Thư viện

Bác Hồ với Thủ đô

Việt Nam - Hồ Chí MinhLà người làm sử, tôi cứ nghĩ mãi  một câu hỏi: Bác Hồ sinh ra từ mảnh đất Nghệ An (1890), lớn lên theo cha vào Huế (1905) rồi đi tiếp về phương Nam, đến thành phố Sài Gòn (1911) để rồi từ đó xuất dương. Bôn ba khắp 5 châu bốn biển, 30 năm sau con người ấy trở về với Tổ quốc từ một cửa ngõ địa đầu phía Bắc (1941).

Con người ấy dường như chưa một lần đặt chân lên Hà Nội. Hơn thế nữa  nếu tính từ khi nhà Nguyễn lập triều, vua Gia Long đã rời đô từ Thăng Long vào Huế (1802) thì Hà Nội đã không còn là kinh đô từ ngót một thế kỷ rưỡi. Tên gọi Thăng Long bị biến cải chữ (hán) “Long” là “rồng” thành “Long là sự hưng thịnh” để xóa bỏ danh tính gắn với vương triều; rồi hạ thấp tường thành; rồi phá bỏ thành quách cũ để xây thành “vô băng” làm tỉnh thành Hà Nội…

Thực dân biến nước ta thành thuộc địa còn đang tâm chia nước ta làm ba mảnh, chỉ coi Hà Nội là một trung tâm hành chính của Bắc kỳ mặc dù có xây Phủ toàn quyền toàn Đông Dương ở Hà Nội cũng  giống như ở Sài Gòn…

Vậy mà cái tâm thức  nào đã khiến vị lãnh tụ của cuộc cách mạng, tại Quốc dân đại hội họp ở Tân Trào đã đưa ra quyết định sáng suốt chọn Hà Nội làm Thủ đô của nước Việt Nam độc lập, đã nối lại mạch nghiệp xưa của kinh đô Thăng Long – Đông Đô?

Rồi lần đầu tiên Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu Việt Bắc trở về Thủ đô Hà Nội sau khi thành phố đã giành chính quyền trước khi nhận được bản quân lệnh số 1. Vì sao nhà cách mạng từng trải ấy lại chọn chỗ ở là nhà của một trong những người giàu nhất, tại giữa một khu phố giàu nhất Hà Nội? Cũng tại ngôi nhà này vị Chủ tịch lâm thời đã soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ, đã chủ trì nhiều cuộc họp quan trọng và tiếp đón nhiều thượng khách…?

Với Bác, cách mạng là sự nghiệp của toàn dân. Với Bác, tấm áo giáp chở che cách mạng không chỉ là những người cùng khổ mà “hễ là người Việt Nam đều có tấm lòng yêu nước”. Do vậy mà Hà Nội dường như không xa lạ với nhà cách mạng xứ Nghệ.

Rồi trong những ngày căng thẳng nhất của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, Bác vẫn gắn bó với Hà Nội và tiên đoán rằng chính  bầu trời của Hà Nội sẽ là nơi diễn ra trận quyết đấu định đoạt cuộc chiến. Hơn ba năm sau ngày Bác ra đi, mùa đông 1972, trận “Điện Biên Phủ trên không” với sự liên tưởng hào hùng về hình ảnh rồng lửa Thăng Long quật nhào B52 của đế quốc Mỹ trên bầu trời Thủ đô đã chứng thực cho lời tiên đoán của Bác. Đầu năm 1973, Hiệp định Paris đã “đánh cho Mỹ cút” và hai năm sau đó ngụy bị đánh nhào… Cả nước vang lên bài ca “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”.

Trả lời cho những câu hỏi trên, có thể tìm thấy dưới chiều sâu của di chỉ hoàng thành, pho sử đầy thuyết phục về truyền thống ngàn năm văn hiến của kinh thành Thăng Long xưa. Và có một câu trả lời nữa đã được ghi tạc trong sử sách: Trong lịch sử  Việt Nam, có hai triều đại là nhà Hồ ở đầu thế kỷ 15, và nhà Nguyễn ở đầu thế kỷ 19, đã nhấc chân lên khỏi mảnh đất thiêng, dời đô khỏi mảnh đất mà đức Lý Công Uẩn đã viết trong “Chiếu dời đô”: “Đó là nơi thắng địa, tụ hội nhìn khắp bốn phương, là nơi đô thành bậc nhất của đế vương muôn đời… mưu toan nghiệp lớn, tính kế lâu dài cho con cháu đời sau”. Và lịch sử cả hai triều đại ấy, dài ngắn khác nhau đều không tránh khỏi sự suy vong trước nạn ngoại xâm.

Thật dễ hiểu, Bác Hồ đã từng mở đầu một bài diễn ca bằng lời căn dặn: “Dân ta phải biết sử ta”.

Dương Quốc Trung
Theo Việt Báo
Kim Yến (st)

bqllang.gov.vn

Bác Hồ, người trồng cây vĩ đại

Các tao nhân mặc khách phương Đông rất yêu thiên nhiên và hay trồng cây, nhưng đến với thiên nhiên là để thoát tục, và trồng cây chỉ mang tính tượng trưng với mấy gốc liễu, mấy khóm cúc, mấy sào đậu, luống rau để thưởng thức hay tiêu sầu. Bác cũng yêu thiên nhiên và thích trồng cây, nhưng với một tư tưởng và phong cách hoàn toàn khác. Bác gắn chặt thiên nhiên với cuộc đời. Bác trồng cây thực sự với một mục đích dân sinh kinh tế thiết thực và lâu dài.

Bh ngươi trong cay
Bác Hồ tham gia Tết trồng cây tại Bất Bạt, Hà Tây, 1969

Bác Hồ là người trồng cây vĩ đại. Yêu cây, trồng cây ở Bác thể hiện năm phẩm chất cách mạng cao đẹp.

Trước hết yêu cây, trồng cây ở Bác là cả một tấm lòng yêu nước, thương đồng bào. Hoa râm bụt là một hình tượng về tấm lòng yêu nước của Bác. Khi còn ẵm ngửa, Bác đã say sưa đùa giỡn với bông hoa râm bụt mà mẹ và chị buộc chỉ treo trước mặt. Trong hành trang đi tìm đường cứu nước, Bác luôn luôn mang theo những hình tượng dân tộc, trong đó có lòng thương người, nụ cười dí dỏm, Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, câu thơ Bà Huyện Thanh Quan, câu hát ru em và cả cây hoa râm bụt. Làm giỗ mẹ chẵn hai mươi năm trên đất Pháp, Bác vẫn tìm được hoa râm bụt cho gà thờ ngậm, đúng như câu ngạn ngữ ngàn xưa ông cha căn dặn “Gà thờ giỗ cha, gà ngậm ngọn trúc/ Gà thờ giỗ mẹ, gà ngậm hoa râm bụt”. Ngày hoạt động ở Xiêm, Bác nhắc anh em trồng cây râm bụt để nhớ về đất nước. Ngày ở chiến khu cũng như khi về ở Thủ đô Hà Nội, nơi Bác ở luôn luôn có cây râm bụt thân thương của quê nhà.

Cây vú sữa là một hình tượng của tấm lòng Bác luôn nhớ thương đồng bào Nam bộ. Năm 1955, đồng bào miền Nam gửi biếu Bác một cây vú sữa và một quả dừa. Cây vú sữa được Bác trồng giữa bờ ao cạnh ngôi nhà Bác ở đầu tiên trong Phủ Chủ tịch. Ngày ngày, tuy bận trăm công nghìn việc của Chủ tịch nước, nhưng trước giờ làm việc buổi sáng hay sau giờ làm việc buổi chiều, Bác Hồ đều chăm sóc tưới cho cây vú sữa. Năm 1958, Bác chuyển sang ở và làm việc bên nhà sàn. Bác cho chuyển cây vú sữa sang trồng cạnh nhà sàn, để Bác chăm sóc được thuận tiện hơn. Hàng ngày làm việc tại nhà sàn, luôn được nhìn thấy cây vú sữa, mỗi khi đi xa về chưa đến cổng nhà sàn Bác đã để ý nhìn cây xanh tốt thế nào. Thấy cây như thấy đồng bào miền Nam, vơi đi nỗi nhớ da diết miền Nam trong trái tim Người. Vào những năm cuối đời, khi sức khỏe đã giảm sút, nỗi nhớ miền Nam dâng tràn, Bác muốn vào miền Nam thăm đồng bào, đồng chí. Nhưng vì hoàn cảnh chiến tranh và sức khỏe nên Bác không vào được. Do vậy, ngày ngày chăm sóc và trông thấy cây vú sữa mang lại cho Bác cảm giác đang ở bên chiến sĩ, đồng bào miền Nam.

Thứ hai, yêu cây, trồng cây ở Bác là cả một chiến lược dân sinh kinh tế thiết thực và lâu dài. Các tao nhân mặc khách xưa kia cũng trồng cây, nhưng chỉ là mấy gốc liễu, mấy khóm cúc hay vài luống rau để thưởng thức hay tiêu sầu. Còn Bác trồng cây với một mục đích nhân sinh rõ ràng. Việc trồng cây của Bác tùy hoàn cảnh thực tế cụ thể mà có khác. Ngày mới giành lại được độc lập, dân ta vừa qua một trận đói chết hai triệu người chưa kịp hồi hơi, Bác đã phát động ngay việc trồng rau màu cứu đói. Ngày ở căn cứ cách mạng hay chiến khu, Bác chủ trương trồng rau màu là để góp phần cải thiện đời sống cán bộ, chiến sĩ, giảm nhẹ sự đóng góp của nhân dân. Bác thả cải xoong trên dòng suối, làm vườn rau bên lán ở, hướng dẫn chiến sĩ rải đất trồng rau trên vách đá. Khi kháng chiến chống Pháp thắng lợi, cải cách ruộng đất thành công, cái ăn cái mặc của dân bước đầu đã được đảm bảo, Bác liền phát động Tết trồng cây chuẩn bị cho dân có gỗ làm nhà. Bác kêu gọi trồng cây gây rừng, phủ xanh đồi trọc, là mong trồng những rừng vàng mang lại những núi tiền vô tận làm giàu cho Tổ quốc.

Thứ ba, yêu cây, trồng cây ở Bác là cả một phong cách khoa học. Bác gắn bó với cây với bản chất của một người lao động cần cù đất Việt. Ngày ở Pháp có lúc Bác đã kiếm sống bằng nghề làm vườn. Ngày hoạt động ở Xiêm, rồi ở khu căn cứ Pác Bó, Tân Trào, chiến khu Việt Bắc, cho đến khi về ở Thủ đô Hà Nội, Bác luôn luôn tăng gia sản xuất một cách hoàn toàn tự giác và tổ chức lôi cuốn mọi người cùng làm theo. Bác không phải trồng cây với tính tượng trưng để động viên phong trào, mà Bác đã lao động thường xuyên và thật sự. Bác trồng cây với một phong cách khoa học. Trước hết phải chọn cây gì có lợi ích thiết thực, hiệu quả rõ ràng, trồng cây nào phải tốt cây ấy. Khi trồng rau phục vụ nhà ăn, Bác đã chọn cây cải canh thu hoạch nhiều lần, chứ không phải cây cải củ chỉ thu một lượt. Đi đâu thấy cây gì sinh lợi được cho dân là Bác đem về trồng như cây cọ dầu Hải Nam. Cảm động nhất là Bác đã du nhập cây săng xanh không rụng lá về định làm cây đường phố cho người quét rác đỡ vất vả.

Thứ tư, yêu cây, trồng cây ở Bác còn là một phương thức trồng người. Liên hệ ngôn ngữ phương Tây thấy từ Trồng trọt trong tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga cùng có một nguồn gốc chữ La – tinh cultura, đều có hai nghĩa; vừa là trồng trọt, vừa là văn hóa. Cái cây xưa kia mọc tự nhiên ở trong rừng hay ngoài bãi, con người đã biết lấy bàn tay và khối óc của mình mà thuần hóa nó, nghĩa là trồng trọt nó, vì lợi ích của bản thân con người, cái cây được trồng trọt đó trở thành một sản phẩm văn hóa. Và nói rộng ra, tất cả những cái gì do lao động và tư duy con người cải tạo hay sáng tạo đều gọi là văn hóa. Chính bản thân con người, một động vật sinh ra trong tự nhiên, có thể nói, nó tự trồng mình bằng lao động và tư duy để trở thành con người, và con người cũng là một sản phẩm văn hóa. Văn hóa tựu trung là cái làm cho con người khác con vật.

Quả thật, lời nói của Hồ Chủ tịch, đặt song song trồng cây và trồng người, có một ý nghĩa triết lý và thực tiễn rộng lớn, bao trùm. Bác Hồ quan tâm da diết đến việc trồng người, nhất là việc giáo dục thanh thiếu niên. Bác từng nói: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có con người xã hội chủ nghĩa”, và, vì tương lai lâu dài của sự nghiệp cách mạng, ngay trong Di chúc của Người để lại, Bác cũng nhắc nhở đến việc chăm lo giáo dục cho các thế hệ mai sau… Ta nghĩ đến Nguyễn Trãi xưa đi tìm cái thiện chân, thiên tính trong “đạo tự nhiên”. Ông chủ trương “ẩn cả” (tức đại ẩn) ngay giữa nơi triều đường để lo việc nước việc dân. Cả hai vị anh hùng dân tộc đều có cái phong thái của bậc hiền triết phương Đông, nắm được cái triết lý con người thống nhất với thiên nhiên như một thể hoàn chỉnh, và đều mang tấm lòng nhân ái mênh mông, tựu trung là để lo việc trồng cây và trồng người.

