Thư viện

Chú tích (58 – 62)

58. Những cuộc biểu tình năm 1907: Phong trào cải cách bằng con đường hoà bình diễn ra sôi nổi khắp 3 kỳ trong năm 1907. Trung tâm của phong trào là các đô thị, nhất là Hà Nội. Những người cầm đầu phong trào này đều là các sĩ phu tiến bộ. Nội dung của phong trào chủ yếu là mở trường học, truyền bá tư tưởng mới, cổ động bỏ hủ tục và lồng vào đó là tư tưởng yêu nước, chống Pháp.

Tiêu biểu cho phong trào là Đông kinh nghĩa thục (từ tháng 3 đến tháng 11-1907) đứng đầu là Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Đào Nguyên Phổ.

Phong trào đã diễn ra sôi nổi ở khắp nơi. Thông qua các cuộc diễn thuyết, bình văn thơ, các sĩ phu tuyên truyền những tư tưởng mới, đề cao tinh thần dân tộc, kích động và phát triển mạnh mẽ lòng yêu nước của nhân dân ta. Tr.402.

59. Chủ nghĩa Uynxơn: Uynxơn là Tổng thống Mỹ từ năm 1913 đến 1921. Năm 1917, Uynxơn tuyên bố nước Mỹ tham gia Chiến tranh thế giới thứ nhất, đứng về phía Anh, Pháp để chống Đức. Khi chiến tranh sắp kết thúc, Uynxơn đưa ra “Chương trình 14 điểm” làm cơ sở cho Hội nghị Vécxây (1919). Nói chủ nghĩa Uynxơn là nói “Chương trình 14 điểm” đó. Thực chất của nó là chính sách đối ngoại ăn cướp của đế quốc Mỹ chống lại nước Nga Xôviết mới ra đời, lợi dụng sự suy yếu của các nước tư bản châu Âu để nâng cao địa vị quốc tế của Mỹ và tăng cường nô dịch các dân tộc bị áp bức. Nhưng nó lại được che giấu bằng những lời lẽ mị dân về “dân chủ” và “quyền dân tộc tự quyết”. Tr.416.

60. Ban nghiên cứu thuộc địa : Một tổ chức nghiên cứu những vấn đề thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp, thành lập tháng 6-1921. Nguyễn ái Quốc là uỷ viên của tổ chức này. Ban đã sưu tầm và phổ biến các tài liệu về tình cảnh các xứ thuộc địa và cuộc đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa; tiến hành công tác tuyên truyền trong nhân dân Pháp và nhân dân các thuộc địa về tinh thần đoàn kết quốc tế giữa giai cấp vô sản các nước đế quốc với các dân tộc bị áp bức trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Ban đã gửi nhiều bài đăng trên mục Thuộc địa của báo L’ Humanité và tìm cách gửi báo đến các thuộc địa. Hoạt động của Ban đã góp phần tích cực vào công tác tuyên truyền học thuyết của V.I.Lênin và đường lối của Quốc tế Cộng sản về vấn đề đấu tranh giải phóng dân tộc. Tr.440.

61. Bản báo cáo này nguyên văn bằng tiếng Pháp, không ký tên, lưu tại Viện Mác – Lênin, Mátxcơva (nay là kho lưu trữ nhà nước nước Cộng hoà Liên bang Nga). Bản vi phim lưu ở Thư viện mácxít, cuộn số 7, loại 70, Ban thuộc địa trực thuộc Ban Chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Pháp.

Căn cứ vào nội dung và hoàn cảnh lịch sử đầu những năm 20, chúng tôi cho rằng tác giả của bản báo cáo trước hết phải là một người Việt Nam, một người am hiểu sâu sắc chủ nghĩa Mác và thực tế lịch sử Việt Nam trong quá khứ và hiện tại; một người có quan niệm về Việt Nam như một thực thể thống nhất chứ không phải Đông Dương một thực thể thuộc địa và người đó, theo chúng tôi, không thể là ai khác ngoài Nguyễn ái Quốc – Người Việt Nam duy nhất lúc đó sống ở Mátxcơva. Tr.464.

