Thư viện

Bản chỉ dẫn tên người (R – S – T)

R

RIVIE, Hăngri: Sĩ quan hải quân Pháp tham gia đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ hai, bị quân ta giết chết ở gần Cầu Giấy (Hà Nội) năm 1883.

RÔI, Manabenđra Nát (1892-1948): Người ấn Độ, tham gia phong trào đấu tranh chống đế quốc Anh từ năm 1910. Năm 1915, sống ở nước ngoài và tham gia phong trào cộng sản. Đã dự các Đại hội II, III, IV, V Quốc tế Cộng sản. Năm 1922, được bầu là Uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản. Năm 1924, được bầu là Uỷ viên chính thức Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản.

Sau bỏ Đảng Cộng sản, tham gia phong trào đấu tranh chống đế quốc Anh theo xu hướng tư sản.

RÚTXÔ, Giăng Giắc (1712-1778): Nhà văn, nhà triết học Pháp nổi tiếng. Rútxô bài xích giáo hội và cho rằng nguyên nhân của sự không công bằng trong xã hội là chế độ tư hữu lớn, từ đó nảy sinh mâu thuẫn trong xã hội. Rútxô đề cao dân chủ tư sản, tính nhân đạo và lý tưởng hoá xã hội cộng sản nguyên thuỷ.

S

SÁCLƠ I (1600-1649): Vua Anh từ năm 1625; người triệt để đấu tranh để duy trì chế độ phong kiến. Trong Cách mạng tư sản Anh, Sáclơ I bị hạ bệ và đưa ra xét xử với mức án tử hình cho một hoàng đế bạo chúa, kẻ thù của nhân dân.

SẾCHXPIA, Uyliam (1564-1616): Nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch vĩ đại của nước Anh thời đại Phục hưng; tác giả của nhiều vở hài kịch: Uổng sức yêu đương (1591), Giấc mộng đêm hè (1594), Chàng thương gia thành Vơnidơ (1594) … và của nhiều vở bi kịch: Rômêô và Giuyliét (1594-1595), Hămlét (1601), Ôtenlô (1604), Vua Lia (1607)…

SƠVALIÊ, Ôguyxtơ (1873-1956): Nhà du lịch và thực vật học Pháp; đi nhiều nước châu Phi, nghiên cứu về địa lý, thực vật. Sơvaliê đã đến Đông Dương và để lại một số công trình khoa học có giá trị.

T

THÀNH THÁI (1879-1954): Tức Nguyễn Bửu Lân, vua thứ 10 nhà Nguyễn năm 1889-1907. Thành Thái là người yêu nước và có tinh thần dân tộc. Năm 1907, Thành Thái bị thực dân Pháp đày sang đảo Rêuyniông (châu Phi). Năm 1947, được đưa về miền Nam nhưng phải sống tại Sài Gòn; mất ngày 24-3-1954.

THUẤN: Một ông vua mang nhiều tính huyền thoại trong lịch sử Trung Quốc thời mạt kỳ Công xã thị tộc, là người có công tìm ra cách cân, đo thống nhất. Sau nhường ngôi cho ông Vũ, một thượng thư tài ba, đức độ chứ không truyền lại cho con.

TILẮC, Bai Gănggađa (1856-1920): Một trong những lãnh tụ phong trào dân tộc ấn Độ hình thành từ cuối thế kỷ XIX, tập hợp những phần tử tiểu tư sản và trí thức nghèo, chủ trương đấu tranh không thoả hiệp với thực dân Anh. Do thiếu lý luận và không liên hệ với phong trào quần chúng nên đã đi vào hoạt động vô chính phủ, khủng bố cá nhân, thậm chí sử dụng cả những hình thức tôn giáo phản động làm lợi khí tuyên truyền nên dần dần phong trào bị thoái hoá. Tilắc còn là một nhà văn và viết nhiều tác phẩm bình luận về tôn giáo.

TÔN DẬT TIÊN (1866-1925): Tức Tôn Trung Sơn, nhà cách mạng dân tộc dân chủ Trung Quốc, người lãnh đạo Cách mạng Tân Hợi (1911) lật đổ triều đại phong kiến Mãn Thanh; sáng lập thuyết Tam dân và tổ chức Trung Quốc cách mạng đồng minh hội (sau cải tổ thành Quốc dân đảng). Năm 1912, được bầu làm Tổng thống lâm thời Trung Hoa dân quốc, sau đó từ chức. Năm 1916, tổ chức Chính phủ Quảng Đông, được cử làm Đại Nguyên soái. Tôn Trung Sơn chủ trương đoàn kết với nước Nga Xôviết, Đảng Cộng sản, quần chúng nông dân, công nhân và xoá bỏ các hiệp ước bất bình đẳng với nước ngoài.

TỐNG DUY TÂN (1838-1892): Một sĩ phu yêu nước đã tích cực hưởng ứng phong trào Cần vương của vua Hàm Nghi (1885), cùng với nhiều văn thân, sĩ phu giương cao cờ khởi nghĩa ở vùng núi Hồng Lĩnh, Thanh Hóa (1885-1892), và trở thành thủ lĩnh chính của phong trào. Tháng 9-1892, bị địch vây bắt và xử tử ngày 5-10-1892.

TƠRANH, Anbe Êđua (1889-1971): Người Pháp, đại biểu dự Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp ở Tua, được bầu làm Uỷ viên chính thức Ban lãnh đạo của Đảng theo Quốc tế thứ ba, Uỷ viên Trung ương Đảng Cộng sản Pháp năm 1925-1926, Uỷ viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng năm 1923-1924. Năm 1928, bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản. Năm 1934, tham gia Đảng Xã hội.

TRẦN ĐẾ QUỸ (tức Trần Quỹ hay Trần Ngỗi): Người đã cùng Trần Quý Khoáng nối tiếp nhau lãnh đạo kháng chiến chống quân Minh năm 1407-1414, cả hai bị bắt. Trần Ngỗi bị giết và Trần Quý Khoáng nhảy xuống sông tự tử.

TRẦN NHÂN TÔNG (1258-1308). Tên là Khâm, vua nhà Trần từ năm 1278; người hai lần trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông; sau nhường ngôi cho con và tu tại núi Yên Tử; sáng lập ra thiền phái Trúc Lâm. Trần Nhân Tông còn là nhà thơ xuất sắc.

TRẦN QUÝ CÁP (1870-1908): Quê ở Quảng Nam (nay là Quảng Nam – Đà Nẵng), đỗ tiến sĩ, ham thích tìm hiểu những tư tưởng tiến bộ của Tây Âu. Trần Quý Cáp thường đi vào quần chúng diễn thuyết, vận động cải cách xã hội, tuyên truyền tinh thần yêu nước. Năm 1908, bị Pháp đưa vào Khánh Hoà làm giáo thụ để cắt đứt quan hệ với phong trào chống thuế ở Quảng Nam. Do những tư tưởng và hoạt động tiến bộ của Trần Quý Cáp, thực dân Pháp ghép vào tội “phản nghịch”, xử tử ngày 5-5-1908.

TRƯNG TRẮC, TRƯNG NHỊ: Hai chị em, lãnh tụ cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta chống ách thống trị của phong kiến phương Bắc, nhà Đông Hán, đầu công nguyên.

Dưới sự lãnh đạo của Hai Bà Trưng, nhân dân ta đã giành lại được nền độc lập từ tay nhà Hán, Trưng Trắc được tôn làm vua (Trưng Vương) đóng đô ở Mê Linh (huyện Yên Lãng, Vĩnh Phú).