Thứ năm, yêu cây, trồng cây ở Bác là một phong thái triết học cách mạng phương Đông. Theo Giáo sư Trần Văn Giàu: Có tâm hồn cách mạng, Cụ Hồ thương người. Có tâm hồn thi nhân, Cụ Hồ yêu thiên nhiên. Yêu thiên nhiên của Cụ Hồ và yêu thiên nhiên của Lão Trang có khác và khác xa. Cụ Hồ yêu thiên nhiên không phải để tiêu dao, xa trần tục. Cụ Hồ yêu thiên nhiên mà gắn liền thiên nhiên với cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc và giải phóng con người. Ở thiên nhiên Cụ Hồ thấy một con người cổ vũ, chia vui buồn. Ở thiên nhiên Cụ Hồ cũng tìm thấy một sự quân bình trong tâm hồn sau những giờ làm việc căng thẳng.

Ở Cụ Hồ, thiên nhiên như có tính người, thiên nhiên được nhân hóa, thiên nhiên là bạn tri âm, bạn chiến đấu của Người… Yêu nước, yêu dân, yêu con người một cách nồng nhiệt, Cụ Hồ cũng yêu thiên nhiên một cách nồng thắm, hòa hiệp thiên nhiên với cuộc đấu tranh vì phẩm chất và tự do của con người. Ắt có quan hệ gần gũi giữa tình yêu thiên nhiên với trạng thái tâm hồn thanh thản, tỉnh táo, ung dung trong lúc bình cũng như trong khi biến.

Tìm hiểu tình yêu thiên nhiên, quan điểm lao động và sự nghiệp trồng cây của Bác, ta thấy Bác quả là một con người vĩ đại, trọn đời lo dân lo nước. Tết trồng cây là một tục lệ tốt đẹp Bác để lại cho dân ta, không ngừng làm đẹp non sông, làm giàu cho dân nước.

Nguyễn Thế Nữu
Theo http://nongnghiep.vn
Thu Hiền
(st)

bqllang.gov.vn

Bác Hồ với điện ảnh Việt Nam

Ngành điện ảnh Cách mạng Việt Nam đã được Bác Hồ quan tâm, chú trọng từ những ngày còn trong trứng nước. Khi điều kiện có thể, Người đã quyết định thành lập Doanh nghiệp Quốc gia chiếu bóng và chụp ảnh Việt Nam. Những bộ phim đầu tiên ra đời, Bác Hồ luôn dành thời gian xem phim. Đáp lại, Điện ảnh nước nhà cũng đã ghi lại được rất nhiều hình ảnh quý báu về Người trong những năm tháng kháng chiến… Và Điện ảnh cũng đã ở bên Bác trong những giờ phút cuối cùng trước khi Người vĩnh biệt chúng ta… 

Ngày 20/10/1946, chiến hạm Daymôngđuêcvin cập bến Hải Phòng đưa Bác trở về sau khi Người sang Pháp “làm thượng khách”. Bác dành nhiều phần “quà” cho điện ảnh. Bác nói: “có bột sẽ gột nên hồ”. Phần quà gồm: Hai bộ phim do Kiều bào Võ Quý Huân và Mai Trung Thứ quay: Phái đoàn Phạm Văn Đồng tại hội nghị Phôngtennơblô và Sức sống 25.000 kiều bào tại Pháp cùng bộ máy chiếu lưu động 16 ly Pallné và Débrie, bộ máy ghi tiếng vào đĩa mềm hiện đại. Hai bộ phim này đã được Ban ĐANA (điện ảnh, nhiếp ảnh ban đầu chỉ có 2 anh em Phan Nghiêm, Hoàng Thái sau thêm 4 người) đem chiếu lưu động suốt miền Bắc và miền Trung.

Toàn quốc kháng chiến, Ban ĐANA còn nằm trong Nha thông tin tuyên truyền trực thuộc Bộ Thông tin dời lên hang Chùa Trầm. Đúng giao thừa tết kháng chiến đầu tiên năm 1947, Bác đến thăm Ban ĐANA, Ban Vô tuyến điện, động viên anh em khắc phục thiếu thốn, đoàn kết nhau một lòng. Chợt Bác nhìn sang kỹ sư Pham Nghiêm – Người được giao xây dựng Ban ĐANA thấy anh mặc một chiếc áo vét tông có miếng rách ở vai đang điều khiển máy ghi âm. Bác chỉ vào chỗ rách và hỏi nhỏ Trần Kim Xuyến: “ở đây có cháu gái nào không?”…

Bác Hồ góp ý về nghiệp vụ cho nghệ sĩ điện ảnh cũng rất khéo léo và sâu sắc. Tại chiến khu Việt Bắc, có lần đạo diễn Phạm Văn Khoa đi quay tài liệu Bác Hồ thăm bà con ở Thái Nguyên. Đạo diễn bố trí xong mời Bác ra nói chuyện với bà con ở bên chiếc chõng tre có để sẵn nải chuối, ấm nước. Rất tự nhiên, Bác tới chiếc chõng và vui vẻ nói: “Đạo diễn mời Bác cháu ta đóng phim đấy!”. Nhưng rồi, máy quay trục trặc. Bác vui vẻ nói với bà con: chúng ta chiều chú Khoa làm lại lần nữa. Sau khi xong việc, Bác gọi đạo diễn tới: “Các chú có biết người làm nghề này ở Pháp họ gọi là gì không? Họ gọi là người săn hình ảnh. Đã săn thì phải sẵn sàng. Có cảnh tốt là quay, còn bố trí sẽ mất tự nhiên”.

Bác Hồ cũng đã từng làm người thuyết minh “chữa cháy” cho điện ảnh. Đó là dịp đạo diễn Vũ Phạm Từ và Nguyễn Hùng đem phim chiếu phục vụ Lớp Chỉnh huấn Trung cao tại Tân Trào. Hý hửng vì có một bộ phim nước ngoài, hai nghệ sĩ đem phim ra chiếu. Phim chưa có thuyết minh nên người xem chẳng hiểu gì. Bác bình tĩnh xem xong cuốn 1 rồi nói đưa micro cho Bác. Bác bắt đầu thuyết minh: đây là bộ phim Hoa bông của Liên Xô… cứ vậy khi chiếu hết từng cuốn Bác lại thuyết minh. Cuối buổi, Bác tới bên hai nghệ sĩ đang dọn máy: “Hôm nay Bác nghe được tiếng Nga nên thuyết minh giúp. Từ nay nếu chưa rõ nội dung phim thì đừng chiếu. Đầu bếp thì phải biết mình làm món gì chứ!”.

Theo sát những bộ phim tài liệu, những bộ phim truyện đầu tiên nhưng không bao giờ Bác “phê phán” hay áp đặt ý kiến chủ quan của mình. Nhiều nghệ sĩ như: Vũ Năng An, Vũ Phạm Từ, Bùi Đình Hạc, Lý Thái Bảo… khi đem phim lên chiếu phục vụ Bác, đều kể: Bác ngồi xem rất chăm chú. Trong khi đó, các nghệ sĩ lại chăm chú quan sát xem thái độ của Bác như thế nào. Hết phim, các nghệ sĩ đều nhao nhao xin Bác nhận xét. Đáp lại, Người quay sang hỏi những chiến sĩ bảo vệ, những người cùng xem… cảm tưởng của họ. Rồi Bác nói: “Các chú làm phim là để chiếu cho nhân dân xem. Phải lắng nghe ý kiến của nhân dân để làm cho hay cho tốt. (Bác cười vui vẻ). Nếu chỉ chờ nghe ý kiến của Bác thì… Bác khen các chú tự mãn, Bác chê thì các chú buồn”.

Đoàn kết là lời căn dặn của Bác không chỉ với các chiến sĩ. Với các nghệ sĩ điện ảnh, ngay từ những buổi đầu còn là học sinh Bác cũng rất quan tâm. Đó là khoá học của những nghệ sĩ tên tuổi sau này: Trà Giang, Lâm Tới, Trần Nga, Phi Nga, Lịch Du, Minh Châu, Ngọc Điệp… do giáo sư chuyên gia Azidaibe Paghimôp – đạo diễn Công huân của nước Cộng hoà Adécbaidan, giảng dạy. Khi tiễn Bác ra cổng, Người chưa lên xe ngay mà quay lại hỏi: “cháu nào hãy nói cho Bác nghe chiếc xe Bác đi đây, bộ phận nào quan trọng nhất?”. Học sinh trả lời: người thì nói cái đầu máy, người thì nói xăng dầu, bốn cái lốp… rồi chẳng ai chịu ai cứ nhao nhao lên. Cuối cùng tất cả quay lại nhờ bác phân định. Bác cười, chỉ tay vào những chiếc đinh vít ở bánh xe hỏi: “nếu không có những cái này xe có chạy được không? Như vậy có quan trọng không?”. Rồi Bác ôn tồn: “Ngôi sao sáng nhờ có trời tối. Nếu không có quay phim, không có những người sản xuất ra phim, không có những người ánh sáng thì ai thấy được các cháu là ngôi sao màn bạc. Vậy thì không có lý do gì những ngôi sao sáng kia lại xem thường một vòm trời tối. Rồi đây, các cháu sẽ thể hiện những con người mới để dân noi theo, những con người xấu để dân soi mình tránh. Nếu các cháu không khiêm tốn học hỏi để làm tốt, làm đúng thì dân sẽ bảo là bọn xướng ca vô loài. Các cháu học tốt tới đâu mà dân còn nói như vậy thì Bác sẽ không thấy vui…”.

Bác Hồ quan tâm, chăm lo nhiều đến ngành điện ảnh cũng là điều dễ hiểu. Ngay từ những năm bôn ba nước ngoài, Người đã hiểu sức mạnh của một ngành nghệ thuật mới. Ngoài ra, ít ai biết, Bác còn là bạn thân với nhiều nghệ sĩ nổi tiếng trên thế giới như: Hăngri Bác buýt, hoạ sĩ Picatxô, Pôn Vayăng Cutuyariê… và đặc biệt với vua hề Sác Lô từ cuối năm 1911 tại Mỹ…

Trong bài viết này, chúng tôi không thể nói hết được những quan tâm của Bác Hồ với ngành điện ảnh Việt Nam, Nhưng những gì Bác đã dạy bảo sẽ in đậm mãi trong trái tim các thế hệ nghệ sĩ điện ảnh Việt Nam.

Nguyễn Thắng (CTV)
cpv.org.vn

“Bác Hồ” – Tại sao lại gọi thế?

“Bác Hồ”, định ngữ này được dùng ở khắp nơi. Thời gian cùng những thử thách làm Cụ thêm uy nghiêm. Cùng với năm tháng, khuôn mặt thân thuộc, có thêm một hình ảnh thành kính. Năm 1958 đó là hình ảnh một chiến sĩ gần 60 tuổi mà người ta treo ở khắp nơi, giữa các tấm ảnh lãnh tụ Liên Xô và Trung Quốc.

BacHoChủ tịch Hồ Chí Minh

Từ nửa thế kỷ nay, Cụ đã đào luyện và hướng dẫn cách mạng Việt Nam giành độc lập và thống nhất. Trên góc độ Việt Nam, đó là một Lênin đã sống lâu để chiến thắng chủ nghĩa quốc xã, một Găngđi đã rời bỏ guồng kéo sợi để xây dựng nhà máy và lãnh đạo phong trào phản kháng. Danh tiếng quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh, uy tín của Cụ, sự kính trọng của mọi người đối với Cụ trong các giới cộng sản ngoài nước và trong phần lớn các nước “Không liên kết”, đọc thấy rõ ràng. Một người như Nêru đã coi Cụ là bạn. Khi Cụ tham gia Hội nghị các Đảng Cộng sản ở Praha năm 1959, Cụ đã được bao quanh bởi một sự cảm phục khiến các chiến sĩ nước ngoài xúc động.