62. Báo La Tribune indigène: Báo của phái lập hiến Đông Dương, xuất bản ở Sài Gòn từ năm 1917 đến 1925, mỗi tuần 3 kỳ vào thứ 3, 5, 7. Tr.466.

cpv.org.vn

Chú tích (53 – 57)

53. Kế hoạch Đaoxơ : Kế hoạch bắt nước Đức bồi thường chiến tranh cho các nước Đồng minh thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Kế hoạch này do Đaoxơ, giám đốc một ngân hàng lớn của Mỹ, lãnh đạo việc soạn thảo và được thông qua tại Hội nghị đại biểu các nước thắng trận họp ở Luân Đôn năm 1924.

Mục đích chủ yếu của kế hoạch này là dọn đường cho tư bản nước ngoài, trước hết là Mỹ, đầu tư vào nước Đức, đẩy mạnh việc khôi phục tiềm lực công nghiệp quân sự của chủ nghĩa đế quốc Đức nhằm hướng nước Đức vào con đường chiến tranh chống Liên Xô, đồng thời tăng cường chính sách bóc lột, áp bức và đàn áp phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân nước Đức. Tr.320.

54. Hội quốc liên: Tổ chức quốc tế, thành lập năm 1919 và tồn tại trong thời gian giữa Chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai, với mục đích thực hiện những cam kết ký tại Hội nghị Hòa bình Pari (1919). Điều lệ của Hội nêu rõ mục đích đấu tranh cho hoà bình, chống chiến tranh. Tuy nhiên, trong thực tế, Hội quốc liên đã dung túng cho các thế lực đế quốc, cổ vũ chạy đua vũ trang và chuẩn bị chiến tranh thế giới. Tr.326.

55. Hội Nhân quyền và Công dân quyền : Một tổ chức dân chủ tư sản nhằm đấu tranh đòi bảo vệ những quyền tự do tư sản. Tổ chức này được thành lập năm 1898 ở Pháp do sáng kiến của nhà văn Pháp Tơrariơ nhân vụ nhà cầm quyền Pháp xử phạt nhà văn êmin Dôla. Tr.328.

56. Tác giả muốn nói về Cách mạng tư sản Pháp (1789-1794), cuộc cách mạng đã xoá bỏ chế độ phong kiến chuyên chế, mở đường cho sự phát triển chủ nghĩa tư bản ở Pháp và một số nước khác ở châu Âu.

Ngày 14-7-1789, quần chúng nhân dân Pari đã nổi dậy khởi nghĩa, chiếm ngục Baxti, nơi tượng trưng cho chế độ chuyên chế độc tài. Sự kiện đó đánh dấu sự sụp đổ của chế độ phong kiến ở Pháp.

Sau những cuộc đấu tranh quyết liệt trong nội bộ giai cấp thống trị, Hội nghị Quốc ước (Quốc hội) đã được bầu ra và phái Giacôbanh do M.Rôbexpie đứng đầu được sự ủng hộ của nhân dân đã lên nắm chính quyền (tháng 6-1793), nền chuyên chế dân chủ cách mạng được thiết lập. Đây là thời kỳ phát triển cao nhất của cách mạng.Tr.330.

57. Đây là nói cuộc hành hình những người lính khố đỏ tham gia vụ đầu độc binh lính Pháp ở Hà Nội, tháng 6-1908. Một số sĩ phu yêu nước cùng với nghĩa quân Hoàng Hoa Thám đã liên lạc với những người lính Việt Nam yêu nước trong quân đội Pháp, chủ trương đánh úp Hà Nội. Theo kế hoạch, đến bữa ăn tối ngày 27-6-1908, những người đầu bếp bỏ thuốc độc vào thức ăn để giết quan quân Pháp, sau đó binh sĩ sẽ cướp kho vũ khí, đánh chiếm các công sở, phối hợp với nghĩa quân Hoàng Hoa Thám từ ngoài đánh vào Hà Nội.

Kết quả là nhiều binh lính Pháp đã bị ngộ độc; nhưng kế hoạch bại lộ, thực dân Pháp tàn sát dã man những người tham gia vụ đầu độc này. Một số người bị chém và bêu đầu trên các đường phố lớn ở Hà Nội. Tr.354.

cpv.org.vn

Chú tích (47 – 52)

47. Đại hội Liông : Đại hội lần thứ III Đảng Cộng sản Pháp họp ở Liông (Pháp) tháng 1-1924. Vấn đề chủ yếu của Đại hội là đấu tranh để củng cố Đảng về mặt tổ chức và tư tưởng. Tr.279.