Sau hai năm giành được độc lập, nhà Hán lại đem quân xâm lược nước ta. Hai Bà Trưng đã lãnh đạo nhân dân chiến đấu anh dũng gần một năm. Nhưng vì sức yếu quân ta đã bị tan vỡ, Hai Bà Trưng đã chết ở cửa sông Hát (tháng 5-43).

cpv.org.vn

Bản chỉ dẫn tên người (P)

P

PASA, Ăngve (1882-1922): Chỉ huy quân Thổ Nhĩ Kỳ ở vùng Cápcadơ năm 1914 và bảo vệ eo biển Đácđanen năm 1915-1916; có tư tưởng thống nhất người Thổ Nhĩ Kỳ ở Trung á và ốttôman. Nhiều lần đến Mátxcơva, muốn liên kết những người bônsêvích theo lập trường dân tộc. Được nhà nước Nga Xôviết giúp đỡ, Pasa đánh thắng kẻ thù được đế quốc Anh ủng hộ. Tháng 10-1921, Pasa chống lại Hồng quân và chính quyền Xôviết bị tử vong.

PAXTƠ, Lu-i (1822-1895): Nhà hoá học và nhà sinh vật học lỗi lạc của nước Pháp và của loài người. Sau nhiều năm nghiên cứu, Paxtơ khám phá nhiều bí ẩn trong việc lên men; những kết quả tìm tòi khoa học của Paxtơ về các bệnh truyền nhiễm và môn vi trùng học, làm đảo lộn ngành y học và giải phẫu học. Paxtơ còn nghiên cứu thành công những bệnh của con tằm và gà, phát minh ra thuốc tiêm phòng và chống nọc độc của chó dại. Từ 1888, ở Pháp thành lập Viện Paxtơ, trung tâm nghiên cứu vi trùng học.

PÊTƠRỐP, Racônnicốp Phêđo: Người Nga; đảng viên Đảng Cộng sản (b); Đại biểu dự Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản, được Đại hội bầu là Uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản năm 1924; tham dự nhiều phiên họp mở rộng của hội nghị Đoàn Chủ tịch Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản năm 1925-1927. Hội nghị mở rộng lần thứ 4 của Đoàn Chủ tịch Ban Chấp hành Quốc tế cộng sản năm 1924 quyết định cử Pêtơrốp tham gia Ban phương Đông. Hội nghị mở rộng lần thứ 6, năm 1926, Đoàn Chủ tịch Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản cử Pêtơrốp vào Ban Bí thư của Quốc tế Cộng sản kiêm Tổng thư ký Ban phương Đông.

PHALIE, ácmăng (1841-1931): Đại biểu phái Cộng hoà trong Quốc hội Pháp (1876), Chủ tịch Quốc hội (1883), nhiều lần làm Bộ trưởng (1882-1892), Chủ tịch Thượng viện (1889), Tổng thống (1906-1913).

PHAN BỘI CHÂU (1867-1940): Nhà yêu nước, quê ở Nam Đàn, Nghệ An; người khởi xướng chủ trương Đông du; năm 1905, lập Duy tân hội theo kiểu quân chủ lập hiến; năm 1912, lập Việt Nam quang phục hội, theo đường lối quân chủ tư sản thay thế Hội Duy tân; năm 1924, cải tổ Việt Nam quang phục hội thành Việt Nam Quốc dân đảng; tháng 12-1924, sau khi tiếp xúc với Nguyễn ái Quốc, Phan Bội Châu chủ trương chuyển hoạt động theo đường lối cách mạng mới. Nhưng bị địch bắt nên chủ trương không thành. Năm 1925, bị toà án thực dân xử tử hình sau hạ xuống chung thân rồi giam lỏng ở Huế.

Trong thời gian ở Huế, Phan Bội Châu thường nhắc đến Nguyễn ái Quốc và bày tỏ lòng tin tưởng vào chủ nghĩa xã hội trong cuốn sách Chủ nghĩa xã hội do ông viết năm 1935.

PHAN CHÂU TRINH (1872-1926): Nhà yêu nước, quê tỉnh Quảng Nam (nay là Quảng Nam – Đà Nẵng), đỗ phó bảng năm 1901. Năm 1903, làm Thừa biện Bộ Lễ. Năm 1905, cáo quan về quê hoạt động chính trị. Năm 1906, sau chuyến đi Nhật về, Phan Châu Trinh ra sức tuyên truyền chủ trương cải cách và trở thành một trong những người cầm đầu xu hướng cải lương ở nước ta đầu thế kỷ XX. Năm 1908, khi phong trào chống thuế của nông dân Trung Kỳ bị đàn áp, Phan Châu Trinh bị thực dân Pháp bắt đày ra Côn Đảo; năm 1911, nhờ có Liên minh nhân quyền Pháp can thiệp, được trả tự do và sang cư trú tại Pháp. Năm 1925, về nước và mất tại Sài Gòn năm 1926.

PHAN ĐÌNH PHÙNG (1847-1895): Một sĩ phu yêu nước nổi tiếng cuối thế kỷ XIX; nhiệt liệt hưởng ứng phong trào Cần Vương của vua Hàm Nghi năm 1885, tổ chức khởi nghĩa chống thực dân Pháp, lập căn cứ ở vùng rừng núi Hương Sơn – Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Phan Đình Phùng đã vượt nhiều gian khổ, duy trì cuộc chiến đấu gần 10 năm; bị thương trong một trận đánh rồi lâm bệnh mất ngày 28-12-1895.

PHAN VĂN TRƯỜNG (1876-1933): Sinh trong một gia đình yêu nước, quê huyện Từ Liêm, Hà Nội; sang Pháp năm 1908, vừa làm việc, vừa tiếp tục học thêm. Năm 1914, bị bắt đi lính; vì nghi hoạt động chống Pháp nên bị tù 11 tháng. Sau ra khỏi tù (trắng án), nhưng đến năm 1919 mới được giải ngũ. Phan Văn Trường hoàn thành luận án tiến sĩ luật và làm luật sư ở Toà thượng thẩm Pari. Năm 1923, về nước; năm 1925, thay Nguyễn An Ninh làm giám đốc chính trị báo La Cloche fêlée xuất bản ở Sài Gòn, cho đăng toàn vănTuyên ngôn của Đảng cộng sản của Mác và Ăngghen; đăng lại nhiều bài của các nhà hoạt động cộng sản Pháp đã xuất bản ở Pháp. Phan Văn Trường có cảm tình với Nguyễn ái Quốc từ khi mới đến Pháp và cùng hoạt động yêu nước chống thực dân ở Pari; ủng hộ Cách mạng Tháng Mười Nga, tán thành đường lối của Quốc tế Cộng sản và kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân Pháp trên lập trường tiến bộ. Tháng 5-1926, báo La Cloche fêlée đổi tên là L’Annam, vẫn do Phan Văn Trường làm giám đốc một thời gian, tiếp tục tôn chỉ và mục đích của tờ báo trước.

PHRĂNGXƠ, Anatôn (1844-1924): Nhà văn Pháp, giải thưởng Nôben về văn học năm 1921. Năm 1921 tham gia Đảng Cộng sản Pháp. Tác giả của nhiều tiểu thuyết nổi tiếng. Các tác phẩm của Anatôn Phrăngxơ thấm nhuần chủ nghĩa nhân đạo cao quý, đặt ra những vấn đề xã hội và chính trị to lớn của đầu thế kỷ XX. Văn phong của ông trong sáng, nhẹ nhàng và giễu cợt sâu sắc.