Cụ Hồ, trước hết là một phong cách và một kiểu quan hệ với nhân dân. Lời ăn tiếng nói mà Cụ đã dùng để nói chuyện với thiếu nhi và chiến sĩ; với cán bộ và phụ lão, người ta đã trích dẫn đủ. Đây là một trong những chìa khóa để hiểu được nhân vật, văn chương kỳ diệu, rõ ràng. Người ta không thấy giọng văn này ở cả Giôdép Xtalin lẫn Uynxtơn Sớcsin hoặc Sáclơ Đờ Gôn. Còn Cụ Hồ thì có thể vươn tới giọng nói của lịch sử. Từ đó có bản chất khác thường của các mối quan hệ giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam. Những mối quan hệ có thể tóm tắt trong hai chữ mà báo chí và bộ máy tuyên truyền của Việt Nam hằng gắn liền với cái tên ông Hồ: “Cụ” và “Bác”. “Bác Hồ” tại sao gọi thế? Người ta có thể đi tìm sự giải thích trong sự việc là, đối với các bạn chiến đấu trẻ hơn Cụ chừng 20 tuổi thì xưng hô như vậy là thuận hơn cả. Gọi bằng “Ông” thì quá xa. Còn chữ “Anh” chỉ dùng cho những người bằng vai phải lứa. Chữ “đồng chí” là dùng với đảng viên. Nhưng cũng phải đặt chữ “Bác” vào trong tập tục xã hội Việt Nam xuất thân từ gốc gác Đạo Khổng của nó.

“Bác” là tiếng để gọi người anh của cha, người trong gia đình có tư cách và uy tín cao hơn cha. Khái niệm về tuổi tác là khái niệm rất quan trọng trong xã hội Việt Nam cũ. Người già đã và vẫn là nhân vật then chốt của một tổ chức xã hội lấy ruộng đất, làng mạc và gia đình làm cơ sở. Gia đình này được sắp xếp thứ bậc xung quanh bàn thờ tổ tiên. Đây là một di sản tinh thần cực kỳ sinh động mà cách mạng không hề đụng chạm tới.

Việc trìu mến gọi bằng “Bác Hồ” là có tính chất gia đình, biểu thị lòng yêu quý, và càng biểu thị lòng kính trọng. Thứ bậc, họ hàng có thể không hoàn toàn còn hiệu lực như trước đây nhưng nó vẫn là sự tham chiếu điển hình.

(Trích từ Hồi ký “Người là Hồ Chí Minh”, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 1995.)

Tâm Trang (st)
bqllang.gov.vn

Dân với Chính phủ, Chính phủ với dân

Bác Hồ và Chính phủ cách mạng đầu tiên của Việt Nam ra mắt quốc dân

Cách đây 63 năm, ngày 15 tháng 10 năm 1949, Báo Sự Thật đã đăng bài viết “Dân vận” của X.Y.Z (bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh). Bài báo rất ngắn gọn, nhưng vô cùng sâu sắc, súc tích và đầy đủ. Cho đến nay, bài báo này vẫn được coi là “cẩm nang” của công tác dân vận. Đặc biệt, ngay từ đó, Bác Hồ đã nhấn mạnh “Nước ta là nước dân chủ”:

“Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.

Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.

Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.

Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.

Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra.

Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.

Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.

Không phải đến năm 1949, mà ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập nên nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, trong nhiều bài viết Bác đã khẳng định địa vị làm chủ của người dân và bổn phận phục vụ của các cấp chính quyền từ Trung ương. Bác Hồ đã khẳng định rõ ràng “Chính phủ là công bộc của dân” khi Người lấy chính câu này làm tít bài báo đăng trên Báo Cứu quốc, số ra ngày 19-9-1945. Trong bài báo đó Bác Hồ đã nói: “Người xưa nói: Quan là công bộc của dân, ta cũng có thể nói: Chính phủ là công bộc của dân”; cho nên “Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết. Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”. Trong “Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng” đăng trên Báo Cứu quốc ngày 17-10-1945, Bác Hồ tiếp tục khẳng định: “Các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc đến các làng đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật”. Trong một lần nói chuyện tại Trường Công an trung cấp khóa 2, Bác nói: “Từ Chủ tịch nước đến giao thông viên cũng vậy, nếu không làm được việc cho dân, thì dân không cần nữa”. Thậm chí, trong một lần nói chuyện với đại biểu nhân sĩ trí thức, phú hào tỉnh Thanh Hóa, Bác Hồ còn quả quyết rằng “Là đày tớ chung của dân, từ Chủ tịch toàn quốc đến làng. Dân là chủ thì Chính phủ phải là đầy tớ. Làm việc ngày nay không phải để thăng quan, phát tài. Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ. Nhưng khi dân dùng đày tớ làm việc cho mình, thì phải giúp đỡ Chính phủ. Nếu Chính phủ sai thì phải phê bình, phê bình nhưng không phải là chửi”.

Như vậy, qua những lời căn dặn của Bác, cho đến nay, quan điểm chủ đạo Chính phủ là “do dân cử ra”, để phục vụ dân, đại diện cho dân quản lý nhà nước, thực thi pháp luật, không được làm gì có hại cho dân vẫn còn nguyên giá trị. Thế nhưng, trong thực tế hiện nay, đây đó trong cả nhận thức cũng như việc làm lại có những hiện tượng ngược lại với quan điểm nói trên. Chẳng hạn, cơ chế xin – cho là biểu hiện của sự ban phát: Có người xin và có người cho. Người xin ở đây là người dân, những cơ quan, tổ chức đại diện cho người dân ở cấp dưới. Người cho ở đây là các cấp chính quyền, các cơ quan nhà nước và cao hơn là Chính phủ. Thường thì mọi quan hệ cho – nhận là mối quan hệ không dựa trên nghĩa vụ và quyền lợi mà dựa trên sự hảo tâm đầy cảm tính và tùy tiện. Về bản chất chế độ ta, Chính phủ do dân cử ra, hay nói một cách thị trường thì là những người làm thuê cho dân. Tiền lương, mọi chi phí cho bộ máy, phương tiện làm việc, đi lại của bộ máy hành chính lấy từ nguồn thuế của người dân và những tài sản quốc gia từ khai thác tài nguyên thiên nhiên. Chính phủ khi tạo ra của cải vật chất thông qua điều hành, quản lý sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ thì của cải đó thuộc về ông chủ, tức người dân. Ấy thế mà khi những người đày tớ làm thất thoát hàng chục, hàng trăm nghìn tỷ đồng thì “người đày tớ” vẫn không bị “đuổi việc” không bị bồi thường nghĩa là sao?

Người dân, từ chỗ là ông chủ lại trở thành người phụ thuộc và phải đi xin Chính phủ. Chính vì vậy, người dân trở thành người lệ thuộc và mỗi lần đến cơ quan công quyền thường lo sợ vì cứ nghĩ là mình phải đi xin và là người chịu ơn các cơ quan công quyền, cũng như những cá nhân thực thi công vụ ở đó. Nếu may mắn, người dân gặp được những người thi hành công vụ biết điều, tốt bụng thì được nhờ. Không may gặp phải những người gây khó khăn, nhũng nhiễu, cản trở thì người dân cũng chỉ cam chịu, không biết kêu ai bởi “quan thì xa, bản nha thì gần”. Thực trạng khá phổ biến như trên trong xã hội hiện nay nói lên một thực tế ngược đời rằng: Những người “làm thuê” cho dân lại đang đứng ở vị trí của “ông chủ”. Nhiều người làm thuê này lại ý thức, tự hào về địa vị “ông chủ” của mình, tự thấy mình đứng ở phía trên người dân để ban phát, dạy bảo.

Do vậy, vấn đề đặt ra hiện nay không phải chỉ là câu chữ, ngữ nghĩa nữa mà phải thật sự trao quyền làm chủ cho người dân, nhất là dân chủ trực tiếp. Để nhà nước thật sự là “nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” chứ không thể là khẩu hiệu suông. Không để tình trạng mập mờ chủ – tớ như hiện nay. Nhân dân có quyền đòi hỏi xây dựng một cơ chế xem xét, sàng lọc, thải loại cán bộ, công chức, viên chức cơ quan nhà nước không còn đủ phẩm chất, năng lực làm việc cho dân. Việc Quốc hội nước ta đang chuẩn bị quy định lấy phiếu tín nhiệm cán bộ thuộc diện Quốc hội, Hội đồng nhân dân bổ nhiệm, phê chuẩn là bước mở đầu cho công tác này. Thế nhưng nếu cứ hai năm/lần lấy phiếu tín nhiệm và hai lần liên tục không đủ số phiếu tín nhiệm thì mới bãi miễn chức vụ, e rằng lâu quá. Vì một nhiệm kỳ công tác thường nhiều nhất là 5 năm. Lấy phiếu tín nhiệm kiểu như vậy thì cán bộ, công chức đã “hạ cánh an toàn rồi!”.

Theo Tạp chí Xây dựng Đảng
Huyền Trang(st)
bqllang.gov.vn

Hồ Chủ tịch y án tử hình Trần Dụ Châu

Mùa thu năm 1950, trong khi bộ đội, dân công đang dồn dập hành quân lên Cao Bằng mở chiến dịch Lê Hồng Phong giải phóng vùng biên giới Việt Trung, thì ngày 05/9/1950 ở thị xã Thái Nguyên – Thủ đô kháng chiến, Tòa án binh tối cao đã mở phiên tòa đặc biệt, xét xử vụ án đặc biệt. Thiếu tướng Chu Văn Tấn ngồi ghế Chánh án cùng 02 Hội thẩm viên là ông Phạm Ngọc Hải, Giám đốc Tư pháp Liên khu Việt Bắc và ông Trần Tấn, Cục phó Cục Quân nhu, Thiếu tướng Trần Tử Bình ngồi ghế Công cáo ủy viên (Viện Kiểm sát bây giờ) và nhiều cán bộ cao cấp của Đảng, chính quyền, quân đội, nhân dân địa phương đến dự.

Có 03 bị cáo hầu tòa là nguyên Đại tá, Cục trưởng Cục Quân nhu Trần Dụ Châu và đồng bọn can tội: “Biển thủ công quỹ, nhận hối lộ, phá hoại công cuộc kháng chiến” bị đưa ra trước vành móng ngựa.

Vụ án được phát hiện từ bức thư của nhà thơ Đoàn Phú Tứ, đại biểu Quốc hội khóa 1 gửi lên Hồ Chủ Tịch. Nội dung bức thư như sau: “Gần đây, Đại tá Cục trưởng Cục Quân nhu Trần Dụ Châu đã gây nhiều dư luận bất bình trong anh em quân đội, Châu đã dùng quyền lực “ban phát” ăn mặc, nên Châu đã giở trò ăn cắp (công quỹ), cứ mỗi cái màn cấp cho bộ đội Châu ăn bớt 2 tấc vải xô, nên cứ ngồi lên là đầu chạm đình màn. Còn áo trấn thủ, Châu ăn cắp bông lót rồi độn bao tải vào, nhiều người biết đấy nhưng không dám ho he.

Cháu (nhà thơ Đoàn Phú Tứ) và 1 Đoàn nhà văn đi thăm bộ đội vừa đi chiến đấu trở về, cháu đã khóc nấc lên khi thấy thương binh thiếu thuốc men, bông băng, hầu như hết chiến sỹ đều rách rưới, võ vàng (vì) đói rét, chỉ còn mắt với răng mà mùa đông rét buốt ở chiến khu lạnh lắm, lạnh tới mức nước đóng băng. Cháu được Trần Dụ Châu mời dự tiệc cưới của cán bộ dưới quyền tổ chức ngay ở chiến khu (nhiều tờ báo viết ở phố Thanh Cù, xã Chấn Hưng, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ, nơi đồng bào Thủ đô tản cư lên buôn bán khá sầm uất).

Trên những dãy bàn dài tít tắp (bày tiệc cưới) xếp kín chim quay, gà tần, vây bóng, giò chả, nấm hương, thịt bò thui, rượu tây, cốc thủy tinh sáng choang, thuốc lá thơm hảo hạng, hoa Ngọc Hà dưới Hà Nội cũng kịp đưa lên, ban nhạc “Cảnh Thân” được mời từ Khu Ba lên tấu nhạc réo rắt, Trần Dụ Châu mặc quân phục Đại tá cưỡi ngựa hồng, súng lục “côn bát” đến dự.

Trần Dụ Châu ngạo mạn, mời nhà thơ (tức Đoàn Phú Tứ) đọc thơ mừng hôn lễ. Với lòng tự trọng của mình (đương kim là đại biểu Quốc hội) nhà thơ đã thẳng thắn, dũng cảm xuất khẩu thành thơ:

“Bữa tiệc cưới của chúng ta sắp chén đẫy hôm nay,

Được dọn bằng xương máu của các chiến sỹ.”

(Sau khi nhà thơ vừa dứt lời, một vệ sĩ của Châu đã tát vào mặt nhà thơ, quát to: “Nói láo” – Báo Công lý ngày 9/10/2009). Nhà thơ bỏ ra ngoài – và viết thư tố cáo lên Bác Hồ.

Hồ Chủ Tịch đã trao bức thư của nhà thơ cho Thiếu tướng Trần Tử Bình đang là Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Phó Tổng Thanh tra Quân đội, Người nói: “Đây là bức thư của một nhà thơ gửi cho Bác, Bác đã đọc kỹ lá thư và rất đau lòng”, rồi Bác giao cho Thiếu tướng chỉ đạo điều tra làm rõ vụ việc để xử lý.

Công tác thanh tra vụ tiêu cực ở Cục Quân nhu được tiến hành khẩn trương, thu thập đủ tài liệu chứng cứ từ Khu Bốn trở ra, Khu Ba gửi lên – Trần Dụ Châu hiện nguyên hình là một tên gian hùng, trác táng, phản bội lại lòng tin của Đảng, của Bác, quân đội và nhân dân.