48. Những sự kiện xảy ra năm 1917: Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Nga hoàng đã phái quân lính sang chiến đấu chống quân Đức ở mặt trận Pháp. Năm 1917, những binh lính này không chịu chiến đấu vì lợi ích của bọn tư bản, đã lập Xôviết và đòi trở về nước. Chính phủ Pháp sợ tư tưởng cách mạng của binh lính Nga lan sang quân đội Pháp, đã dồn họ vào trại tập trung có chăng dây thép gai, và cho quân lính thuộc địa canh giữ. Tr.280.

49. Tổng Liên đoàn lao động thống nhất : Một tổ chức liên hiệp các công đoàn Pháp tồn tại từ năm 1922 đến năm 1936, do các công đoàn cách mạng lập nên. Tổng Liên đoàn lao động thống nhất kiên quyết chủ trương khôi phục sự thống nhất của công đoàn, bảo vệ lợi ích thiết thân của giai cấp vô sản và đã cùng với Đảng Cộng sản Pháp tham gia đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và chiến tranh. Tr.281.

50. Quốc dân đảng: Tổ chức chính trị ở Trung Quốc, do Tôn Trung Sơn sáng lập năm 1905, ban đầu là Trung Quốc cách mạng đồng minh hội; sau Cách mạng Tân Hợi (1911), cải tổ thành Quốc dân đảng. Thời gian đầu, Quốc dân đảng là một tổ chức cách mạng. Năm 1927, người kế tục sự nghiệp của Tôn Trung Sơn là Tưởng Giới Thạch gây chính biến phản cách mạng, đàn áp những người cộng sản, dẫn đến cuộc nội chiến lần thứ nhất ở Trung Quốc. Năm 1937, trước sự xâm lược của phát xít Nhật, Quốc dân đảng buộc phải hợp tác với Đảng Cộng sản Trung Quốc đấu tranh chống kẻ thù chung. Năm 1946, Quốc dân đảng lại gây nội chiến lần thứ hai. Năm 1949, cách mạng Trung Quốc thành công, lực lượng Quốc dân đảng bỏ chạy ra đảo Đài Loan. Tr.295.

51. Đại hội Bacu: Đại hội họp từ ngày 1 đến ngày 7-9-1921 tại Bacu (Thủ đô Adécbaidăng). Tham dự Đại hội có 1.891 đại biểu của 37 dân tộc phương Đông, (trong đó có 1.273 đại biểu là đảng viên cộng sản). Đại hội họp nhằm biểu dương và tăng cường tình đoàn kết giữa các dân tộc phương Đông, giữa các dân tộc phương Đông với giai cấp vô sản Nga và giai cấp vô sản thế giới đặng đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Đại hội đã hoàn toàn nhất trí với nghị quyết về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Đại hội II Quốc tế Cộng sản (1920). Tr.298.

52. Nghĩa hoà đoàn : Phong trào yêu nước của nông dân Trung Quốc những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và có nguồn gốc từ phong trào Nghĩa hoà quyền giữa thế kỷ XIX.

Nét nổi bật của phong trào Nghĩa hoà đoàn là mang màu sắc mê tín, thần bí với những câu niệm chú bí ẩn, lối trang phục kỳ dị.

Sau cuộc chiến tranh Trung – Nhật, các nước đế quốc thi nhau xâu xé Trung Quốc. Nghĩa hoà đoàn đã tiến hành những cuộc tiến công các nhà thờ Kitô giáo, trục xuất các linh mục và phá huỷ các công trình, cơ sở kinh tế của người nước ngoài. Mùa hè năm 1900, các nước đế quốc Anh, Pháp, Mỹ, Nhật, Nga, Đức, áo, ý đã thành lập liên quân để chống lại Nghĩa hoà đoàn. Với sự phản bội của triều đình Mãn Thanh, các nước đế quốc đã dìm phong trào Nghĩa hoà đoàn trong biển máu. Tr.316.

cpv.org.vn

Chú tích (42 – 46)

42. Hiệp ước Xevơrơ: Hiệp ước ký kết giữa Thổ Nhĩ Kỳ và các nước Đồng minh ngày 10-8-1920 tại Xevơrơ (Pháp), chia cắt đất Thổ Nhĩ Kỳ ra làm nhiều nước và lập chế độ nửa thuộc địa ở đó. Nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ nổi dậy đấu tranh chống lại hiệp ước này để bảo vệ độc lập dân tộc. Thổ Nhĩ Kỳ chiến thắng, buộc các nước đế quốc phải triệu tập Hội nghị Lôdannơ để xoá bỏ hiệp ước Xevơrơ. Tr.224.