PIE (1672-1725): Còn gọi là Pie đại đế; nhà cải cách nổi tiếng của nước Nga cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII. Kế vị ngôi vua năm 1682, chính thức đăng quang năm 1689. Trong thời gian trị vì, Pie đã tiến hành cải cách toàn diện đất nước: thành lập thượng viện, phân chia khu vực hành chính, xây dựng kinh đô mới, đào kênh, đắp đập, mở xưởng luyện kim, khai khoáng, đóng tàu, xây dựng quân đội thường trực, phát triển hạm đội, quản lý nhà thờ và thực hiện chính sách mở cửa về công nghiệp, thương mại. Những cải cách của Pie đã rút ngắn khoảng cách tụt hậu của nước Nga với các nước phương Tây.

PLATÔNG (427-347 TCN): Nhà triết học duy tâm cổ đại Hy Lạp. Platông dùng lý thuyết của tôn giáo cho rằng thượng đế sáng tạo thế giới để đối lập với quan niệm duy vật về vũ trụ vô cùng vô tận; dùng thần học đối lập với quyết định luận. Lý luận xã hội của Platông nhằm làm cho nền thống trị của quý tộc được vĩnh viễn. Trong học thuyết về nhà nước lý tưởng, Platông quả quyết rằng trật tự xã hội phải dựa trên 3 đẳng cấp: 1. Những nhà triết học chấp chính, 2. Vệ binh; 3. Nông dân và thợ thủ công, v.v.. Đẳng cấp 1 cai trị; đẳng cấp 2 giữ gìn trật tự; đẳng cấp thứ 3 sản xuất. Ông coi sự phân tranh nhằm làm cho chế độ bóc lột nô lệ vĩnh viễn ấy là “tự nhiên và bất di bất dịch”.

POĂNGCARÊ, Raymông (1860-1934): Trạng sư Pháp, nghị sĩ Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Giáo dục (1893-1894); Bộ trưởng Bộ Tài chính (1894-1895, 1906); Thủ tướng phụ trách Bộ Ngoại giao (1912-1913); Tổng thống (1913-1920). Luôn luôn thực hiện chính sách đối ngoại cực hữu, nên có tên “Poăngcarê hiếu chiến”. Những năm 1922-1924, lại làm Thủ tướng phụ trách ngoại giao. Từ năm 1929, rút khỏi chính trường về viết hồi ký.

cpv.org.vn

Bản chỉ dẫn tên người (N)

N

NAPÔLÊÔNG, Lu-i Bônapáctơ (1769-1821): Nhà quân sự nổi tiếng của Pháp. Năm 1785, tốt nghiệp trường pháo binh với quân hàm thiếu uý. Tham gia cách mạng Pháp năm 1789 và nhanh chóng trở thành một viên tướng trẻ nắm quyền chỉ huy tối cao quân đội. Năm 1799, tổ chức đảo chính và năm 1804, tuyên bố thiết lập chế độ độc tài. Napôlêông đã lôi kéo nước Pháp vào những cuộc chiến tranh chiếm đóng lãnh thổ nhiều nước châu Âu. Năm 1812, thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược nước Nga. Năm 1814, bị liên quân châu Âu đánh bại. Năm 1815, chiếm lại ngôi hoàng đế nhưng sau thất bại tại Oatéclô (22-6-1815) lại bị lật đổ.

NGHIÊU: Một ông vua mang nhiều tính huyền thoại trong lịch sử Trung Quốc thời mạt kỳ Công xã thị tộc. Ông nổi tiếng về lòng yêu nước, nhân từ. Thời ông trị vì, đất nước thanh bình, nhân dân no ấm. Ông nhường lại ngôi vua cho ông Thuấn chứ không truyền lại cho con.

NGÔ BỘI PHU (1874-1939): Quê tỉnh Sơn Đông (Trung Quốc), thuộc phái quân phiệt Bắc Dương hệ Trực (tỉnh Trực Lệ). Năm 1920, Ngô Bội Phu đánh thắng phái quân phiệt Đoàn Kỳ Thuỵ rồi thao túng chính phủ quân phiệt Bắc Dương, làm tay sai cho đế quốc Anh – Mỹ. Ngô Bội Phu chủ trương tàn sát dã man công nhân đường sắt Bắc Kinh – Vũ Hán năm 1923. Năm 1926, quân Quốc dân xuất phát từ Quảng Đông tiến hành Bắc phạt, đánh thắng phái quân phiệt Ngô Bội Phu.

NGÔ QUYỀN (899-944): Anh hùng dân tộc, một tướng lĩnh tài giỏi, chí lớn, mưu cao, quê ở Đường Lâm (nay thuộc Ba Vì, Hà Nội). Trước nguy cơ xâm lược của nhà Nam Hán, Ngô Quyền đã hạ thành Đại La, giết kẻ bán nước Kiều Công Tiễn, trừ mối hoạ bên trong, ổn định tình hình trong nước và gấp rút chuẩn bị lực lượng kháng chiến. Ngô Quyền là người tổ chức chiến dịch Bạch Đằng lịch sử. Chiến thắng oanh liệt trên sông Bạch Đằng đã đánh bại mưu đồ xâm lược của nhà Nam Hán, chấm dứt một thời kỳ mất nước kéo dài hơn nghìn năm và mở đầu giai đoạn độc lập dân tộc.

NGUYỄN KHẮC VỆ (1896-? ): Sinh ở tỉnh Trà Vinh, đỗ tiến sĩ luật khoa năm 1921, tiến sĩ khoa chính trị và kinh tế năm 1922. Tháng 6-1948, Nguyễn Khắc Vệ tham gia các chính phủ bù nhìn do thực dân Pháp lập ra, làm Bộ trưởng Bộ Tư pháp rồi Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Tư pháp, sau đó làm Đại sứ của chính quyền Sài Gòn ở Anh năm 1952-1954.

cpv.org.vn

Bản chỉ dẫn tên người (M)

M

MÁC, Các (1818-1883): Lãnh tụ của giai cấp vô sản thế giới, nhà tư tưởng vĩ đại, người sáng lập chủ nghĩa cộng sản khoa học. Mác là người sáng tạo ra lý luận cách mạng vô sản. Từ sự phân tích sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản, Mác đã đề ra học thuyết về chuyên chính vô sản là công cụ của bước quá độ cách mạng từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội. Từ sự phân tích xã hội tư bản, Mác đề ra học thuyết về giá trị thặng dư.

Mác không chỉ là nhà lý luận thiên tài mà trước hết Mác là nhà cách mạng vĩ đại. Năm 1847, Mác và Ăngghen gia nhập Liên minh những người cộng sản. Năm 1864, Mác sáng lập và là linh hồn củaQuốc tế thứ nhất, Mác đã đấu tranh chống các thứ chủ nghĩa cơ hội trong phong trào công nhân, chống bọn vô chính phủ và định ra sách lược cách mạng cho cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân.

MÁCĐÔNAN, Giêm Ramxây (1866-1937): Người lãnh đạo Đảng Công nhân độc lập Anh và Công đảng Anh; ủng hộ chính sách hợp tác giai cấp và cái gọi là “chủ nghĩa xã hội nhập dần vào chủ nghĩa tư bản”. Năm 1924 và 1929-1935 làm Thủ tướng. Mácđônan đã ra sức bảo vệ lập trường của chủ nghĩa đế quốc Anh và đã gieo rắc những ảo tưởng cải lương chủ nghĩa trong phong trào công nhân Anh.

MANĐENXTAM, Ôxíp (1891-1938): Sinh trong một gia đình thương gia Nga. Làm thơ từ trẻ; năm 1909, có thơ in trên báo lần đầu tiên. Sau Cách mạng Tháng Mười, tham gia các cơ quan tuyên truyền văn hoá; sáng tác nhiều thể loại, nghiên cứu văn học và viết báo.

Manđenxtam gặp Nguyễn ái Quốc để phỏng vấn tháng 12-1923 và viết bài đăng trên báo Ogoniok.