Trước sự thật đau lòng này, Bác Hồ dứt khoát nói: “Một cái ung nhọt, dẫu có đau cũng phải cắt bỏ, không để nó lây lan, nguy hiểm”.

Trần Dụ Châu đã bị Tòa án binh tối cao phạt án “tử hình”, đồng thời bị tước quân hàm Đại tá theo công lệnh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, 02 đồng bọn của Châu, mỗi tên bị phạt án tù 10 năm.

Tử tù Trần Dụ Châu gửi đơn lên Hồ Chủ tịch xin tha tội chết. Ngày làm việc với đồng chí Trần Đăng Ninh, Tổng Cục trưởng Tổng cục Cung cấp, xét lá đơn của tử tù, Bác chỉ cho đồng chí Ninh thấy một cây xoan đang héo lá, úa ngọn và hỏi lý do tại sao cây xoan sắp chết?

– Dạ, thưa Bác vì thân cây đã bị sâu đục một lỗ rất to, chảy hết nhựa…

– Thế theo chú muốn cứu cây ta phải làm gì?

– Dạ, thưa Bác phải bắt, giết hết những con sâu đó đi.

Bác gật đầu, nói “Chú nói đúng, với loài sâu mọt đục khoét nhân dân cũng thế, nếu phải giết đi một con sâu mà cứu được cả rừng cây thì việc đó là cần thiết, hơn nữa còn là một việc làm nhân đạo”.

Hồ Chủ tịch đã bác đơn xin tha tội chết của Trần Dụ Châu.

Báo Cứu quốc ngày 27/5/1950 đã đăng bài xã luận viết về vụ này một cách công khai để nhân dân biết, vụ án đã cho Chính phủ, Đoàn thể (Đảng) nhiều kinh nghiệm trong việc sử dụng, giáo dục và kiểm soát cán bộ để phục vụ tốt cho kháng chiến, kiến quốc… mặc dù có người e ngại, vì nếu công khai vụ án này sẽ làm cho dân chúng chê trách, kẻ địch lợi dụng để phản tuyên truyền, lợi ít, hại nhiều…(?).

Đoàn thể (Đảng), Nhà nước, Bác Hồ nghiêm khắc xử lý vụ án Trần Dụ Châu hơn nửa thế kỷ trước đây vẫn là bài học quý cho việc chống tham nhũng, lãng phí hiện nay, coi đây là việc làm nhân đạo để củng cố niềm tin của quần chúng.

Hội khoa học lịch sử Sơn La
Theo vksbacninh.gov.vn
Phương Thúy
(st)
bqllang.gov.vn

Câu lạc bộ Phô Bua, nhà văn Léo Poldes và vở kịch Con rồng tre của Nguyễn Ái Quốc.

CLBNguyễn Ái Quốc với đại biểu dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V.

Đầu những năm 20 của thế kỷ trước, Thủ đô Pa-ri, nước Pháp là nơi được chứng kiến nhiều hoạt động sôi nổi và phong phú của Nguyễn Ái Quốc,…Người đã dũng cảm đối đầu với nhà cầm quyền Pháp, tranh thủ sự ủng hộ giúp đỡ của nhiều người, bằng mọi hình thức tuyên truyền, vận động, đấu tranh cho một nước Việt Nam độc lập. Câu lạc bộ Phô Bua, thành lập từ năm 1914, là một trong những nơi Nguyễn Ái Quốc thường đến dự và có những hoạt động tuyên truyền. Bài viết này của chúng tôi xin cung cấp cho bạn đọc một số thông tin về Câu lạc bộ Phô Bua, nhà văn Léo Poldès, chủ nhiệm Câu lạc bộ và vở kịch Con Rồng tre, do chính Léo Poldès và Bác Hồ của chúng ta kể lại.

Bác Hồ đã viết về Câu lạc bộ Phô Bua (Faubourg) (có nghĩa là ngoại ô) như sau:

“Câu lạc bộ Ngoại ô. Gọi tên nó như thế, là theo truyền thống đại cách mạng Pháp từ năm 1789. Sự thật thì không phải là một Câu lạc bộ chính cống mà cũng không ở ngoại ô. Một người trí thức phái tả tên là Pôn-đét (Poldès) có sáng kiến tổ chức “Câu lạc bộ” lưu động, mỗi tuần họp một lần, khi họp chỗ này, khi họp nơi khác ở Thủ đô Pa-ri. Thường có độ ba trăm người đến dự, đủ các xu hướng chính trị và các tầng lớp xã hội. Đại đa số là công nhân và tiểu tư sản “khai minh”. Nhưng cũng có ông nọ bà kia. Họ thảo luận những vấn đề thời sự, chính trị hoặc văn hóa xã hội. Một người trình bày vấn đề (có chuẩn bị trước). Sau đó, mọi người tự do phát biểu ý kiến.

Cuộc bàn cãi luôn luôn sôi nổi, nhưng rất thân mật. Mỗi lần họp, anh Nguyễn (tức Bác Hồ) đều phát biểu ý kiến. Và bất kỳ vấn đề gì anh cũng khéo lái nó về kết luận lên án thực dân. Một ví dụ: Trong một cuộc thảo luận về thuật “thôi miên”, sau khi nhiều người nói tin, nhiều người nói không tin, anh Nguyễn xin phát biểu ý kiến. Anh nói: “Tin cũng được, không tin cũng được. Nhưng tôi xin mạn phép nói thật rằng bác sĩ Cu-ê (người thạo giỏi thuật “thôi miên”) chưa giỏi bằng thực dân Pháp. Mỗi năm, với hàng nghìn tấn thuốc phiện, chúng đang làm cho hàng triệu người Việt Nam ngủ say đến nỗi quên mình là vong quốc nô”.

Anh Nguyễn được mọi người hoan nghênh. Vì thái độ anh khiêm tốn và lời lẽ của anh gọn gàng. Lại vì ở Câu lạc bộ và có lẽ ở cả Pa-ri chỉ có anh là người Việt Nam dám lên tiếng chống thực dân Pháp. Một kết quả tốt là nhiều người đồng tình với anh và anh đã trở thành người tuyên truyền cho cách mạng Việt Nam”.

“Một lần khác Hội nghị thảo luận vấn đề Ái-nhĩ-lan và Triều Tiên. Tất nhiên những nhà diễn giả Pháp đều nghiêm khắc công kích chính sách của Anh, của Nhật và bênh vực nhân dân Ái-nhĩ-lan, nhân dân Triều Tiên. Ông Nguyễn phát biểu ý kiến:

Cũng là một dân tộc bị áp bức, tôi hoàn toàn đồng tình với những người bạn Ái-nhĩ-lan, nhân dân Triều Tiên, và đồng tình với Hội nghị kết án bọn thực dân Anh, Nhật. Nhưng tôi hỏi các ngài có nên kết án cả những bọn thực dân khác không? Có nên bênh vực nhân dân bị áp bức khác không? Có hay không? “… Mọi người đều trả lời là có. Thế là được dịp ông Nguyễn trình bày vấn đề Việt Nam”.

Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến Pari, với tư cách là thượng khách của Chính phủ Pháp, đã làm cho Chủ nhiệm Câu lạc bộ Faubourg Léo Poldès và nhiều người bạn khác một sự ngạc nhiên sửng sốt.

Câu chuyện của hơn 20 năm trước, được Léo Poldès nhớ và ghi lại trong sự bàng hoàng, ngạc nhiên “Vì sao, Nguyễn Ái Quốc, người thợ ảnh giản dị kia đã chết năm 1933, mà nay năm 1946, đã là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa”. Xin trích dẫn sau đây một đoạn trong bài viết của Léo Podès về Nguyễn Ái Quốc, vở kịch Con Rồng tre và về Câu lạc bộ Faubourg, đăng trên tuần báo “Pa-ri, số 53”, ngày 11, 12-6-1946. Câu chuyện nhẹ nhàng đưa chúng ta về với những sự kiện xảy ra từ nhiều năm trước như đi vào thế giới cổ tích:

Ngày xưa đúng thực là một câu chuyện cổ tích, có một bác thợ Việt Nam nghèo nàn, sống giản dị trên một căn gác thượng, trong ngõ hẻm Compoint, giữa một khu chen chúc toàn dân lao động. Tên bác ta là Nguyễn Ái Quốc, bác làm nghề rửa ảnh.

Một chiều kia, cách đây chừng 25 năm, hôm ấy có phiên họp các hội viên Câu lạc bộ Phô Bua tại rạp hát Printanis, ở góc đại lộ Clichy và phố Richaud, bác Nguyễn Ái Quốc đã tới đây ngập ngừng hỏi tôi xem liệu bác dù là một kẻ lao động xoàng xĩnh, có thể được hân hạnh vào góp lời trong những cuộc thảo luận của những tay tài ba lỗi lạc, đã làm rạng rỡ văn đàn Câu lạc bộ Phô Bua của chúng tôi được không.

Tôi bèn trả lời: “Ông chớ ngại điều đó. Với quan niệm chúng tôi, thì sự tự do phát biểu ý kiến, là của tất cả mọi người. Ý kiến xác đáng, hay ho của một người, dù người ấy chỉ là một người thợ, cũng được đặc biệt chú ý như những ý kiến của một vị Quốc trưởng”.

Bác nhún vai, mỉm cười, nói: “Podès quý ngài à, tôi chỉ là nhà cách mạng, ngài ví tôi với những vị quốc trưởng, tôi xin đưa ngài xem đây tập bản thảo của tôi. Tuy chỉ là một người thợ ảnh nghèo nàn, nhưng tôi cũng có viết được một kịch bản, nhan đề bản kịch đó là “”Con Rồng tre” (Le dragon de bambous) viết ra cốt là để công kích những vị Quốc trưởng.

Rồi ông tinh quái nói tiếp: “Chắc chắn là không ai dám đem diễn trên sân khấu đâu, ngay như ngài rồi ngài cũng đến quẳng vào sọt rác”. Nhưng ông Nguyễn đã nhầm.

Léo Podès đã nhận xét về vở kịch Con Rồng tre như sau:

Tôi đã đọc tập bản thảo, thật là hay, thật là đẹp, lời vừa trải chuốt gọn gàng, với những cái châm biếm dí dỏm của Aistophan bản kịch này có đủ ưu điểm để mang lên sân khấu.

“Con Rồng tre’ đầu đề kịch bản chỉ một vị Quốc trưởng Á-Đông, đớn hèn bất lực và ngu dốt, mà tác giả không hà tiện lời chế diễu một cách cay nghiệt, hóm hỉnh suốt trong ba hồi; khi ấy bản thân ông Nguyễn Ái Quốc không ngờ rằng bản kịch của mình đã bao lần chủ kịch bản từ chối không dám diễn mà lại được nhóm Phô Bua chúng tôi nhiệt liệt hoan nghênh, và nhất là ông lại không ngờ rằng 25 năm sau người thợ ảnh ở ngõ hẻm Compoint, tác giả “Con Rồng tre”, lại trở thành một vị Quốc trưởng với cái tên mới Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, dùng cơm với Tướng Leclerc, với Thượng sứ đô đốc D’Argenlieu, cùng đi duyệt một đạo binh Pháp, và được nghênh tiếp chính thức bởi vị Chủ tịch Pháp ở Pa-ri.”

Vở kịch Con Rồng tre viết về Vua bù nhìn Khải Định, vào dịp ông ta sang Pháp dự Triển lãm thuộc địa. Vở kịch bị Chính phủ Pháp cấm, nhưng được Câu lạc bộ Faubourg đem diễn. Vở kịch này hiện chưa sưu tầm được, chúng ta chỉ biết tới nội dung kịch bản qua mấy dòng kể tóm tắt của Bác như sau: “Có những cây tre thân hình quằn quẹo. Những người chơi đồ cổ lấy về đẽo gọt thành con rồng. Nó là một đồ chơi. Là con rồng nhưng thật ra chỉ là một khúc tre. Là khúc tre, nhưng lại hãnh diện có tên và hình dáng con rồng. Tuy vậy nó chỉ là một quái vật vô dụng”. Khải Định chính là một ông vua vô dụng.

Léo Podès còn nhớ và viết khá chi tiết về những buổi sinh hoạt của Câu lạc bộ Phô Bua mà Nguyễn Ái Quốc tham dự. Tờ Báo Le Pa-ria (Người cùng khổ), mà Nguyễn Ái Quốc là một trong những người sáng lập, ra số đầu tiên ngày 1-4-1922. Ngay trên trang nhất của số báo này có đăng thông báo về đề tài Sân khấu Việt Nam, do Nguyễn Ái Quốc trình bày trong chương trình sinh hoạt tháng 4 năm 1922 của Câu lạc Phô Bua. Tài liệu của mật thám Pháp theo dõi hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở Pa-ri cũng ghi lại những lần Nguyễn Ái Quốc đến dự sinh hoạt ở Câu lạc bộ Faubourg, trong đó có lần Nguyễn Ái Quốc phân phát cho những người dự sinh hoạt câu lạc bộ tờ Truyền đơn cổ động mua Báo Le Pa-ria .