43. Hoà ước Lôdannơ: Bản hoà ước được ký kết trong Hội nghị giữa các nước Đồng minh và Thổ Nhĩ Kỳ họp ở thành phố Lôdannơ, thuộc Thuỵ Sĩ (1922-1923). Bản hoà ước quy định chế độ sử dụng các eo biển Đácđanen, chế độ, quyền lợi của những người theo đạo Kitô trên đất Hồi giáo và xét lại Hiệp ước Xevơrơ. Tr.225.

44. Hội nghị Oasinhtơn: Hội nghị về việc hạn chế hải quân và các vấn đề thuộc Thái Bình Dương và Viễn Đông họp từ 12-11-1921 đến 6-2-1922 tại Oasinhtơn (Mỹ) có Mỹ, Anh, Pháp, Nhật, ý, Trung Quốc, Bỉ, Hà Lan, Bồ Đào Nha tham gia.

Mục đích của Hội nghị là nhằm chia lại thuộc địa và phạm vi ảnh hưởng giữa các nước đế quốc sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, cướp bóc, nô dịch các nước thuộc địa và chống lại nước Nga Xôviết.

Các giới cầm quyền Mỹ là kẻ khởi xướng của Hội nghị. Thông qua Hội nghị, Mỹ đã làm cho Anh phải từ bỏ quyền thống trị trên mặt biển, làm cho liên minh Anh – Nhật phải bị thủ tiêu, Nhật chấm dứt độc quyền kiểm soát Trung Quốc, tạo điều kiện cho tư bản Mỹ nô dịch Trung Quốc. Tr.247.

45. Trường đại học cộng sản phương Đông (tên gọi tắt của Trường đại học cộng sản của những người lao động phương Đông): Trường thành lập tại Mátxcơva (Liên Xô) năm 1921, theo quyết định của Quốc tế Cộng sản, để đào tạo cán bộ cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc.

Tại đây, các học viên được trang bị những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, phương pháp tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh cách mạng. Trong thời gian học tập, học viên phải nắm vững các môn quan trọng như chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, kinh tế chính trị, lịch sử phong trào công nhân quốc tế, lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc, v.v..

Trong gần 20 năm tồn tại, Trường đại học phương Đông đã đào tạo cho các nước phương Đông hàng ngàn cán bộ, trong đó có những người về sau trở thành cán bộ lãnh đạo có uy tín của các đảng cộng sản ở các nước.

Sau khi về hoạt động ở Quảng Châu (Trung Quốc), Nguyễn ái Quốc đã lựa chọn và cử nhiều cán bộ Việt Nam và một số nước khác ở châu á sang học tại Trường đại học phương Đông. Tr.263.

46. Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản : Đại hội họp từ ngày 17-6 đến ngày 8-7-1924 tại Mátxcơva. Đại hội đã tổng kết, rút ra những bài học kinh nghiệm về đấu tranh giai cấp từ năm 1918 đến năm 1923 và đề ra chủ trương tăng cường công tác xây dựng các đảng cộng sản để lãnh đạo phong trào đấu tranh thực hiện những mục tiêu lâu dài của cách mạng và quyền lợi hằng ngày của quần chúng. Đại hội cũng chỉ rõ phương hướng, nhiệm vụ của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế là phải đấu tranh chống chủ nghĩa cải lương, cơ hội, chống những phần tử phái hữu và trốtxkít.

Nguyễn ái Quốc đã tham dự Đại hội và đã ba lần phát biểu ý kiến về vấn đề dân tộc và thuộc địa và những vấn đề khác. Tr.273.

cpv.org.vn

Chú tích (33 – 38)

33. Đahômây: Nay là Cộng hoà nhân dân Bênanh, là một nước ở phía Tây châu Phi, trên bờ Đại Tây Dương. Thủ đô là Poóctô Nôvô. Hồi thế kỷ XVI, Đahômây là một thị trường buôn bán nhiều nô lệ nên còn gọi là “Bờ biển nô lệ”.

Từ tháng 2-1890, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược nước này, nhưng vấp phải sức kháng cự quyết liệt của nhân dân. Đến đầu năm 1894, quân Pháp mới đánh chiếm xong và 5 năm sau sáp nhập xứ này vào “Liên bang Tây Phi thuộc Pháp”.