MẠNH TỬ (372-289): Tên Kha, quan đại thần thời Chiến quốc (Trung Quốc). Ông có tài hùng biện, đã đi khắp đất nước Trung Hoa tuyên truyền, phát triển triết lý của Khổng Tử lên thành Quốc giáo. Ông có câu nói nổi tiếng: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (Lợi ích của dân trước hết, sau đó đến lợi ích của nhà nước, lợi ích của vua không đáng kể).

MANUINXKI, Đimitri Dakhailôvích (1883-1959): Đảng viên Đảng Công nhân dân chủ – xã hội Nga cuối năm 1903. Sau đó bị bắt, bị đi đày, rồi vượt ngục, sống lưu vong và gặp Lênin ở Pari. Năm 1912, bí mật trở về Nga. Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, Lênin cử Manuinxki ra mặt trận làm Chính uỷ “đỏ” rồi làm Thứ trưởng Bộ Lương thực, Hội trưởng Chữ thập đỏ. Năm 1921, được cử làm Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Ucraina. Từ năm 1922, chuyển sang công tác ở Quốc tế Cộng sản. Năm 1924, là Uỷ viên Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản, năm 1928, là Bí thư Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản. Ba mươi năm liền là Uỷ viên Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô.

MARĂNG, Rơnê (1887-1960): Nhà văn Pháp, người gốc Guyan (thuộc địa của Pháp ở châu Mỹ Latinh). Đầu những năm 20, Marăng có tư tưởng tiến bộ, phê phán chính sách phản động của chính quyền thực dân đối với các nước thuộc địa. Bị thực dân Pháp gây áp lực, Marăng từ bỏ quan điểm tiến bộ, quay lại phục vụ lợi ích của chủ nghĩa đế quốc. Tác phẩm Batuala xuất bản lần đầu năm 1921, được Nguyễn ái Quốc đánh giá cao. Sau khi Marăng đi vào con đường thoái hoá, Nguyễn ái Quốc nhiều lần nhắc tới Marăng với thái độ phê phán.

MĂNGGIANH, Sáclơ (1866-1925) : Tướng Pháp. Sau khi tốt nghiệp trường võ bị Xanh Xia, Mănggianh làm việc nhiều năm ở các nước châu Phi đen, ở Bắc Kỳ (1901-1904), làm phó Cao uỷ Pháp ở Marốc năm 1912. Trong những năm ở các thuộc địa của Pháp, Mănggianh chủ trương đàn áp tàn bạo các cuộc nổi dậy của người bản xứ vì giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa thực dân.

Mănggianh làm Tổng thanh tra quân đội Pháp ở các thuộc địa và Uỷ viên Hội đồng Quốc phòng nước Pháp đầu những năm 20.

MÉCLANH, Mácxian Hăngri (1860-?): Tham gia quân đội năm 1880-1885. Làm viên chức ở nhiều thuộc địa của Pháp (Tahiti, Cônggô, Guađơlúp, Tây Phi, châu Phi xích đạo, Mađagátxca) và Toàn quyền Đông Dương năm 1923-1925.

MÊRICH, Víchto Xêlextanh (1876-1933): Nhà báo Pháp, đảng viên Đảng Xã hội; đại biểu của quận Xen tại Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội ở Tua, bỏ phiếu cho Quốc tế thứ ba được bầu vào Ban lãnh đạo của Đảng Cộng sản năm 1920-1921 và Hội đồng quản trị báo L’Humanité. Năm 1923, bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản.

MÔNGTEXKIƠ, Sáclơ Lu-i (1689-1755): Nhà xã hội học tư sản lỗi lạc của Pháp, nhà kinh tế và nhà văn… Đại diện của phái Khai sáng thế kỷ XVIII, nhà lý luận của chủ nghĩa quân chủ lập hiến.

MUXTAPHA (1881-1938): Còn có tên Kêman Atatuyếch, nghĩa là “Cha của người Thổ Nhĩ Kỳ”. Học trường quân sự Xalôních. Năm 1905, tốt nghiệp Viện Hàn lâm quân sự với quân hàm đại uý. Năm 1915, là tư lệnh binh đoàn thứ 7 quân Palextin, đánh thắng liên quân Anh – Pháp ở quần đảo Galipôli. Kêman lãnh đạo cách mạng dân tộc tư sản Thổ Nhĩ Kỳ chống chủ nghĩa đế quốc nước ngoài và bọn mại bản phong kiến trong nước, kết thúc thắng lợi năm 1922. Sau đó làm Tổng thống nước Thổ Nhĩ Kỳ độc lập. Kêman chủ trương xây dựng và củng cố tình hữu nghị với Liên Xô. Nhưng Kêman vẫn mang ý thức hệ của giai cấp tư sản, cấm các hội công nhân hoạt động và đàn áp những cuộc bãi công của người lao động.

cpv.org.vn

Bản chỉ dẫn tên người (L)

L

LANÉTXĂNG, Giăng Mari Ăngtoan đơ (1843-1919): Nhà tự nhiên học, thầy thuốc và nhà chính trị Pháp; Toàn quyền Đông Dương năm 1891-1894; Bộ trưởng Bộ Hàng hải năm 1899-1902; giám đốc chính trị báo Siècle năm 1906; tác giả của nhiều công trình khoa học.

LÃO TỬ: Tức Lý Đam, người sống đồng thời với Khổng Tử thời Chiến quốc (Trung Quốc); là quan coi kho sách và sáng lập ra đạo Lão là một trong ba giáo phái lớn nhất ở Trung Quốc. Đạo Lão được Trang Tử phát triển theo chủ nghĩa yếm thế, thoát tục. Đạo Lão khuyên con người không nên làm trái với “đạo” (vô vi), tức quy luật tự nhiên. Sau này các môn đệ của Lão Tử biến “vô vi” thành “xuất thế” – có tính chất mê tín, huyền bí, dùng bùa chú, thuật pháp mê hoặc dân chúng.

LÊ ĐẠI HÀNH (941-1005): Tức Lê Hoàn, danh tướng nhà Đinh. Lê Hoàn là người chỉ huy cuộc kháng chiến chống quân Tống (Trung Quốc) xâm lược lần thứ nhất và lập nhiều chiến công vang dội tại ải Chi Lăng và trên sông Bạch Đằng. Lê Hoàn được Thái hậu Dương Vân Nga và các tướng lĩnh suy tôn lên ngôi vua mở đầu nhà Tiền Lê (980-1009).

LÊ LỢI (1385-1433): Anh hùng dân tộc. Năm 1406, nhà Minh (Trung Quốc) xâm lược nước ta. Năm 1418, sau quá trình chuẩn bị và vận động nhân dân, Lê Lợi được Nguyễn Trãi giúp sức đã phất cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn (Thanh Hoá). Được đông đảo các tầng lớp nhân dân ủng hộ, cuộc khởi nghĩa đã nhanh chóng chuyển thành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Cuộc kháng chiến kéo dài 10 năm (1418-1428) và kết thúc thắng lợi, lật đổ ách thống trị của nhà Minh.

Sau khi chiến thắng quân Minh, ngày 29-4-1428, Lê Lợi lên ngôi vua và lập ra triều Lê đưa chế độ phong kiến Việt Nam lên giai đoạn phát triển thịnh vượng.

LÊNIN, Vlađimia Ilích (1870-1924): Lãnh tụ thiên tài của giai cấp vô sản và nhân dân lao động toàn thế giới, người sáng lập ra Đảng Cộng sản Liên Xô và Nhà nước công nông đầu tiên trong lịch sử loài người, và sáng lập ra Quốc tế Cộng sản. Kế tục sự nghiệp của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã đấu tranh kiên quyết để bảo vệ tinh thần cách mạng của chủ nghĩa Mác, chống lại mọi sự xuyên tạc của bọn cơ hội chủ nghĩa và phát triển thiên tài cả ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác (triết học mácxít, kinh tế chính trị học mácxít, và chủ nghĩa xã hội khoa học), giải quyết đúng đắn về lý luận và thực tiễn các vấn đề đặt ra cho cách mạng vô sản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa.

Lênin đặc biệt chú ý và đã đưa ra nhiều luận điểm quan trọng về phong trào đấu tranh của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc. Trong bản Sơ thảo những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa được trình bày tại Đại hội II của Quốc tế Cộng sản (1920), V.I.Lênin đã nêu ra những vấn đề cơ bản của phong trào giải phóng dân tộc.

LÊÔPÔN II (1835-1909): Quốc vương Bỉ từ năm 1865, người tổ chức những cuộc tấn công đánh chiếm vùng Trung Phi và Cônggô.

LIÔTÂY, Lu-i Uybe Gôngdavơ ( 1854-1934): Thống chế Pháp; có mặt nhiều năm ở các thuộc địa của Pháp. Năm 1894, Liôtây sang Đông Dương. Năm 1912, làm Tư lệnh quân đội Pháp ở Marốc. Năm 1916-1917, làm Bộ trưởng Bộ Chiến tranh. Bằng những hành động quân phiệt hết sức tàn bạo, Liôtây chỉ huy những cuộc đàn áp đẫm máu các cuộc nổi dậy đòi giải phóng, chống thực dân Pháp ở các thuộc địa.

LÍPNẾCH, Các (1871-1919): Nhà hoạt động xuất sắc của phong trào công nhân Đức và quốc tế, chiến sĩ đấu tranh tích cực chống chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa quân phiệt và chiến tranh đế quốc. Lípnếch là một trong những nhà tổ chức và lãnh đạo nhóm “Xpáctaquýt” cách mạng, là một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Đức và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa của công nhân năm 1919; bị kẻ thù giết hại trong nhà tù.

LÔI, Gioócgiơ (1863-1945): Người Anh; đại biểu Quốc hội năm 1890, theo khuynh hướng cấp tiến, chủ trương đàn áp đẫm máu cuộc nổi dậy của người Bôc. Năm 1905, làm Bộ trưởng Bộ Thương mại; sau đó làm Bộ trưởng Bộ Quân nhu (1915), Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (1916), Thủ tướng (1916). Sau chiến tranh, Lôi Gioócgiơ dự Hội nghị Vécxây (1919), làm thủ lĩnh Đảng Tự do Anh và viết hồi ký.

LÔNG, Môrixơ (? -1923): Bộ Thuộc địa Pháp cử M.Lông làm Toàn quyền Đông Dương tháng 12-1919; chính thức nhậm chức từ tháng 12-1919. Khi về Pháp công cán, qua Côlôngbô bị chết, lúc chưa hết nhiệm kỳ Toàn quyền Đông Dương tháng 1-1923.

LÔNGGHÊ, Giăng (1876-1938): Luật sư, nhà báo, đảng viên Đảng Xã hội Pháp thuộc phái Giuyn Ghexđơ (phái trung). Tại Đại hội Tua năm 1920, Lôngghê bỏ phiếu cho Quốc tế thứ hai và vẫn tham gia Đảng Xã hội. Năm 1934, Đảng Cộng sản Pháp lập Mặt trận nhân dân chống phát xít, Lôngghê là người ủng hộ và tham gia Mặt trận cho đến khi qua đời.

LƠBÔNG, Guyxtave (1841-1931): Thầy thuốc, nhà xã hội học Pháp, tác giả một số tác phẩm về nền văn minh Arập, ấn Độ, v.v..

LƠBROONG, Anbe (1871-1950): Học Trường bách khoa, kỹ sư mỏ, nghị sĩ Quốc hội từ năm 1900, Bộ trưởng Bộ thuộc địa (1911-1914), Chủ tịch Thượng viện (1931), Tổng thống (1932-1940), bị Đức bắt đi đày (1944-1945).

LÚCXĂMBUA, Rôda (1871-1919): Nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào công nhân Ba Lan, Đức và quốc tế, một trong những thủ lĩnh cánh tả của Quốc tế thứ hai. Ngay từ đầu cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất bà đã đứng trên lập trường quốc tế chủ nghĩa, là một trong những người có sáng kiến lập ra nhóm “Quốc tế”, sau đổi tên là nhóm “Xpáctaquýt”, rồi lại đổi là hội “Xpáctaquýt”. Sau Cách mạng tháng 11-1918 ở Đức, bà giữ vai trò lãnh đạo trong Đại hội thành lập Đảng Cộng sản Đức. Tháng 1- 1919, bà bị bắt và bị bọn phản cách mạng sát hại.

LÝ BÔN (Lý Nam Đế) : Còn gọi là Lý Bí, quê tỉnh Thái Bình. Năm 542, Lý Bôn lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà Lương (Trung Quốc), giải phóng đất nước. Năm 544, Lý Bôn lên ngôi vua, xưng là Nam Việt đế, tên nước là Vạn Xuân. Năm 545, nhà Lương lại đem quân sang xâm lược. Vì thế yếu, cuộc kháng chiến của nhân dân ta bị thất bại. Lý Bôn phải lui về vùng Vĩnh Phú và mất tại đây.

cpv.org.vn

Bản chỉ dẫn tên người (G – H – K)

G

GÁCNIÊ, Phrăngxi (1839-1873): Sĩ quan hải quân Pháp tham gia đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ nhất, bị quân ta giết chết ở gần Cầu Giấy (Hà Nội) năm 1873.

GĂNGĐI, Môhanđát, Karamsan (1869-1948): Nhà triết học, nhà văn, nhà hoạt động nổi tiếng của phong trào giải phóng dân tộc ấn Độ. Để chống lại thực dân Anh, giành độc lập dân tộc, Găngđi chủ trương không dùng bạo lực và không coi bạo lực là phương thức đấu tranh chính trị. Trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở ấn Độ (1919-1922), Găngđi trở thành lãnh tụ của Đảng Quốc đại và giữ vai trò quan trọng trong việc biến Đảng này thành một tổ chức quần chúng chống đế quốc. Học thuyết đề kháng tiêu cực của Găngđi trở thành tư tưởng chính của Đảng Quốc đại trong cuộc đấu tranh cho nền độc lập ấn Độ. Năm 1946, Găngđi tuyên bố không nhất thiết chỉ dùng phương pháp đấu tranh không bạo lực. Găngđi có ảnh hưởng và uy tín lớn ở ấn Độ. Nhân dân ấn Độ suy tôn là Mahátma nghĩa là “Tâm hồn vĩ đại”. Năm 1948, bị bọn phản động ám sát.

GHINBÔ, Hăngri (1885-1938): Người Pháp; năm 1916, tham gia hội nghị Kientan. Đầu những năm 20 là phóng viên báo L’Humanité ở Đức. Sau chuyển sang phái tơrốtxkít, tiếp tục làm báo.

GIA LONG (1762-1820): Tức Nguyễn ánh, đại diện của thế lực địa chủ phong kiến đã bị phong trào Tây Sơn lật đổ. Để chống lại Tây Sơn, khôi phục chế độ phong kiến, Nguyễn ánh đã cầu cứu quân xâm lược Xiêm (1784); ủng hộ quân xâm lược Thanh; câu kết với tư bản Pháp và ký với Pháp bản hiệp ước năm 1787. Bản hiệp ước gồm 10 khoản, nội dung chủ yếu là:

– Nguyễn ánh nhượng hẳn cho Pháp đảo Côn Lôn; cửa biển Hội An và cam kết để cho tư bản Pháp nắm độc quyền buôn bán trên cả nước, cung cấp binh lính và lương thực cho Pháp khi có chiến tranh.

– Chính phủ Pháp nhận giúp Nguyễn ánh 4 tàu chiến và một đội quân chống lại phong trào Tây Sơn.

Sau khi đàn áp được phong trào Tây Sơn (1802), Nguyễn ánh lên ngôi, hiệu là Gia Long, mở đầu nhà Nguyễn, triều vua cuối cùng ở Việt Nam.

GIÓPPHRƠ, Giôdép Giắccơ Xêxerơ (1852-1931): Thống chế Pháp, đã từng ở Bắc Kỳ, Xuđăng, Mađagátxca từ những năm đầu thế kỷ XX; Tổng tham mưu trưởng quân đội và Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng tối cao Pháp năm 1911. Sau khi được phong Thống chế năm 1917, Giópphrơ sang công cán ở Mỹ.

GIƠNUIY, Rigôn đơ: Đô đốc hải quân Pháp đã đem chiến thuyền đến bắn phá cảng Đà Nẵng năm 1858, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp ở Việt Nam.

GUĐƠ, Êmilơ (1870-1941): Người Pháp, tham gia Hội tam điểm, Phó Đốc lý thành phố, Uỷ viên Uỷ ban thường trực của Đảng Xã hội Pháp. ở Đại hội Tua, 1920, Guđơ bỏ phiếu cho Quốc tế thứ hai.

H

HÀM NGHI (1871-1944): Tức Nguyễn Ưng Lịch, vua thứ 8 nhà Nguyễn, người đứng đầu phe chủ chiến chống thực dân Pháp trong triều đình Huế. Khi kinh đô Huế thất thủ (tháng 7-1885), Hàm Nghi cùng Tôn Thất Thuyết ra phía Bắc tổ chức kháng chiến. Bị thực dân Pháp lùng bắt, phải lánh ở vùng rừng núi tỉnh Quảng Bình, xuống Chiếu Cần vương kêu gọi văn thân, sĩ phu và nhân dân chống Pháp. Tháng 11-1888, bị thực dân Pháp bắt, sau đó đày sang Angiê (thủ phủ của Angiêri ở Bắc Phi).

HĂMLÉT: Nhân vật chính trong vở bi kịch cùng tên của đại văn hào Anh Sếchxpia. Nhân vật Hămlét tượng trưng cho lòng trung hiếu và quả cảm của một thanh niên hoàng tộc trong cuộc đấu tranh chống lại tội ác và sự lừa lọc trong triều đình nước Đan Mạch đầu thế kỷ XVII.

HUYGÔ, Víchto (1802-1885): Nhà văn Pháp; nhà lý luận và chủ soái của trường phái thơ ca lãng mạn Pháp; tác giả của nhiều tập thơ, kịch, tiểu thuyết nổi tiếng. Các tác phẩm của Huygô đả kích chế độ đương thời, lên án những kẻ tàn bạo giày xéo lên hạnh phúc con người và đặt lòng tin vào con người có khả năng từ bóng tối vươn lên những đỉnh cao của ánh sáng chân lý và đạo đức.

K

KHẢI ĐỊNH (1882-1925): Tức Nguyễn Bửu Đảo, vua thứ 12 nhà Nguyễn. Năm 1916, được người Pháp đưa lên ngôi và đứng đầu triều đình đến năm 1925. Khải Định là một hoàng đế bạc nhược, hoàn toàn phụ thuộc vào người Pháp.

KHỔNG TỬ (511- 479 TCN): Tên Khâu, người nước Lỗ, sống vào đời nhà Chu thời Chiến quốc (Trung Quốc). Học rộng, tài cao, là người sáng lập ra đạo Khổng – một trong ba giáo phái lớn nhất Trung Quốc (Khổng giáo, Phật giáo, Lão giáo). Đạo Khổng là nền tảng tư tưởng chính thống của chế độ phong kiến Trung Quốc và ảnh hưởng sâu rộng trong nhiều nước châu á. Đạo Khổng đề cao lòng ái quốc trung thần, phân định rạch ròi quan hệ vua – tôi, cha – con, chồng – vợ, coi thường phụ nữ và người lao động.

KƠRISƠNA, Rama (1857-?): Nhà triết học, nhà văn, nhà hoạt động chính trị ấn Độ nổi tiếng, chủ trương đấu tranh đòi giải phóng về chính trị và kêu gọi đoàn kết dân tộc. Năm 1909, bị chính quyền thuộc địa Anh trục xuất khỏi ấn Độ.

cpv.org.vn

Bản chỉ dẫn tên người (D – Đ)

D

DINÔVIÉP, Rađômưxlơxki G.E. (1883-1936): Gia nhập Đảng công nhân dân chủ – xã hội Nga năm 1901. Sau Cách mạng Tháng Mười, là Chủ tịch Xôviết Pêtrôgrát, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Nga (b), Chủ tịch Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản. Hai lần bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản và được phục hồi; năm 1934, bị khai trừ hẳn khỏi Đảng Cộng sản.

DUY TÂN (1900-1945): Tức Nguyễn Vĩnh San, vua thứ 11 nhà Nguyễn từ năm 1907 đến năm 1916. Duy Tân là người yêu nước và có tinh thần dân tộc. Năm 1916, cùng Thái Phiên và Trần Cao Vân trong tổ chức Việt Nam quang phục hội dựa vào số binh lính bị mộ sang Pháp tổ chức khởi nghĩa ở Huế và miền Nam Trung Kỳ. Công việc bị bại lộ, khởi nghĩa không thành, Duy Tân bị thực dân Pháp đày sang đảo Rêuyniông (châu Phi). Duy Tân là người ham học và có ý chí. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, gia nhập quân đội Đồng minh chống phát xít; năm 1945, mất vì tai nạn máy bay ở châu Phi.

Đ

ĐÁCLƠ, Ôguytxtơ Eđua (1875-1940): Người Pháp, cử nhân văn chương. Năm 1906, sang Đông Dương vào ngạch 4 quan cai trị. Đáclơ làm Công sứ tỉnh Thái Nguyên, chủ trương đàn áp đẫm máu cuộc nổi dậy của binh lính người Việt do Trịnh Văn Cấn chỉ huy, tháng 8-1917.

ĐÁCUYN, Sáclơ (1809-1882): Nhà sinh vật học vĩ đại người Anh; người sáng lập khoa sinh vật học duy vật, lý thuyết về sự tiến hóa của giống loài và cuộc đấu tranh giữa các giống loài. Đácuyn kịch liệt bác bỏ những quan điểm duy tâm của giáo hội về nguồn gốc loài người và các sinh vật. Đácuyn trình bày những luận điểm khoa học của mình trong tác phẩm Nguồn gốc các loài (1859).

ĐAOXƠ, Sáclơ Ghitơ (1865-1951): Nhà tài chính và hoạt động chính trị Mỹ. (Xem chú thích số 53).

ĐỀ THÁM tức Hoàng Hoa Thám (1862-1913): Người lãnh đạo phong trào khởi nghĩa nông dân ở Yên Thế (Hà Bắc), một phong trào đấu tranh yêu nước quyết liệt và bền bỉ của nông dân Việt Nam; bị tay sai thực dân Pháp ám hại năm 1913.

ĐỘI VĂN: Một trong những người chỉ huy cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy (1885-1889) thuộc tỉnh Hưng Yên cũ, do Nguyễn Thiện Thuật lãnh đạo. Năm 1889, bị khủng bố, Đội Văn trá hàng, được Pháp cấp cho 500 quân để đánh lại nghĩa quân. Đội Văn mang toàn bộ quân lính và vũ khí gia nhập nghĩa quân Hoàng Hoa Thám đánh lại quân Pháp.

ĐƠ VALƠRA, Imơn (1882-1975): Nhà yêu nước Aixlen, thủ lĩnh cuộc nổi dậy của những người tình nguyện Aixlen năm 1916, lãnh tụ Đảng Xin Pêin năm 1918. Ông hai lần làm Thủ tướng Aixơlen và quyết định Aixơlen đứng trung lập trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Năm 1959, là Tổng thống và năm 1966, được bầu lại làm Tổng thống nước Cộng hoà Aixơlen.

ĐUME, Pôn (1857-1932): Nghị sĩ Quốc hội Pháp (phái cấp tiến) năm 1888, 1895; Bộ trưởng Bộ Tài chính năm 1895-1896, 1921-1922; Toàn quyền Đông Dương năm 1896-1902; Chủ tịch Thượng viện năm 1927; Tổng thống năm 1931; tác giả cuốn sách Indochine – Francaise. Bị ám sát năm 1932.

cpv.org.vn

Bản chỉ dẫn tên người (C)

C

CAIÔ, Giôdép Mari Ôguýtxtơ (1863-1944): Nhiều lần làm Bộ trưởng Bộ Tài chính trong Chính phủ Pháp. Năm 1911, làm Thủ tướng. Trong những năm Chiến tranh thế giới thứ nhất, đi công cán ở Nam Mỹ và ở Italia. Bị khả nghi nên Chính phủ Clêmăngxô bắt giam năm 1917; bị kết án là tiếp tay không tự nguyện cho kẻ thù năm 1920. Mấy năm sau được tha, rồi lại được bầu làm nghị viên và Bộ trưởng Bộ Tài chính năm 1925, sau làm Chủ tịch Uỷ ban Tài chính của Thượng nghị viện đến năm 1940.

CANH, Sáclơ (1500-1558): Hoàng đế Tây Ban Nha, có tham vọng làm bá chủ thế giới, đã gây nhiều cuộc chiến tranh với Pháp, Đức, Thổ Nhĩ Kỳ, Tuynidi, Angiêri, v.v..

CARAKHAN, Lép Mikhailôvích (1889-1937): Nhà hoạt động ngoại giao Xôviết, Uỷ viên Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Hoạt động cách mạng từ năm 1904; tham gia Cách mạng Tháng Mười năm 1917. Thư ký Đoàn đại biểu Xôviết tại cuộc đàm phán hoà bình ở Brét. Trong những năm 1918-1920 và 1927-1934, là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao. Từ 1923-1926, Đại sứ Liên Xô tại Trung Quốc; từ 1937, Đại sứ Liên Xô tại Thổ Nhĩ Kỳ.

CASANH, Mácxen (1869-1958): Nhà hoạt động xuất sắc của phong trào công nhân Pháp và quốc tế. Từ năm 1912 đến 1918, biên tập viên báo L’Humanité , cơ quan trung ương của Đảng Xã hội Pháp và năm 1918 làm chủ bút tờ báo đó. Casanh là một trong những người tích cực ủng hộ và giúp đỡ Nguyễn ái Quốc trong thời gian hoạt động ở Pháp.

Năm 1920, với tư cách là đại biểu của Đảng Xã hội Pháp, Casanh tham gia Đại hội lần thứ II Quốc tế Cộng sản từ năm 1924 đến năm 1943, Uỷ viên Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản.

Từ năm 1921, Casanh liên tục được bầu làm Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương và Uỷ viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Pháp.

Năm 1957, Casanh được Đảng và Nhà nước Liên Xô tặng Huân chương Lênin.

CLÊMĂNGXÔ, Gióocgiơ Bănggia (1841-1929): Vốn là thầy thuốc, tham gia hoạt động chính trị sau ngày đế chế thứ hai sụp đổ (4-9-1870), nghị sĩ cấp tiến trong Quốc hội, thuộc phái cực tả, dựa vào những cuộc lật đổ nhiều bộ trưởng và làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ (1906-1909). Clêmăngxô chủ trương ra báo L’Homme libre (1913), đầu Chiến tranh thế giới thứ nhất là báo L’Homme enchainé, tố cáo chế độ kiểm duyệt. Năm 1920, bị thất bại trong tranh cử tổng thống, Clêmăngxô ra nước ngoài và viết sách.

COÓCĐIE, Hăngri (1840-1925): Nhà Đông phương học người Pháp, tác giả của nhiều cuốn sách về phương Đông, đặc biệt là Trung Quốc.

CÔNGXTĂNGTANH I (1868-1923): Vua Hy Lạp; nối ngôi vua cha là Gioócgiơ I năm 1913. Năm 1917, bị bắt đi đày, sau trở về lên ngôi năm 1920 và thoái vị năm 1922.

CÔNTRẮC, Alếchxăngđrơ Vaxiliêvích (1873-1920): Phần tử quân chủ, một trong những kẻ cầm đầu các thế lực phản cách mạng ở Nga, tay sai của khối đồng minh đế quốc (1918-1919), tiếp tay cho hành động can thiệp của các nước đế quốc và gây ra nội chiến chống lại chính quyền Xôviết sau Cách mạng Tháng Mười.

Những đợt tấn công của Hồng quân đã làm lực lượng của Côntrắc tan rã. Côntrắc bị bắt làm tù binh và ngày 7-2-1920, bị xử bắn theo quyết định của Uỷ ban Cách mạng Iếccútxcơ (Liên Xô).

cpv.org.vn

Bản chỉ dẫn tên người (A-B)

A

ARIXTỐT (khoảng 384-322 TCN): Nhà triết học cổ đại Hy Lạp. Arixtốt trù trừ giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, sau ông ngả theo chủ nghĩa duy tâm. Về nhận thức luận, Arixtốt gần với chủ nghĩa duy vật. Là một bộ óc bách khoa, Arixtốt để lại nhiều công trình nghiên cứu có giá trị về triết học, sinh vật học, đạo đức học, thi pháp và có ảnh hưởng to lớn và lâu dài trong nền văn minh châu Âu.

B

BéCTƠLÔ, Pie Êgien Maxơlen (1827-1907): Nhà hoá học người Pháp. Năm 1876 được bầu làm Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm khoa học Pêtécbua (Nga).

BÉCTÔNG, Pie Mari Ăngđrê (1882-1968): Luật sư, nghị sĩ Quốc hội của Đảng Xã hội Pháp năm 1919, dự Đại hội Tua năm 1920 (không phải là đại biểu và có tham luận); nghị sĩ Quốc hội của Đảng Cộng sản đến năm 1932, sau đó bỏ Đảng Cộng sản.

BÊHEN, Pinhô đờ (1741-1799): Còn gọi là Bá Đa Lộc, giáo sĩ người Pháp. Dưới danh nghĩa truyền đạo, Bêhen đã tích cực hoạt động do thám và chuẩn bị cho sự can thiệp và xâm lược của thực dân Pháp vào nước ta. Bêhen là kẻ tích cực giúp Nguyễn ánh chống lại sự nghiệp thống nhất đất nước của phong trào Tây Sơn; giúp Nguyễn ánh ký với Pháp bản hiệp ước bán nước năm 1787.

BLĂNG, Giuyn (1881-1960): Tham gia Đảng Xã hội Pháp năm 1905; đại biểu tham dự Đại hội Đảng Xã hội ở Xtraxbua và Tua năm 1920, thuộc phái Quốc tế thứ ba. Năm 1921, được bầu vào Ban lãnh đạo của Đảng Cộng sản Pháp ở Đại hội toàn quốc họp ở Mácxây. Nguyễn ái Quốc được cử làm trợ lý cho Blăng khi làm Chủ tịch phiên họp sáng ngày 30-12-1921. Về sau, ông bỏ Đảng Cộng sản, làm thư ký công đoàn và viết báo.