Nguyễn Ái Quốc rời Pa-ri, Thủ đô nước Pháp, sang Mátxcơva, Liên Xô một cách lặng lẽ và bí mật. Cũng như nhiều người bạn Pháp, ông Chủ nhiệm Câu lạc bộ Phô Bua cũng không biết là Nguyễn Ái Quốc đã đi đâu. Chỉ đến khi có tin về Pa-ri, Nguyễn Ái Quốc đã bị chết trong nhà tù của đế quốc Anh ở Hông Kông, Léo Poldès đã viết đăng tin trên tờ Phô Bua:

“Không phân biệt khuynh hướng khác nhau, hết thảy anh em chúng tôi đều lấy làm đau đớn khi hay tin ông Nguyễn Ái Quốc đã mệnh chung ở Hồng Kông”…

Tờ Faubourg ra ngày 1-7-1933 có trích đăng một bài sau: “Nói về Nguyễn Ái Quốc vị lãnh tụ Đảng Cộng sản”, tờ tạp chí Pháp – Việt có viết: “Ông không vắng mặt một buổi họp nào ở Câu lạc bộ Faubourg, ở đây ông ta đã từng đứng lên diễn thuyết trước mọi người. Ông ta đã viết báo. Người ta thường gặp ông hồi 6 giờ chiều ở những phòng trị sự các nhà báo. Ông mang lên đây những câu chuyện ngắn hay một tập truyện vì ông từng khảo cứu về văn nghệ, sau này ông hoàn toàn thiên về chính trị và ông đã thiết tha cống hiến cả một đời để phụng sự khuynh hướng ấy”. “Người chiến sĩ xấu số đã mệnh chung trong nhà giam. Người ta lại nhớ đến những cuộc họp ở Câu lạc bộ Phô Bua, đến những lời nói thông minh hóm hỉnh trong buổi họp, đến bản kịch bất hủ của ông: “Con Rồng tre”. Hỡi các vị thần linh của cõi Á – Đông, các ngài hẵy săn sóc giữ gìn lấy linh hồn ông”.

Khi được biết Nguyễn Ái Quốc vẫn còn sống, trở lại Pa-ri với tư cách khác, Léo Podès đã rất hóm hỉnh viết rằng: “Và những vị thần linh ấy đã giữ gìn linh hồn ông khỏe đến nỗi, ngày nay người thợ ảnh mày râu nhẵn nhụi kia đã sống lại giữa khuôn mặt đáng kính có thêm một nhúm râu dài của Cụ Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa”. Léo Podès nhắn gửi rằng: “Hồ Chí Minh đức ngài, mai đây từng dãy người xếp hàng một diễu qua chào mừng đức ngài trước điện Chamos D’ Elysé, bên cạnh ngài khi ấy là vị Chủ tịch lâm thời nước Cộng hòa Pháp. Chúng tôi thiết tha mong đức ngài nhớ lại cái hồi đầu tiên của đức ngài trong Câu lạc bộ Phô Bua. Nhớ lại những vấn đề quỷ thần, sự tái sinh, và nhất là đức ngài hãy rủ lòng thương nhớ đến người thợ ảnh nhỏ bé ở ngõ Compoint khi xưa…”.

Nguyễn Ái Quốc không thể quên những ngày Pa-ri. Tháng 5 năm 1946, khi đến nước Pháp với tư cách Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, là thượng khách của Chính phủ Pháp, ngoài chương trình làm việc chính thức, gặp gỡ với Chính phủ Cộng hòa Pháp, Người dành nhiều thời gian tiếp xúc, gặp gỡ kiều bào, các nhà văn, nhà báo, bạn bè cũ. Và đương nhiên là Người đã gặp lại nhà văn Léo Poldès. Nhật ký bốn tháng sang Pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh ghi lại: Ngày 8-7-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp vợ chồng nhà văn Poldès; Ngày 15-7-1946, vợ chồng nhà văn Poldès mời Người vê quê chơi, cách Pa-ri chừng 30 cây số. Nhà ông Poldès, rừng bao bọc xung quanh. Thanh vắng mát mẻ. Cây tốt hoa thơm. Ăn cơm rồi, Cụ Chủ tịch kéo ghế nằm dưới gốc cây. Thật đúng là:

“Thảnh thơi vui thú yên hà,

Tùng là bạn cũ, hạc là người quen”.

Nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Câu lạc bộ Phô Bua, ngày 1-5-1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tặng ông Léo Poldès, Chủ tịch của Câu lạc bộ Huy chương Hữu nghị của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.

Những câu chuyện kể về những tình cảm của những người bạn Pháp đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đó có ông Chủ nhiệm Câu lạc bộ Phô Bua là những dấu ấn đặc biệt trong những năm tháng hoạt động cách mạng sôi nổi, oanh liệt của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh ở Thủ đô Pari. Năm tháng qua đi, song tình cảm của những người bạn Pháp đối với Bác Hồ kính yêu của chúng ta, mà cũng là đối với cách mạng Việt Nam, mãi mãi được giữ gìn, trân trọng, góp phần củng cố và xây dựng tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước hôm nay.

Theo phuly.edu.vn
Kim Yến (st)
bqllang.gov.vn

Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác bảo mật

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Giữ bí mật của Nhà nước là một bộ phận trong cuộc đấu tranh với địch”, “Cũng như mọi công việc khác, việc phòng gian bảo mật cần phải dựa vào lòng yêu nước và lực lượng của nhân dân. Chúng ta phải tuyên truyền giải thích cho nhân dân hiểu thấu, để nhân dân giúp sức vào công việc này”.

Suốt hơn nửa thế kỷ hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến giữ gìn bí mật của tổ chức cách mạng. Người nhiều lần căn dặn cán bộ, đảng viên, chiến sỹ phải nâng cao cảnh giác, giữ gìn bí mật của cơ quan, tổ chức và của Đảng, Nhà nước.

Trong bài Giữ bí mật“(1) đăng trên báo Sự Thật, số 97, ngày 30-7-1948 với bút danh A.G, Người nhấn mạnh: Trong chiến tranh, giữ bí mật là điều quan trọng nhất bởi ta dò được tin tức của địch thì ta thắng và ngược lại, địch dò được tin tức ta thì địch thắng ta. Người viết: “Ta biết giữ bí mật, thì bọn Việt gian mật thám khó mà hoạt động, ta biết giữ bí mật, thì dù địch có trăm tai, ngàn mắt, cũng không dò được tin tức của ta. Vì vậy, biết giữ bí mật, tức là đã nắm chắc một phần thắng lợi trong tay ta”.

Bác đã phân tích và chỉ ra nguyên nhân của tình trạng lộ, lọt bí mật là do trong lúc nước nhà đang kháng chiến, nhiều nhân viên, công nhân, bộ đội và nhân dân ta chưa biết giữ bí mật. Các cơ quan, đoàn thể và các cơ quan chức năng lại chưa biết dùng cách giáo dục, hướng dẫn mọi người giữ bí mật. Đây là một khuyết điểm. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu các cơ quan, tổ chức cần phải cấp tốc ra sức sửa chữa khuyết điểm này, bằng cách: các đơn vị bộ đội, cơ quan, trường học, chợ búa, hàng quán v.v. cần phải dán những khẩu hiệu giữ bí mật. Những người phụ trách cần phải hàng ngày dặn dò nhân viên của mình giữ bí mật. Các bộ máy tuyên truyền, các báo chí, phải thường nhắc đến vấn đề giữ bí mật. Cuộc thi đua ái quốc cũng phải chú trọng đến vấn đề giữ bí mật… Như vậy, để kháng chiến và giữ gìn những thành quả của cách mạng thì mọi tổ chức, cá nhân đều phải nêu cao tinh thần và thực hiện nghiêm túc việc giữ bí mật. Đây là công việc thường xuyên, ở mọi lúc, mọi nơi và là trách nhiệm của toàn xã hội, không chỉ của riêng ai.

Trong bài Phải giữ bí mật”(2) đăng trên báo Sự Thật, số 134, ngày 1-6-1950 (ký tên X.Y.Z.), Hồ Chủ tịch một lần nữa đặt ra vấn đề “phải giữ bí mật”, Người yêu cầu mỗi người phải coi việc giữ bí mật là một nghĩa vụ của mình đối với Tổ quốc, đối với Chính phủ.

Trong bài viết Giữ bí mật“(3), ký tên C.B, ngày 10-1-1952 Hồ Chủ tịch tiếp tục đề cập tới việc phải hết sức giữ bí mật, nhất là trước hoạt động tình báo, thăm dò tin tức của địch. Người đặt ra câu hỏi: Vì sao tình báo của địch hoạt động được? và khẳng định: đó là do sơ hở của ta trong việc giữ bí mật thông tin. Người viết: Tình báo địch hoạt động như thế nào? Nó nghe ngóng tin tức, tìm tòi tài liệu quân sự, chính trị, kinh tế của ta… và vì sao tình báo hoạt động được, vì do ta sơ suất, kém cẩn thận, không biết giữ bí mật. Cụ thể là những khuyết điểm như nói năng không cẩn thận, bô lô ba la, bạ gì nói đấy, viết lách không cẩn thận. Tài liệu giấy tờ để lung tung, ai cũng có thể có xem, có thể thấy. Khi viết thư cho bầu bạn, cho người nhà, thì viết cả công việc… của cơ quan, của bộ đội. Các báo chí thì kém cẩn thận trong việc đăng tin tức và trong lời bình luận…

Người nêu lên cách giữ bí mật, chống lại tình báo địch bằng cách phải dựa vào sức quần chúng. Nhưng trước khi dựa vào quần chúng thì mọi cán bộ và chiến sĩ phải làm gương mẫu trong việc giữ bí mật rồi tiến tới tuyên truyền giáo dục cho nhân dân giữ bí mật.

Người yêu cầu: Chúng ta phải xem giữ bí mật là một việc rất cần thiết và rất quan trọng trong công cuộc kháng chiến. Cán bộ và chiến sĩ phải làm gương mẫu giữ bí mật. Chính quyền và đoàn thể cần có kế hoạch tuyên truyền và giáo dục nhân dân giữ bí mật. Chúng ta đã đánh thắng địch trên mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế, chúng ta phải kiên quyết đánh thắng địch trên mặt trận tình báo bằng cách tuyệt đối giữ bí mật.

Ngày 1-2-1956, giữa lúc cuộc kháng chiến của nhân dân ta đang bị kẻ địch phá hoại, không thực hiện nghiêm túc Hiệp định Giơ-ne-vơ đã được ký kết, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại có bài viết “Phải giữ bí mật của Nhà nước”(4) đăng trên báo Nhân Dân. Người viết: giữ bí mật của Nhà nước là nhiệm vụ của toàn dân, đặc biệt là nhiệm vụ của cán bộ các cơ quan, các đoàn thể. Công tác bảo mật, phòng gian nói chung và giữ gìn bí mật các văn kiện, tài liệu của Nhà nước nói riêng đang đặt ra cho toàn dân, cho các cơ quan, các đoàn thể nhiệm vụ rất nặng nề vì kẻ địch đã dùng mọi thủ đoạn đê hèn để đánh cắp văn kiện bí mật của ta về chính trị, kinh tế, quốc phòng… để phá hoại ta về mọi mặt.

Người chỉ ra những khuyết điểm của không ít cán bộ khi vẫn chủ quan, lơ là, mất cảnh giác và xem nhẹ việc ấy. Những khuyết điểm như: không cẩn thận trong việc viết, in, gửi, quản lý và kiểm tra văn kiện bí mật; mang văn kiện bí mật về nhà xem; xem văn kiện bí mật ở chỗ đông người; ghi chép những việc bí mật vào sổ tay thường của mình; hay ba hoa, đưa việc bí mật nói với vợ con, bầu bạn; ở quán cơm, rạp hát, công viên, tiệm hớt tóc… cũng đưa việc trong cơ quan ra nói; khi viết thư riêng, hoặc viết bài cho báo chí, cũng nói đến việc bí mật… Những sai lầm trên dù chủ quan hay khách quan cũng đều làm hại cho cách mạng, ảnh hưởng đến tình hình an ninh – chính trị của đất nước. Hồ Chủ tịch phê phán như thế là các cán bộ đó đã vô tình mà giúp cho địch.

Bác còn chỉ ra một số đối tượng do bản lĩnh không vững vàng nên cũng đã tiết lộ bí mật cho địch. Người viết: “Cũng có một số ít người, vì lập trường không vững, chí khí ươn hèn, bị tiền tài, ăn uống, gái đẹp quyến rũ, mà sa vào cạm bẫy của địch, tiết lộ bí mật cho địch”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Giữ bí mật của Nhà nước là một bộ phận trong cuộc đấu tranh với địch”, “Cũng như mọi công việc khác, việc phòng gian bảo mật cần phải dựa vào lòng yêu nước và lực lượng của nhân dân. Chúng ta phải tuyên truyền giải thích cho nhân dân hiểu thấu, để nhân dân giúp sức vào công việc này”. Người yêu cầu các cơ quan và các đoàn thể cần phải xem trọng giáo dục, nghiêm chỉnh chấp hành và thường xuyên kiểm tra công tác này.