Không chịu nổi ách thống trị tàn bạo đó, nhân dân Đahômây nhiều lần đứng dậy đấu tranh. Năm 1915, phong trào khởi nghĩa vũ trang lan ra nhiều tỉnh. Tr.169.

34. Hội Liên hiệp thuộc địa: Một tổ chức cách mạng của những người thuộc địa, do Nguyễn ái Quốc cùng một số người yêu nước của các nước thuộc địa Pháp sáng lập tháng 7-1921, tại Pari. Lúc đầu Hội có 200 hội viên và hai tổ chức người thuộc địa xin gia nhập là Hội những người An Nam yêu nước Hội đấu tranh cho quyền công dân của người Mađagátxca. Ban thường vụ của Hội gồm 7 người, đứng đầu là Nguyễn ái Quốc. Cơ quan tuyên truyền của Hội là báo Le Paria. Đến năm 1926, Hội ngừng hoạt động. Tr.191.

35. Đại hội lần thứ II Quốc tế Cộng sản họp vào tháng 8-1920. Tại Đại hội này, Lênin đã nhấn mạnh nhiệm vụ đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội trong phong trào công nhân để giữ vững nguyên tắc mácxít trong các đảng cộng sản. Đại hội đã thông qua 21 điều kiện gia nhập Quốc tế Cộng sản và thông qua bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa do Lênin dự thảo, nhằm vạch ra đường lối đấu tranh giải phóng dân tộc cho nhân dân các dân tộc bị áp bức. Tr.194.

36. Quốc tế Nông dân : Một tổ chức cách mạng hoạt động dưới sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản nhằm đoàn kết rộng rãi giai cấp nông dân các nước trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Quốc tế Nông dân họp Hội nghị lần thứ nhất vào tháng 10-1923, tại Mátxcơva.

Với tư cách là đại biểu nông dân của các nước thuộc địa, Nguyễn ái Quốc đã tham dự Hội nghị và đã hai lần phát biểu ý kiến. Tại Hội nghị, Người được bầu làm Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Hội đồng Quốc tế Nông dân. Tr.208.

37. Hương Cảng : Còn gọi là Hồng Kông, một bộ phận của lãnh thổ Trung Quốc. Trong cuộc “chiến tranh thuốc phiện”, năm 1842, đế quốc Anh buộc triều đình Mãn Thanh phải nhượng cho chúng Hương Cảng, một cửa biển ở phía đông nam bờ biển Trung Quốc. Đến năm 1860, chúng chiếm thêm bán đảo Cửu Long và một số đảo lân cận. Năm 1898, Anh lại chiếm thêm vùng nội địa Cửu Long rộng gần 1.000km. Những phần đất nói trên đều nằm trong khu vực Hương Cảng và biến thành thuộc địa của Anh. Đây là một vị trí quan trọng vì nó nằm trên đường giao thông quốc tế, một trung tâm công nghiệp, một thị trường thế giới, một căn cứ hải quân và thương mại lớn của Anh. Trước đây, Anh còn lấy Hương Cảng làm bàn đạp để lấn dần đất Trung Quốc, “mở rộng cửa ngõ” lãnh thổ Trung Quốc. Chúng chiếm vùng Tây Nam (Vân Nam, Tứ Xuyên…) làm “khu vực ảnh hưởng”, thực tế là nửa thuộc địa của chúng.

Trong bài Chính sách thực dân Anh viết năm 1923, Nguyễn ái Quốc đã tố cáo hành động lấn dần của đế quốc Anh đối với chủ quyền và lãnh thổ Trung Quốc. Tr.213.

cpv.org.vn

Chú tích (39 – 41)

38. Sự kiện Lâm Thành : Ngày 6-5-1923, đoàn tàu chở khách Tân Phố trên đường đi lên phía Bắc, qua Lâm Thành (thuộc tỉnh Sơn Đông), thì bọn thổ phỉ do Tôn Mỹ Diên cầm đầu, phá hỏng đường sắt và cướp tàu. Chúng lùa 300 hành khách người Trung Quốc và người nước ngoài vào núi.

Lợi dụng sự kiện đó, bọn đế quốc nêu ra đủ thứ yêu sách vô lý để khống chế Trung Quốc.

Bài viết của Nguyễn ái Quốc thể hiện sự căm phẫn mạnh mẽ đối với chính sách của thực dân Anh và bày tỏ sự đồng tình mạnh mẽ, sự ủng hộ kiên quyết đối với cuộc đấu tranh của nhân dân Trung Quốc. Tr.213.

39. Quốc tế Amxtécđam (Quốc tế của các công đoàn vàng) : Một tổ chức do các công đoàn cải lương chủ nghĩa của một số nước thành lập tại hội nghị ở Amxtécđam (Hà Lan) họp từ 26-7 đến 2-8-1919. Toàn bộ hoạt động của tổ chức này gắn liền với chính sách của các đảng cơ hội chủ nghĩa thuộc Quốc tế thứ hai. Quốc tế Amxtécđam chủ trương hợp tác giai cấp giữa vô sản với tư sản và bác bỏ các hình thức đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, khai trừ ra khỏi tổ chức của mình những công đoàn tả, cự tuyệt mọi đề nghị của Quốc tế Công hội đỏ về việc cùng nhau đấu tranh chống sự tấn công của bọn tư bản, chống nguy cơ chiến tranh, chống thế lực phản động và chủ nghĩa phát xít, về việc thành lập một khối thống nhất các công đoàn thế giới. Các thủ lĩnh Quốc tế Amxtécđam ủng hộ chính sách thù địch với Liên Xô.

Sau khi Quốc tế Công hội đỏ ra đời (tháng 7-1921), ảnh hưởng của Quốc tế Amxtécđam trong phong trào công nhân dần dần bị đẩy lùi. Nó hoàn toàn ngừng hoạt động trong thời gian xảy ra Chiến tranh thế giới thứ hai. Tr.219.

40. Tổ chức liên hiệp quốc tế của các công đoàn cách mạng, được thành lập ngày 3-7-1921, tồn tại đến cuối năm 1937. Nó liên kết các trung tâm công đoàn không gia nhập tổ chức công đoàn cải lương là Quốc tế Amxtécđam, và liên kết các nhóm, các khuynh hướng đối lập tiến bộ trong nội bộ các tổ chức công đoàn cải lương ở các nước. Quốc tế Công hội đỏ đấu tranh để thiết lập sự thống nhất trong phong trào công đoàn trên cơ sở đấu tranh cách mạng nhằm bảo vệ những yêu sách của giai cấp công nhân, chống nguy cơ chiến tranh đế quốc, và đoàn kết với giai cấp công nhân nước Nga Xôviết.

Tại phiên họp 15, ngày 21-7-1924, Đại hội lần thứ III Quốc tế Công hội đỏ, với tư cách là đại biểu Đông Dương, Nguyễn ái Quốc đã đọc tham luận. Tr.290.

41. Thổ Nhĩ Kỳ: Một nước nằm ở phía Tây châu á, có vị trí quan trọng nối liền ba châu, lại giáp liền 3 vùng biển là Địa Trung Hải, Egiê và Hắc Hải. Trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, Thổ Nhĩ Kỳ đứng về phía Đức bị thất bại. Các đế quốc giành lại những vùng đất phụ thuộc Thổ Nhĩ Kỳ và xâu xé ngay chính nước Thổ Nhĩ Kỳ (Hiệp ước Xevơrơ tháng 8-1920). Sự kiện đó làm bùng lên cuộc đấu tranh mạnh mẽ của giai cấp công nhân và nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ đòi thành lập nhà nước cộng hoà thống nhất. Tháng 11 năm 1922, Kêman, thủ lĩnh đảng của giai cấp tư sản “Thổ Nhĩ Kỳ trẻ”, đã thủ tiêu chế độ phong kiến; tháng 10-1923, tuyên bố thành lập nước Cộng hoà; tháng 4-1924, ban hành hiến pháp tư sản. Đối với giai cấp tư sản, cuộc cách mạng được coi như đã hoàn thành. Nhưng quần chúng nhân dân lao động là lực lượng góp phần quyết định thắng lợi của cách mạng thì không được quyền lợi gì.

Phong trào đấu tranh của công nhân Thổ Nhĩ Kỳ đã phát triển mạnh mẽ ngay từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Tháng 9-1920, Đảng Cộng sản Thổ Nhĩ Kỳ thành lập, lãnh đạo cuộc đấu tranh. Trong nửa đầu những năm 20, phong trào bãi công lan rộng và rất rầm rộ, có nơi cuộc bãi công thu hút tới 50 vạn người tham gia. Tháng 11-1923, Đại hội công nhân ở Côngxtăngtinốp thành lập Liên minh công nhân Thổ Nhĩ Kỳ, đoàn kết đông đảo công nhân trong nước. Nhưng Chính phủ Kêman hạ lệnh cấm các hội công nhân hoạt động và đàn áp họ. Tr.224.

cpv.org.vn

Chú tích (24 – 32)

24. Báo Le Matin : Báo xuất bản ở Pari từ tháng 2-1884. Tr. 71.

25. Báo Le Petit Parisien : Báo xuất bản hằng ngày ở Pari từ ngày 15-10-1876. Tr.71.

26. Hai câu thơ này trước kia dùng để nói về một viên quan ở địa phương được nhân dân quý mến vì có lòng nhân ái, quan tâm đến đời sống của họ. Quạt lông và xe lăn là những đồ dùng của các viên quan khi đi kinh lý các địa phương.

ở đây, tác giả nhắc tới hai câu thơ này với dụng ý châm biếm sâu cay và đả kích những hành động mà bọn thực dân Pháp coi là “nhân ái”. Tr.91.

27. Hội chợ triển lãm thuộc địa Mácxây: Năm 1922, tại thành phố Mácxây (miền Nam nước Pháp), Chính phủ Pháp mở Hội chợ triển lãm thuộc địa, trưng bày các sản vật mang từ các thuộc địa của Pháp sang, để nói lên sự giàu có của thuộc địa và công lao “khai hoá” của người Pháp, đồng thời kêu gọi tư bản Pháp bỏ vốn kinh doanh và khai thác ở các thuộc địa. Tr.95.

28. Chỉ cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, bắt đầu bùng nổ ở châu Âu từ tháng 8-1914 và kết thúc vào tháng 11-1918. Cuộc chiến tranh này nhanh chóng lan rộng khắp thế giới, lôi cuốn nhiều nước đế quốc và cả các nước thuộc địa và phụ thuộc. Thực chất nó là một cuộc xung đột ác liệt giữa các nước đế quốc lớn để giành giật quyền lợi, chia lại thị trường thế giới. Nhưng để che đậy ý đồ xấu xa đó, để lừa bịp nhân dân các nước tư bản và các thuộc địa, bọn đế quốc đã gọi cuộc chiến tranh đó là “vì nhân đạo”, “vì công lý”.

ở đây, chữ “vì công lý” được tác giả dùng với ý mỉa mai, châm biếm để vạch trần thực chất của cuộc chiến tranh tàn khốc này. Tr.119.

29. Báo La République Francaise: Báo xuất bản hằng ngày ở Pari từ ngày 7-11-1871 đến ngày 12-7-1924, do Lêông Gămbetta sáng lập. Tr.128.

30. Báo Le Rappel : Báo xuất bản hằng ngày ở Pari từ 1869 đến 1933, có khuynh hướng chống Giáo hội. Tr.136.

31. Journal officiel de la République Francaise : Công báo của nước Cộng hoà Pháp xuất bản từ tháng 9-1870. Tr.139.

32. Bộ sưu tập động vật (nguyên bản tiếng Pháp Ménagerie): Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), các nước đế quốc tham gia chiến tranh họp Hội nghị Vécxây. Mục đích chính của Hội nghị Vécxây là phân chia lại thuộc địa và quyền lợi của các nước đế quốc, chủ yếu là Anh, Pháp, Mỹ, và tăng cường áp bức, bóc lột nhân dân các nước thuộc địa. Pháp và Bỉ muốn tách vùng công nghiệp Ruya của Đức ra khỏi nước Đức. Các nước khác cũng tìm cách xâu xé lẫn nhau và tập trung lực lượng tấn công vào nước Nga Xôviết… Nguyễn ái Quốc viết bài Bộ sưu tập động vật với lối hành văn châm biếm sâu cay, luận tội đanh thép, đã lột tả bộ mặt ăn cướp của chủ nghĩa thực dân đế quốc. Đó là nguồn gốc gây nên sự hỗn loạn trong xã hội và bao nỗi bất hạnh cho con người. Tr.141.

cpv.org.vn

Chú tích (20 – 23)

20. Quốc tế thứ nhất : Tổ chức quốc tế đầu tiên của giai cấp vô sản, thành lập năm 1864 tại Hội nghị công nhân quốc tế ở Luân Đôn (Anh), do C.Mác và Ph. Ăngghen lãnh đạo.

Quốc tế thứ nhất đã lãnh đạo cuộc đấu tranh kinh tế và chính trị của công nhân ở các nước và củng cố sự đoàn kết quốc tế vô sản. Quốc tế thứ nhất đóng vai trò to lớn trong sự nghiệp truyền bá chủ nghĩa Mác và trong việc kết hợp chủ nghĩa xã hội với phong trào công nhân.

Sau khi Công xã Pari thất bại, một nhiệm vụ được đặt ra là thành lập các đảng cộng sản có tính chất quần chúng ở mỗi nước, trên cơ sở những nguyên tắc mà Quốc tế thứ nhất đã đề ra. Năm 1876, tại Hội nghị Philađenphia (Mỹ), Quốc tế thứ nhất chính thức giải tán. Tr.62.

21. Quốc tế thứ hai: Thành lập năm 1889 tại Đại hội Liên minh quốc tế các đảng xã hội chủ nghĩa khai mạc tại Pari (Pháp) theo sáng kiến của Ph. Ăngghen. Quốc tế thứ hai đã có tác dụng phổ biến chủ nghĩa Mác về bề rộng, đã đánh dấu thời kỳ chuẩn bị cơ sở để cho phong trào cách mạng phát triển rộng rãi trong nhân dân lao động ở nhiều nước.

Sau khi Ăngghen mất, cơ quan lãnh đạo của Quốc tế thứ hai rơi vào tay các phần tử cơ hội chủ nghĩa, bọn này đã xét lại học thuyết cách mạng của Mác và hoạt động chống phá phong trào công nhân các nước.

Về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Quốc tế thứ hai ủng hộ chính sách đế quốc chủ nghĩa mà bọn tư bản thực hiện ở các nước thuộc địa. Tr.62.

22. ở đây Nguyễn ái Quốc muốn nói tới những luận điểm của V.I.Lênin trong Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa, do Người soạn thảo và trình bày tại Đại hội lần thứ II của Quốc tế Cộng sản họp từ ngày 19 tháng 7 đến ngày 7 tháng 8 năm 1920.

Trong Luận cương và trong Báo cáo của Tiểu ban về vấn đề dân tộc và thuộc địa trình bày tại Đại hội, V.I.Lênin đã đề cập tới những vấn đề hết sức quan trọng đối với phong trào giải phóng dân tộc. Người chỉ rõ: Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, cách mạng giải phóng dân tộc là một phạm trù của cuộc cách mạng vô sản, vì vậy những người cộng sản phải ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, và với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, giai cấp vô sản ở các nước chậm tiến, sau khi hoàn thành nhiệm vụ dân tộc dân chủ có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Tr.63.

23. Pari : Thủ đô lâu đời của nước Pháp, một trong những thành phố lớn trên thế giới. Trước đây, Pari vốn nổi tiếng là một trung tâm văn hoá nghệ thuật. Từ cuối thế kỷ XVIII và trong thế kỷ XIX, Pari còn là một trung tâm cách mạng của châu Âu. Cuộc cách mạng tư sản Pháp năm 1789 và cuộc cách mạng vô sản Pháp chống tư bản năm 1871 lập lên Công xã Pari, là hai điển hình cách mạng của nhân dân thành phố này.

Nguyễn ái Quốc đến nước Pháp cuối năm 1917 và đã ở Pari khoảng 6 năm. Tại đây, Người đã hoà mình trong đời sống lao động và đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân Pari, Người đã tìm đến chủ nghĩa Mác – Lênin, tin theo Lênin và Quốc tế thứ ba, trở thành một trong những người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp (1920). Người đã sáng lập Hội những người An Nam yêu nước, gửi đến Hội nghị Vécxây bản yêu sách của nhân dân An Nam, tham gia sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa và báo Le Paria, đề xướng báoViệt Nam hồn cùng nhiều hoạt động cách mạng khác. Người đã tìm thấy con đường cách mạng đúng đắn nhất để giải phóng dân tộc.

Tháng 6-1923, Nguyễn ái Quốc rời Pari đi Mátxcơva (Liên Xô) để họp Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản và sau đó về Trung Quốc để chