư thế giản dị, ung dung, tự tại, luôn phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của một lãnh tụ mẫu mực.

Bác là tấm gương tiêu biểu tiết kiệm của công, thái độ giữ gìn tài sản chung của nhân dân được Bác luôn luôn chú ý. Đi đâu Bác chỉ dùng một chiếc xe Pôbêđa do nhân dân Liên Xô gửi tặng. Xe dùng đã lâu ngày nên cũ và hay hỏng vặt, vǎn phòng đề nghị Bác cho đổi xe khác tốt hơn, Bác không đồng ý Bác bảo: “Ai thích đi nhanh, thích êm thì đổi. Còn Bác thì không”.

Câu chuyện cành san hô

Bác rất nghiêm khắc trong việc tự phê bình, Bác căn dặn cán bộ phải “tự phê bình cái sai của mình trong mỗi việc làm, mỗi trận đánh giống như rửa mặt hàng ngày cho sạch vết nhơ”([2]). Đồng chí giúp việc của Bác kể rằng, có lần Tỉnh ủy Quảng Ninh biếu Bác một cành san hô to, đẹp lắm, màu sắc trắng hồng như ngọc. Bác thích lắm dùng làm quà biếu người lãnh đạo một Đảng anh em. Mọi việc thu xếp xong. Cành san hô để ở nhà khách Phủ Chủ tịch, chờ Bác ra xem lần chót rồi bỏ vào hòm, ô tô đợi sẵn, chở ra sân bay, gửi đi.

Lúc để ở nhà khách, anh em xúm lại xem. Thấy nó đẹp quá ai cũng trầm trồ. Ai cũng muốn nhìn và ai cũng muốn sờ một chút. Xô đẩy thế nào đó, một anh lỡ tay đánh rơi, vỡ làm đôi. Mọi người sợ quá, đến mức không dám đứng đấy mà nhận lỗi của mình nữa. Bác cũng bị bất ngờ, tưởng xong đâu đấy hết, thì đã vỡ rồi. Bị bất ngờ như thế nhưng một nét nhíu lông mày Bác cũng không có, một lời nói nặng càng không có nữa. Bác làm vui trước cho anh em. Bác biết là anh em sợ lắm, làm thế nào trấn tĩnh được tinh thần anh em: “Thôi, phận san hô nó mỏng manh, con san hô về đất rồi. Anh em đi đâu, gọi các chú ấy ra đây. Bây giờ Bác, cháu ta tính thế nào nhỉ, lại đây cùng nhau bàn xem gỡ cái chuyện này thế nào”.

Cuối cùng phải lấy một bức ảnh to của Bác, Bác đề tặng và ký vào gửi biếu. Người lỡ tay đánh vỡ con san hô thấy Bác độ lượng như vậy, cảm động, giàn giụa nước mắt. Nhưng mà câu chuyện chưa hết. Đến buổi tối hôm đó, làm việc với đồng chí phụ trách văn phòng xong, Bác bảo: “Hôm nay còn thừa thì giờ, bây giờ chú kể cho Bác nghe cành san hô ấy bị vỡ thế nào?”. Đồng chí này kể lại từ đầu. Bác phát hiện chi tiết này: người đánh vỡ là đồng chí lái xe. Bác bảo: “Thế này nguyên nhân không phải là lỡ tay, giá như là chú, phụ trách văn phòng, hay một chú nào khác có nhiệm vụ cầm cành san hô đặt vào hòm mà đánh vỡ thì đúng là lỡ tay. Đây không phải. Chú lái xe thì có nhiệm vụ gì sờ vào cành san hô. San hô đẹp thì để anh em nhìn ngắm, được rồi, muốn sờ tay vào nó cũng được, nhưng cứ từng người, việc gì phải xúm vào, rồi người xô đằng này, người đẩy đằng kia. Và không có tổ chức, không có nền nếp, xúm vào như thế cho nên mới đi đến chỗ có người lỡ tay ẩy nó rơi vỡ. Nguyên nhân ở trong tổ chức và nếp làm việc, không phải ở chỗ lỡ tay. Nói lỡ tay là nói qua loa cho xong. Nếu chú thấy đúng như thế, lần nào họp, anh em bàn lại chuyện này rút kinh nghiệm, sửa đổi đi. Bảo là lỡ tay, đến lần sau, có cái tặng phẩm đẹp lại xúm vào xem, lại xô, lại đẩy, lại rơi vỡ lần nữa, lại lỡ tay lần nữa”([3]). Bác là như thế. Một sai sót nhỏ cũng không bỏ qua, rút kinh nghiệm để sửa chữa, nhưng vẫn không nói nặng một lời nào.

Rất bình thường và cũng rất sâu sắc, phong cách sinh hoạt của Bác là tấm gương, là cách Bác dạy bảo cán bộ được làm việc gần Bác một cách thiết thực nhất.

Năm 1946, Bác sang Pháp với tư cách khách mời của Chính phủ Pháp, ở khách sạn, Bác không ngủ trên giường mà ngủ trên sàn, ăn sáng vào lúc sáu giờ, và tự giặt lấy quần áo lót… Các đồng chí cùng đi cảm thấy kỳ lạ vì giữa một thủ đô hoa lệ, thành phố ánh sáng như Paris mà Bác cứ khăng khăng giữ những thói quen ở trong nước. Nhưng sau đó thì ai cũng hiểu rằng, Bác muốn cho tất cả cùng theo gương Bác để tự kiềm mình trước mọi cám dỗ của cuộc sống ở đây. Đồng thời, Bác cũng nhắc nhở mọi người rằng nước mình còn nghèo, mà cái nghèo thì không phải dễ dàng nhanh chóng khắc phục, còn phải chịu đựng nó lâu dài, vậy thì thói quen sống giản dị, khiêm tốn là thói quen tốt, cần rèn luyện để giữ nó.

Một nhà báo Australia viết rằng: Người ta không thể trở thành một Cụ Hồ Chí Minh, nhưng ở Cụ Hồ, mỗi người có thể học một số điều làm cho mình trở thành tốt hơn. Cả cuộc đời Bác là tấm gương sáng về sự tận tụy, đức hy sinh vì nước, vì dân, không một chút riêng tư. Bác đã xa chúng ta, nhưng nhân dân ta vẫn còn tìm thấy Bác, vẫn được gặp Bác trong từng hành động cách mạng, trong tình thương yêu với già trẻ, gái trai, trong nét sinh hoạt đời thường rất giản dị, chan hòa, chừng mực, điều độ, ngăn nắp, yêu lao động, rất quý trọng thời gian, chẳng có ham muốn danh lợi riêng cho mình.

Hơn 40 năm đã trôi qua, mỗi một câu chuyện về Bác đều trở thành một bài học vô giá về nhân cách, về đạo đức cho mỗi chúng ta học tập và làm theo trong cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” mà Đảng và Nhà nước ta phát động. Việc làm theo tấm gương đạo đức của Bác đã và đang trở thành hành động tự giác, tích cực của nhiều cán bộ, đảng viên, quần chúng trên mọi miền đất nước. Tư tưởng của Bác, tấm gương đạo đức của Bác vẫn đang bay cao, tỏa sáng, để tạo dựng nên lớp lớp những chiến sĩ, những cán bộ, những con người của thế hệ Hồ Chí Minh mới trọn đời vì nước, vì dân, vì hòa bình, độc lập và sự tiến bộ trên thế giới. Đúng như lời thủ tướng Ấn Độ I.Gandi đã từng ca ngợi: “Tên tuổi của Người sẽ trường tồn như nhân dân của Người. Đức độ lượng, tính giản dị, tình yêu nhân loại, sự tận tụy hy sinh và lòng dũng cảm của Người sẽ cổ vũ các thế hệ mai sau”([4]).

Bùi Kim Hồng
Giám đốc Khu di tích Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch


[1Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.380

[2Bác Hồ sống mãi với chúng ta, Nxb Chính trị quốc gia, t.2, tr.205

[3Bác Hồ sống mãi với chúng ta, Sđd, t.2, tr.595

[4Thế giới ca ngợi và thương tiếc Hồ Chủ tịch, Nxb Sự thật, 1970, t.1, tr.160

baodientu.chinhphu.vn

Chủ tịch Hồ Chí Minh với bài Quốc ca Việt Nam

Quảng trường Ba Đình ngày 2.9.1945. Ảnh: Tư liệu

Quốc ca Việt Nam ra đời đã được 67 năm – cùng với Quốc kỳ, Quốc huy và Thủ đô Hà Nội – Quốc ca Việt Nam đã hòa vào máu thịt của mỗi người dân đất Việt.

Dù ở đâu trên trái đất này, nếu ai đó hát Quốc ca Việt Nam thì hãy tin rằng đó là người bạn, người đồng chí của chúng ta. Nhưng cũng ít ai biết rằng Quốc ca Việt Nam gắn liền với Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những ngày sôi nổi của Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám. Chính Người đã lựa chọn và sửa chữa để trở thành bài ca bất diệt của nước Việt Nam mới.

Trong những ngày tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8 năm 1945, Hội nghị quốc dân đã được thành lập với Chủ tịch là Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch là Trần Huy Liệu. Hội nghị quốc dân đã nhất trí thông qua Quốc kỳ, Quốc huy và Thủ đô của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Thủ đô là Hà Nội – đất đế đô ngàn năm văn vật, xứ sở của rồng vàng và bóng nước Hồ Gươm. Quốc kỳ là lá cờ nền đỏ, giữa có ngôi sao vàng năm cánh. Còn bài Quốc ca, Hồ Chủ tịch đã giao nhiệm vụ tuyển chọn cho một số người với yêu cầu: Quốc ca phải hào hùng, thể hiện ý chí của dân tộc, lời lẽ dễ hiểu, dễ phổ cập trong dân chúng.

Ban tuyển chọn Quốc ca đã trình lên Hội nghị quốc dân và Hồ Chủ tịch 3 bài là: “Cùng nhau đi Hồng binh” của Đỗ Nhuận, “Diệt phátxít” của Nguyễn Đình Thi và “Tiến quân ca” của Văn Cao, cả 3 bài hát đều có thể trở thành Quốc ca, vấn đề ở chỗ chỉ được phép lấy một bài thật tiêu biểu. Và Bác Hồ đã có sự lựa chọn chính xác, để thông qua Ban Thường vụ Hội nghị quốc dân và Ban Thường vụ Trung ương Đảng.

Về bài “Cùng nhau đi Hồng binh” thì Hồ Chủ tịch không đồng ý, tuy Người không nêu rõ lý do. Nhưng có lẽ “Cùng nhau đi Hồng binh” lời ca còn đơn giản, còn lặp lại điệp khúc nhiều lần. Cho dù bài hát có ngôn ngữ dễ hiểu, nôm na và dễ phổ cập.

Được Nguyễn Đình Thi sáng tác trong cao trào kháng Nhật cứu nước, “Diệt phátxít” là ca khúc rất được phổ biến lúc bấy giờ, nhất là đối với tầng lớp thanh niên, học sinh. Âm điệu và lời hát hào hùng, như một tiếng kèn xung trận thúc giục mọi người xông lên giết giặc cứu nước. Tuy nhiên, bài hát cũng không được Bác Hồ lựa chọn, theo Người thì ca khúc này lời hơi dài, khó phổ cập. Mặt khác, một số từ ngữ dùng vào Quốc ca là chưa thích hợp. Ví dụ như câu “Diệt phátxít cùng bầy chó đê hèn của chúng”. Có lẽ Người muốn quốc ca không những sâu sắc về nội dung, mà còn phải đẹp về lời ca, từ ngữ.

“Tiến quân ca” được Văn Cao sáng tác đầu năm 1945. Cùng với “Du kích ca”, “Tiến quân ca” như mang được cả hình ảnh những chiến sỹ giải phóng từ chiến khu trở về. Bài hát gợi lên không khí trang nghiêm, hào hùng của những đoàn quân theo nghĩa lớn, sẵn sàng chiến đấu hy sinh “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Bài hát có nhịp điệu thong thả như một khúc quân hành, như hiệu lệnh cho cả dân tộc tiến lên theo cờ Đảng để giải phóng non sông. Mặc dù bận rất nhiều công việc, Bác Hồ đã xem xét và sửa chữa một cách cẩn thận bài “Tiến quân ca”. Người đã sửa chữa một số câu từ, như câu mở đầu của “Tiến quân ca”, nguyên bản là “Đoàn quân Việt Minh đi…”, Người đã sửa lại là “Đoàn quân Việt Nam đi…”; hoặc câu “Thề phanh thây uống máu quân thù…”, Người đã sửa lại “Đường vinh quang xây xác quân thù…”. Rõ ràng những câu chữa lại của Bác Hồ chính xác hơn, đẹp hơn và đáp ứng yêu cầu của bài Quốc ca Việt Nam.

Sau khi cân nhắc kỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ban Thường vụ Trung ương Đảng và các vị trong Hội nghị quốc dân đã nhất trí lấy “Tiến quân ca” làm Quốc ca của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Ngày 2/9/1945, trong không khí tưng bừng của lễ Tuyên ngôn Độc lập, Quốc ca Việt Nam đã vang lên trong hàng triệu trái tim của con dân Việt Nam, báo hiệu một kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc. Nhắc lại sự kiện này, cố nhạc sĩ Văn Cao đã nói: Đây là hạnh phúc lớn lao nhất của đời tôi, là niềm tự hào không bao giờ quên khi được lãnh tụ kính yêu sửa chữa một tác phẩm nghệ thuật của mình.

Quốc ca Việt Nam đã trở thành một phần máu thịt của Tổ quốc và chắc chắn còn trường tồn rất lâu dài với lịch sử dân tộc. Cũng như bài Mácxâye, Quốc ca Pháp đã có lịch sử trên 200 năm, mặc dù nước Pháp từ cách mạng tư sản 1789 đến nay đã có bao nhiêu thay đổi. Cùng với suy nghĩ như vậy, tin chắc rằng “Tiến quân ca” mãi mãi là Quốc ca Việt Nam theo cùng với dân tộc trong công cuộc xây dựng “đất nước dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.

(Theo lời kể của cố nhạc sĩ Văn Cao và nhạc sĩ Lê Mây)

Theo Báo Lao động
Thúy Hằng (st)
bqllang.gov.vn