Trong bài viết “Cảnh giác” đăng trên báo Nhân Dân, số 2107, ngày 23-12-1959, thêm một lần nữa Bác nhấn mạnh: Giữ nước càng phải cảnh giác để ngăn ngừa bọn đế quốc và bè lũ tay sai phá hoại thành quả cách mạng, phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta. Trong thời kỳ kháng chiến, nhân dân ta cũng như cán bộ và bộ đội ta đều biết nâng cao cảnh giác. Nhưng từ hoà bình trở lại, thì tinh thần cảnh giác có phần kém sút. Đó là một khuyết điểm lớn cần được sửa chữa ngay.

Hơn 50 năm trôi qua kể từ những bài huấn thị của Bác và nhất là sau 10 năm thực hiện Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước, chúng ta đã đạt được nhiều kết quả trong việc giữ gìn và bảo vệ bí mật của Đảng, Nhà nước. Tuy nhiên, việc giữ bí mật có lúc, có nơi vẫn còn lơ là, chủ quan, mất cảnh giác. Trong tình hình hiện nay, trước hàng loạt âm mưu, thủ đoạn tinh vi của địch thì loạt bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc giữ bí mật là lời nhắc nhở nghiêm khắc với mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, đảng viên.

ThS. Nguyễn Thị Thu Trang
xaydungdang.org.vn

———————–
(1) Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, H.2011, tập 5, tr.581-582.
(2) Sách đã dẫn (Sđd), tập 6, tr.389-391.
(3) Sđd, tập 7, tr.278-281.
(4) Sđd, tập 10, tr.262-263.

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tìm kiếm và trọng dụng nhân tài khoa học

Một trong những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh là các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Đề cao vai trò của nhân tài, tích cực tìm kiếm và trọng dụng nhân tài là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.

Lịch sử chứng tỏ ông cha sớm định hình một tư tưởng có ý nghĩa chiến lược: Hiền tài là nguyên khí quốc gia và rất đề cao vai trò của nhân tài trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Năm 1484 và năm 1487, Thân Nhân Trung thừa lệnh nhà vua thảo bài văn bia, trong đó nêu rõ quan điểm cơ bản của nhà nước về hiền tài: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì đất nước càng mạnh và càng lớn lao, nguyên khí suy thì thế nước yếu và càng xuống thấp. Bởi vậy các bậc vua tài giỏi đời xưa chẳng có đời nào lại không chăm lo nuôi dưỡng và đào tạo nhân tài bồi đắp nguyên khí”[1].

Những thế kỷ sau đó truyền thống trên được tiếp tục giữ gìn và phát triển. Người anh hùng áo vải, cờ đào Nguyễn Huệ, thế kỷ XVIII cũng có “chiếu cầu hiền”. Ông viết: “Trẫm thường mong mỏi, lắng nghe và liên tục hỏi những người tài cao, học rộng sao chưa thấy đến? Phải chăng trẫm kém tài, ít đức chẳng đáng phò tá hay sao? Trẫm luôn lo lắng và nghĩ rằng cái nhà to sức một cây cột làm sao chống nổi, sự nghiệp dân an quốc thái sức một người sao có thể đảm đương”[2]. Đặc biệt những lời Nguyễn Huệ nói với La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp rất đáng để đời sau suy nghĩ: “Quả đức sinh ra ở chốn binh đao, sự học hỏi chỉ ở sự nghe trông, nên trong đạo trị dân đã có nhiều điều thô lậu, phiền nhiễu, đó là cái tội bởi Quả đức chưa biết cầu hiền. Mong Phu tử nghĩ đến dân sinh, gắng sức giúp đời, cứu nước, để Quả đức có thầy mà thờ, cho đời này có người mà cậy, khỏi phụ ý trời sinh ra người tài giỏi cho dân. Quả đức xin nghe theo lời dạy bảo”.

Dân nhân văn hoá Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển truyền thống trên đây của cha ông lên một tầm cao mới. Điều này thể hiện đặc biệt rõ từ khi Người sáng lập Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà, 1945.

Lịch sử cho thấy đến ngày 1-3-1428 bóng dáng cuối cùng của quân xâm lược nhà Minh bị quét khỏi nước ta. Hơn một năm sau, 1429 Lê Lợi mới lệnh cho quan các nơi phải tiến cử người tài đức. Hồ Chí Minh đề xuất chủ trương tìm kiếm nhân tài sớm hơn rất nhiều. Hơn hai tháng sau Tuyên ngôn độc lập, ngày 14-11-1925, Hồ Chí Minh viết bài “Nhân tài và kiến quốc”. Tư tưởng nổi bật của bài viết là “kiến quốc cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài ngày càng phát triển, càng thêm nhiều”. Điều đặc biệt là một năm sau đó, 11-1946, Hồ Chí Minh lại viết “Tìm người tài đức”. Trong bài viết này, Hồ Chí Minh khẳng định trong số 20 triệu người Việt Nam “chắc không thiếu người có tài, có đức” nhưng vì Chính phủ “nghe không đến, thấy không khắp” nên những người tài đức chưa xuất hiện. Trên tư cách là người đứng đầu Chính phủ, Hồ Chí Minh khẳng định: “Khuyết điểm đó tôi xin thừa nhận”[3]. Để sửa chữa khuyết điểm, tỏ rõ quyết tâm của chính quyền cách mạng trọng dụng nhân tài, Hồ Chí Minh chỉ thị cho các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức và phải báo cáo đầy đủ, rõ ràng lên chính phủ tên, tuổi, nghề nghiệp, tài năng, chỗ ở, nguyện vọng của người đó.

Có thể coi những văn kiện nêu trên là “chiếu cầu hiền, tài” đầu tiên của chính quyền cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, việc sử dụng con người, nhất là những người tài không chỉ là khoa học mà còn là nghệ thuật – nghệ thuật của người lãnh đạo. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Lãnh đạo khéo, tài nhỏ có thể hoá tài to. Lãnh đạo không khéo, tài to cũng hoá ra tài nhỏ”[4].

Phát hiện nhân tài đã khó nhưng việc khó hơn là làm thế nào để đức tài của họ được phát huy cao nhất trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chính sự quan tâm sâu sắc và trọng dụng nhân tài của Hồ Chí Minh là động lực mạnh mẽ thôi thúc nhân tài cống hiến hết minh.

Một trong những minh chứng tiêu biểu cho vấn đề này là sự quan tâm sâu sắc, có thể nói đến mức tỷ mỉ của Hồ Chí Minh đối với Tôn Thất Tùng. Ngay sau Cách mạng tháng Tám Hồ Chí Minh đã gửi thư cho Tôn Thất Tùng. Bước ngoặt căn bản trong cuộc đời Tôn Thất Tùng xảy ra khi tổ chức bố trí ông “đến chữa bệnh cho một lão đồng chí”, người gầy xanh xao nhưng “có đôi mắt sáng”. Sau này, trong hồi ký của mình, Giáo sư Tôn Thất Tùng viết: “Từ cuộc gặp đầu tiên đó, tâm hồn tôi đã chuyển biến theo cách mạng Việt Nam, theo ánh sáng của đôi mắt Bác Hồ”. Hồ Chí Minh rất quan tâm tới cuộc sống của các chuyên gia, nhân tài. Đầu năm 1946, khi biết Tôn Thất Tùng mới sinh con trai, Hồ Chí Minh đề nghị với Tôn Thất Tùng: Chú để tôi đặt tên cho cháu. Người nói: Tên chú có bộ mộc nên đặt tên cho cháu là Bách. Điều kỳ lạ là đến năm 1968, Hồ Chí Minh vẫn hỏi thăm Tôn Thất Tùng về Tôn Thất Bách mà hơn 20 năm trước Người đã đặt tên.

Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới việc tạo điều kiện trang cấp thiết bị hiện đại cho các nhân tài hoạt động khoa học. Một lần Tôn Thất Tùng trực tiếp gặp Hồ Chí Minh đề đạt nguyện vọng cần vài trăm nghìn Phrăng Pháp để mua tài liệu và thiết bị mới. Hồ Chí Minh hỏi sao không nhờ Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em giúp đỡ. Sau khi được biết những thiết bị đó các nước xã hội chủ nghĩa chưa có, Hồ Chí Minh nói: Nước ta còn nghèo nhưng việc cứu sống con người là quan trọng, không thể dè xẻn. Sau đó, Hồ Chí Minh đã chỉ thị cho các cơ quan chức năng đáp ứng yêu cầu của chuyên gia hàng đầu ngành y tế Việt Nam[5]. Chính sự quan tâm, chăm sóc đó của Hồ Chí Minh là nhân tố quan trọng nhất để không chỉ nhân dân Việt Nam mà cả thế giới biết đến Giáo sư Tôn Thất Tùng. Sự quan tâm đó quả thực có tác dụng lâu dài, sâu sắc. Bởi vì, không chỉ có Giáo sư, Viện sĩ Tôn Thất Tùng mà cả người con trai của ông, Phó Giáo sư, Viện sĩ, Nhà giáo nhân dân Tôn Thất Bách đã trọn đời đi theo “ánh sáng của đôi mắt Bác Hồ”. Nỗi tiếc thương vô hạn của đồng bào, đồng chí, đồng nghiệp và người bệnh trước sự ra đi của hai cha con ông đã nói lên điều đó.

Trong việc tìm kiếm và trọng dụng nhân tài phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Hồ Chí Minh không chỉ chú ý đến nhân tài ở trong nước mà còn rất quan tâm tìm kiếm những cán bộ khoa học kỹ thuật là người Việt Nam định cư ở nước ngoài mời gọi, khuyến khích họ mang đức, mang tài phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Từ những năm 40. 50 thế kỷ XX những nhân tài Việt kiều sống tại Pháp, nơi cuộc sống vật chất và điều kiện cho hoạt động nghiên cứu khoa học thuận lợi hơn Việt Nam rất nhiều nhưng khâm phục đức độ, tài năng của Hồ Chí Minh và theo tiếng gọi của Tổ quốc nhiều người đã từ bỏ Pari hoa lệ phồn vinh theo Hồ Chí Minh lội suối, trèo đèo lên Việt Bắc mà không đòi hỏi một sự đãi ngộ đặc biệt nào cho riêng mình. Nhiều người trong số đó sau này đảm nhận những cương vị chủ chốt về các lĩnh vực khoa học kỹ thuật của đất nước và được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về những đóng góp khoa học cho đất nước ngay từ đợt đầu tiên.

Trước hết đó là Trần Đại Nghĩa tên thật là Phạm Quang Lễ. Khi Hồ Chí Minh sang Pháp năm 1946, ông đã là kỹ sư với mức lương hàng tháng quy ra vàng có thể tính bằng cây nhưng ông đã từ bỏ tất cả tình nguyện theo Hồ Chí Minh về nước. Ông là kỹ sư quân giới đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, mặc dù đất nước còn rất nhiều khó khăn nhưng với tình yêu quê hương, đất nước và tài năng của mình ông là người có công đầu trong việc nghiên cứu, thiết kế và tổ chức sản xuất thành công nhiều loại vũ khí như lựu đạn, mìn đặc biệt là súng BaZôka, SKZ, những vũ khí này là nỗi kinh hoàng đối với thực dân Pháp trong kháng chiến. Trần Đại Nghĩa được tặng danh hiệu anh hùng lao động 1952, Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Liên xô 1966, Viện trưởng Viện khoa học Việt Nam 1975 – 1983, giải thưởng Hồ Chí Minh 1996.

Có thể kể thêm một trí thức lơn mà cũng trở về từ Pháp tình nguyện theo kháng chiến, theo Hồ Chí Minh và cũng có những cống hiến xuất sắc đối với cách mạng. Đó là giáo sư Hồ Đắc Di. Năm 1918, tròn 18 tuổi Hồ Đắc Di sang Pháp học tại trường Đại học y khoa Pari. Tác động mạnh mẽ nhất đối với người sinh viên y khoa ngay từ năm đàu tiên ở Pháp năm 1919, nhân danh những người Việt Nam yêu nước ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đến Hội nghị Véc-xây đưa yêu sách 8 điểm của nhân dân An Nam, trong đó yêu sách thứ 6 là “Tự do học tập, thành lập trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ”[6]. Kể từ đó anh sinh viên Hồ Đắc Di cố gắng tìm đọc những tác phẩm, bài viết của Hồ Chí Minh đăng trên báo Người cùng khổ và hết lòng cổ vũ cho báo này. Một buổi sáng chủ nhật, tại câu lạc bộ của sinh viên Việt Nam ở số nhà 15 phố Xonmơra, phố Latinh Pari, Hồ Đắc Di nhận thấy ba thanh niên Việt Nam đang chụm đầu trao đổi với nhau. Trong số này Hồ Đắc Di chỉ biết người có chòm râu đen là Phan Châu Trinh – Người bạn đi cùng giải thích cho Hồ Đắc Di biết thêm: Người béo béo là luật sư Phan Văn Trường, còn người thanh niên trẻ tuổi, nước da hơi xanh, đôi mắt rực sáng, mảnh khảnh, gày gò chính là Nguyễn ái Quốc. Ba tiếng Nguyễn ái Quốc thực sự gây xúc động mạnh mẽ đối với Hồ Đắc Di, anh ngưỡng mộ và tình nguyện theo Nguyễn ái Quốc từ đấy mặc dù lúc đó người thanh niên này chưa có những ý niệm đầy đủ rõ ràng về cách mạng, về chủ nghĩa xã hội.