BÔ, Philíp : Được Bộ Thuộc địa cử làm Toàn quyền Đông Dương ngày 1-7-1902, chính thức nhậm chức ngày 15-10-1902. Ph.Bô làm Toàn quyền Đông Dương đến ngày 25-6-1908.

BÔĐOANH, Pôn: Viên chức cao cấp của chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương; làm quyền Toàn quyền Đông Dương từ tháng 4 đến tháng 9-1922, từ khi Môrixơ Lông về Pháp cho đến khi Méclanh sang thay. Bôđoanh làm Tổng Giám đốc nhà băng năm 1931, Chủ tịch các nhà băng ở Đông Dương từ năm 1941 đến năm 1944.

BÔNĐUIN, Stênli (1867-1947): Lãnh tụ của những người bảo thủ Anh; Thủ tướng Anh năm 1923-1924, 1924-1929 và 1935-1937; là người ủng hộ chính sách thuộc địa và khuyến khích can thiệp vũ trang chống cách mạng Trung Quốc năm 1924-1927. Bônđuin đã cầm đầu vụ đàn áp cuộc tổng bãi công của giai cấp công nhân và cuộc bãi công của công nhân mỏ năm 1926; có thái độ thù địch với Liên Xô năm 1927; thực hành chính sách khuyến khích bọn xâm lược ý, Đức và âm mưu câu kết với nước Đức Hítle chĩa mũi nhọn xâm lược của Đức vào Liên Xô.

BRAO, Giôn (1800-1859): Một trong những người đấu tranh giải phóng người da đen ở Mỹ, tổ chức ra Hội đấu tranh thủ tiêu chế độ nô lệ, lập nhà trường cho người da đen, giúp người nô lệ chạy trốn lánh nạn sang Canađa. Brao cầm đầu một toán người da trắng và da đen đánh chiếm kho vũ khí của chính phủ bang Viếcginia. Trong khi đánh nhau, Brao bị bắt và hai con trai bị giết. Ngày 2-12-1859, bị xử treo cổ.

BUĐINÔ, Lu-i Pie, Emilơ – Gabrien (1875-?): Tốt nghiệp trường các sinh ngữ phương Đông, sang Đông Dương từ năm 1901; làm Phó Công sứ tỉnh Thừa Thiên năm 1910; sau đó làm nhiều việc với tư cách là quan chức của chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương.

cpv.org.vn

Gửi Tổng thư ký Quốc tế Nông dân (12-11-1924)

Quảng Châu, ngày 12-11-1924

Gửi đồng chí Đômban, Tổng thư ký Quốc tế Nông dân 1 ,

Đồng chí thân mến,

Chuyến đi của tôi từ Mátxcơva được quyết định hơi đột ngột, và tôi không thể báo trước cho đồng chí điều đó. Tôi xin đồng chí thứ lỗi và chuyển sự tạ lỗi của tôi đến các đồng chí chúng ta ở Hội đồng.

ở đây, chúng ta có một phong trào nông dân rất đáng chú ý: dưới sự bảo trợ của Quốc dân đảng và dưới sự lãnh đạo của những người cộng sản, những nông dân nghèo đã tự tổ chức lại. Về phía các địa chủ, họ cũng có tổ chức nhưng tất nhiên với một mục đích khác. Đó là một cơ hội tuyệt diệu cho sự tuyên truyền của chúng ta. Vậy tôi đề nghị đồng chí vui lòng gửi cho tôi tất cả mọi tài liệu mà đồng chí có thể có như các báo, các tuyên ngôn, v.v.. Tôi sẽ đảm nhiệm thu xếp với các đồng chí chúng ta ở đây để phổ biến chúng.

Về việc liên quan tới vị trí của tôi là uỷ viên Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân thì đồng chí cứ làm nếu như đồng chí xét là tốt hoặc là đề nghị thay thế tôi, ở trường hợp này đồng chí nói là tôi ốm, chứ đừng nói là tôi vắng mặt, bởi vì tôi sống bất hợp pháp ở đây. Hoặc là nếu đồng chí thấy có ích thì cứ giữ lại cái danh nghĩa dân thuộc địa Nguyễn ái Quốc để trang trí cho những tuyên ngôn và những lời kêu gọi của Hội đồng.

Xin gửi đồng chí và tất cả các đồng chí của chúng ta lời chào cộng sản.

NGUYỄN ÁI QUỐC

Địa chỉ để gửi tài liệu:
Ô.Lu, Hãng thông tấn Rôxta, Quảng Châu, Trung Quốc.

—————————-

Thư đánh máy bằng tiếng Pháp, bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh
cpv.org.vn

Gửi Ban biên tập báo Rabotnhitxa (12-11-1924)

Quảng Châu, ngày 12-11-1924

Các nữ đồng chí thân mến,

Khi tôi còn ở Quốc tế Cộng sản 2 , tôi phấn khởi được đôi lần cộng tác với tờ báo của các đồng chí. Nay tôi muốn tiếp tục sự cộng tác ấy. Nhưng vì ở đây tôi hoạt động bất hợp pháp, cho nên tôi gửi bài cho các đồng chí dưới hình thức “Những bức thư từ Trung Quốc” và ký tên một phụ nữ. Tôi nghĩ rằng làm như vậy những bài viết có tính chất độc đáo hơn và phong phú hơn đối với độc giả, đồng thời cũng bảo đảm giấu được tên thật của tôi.

Xin các đồng chí gửi đều đặn cho tôi không chỉ riêng báo của các đồng chí, mà cả những sách báo Nga mà phụ nữ và thiếu nhi có thể ưa thích, bởi vì ở đây còn phải làm nhiều việc vận động phụ nữ và thiếu nhi, nhưng các đồng chí của chúng ta ở đây lại chưa có đủ tài liệu huấn luyện và tuyên truyền. Về phần tôi, tôi hứa sẽ cung cấp cho các đồng chí tin tức về phong trào phụ nữ ở phương Đông nói chung và ở Trung Quốc nói riêng.

Nếu phải trả tiền đặt mua các thứ báo mà các đồng chí sẽ gửi cho tôi, xin các đồng chí cứ giữ lại tiền thù lao các bài báo tôi viết để trả.

Xin các đồng chí nhận lời chào cộng sản của tôi.

NGUYỄN ÁI QUỐC

Địa chỉ nhận báo:
Ô.Lu, Hãng thông tấn Rôxta, Quảng Châu, Trung Quốc

————————-

Thư đánh máy bằng tiếng Pháp, bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh
cpv.org.vn

Gửi một đồng chí trong Quốc tế Cộng sản (12-11-1924)

Quảng Châu, ngày 12-11-1924

Đồng chí thân mến,

Chỉ có một dòng chữ để báo cho đồng chí biết rằng tôi đã đến đây hôm qua, và đang ở nhà đồng chí Bôrôđin với 2 hoặc 3 đồng chí Trung Quốc. Tôi chưa gặp ai cả.

Mọi người ở đây đều bận về việc Bác sĩ Tôn lên phương Bắc.

Tôi sẽ viết thư cho đồng chí sớm.

Xin gửi lời chào anh em của tôi đến đồng chí và tất cả các đồng chí chúng ta ở Quốc tế Cộng sản.

NGUYỄN ÁI QUỐC

Địa chỉ:

Ô.Lu, Hãng thông tấn Rôxta, Quảng Châu, Trung Quốc.

Vui lòng chuyển giúp bức thư sau đây tới Vǎn phòng Đảng Pháp.

————————

Thư đánh máy bằng tiếng Pháp, bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh
cpv.org.vn