Sau khi tôi nghiệp Hồ Đắc Di về nước. Qua tìm hiểu ông biết thêm Việt minh do Nguyễn ái Quốc sáng lập, Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 do Nguyễn ái Quốc viết. Đặc biệt khi ông biết người thanh niên mảnh khảnh, gày gò hay lui tới câu lạc bộ sinh viên Việt Nam tại Pari năm nào thì ngày 2-9-1945 lại xuất hiện trên trên quảng trường Ba Đình đọc Tuyên ngôn độc lập. Sự kiện đó giúp Hồ Đắc Di khẳng định chính nghĩa là đây, độc lập tự do, hạnh phúc là đây. Trong lĩnh vực y khoa Hồ Đắc Di là người sáng lập ngành ngoại khoa Việt Nam. Ông là giáo sư hiệu trưởng Trường đại học Y dược Hà Nội, Chủ tịch tổng hội Y học Việt Nam. Ông được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về y học năm 1996.

Trong số những trí thức lớn từ Pháp trở về nước phục vụ cách mạng có thể kể thêm Phan Huy Thông. Ông là người nhận 2 bằng tiến sĩ ở Pháp, tiến sĩ luật học, tiến sĩ văn chương. Khi Hồ Chí Minh sang Pháp năm 1946, ông là thư ký riêng của Người. Về nước ông không chỉ hoạt động trong lĩnh vực khoa học mà còn tham gia nhiều hoạt động chính trị xã hội như Phó Chủ tịch Uỷ ban bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam, Chủ tịch Hội liên hiệp thanh niên Việt Nam, đại biểu quốc hội khoá II và III. ông là Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học cộng hòa dân chủ Đức, được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học xã hội năm 2000.

Trình bày vắn tắt một vài nhân vật và sự kiện liên quan đến việc Hồ Chí Minh tìm kiếm và trọng dụng nhân tài trong những nghành khoa học từ những người Việt Nam học tập và thành đạt ở nước ngoài, chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng dưới thời Hồ Chí Minh số người thành danh ở nước ngoài không nhiều nhưng Người vẫn tìm mọi cách để tranh thủ sự đóng góp của họ đối với đất nước. Ngày nay chúng ta có hơn 3 triệu người Việt Nam định cư ở hàng chục nước trên thế giới trong đó nhiều người sinh sống và làm việc ở những nước phát triển như Mỹ, Anh, Pháp, Cộng hoà Liên bang Đức. Trong số họ có nhiều người thành đạt về khoa học, một số khác có vốn và kinh nghiệm của các nước tiên tiến. Vấn đề đặt ra cho Đảng và Nhà nước hiện nay là trên cơ sở quan điểm Hồ Chí Minh, chúng ta cần có chủ trương, giải pháp thông thoáng để thu hút ngày càng nhiều nhân tài người Việt định cư ở nước ngoài phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới.

Càng cuối đời Hồ Chí Minh càng lo lắng đến công việc tìm kiếm và sử dụng nhân tài. Hồ Chí Minh viết trong Di chúc: Đảng và Nhà nước cần lựa chọn những người ưu tú nhất trong bộ đội, thanh niên xung phong đào tạo họ thành những cán bộ, công nhân kỹ thuật giỏi, những người vừa “hồng” vừa “chuyên” đó là “đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta”[7]. “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là công việc rất quan trọng rất cần thiết”.

Trung thành với tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thời đại khoa học công nghệ, kinh tế tri thức trong sự nghiệp đổi mới Đảng và Nhà nước Việt Nam khẳng định giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, Đảng và Chính phủ đã đề ra chủ trương, biện pháp đề đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài. Trên một số lĩnh vực đã xuất hiện những nhân tài. Sự nghiệp đổi mới đang đòi hỏi ngày càng có nhiều nhân tài hơn nữa. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với điều kiện mới, Văn kiện Đại hội X viết: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài”[8]. Việc thu hút trọng dụng nhân tài là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, Văn kiện Đại hội X nhấn mạnh: “Có chính sách thu hút các nhà khoa học công nghệ giỏi trong cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài”.

Hiện nay, hơn lúc nào hết đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta cần phải trung thành, vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, quan điểm của Người về tìm kiếm, trọng dụng nhân tài nói riêng./.

PGS.TS Nguyễn Khánh Bật
Ditichhochiminhphuchutich.gov.vn
Tâm Trang (st)
bqllang.gov.vn

____________________

Chú thích:
[1] Kỷ niệm 500 năm ngày mất Thân Nhân Trung: Hiền tài là nguyên khí quốc gia, Trung tâm UNESCO thông tin tư liệu lịch sử văn hoá Việt Nam và Bảo tàng tỉnh Bắc Giang, 1999, tr.10.
[2] Trần Thế Linh: Gương sáng người xưa, Nxb Thanh niên, H, 2003, tr.15.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H 1995, tập 4, tr. 452.
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 5, tr. 280.
[5] Bộ Y tế – Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác bảo vệ sức khoẻ, Nxb CTQG, H, 1997, tr. 215.
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 1, tr 435.
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 12, tr. 504.
[8] Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006, tr. 96.

Tầm nhìn Hồ Chí Minh

QĐND – 37 năm trước, trong đội hình Sư đoàn 7 tiến về giải phóng Sài Gòn, dẫu cuộc chiến đấu vẫn đang diễn ra hết sức ác liệt, nhưng trong lòng tôi vẫn ngân nga câu thơ chúc Tết của Bác Hồ mùa Xuân Kỷ Dậu 1969: Vì Độc lập, vì Tự do / Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào / Tiến lên, chiến sĩ, đồng bào!/ Bắc Nam sum họp, Xuân nào vui hơn…

Sau này suy ngẫm kỹ, mới thấy đại thắng mùa Xuân năm 1975 bắt nguồn từ tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Dưới sự lãnh đạo của Người, chúng ta đã xác định từ rất sớm đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là: Đánh lùi từng bước, đánh đổ từng bộ phận, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn. Tư tưởng đó đã được Bác Hồ thể hiện rất cụ thể trong bài thơ chúc Tết trên đây. Đó là tầm nhìn minh triết của Bác Hồ khi đánh giá kẻ thù, so sánh lực lượng để vạch ra các mục tiêu chiến lược và từng bước sách lược trong chiến tranh cách mạng.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trước đây, Bác Hồ luôn khẳng định phải “đánh quỵ bọn thực dân”, hoặc “Khối liên hiệp Pháp sẽ tan tành”. Báo cáo trước Quốc hội khóa I, ngày 1-12-1953, Bác Hồ kêu gọi đồng bào cả nước “hăng hái vươn mình dậy đánh tan ách nô lệ của phong kiến và thực dân”. Trong Lời kêu gọi nhân dịp kỷ niệm 7 năm toàn quốc kháng chiến, Bác viết: “Bởi vì thực dân Pháp cứ tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược, cho nên quân dân Việt Nam quyết đánh mạnh hơn nữa, quyết kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng”.

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chúng ta đã có hậu phương lớn miền Bắc, có phe XHCN và nhân dân thế giới ủng hộ. Nhưng đế quốc Mỹ là một cường quốc quân sự và kinh tế hàng đầu thế giới, nên chúng ta phải dùng “ba mũi giáp công”, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị và ngoại giao để “đánh lùi từng bước, đánh đổ từng bộ phận” quân địch. Và chúng ta đã lần lượt đánh thắng “kế hoạch bình định”, “chiến tranh cục bộ” và chiến tranh phá hoại của Mỹ đối với miền Bắc. Khi Hiệp định Paris được ký kết là chúng ta đã cơ bản “đánh cho Mỹ cút”, nhưng vẫn phải tiếp tục “đánh cho ngụy nhào”!

Lịch sử còn ghi đậm những ngày hào hùng đại thắng mùa Xuân 1975 với cảnh tháo chạy hỗn loạn, hoảng hốt của Ngụy quân. Trên các ngả đường tháo chạy, ngổn ngang bừa bộn các loại vũ khí, quân trang, quân dụng của đủ các sắc lính vứt bỏ lại. Hình ảnh “ngụy nhào” đó đã được Bác Hồ tiên tri trong từ 6 năm trước. Tìm hiểu tầm nhìn sáng suốt của Bác Hồ trong chiến tranh cách mạng giải phóng dân tộc, ta càng thấy sự minh triết vĩ đại của Người. Đó chính là tầm cao của tư tưởng Hồ Chí Minh!

Nhà thơ Ngô Minh
qdnd.vn

Đôi hài vạn dặm

doi dep cao su
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm bộ đội diễn tập

Dân tộc ta thật may mắn khi có một vị lãnh tụ vĩ đại, một bậc đại trí, đại nhân, đại dũng là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Một tấm gương sáng ngời đức hy sinh cho Tổ quốc, cho dân tộc. Bác dành cho dân tộc Việt Nam một tình thương bao la, tình thương của một người cha, một người ông cho con cho cháu muôn đời… Những gì Bác hy sinh cho đất nước, cho nhân dân thật cao hơn núi, rộng hơn biển, không có gì có thể sánh nổi. Cả đời Người không có một ham muốn gì cho riêng mình mà chỉ có một ham muốn tột bậc là: “…làm sao cho nước ta được độc lập, dân ta được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai ai cũng được học hành… ”. Cả đời Người không phải sống trong khuôn khổ của bốn chữ “cần, kiệm, liêm, chính” mà chính Người chứ không phải một ai khác đã làm nên bốn chữ ấy, bốn đức tính của riêng dân tộc Việt Nam chúng ta.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là: “Một con Người vĩ đại, vĩ đại ngay cả trong những việc bình thường”. Câu chuyện về đức tính “cần, kiệm, liêm, chính” của Người thi rất nhiều nhưng có lẽ để lại ấn tượng cho mọi người nhiều nhất có lẽ là câu chuyện về “Đôi dép cao su của Bác” – Đôi dép ấy rất đỗi bình dị, mộc mạc đơn sơ, nhưng thật nhiều ý nghĩa như chính cuộc đời Bác kính yêu.  Bởi đôi dép cao su đã gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng vì dân, vì nước của Bác. Ngày nay, đôi dép ấy đã trở thành kỉ vật thiêng liêng và vô giá của dân tộc ta.

doi dep cao su

Đôi dép cao su đó được cắt từ chiếc lốp ô tô quân sự của thực dân Pháp bị quân và dân ta phục kích, tiêu diệt tại một vùng căn cứ địa Việt Bắc năm xưa. Đôi dép cắt đo không dày lắm, quai trước to, quai sau nhỏ, rất vừa với chân Bác.

Bác hay nói vui với các anh em chiến sỹ rằng: – Đó là đôi hài vạn dặm trong chuyện cổ tích ngày xưa, đôi hài thần đất đi đến đâu mà chẳng được!

Tuy chỉ được làm từ chiếc lốp ô tô quân sự nhưng suốt mười một năm ròng, đôi dép ấy đã theo Bác đi khắp mọi miền Tổ quốc.

Còn nhớ năm 1960, Bác đến thăm một đơn vị hải quân nhân dân Việt Nam. Vẫn đôi dép “thâm niên cao tuổi” ấy, Bác đã đi khắp nơi, thăm nơi ăn, chốn ở, trại chăn nuôi của các đơn vị. Bác đi đến đâu, cán bộ và chiến sĩ rồng rắn kéo theo đến đó, ai cũng muốn chen chân, vượt lên để được gần Bác. Bác vui vẻ nắm tay chiến sĩ này, vỗ vai chiến sĩ khác. Đang đi bỗng dưng Bác dừng lại:

– Các cháu đùa làm tụt quai dép của Bác rồi!

Nghe Bác nói, cả đám im lặng, cúi xuống nhìn đôi dép rồi ồn ào cả lên:

– Thưa Bác, để cháu sửa ạ, cháu mà ra tay thì thế nào cũng xong!

Một anh khác lại thưa:

– Thưa Bác, để cháu, vừa hay cháu có mang theo rút dép đây ạ!

Nhao nhao ầm ĩ lên như thế nhưng đồng chí cảnh vệ chỉ đứng cười vì biết dép của Bác đã phải đóng đinh rồi, có rút cũng vô ích.

Bác nhìn mọi người rồi cười bảo:

– Các cháu từ từ đã nào, cũng phải để Bác đến chỗ gốc cây kia có chỗ dựa mà đứng chứ!

Nói xong, Bác “lẹp xẹp” lết dép đến chỗ gốc cây, rồi một tay Bác vịn vào thân cây, một chân co lên tháo dép ra và bảo:

– Đây dép của Bác đây, cháu nào giỏi thì chữa hộ dùm cho Bác.

Một anh nhanh tay giành lấy chiếc dép, giơ cao lên nhưng lại ngớ ra lúng túng. Anh bên cạnh liếc thấy, phá vòng vây chạy biến. Bác phải giục:

– Các cháu nhanh nhanh lên nhé! Để cho Bác còn đi nữa chứ!

Anh chiến sĩ lúc nãy chạy đi, giờ đã quay trở lại, trên tay còn cầm theo một chiếc búa con và vài cái đinh. Anh nhanh nhảu thưa:

– Bác ơi, để cháu sửa ạ!

Mọi người dãn ra, phút chốc chiếc dép đã được chữa xong. Các chiến sĩ không được may mắn chữa dép cho Bác thì phàn nàn:

– Ưmh…tại dép của Bác cũ quá. Bác ơi, hay là Bác thay dép khác đi ạ!

Bác nhìn mọi người trìu mến rồi bảo:

– Các cháu nói đúng, nhưng chỉ đúng có một phần. Dép của Bác tuy cũ nhưng nó chỉ mới tụt quai, các cháu vừa chữa lại cho Bác thế này thì nó vẫn còn tốt lắm! Bác biết mua đôi dép khác chẳng đáng là bao, thế nhưng khi chưa cần thiết thì cũng chưa nên. Chúng ta cần phải tiết kiệm vì đất nước ta còn nghèo!

Chẳng những khi hành quân mà những ngày đông Bác cũng đi đôi dép ấy. Có hôm trời rét quá, Bác chỉ đi thêm đôi tất cho ấm chân. Tiếp khách trong nước hay khách quốc tế vẫn thường thấy Bác đi đôi dép ấy. Gặp suối trơn hoặc trời mưa, Bác cởi dép ra xách tay. Đi thăm bà con nông dân, sải chân trên những cánh đồng đang vụ cấy hay vụ gặt, Bác xắn quần cao lội ruộng cùng mọi người, tay vẫn không quên xách hoặc nách kẹp đôi dép. Các anh em cảnh vệ đã nhiều lần xin Bác đổi dép nhưng Bác bảo vẫn còn đi được.

Đôi dép đó đã song hành cũng Bác đi mọi miền Tổ quốc, đi khắp năm châu bốn bể, đến thăm những nước bạn gần xa. Không chỉ người Việt Nam, dân tộc Việt Nam biết về đôi dép của Bác, mà bạn bè khắp nơi trên thế giới đều có ấn tượng tốt về đôi dép của Bác.

Đầu năm 1958, đi thăm Ấn Độ, Bác vẫn đi đôi dép thường ngày. Mọi người trong đoàn thấy thế rất ái ngại nên bàn nhau mang theo một đôi giày. Lên máy bay nhân lúc Bác ngủ, anh em đã thay đôi dép bằng đôi giày. Khi thức giấc, Bác hỏi dép, anh em trả lời Bác là đôi dép đã để quên dưới khoang máy bay. Khi xuống sân bay, Bác yêu cầu lấy dép để Bác đi. Bác bảo đừng lo gì cả, đất nước Ấn Độ cũng nghèo như mình, mới có độc lập nên còn nhiều vất vả. Bác đi dép có bít tất thế là rất tốt, họ không chê mình đâu. Nhân dịp này, Bác muốn gần gũi với nhân dân lao động Ấn Độ. Hôm sau trên các trang báo lớn của Ấn Độ đều hết lời ca ngợi Bác là vị Chủ tịch nước dân chủ nhất thế giới, ca ngợi đôi dép Bác Hồ là một huyền thoại. Trong thời gian Bác ở Ấn Độ đôi dép của Bác đã trở thành tâm điểm chú ý của mọi người, nhất là các chính khách, nhà báo, nhà quay phim, chụp ảnh. Đặc biệt khi Bác vào thăm ngôi đền Taj Mahal (ngôi đền nổi tiếng là Viên ngọc châu của đền đài Ấn Độ), Người để dép ở ngoài  thì những phóng viên thi nhau cúi xuống sờ nắn quai dép, thi nhau bấm máy từ nhiều góc độ, rồi lại còn ghi ghi chép chép… Rồi tiếp theo đó là đám đông dân chúng ùa vào từ các ngả để được ngắm đôi dép.

anh BH di Ấn Độ
Bác Hồ thăm Ấn Độ (ảnh chụp tại Thành phố Bombay tháng 2 năm 1958)

Đôi dép cao su của Bác rất giản dị, nhưng lại vô cùng đặc biệt, nó đã cùng Bác đi qua những năm tháng chiến tranh khốc liệt – cùng bao nhiêu thế hệ Việt Nam đi suốt hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, cùng những Bộ đội Cụ Hồ anh dũng “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”… hay đến tận hôm nay nó vẫn đồng hành cùng những người Việt trẻ, những thế hệ khi sinh ra thì Người đã đi xa, nhưng phong cách sống, tư tưởng tình cảm của Người mãi mãi dẫn đường chỉ nối cho các thế hệ Việt Nam.

Kim Yến(Tổng hợp)
bqllang.gov.vn

Bác Hồ với Tây Nguyên, Tây Nguyên với Bác Hồ

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho đồng bào các dân tộc Tây Nguyên tình cảm đặc biệt.

Sự kiện lịch sử đầu tiên ghi nhận mối quan tâm và tình cảm của Bác đối với Tây Nguyên là bức thư của Người gửi Hội nghị Các dân tộc thiểu số miền Nam được tổ chức tại Pleiku (Gia Lai) ngày 19/4/1946. Người Tây Nguyên mãi mãi không quên lời dạy của Bác: “Đồng bào Kinh hay Tày, Mường hay Mán, Gia Rai hay Êđê, Ba Na, Xê Đăng hay M’nông và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng, khổ, no, đói bên nhau…Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt…”. Lời dạy của Người như truyền thêm sức mạnh cho đồng bào vững niềm tin vào Đảng, đoàn kết đứng lên làm cách mạng, đánh đuổi quân xâm lược, giữ lấy núi rừng Tây Nguyên thân yêu.

bác ho voi tay nguyenĐồng bào các dân tộc Tây Nguyên bên tượng đài Bác Hồ

Năm 1968, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang diễn ra ác liệt ở cả hai miền Nam Bắc, Bác Hồ lại gửi điện thăm hỏi đồng bào, chiến sỹ và cán bộ Tây Nguyên. Trên bức điện, Người ghi: “Kính nhờ cụ Y Bih Alêô, Phó Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Chủ tịch Phong trào dân tộc tự trị Tây Nguyên, chuyển”. Người vui mừng được biết: “Quân và dân Tây Nguyên, già trẻ, gái trai, Kinh, Thượng đoàn kết một lòng, luôn luôn nêu cao truyền thống anh hùng, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, thi đua diệt giặc, lập công, giữ gìn buôn rẫy, thu được những thành tích to lớn, cùng đồng bào cả nước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Người căn dặn: “Đồng bào và chiến sỹ Tây Nguyên đã đoàn kết, càng phải đoàn kết chặt chẽ hơn nữa, cố gắng không ngừng, phát huy mạnh mẽ thắng lợi đã giành được, luôn luôn nêu cao cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu của địch, ra sức củng cố và phát triển vùng giải phóng và phục vụ tiền tuyến”. Và tỏ lòng tin tưởng: “Tây Nguyên nhất định cùng cả nước tiến lên đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược”. Thực hiện lời dạy của Người, quân và dân Tây Nguyên cùng với cả nước đã làm nên trận đánh lịch sử giải phóng Buôn Ma Thuột ngày 10/3/1975, mở đầu cho Đại thắng mùa Xuân năm 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Trong hàng triệu đồng bào Tây Nguyên, có không ít người con ưu tú đã vinh dự được gặp Bác. Người đầu tiên có được niềm vinh dự ấy có lẽ là ông Y Ngông Niê Kđăm. Cách mạng Tháng Tám thành công, ông được bầu làm đại biểu Quốc hội khóa I và là Ủy viên dự khuyết Ban Thường trực Quốc hội. Trong buổi họp đầu tiên Quốc hội ra mắt ngày 2/3/1946, bác sỹ Y Ngông còn nhớ như in lời phát biểu của Bác Hồ trước Quốc hội của nước Việt Nam mới: “Ngày nay, nước Việt Nam là nước chung của người Kinh và người Thượng…”. Những năm sau đó, với cương vị công tác của mình, ông còn vinh dự được gặp Bác nhiều lần. Mỗi lần gặp Bác là một kỷ niệm sâu sắc trong cuộc đời làm cách mạng của ông.

Người con thứ hai của Tây Nguyên được gặp Bác là ông KSor Ní, nguyên Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai – Kon Tum. Tháng 5 năm 1946, ông ra Hà Nội dự Đại hội Thanh niên các dân tộc Việt Nam và lần đầu tiên được gặp Bác Hồ. Đó là một ngày đầu tháng 6, ông và ông Y Ngông Niê Kđăm được vào gặp Bác. Bác ân cần hỏi thăm sức khỏe, hỏi thăm tình hình đồng bào Tây Nguyên. Bác nói chúng ta phải đoàn kết đánh Pháp mới bảo vệ được nền độc lập, Tây Nguyên là một bộ phận không thể tách rời của nước Việt Nam thống nhất. Bác xòe bàn tay và giải thích: “Một bàn tay hoàn chỉnh phải có năm ngón, thiếu một ngón là một bàn tay không hoàn chỉnh. Một ngón tay đau thì cả bàn tay cũng đau”. Những lời dạy đó của Người mãi mãi khắc ghi trong lòng các thế hệ con cháu Tây Nguyên.

Rất nhiều những người con ưu tú khác của Tây Nguyên cũng đã vinh dự được gặp Bác như Anh hùng Núp, cụ Thiếu tướng Y Blôk Êban, cụ Y Bih Alêô, ông Ksor Krơn, Nghệ sĩ nhân dân Y Brơm, Nhà giáo ưu tú Nay Hwin… Cụ Y Bih Alêô, nguyên là Phó Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Ủy viên Hội đồng Cố vấn Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã khẳng định: “Tình cảm của Bác Hồ đối với các dân tộc Tây Nguyên là sức mạnh vô biên, luôn luôn tràn đầy như nước sông Ba và cao như ngọn núi Cư Yang Sin. Chúng tôi nhớ lời Bác Hồ và uống rượu cần thề với nhau sẽ mãi mãi đi theo con đường của Bác vạch ra để giải phóng quê hương”.

Hàng vạn đồng bào Tây Nguyên khác không có cái may mắn được trực tiếp gặp Bác, nhưng họ vẫn được Bác truyền thêm sức mạnh, ý chí và niềm tin trong cuộc chiến đấu một mất một còn với kẻ thù để giữ lấy từng tấc đất của buôn làng thân yêu. Với tấm lòng chân thật, đồng bào Tây Nguyên đáp lại ân tình của Bác bằng niềm tin yêu son sắt, lòng biết ơn và kính trọng sâu sắc đối với vị cha già của dân tộc.

Anh hùng lực lượng vũ trang A Vai kể câu chuyện về A Vân, một trai làng của dân tộc Pakô, bị địch bắt tra khảo, đánh đập rất dã man, đau đớn nhưng không hề kêu than lấy một lời. Trước khi hy sinh A Vân đã gọi A Vóoc Hồ 3 lần. Khi A Vai ra thăm miền Bắc, các già làng căn dặn mãi: “Nếu được gặp A Voóc Hồ, con không biết nói điều gì thì cứ kể chuyện A Vân và cây Tyo kia cho A Vóoc Hồ nghe là đủ, vì đó là tấm lòng của người Pakô chúng ta đối với A Vóoc Hồ”. Già làng Ama Ril là một du kích dũng cảm thời kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở Buôn Ngô (huyện Krông Bông) đã giữ ảnh Bác Hồ và lá cờ Tổ quốc do cán bộ tặng như một báu vật. Mấy lần buôn làng bị cháy, bọn địch càn đi quét lại, nhưng Ama Ril vẫn giữ trọn tấm ảnh và lá cờ vì đó là niềm tin của ông, của Buôn Ngô đối với Bác Hồ và cách mạng.

Những câu chuyện như thế có rất nhiều ở các buôn làng kháng chiến thời chống Pháp cũng như chống Mỹ. Tình cảm của Bác đối với đồng bào các dân tộc Tây Nguyên quý hơn chiêng, đẹp hơn cả hoa ê pang. Và tình cảm của đồng bào đối với Bác cũng thật sâu sắc:

Người Êđê chưa gặp mặt Bác Hồ
Mà trong bụng thương hơn cha hơn mẹ

Bởi vì:

Người cứu dân tộc mình
Cho suối đánh đàn, cho hoa Gơ-ma nở
Cho nương đầy lúa, rẫy đầy khoai
Cho núi sông đầy cá nước hoa ngàn
Cho con gái cườm đeo quanh cổ

(Ca dao dân tộc Êđê)

Người đó là Hồ Chí Minh, là Bok Hồ của Tây Nguyên.

Nguyễn Duy Xuyên
Theo baodaklac.vn
Kim Yến
(st)
bqllang.gov.vn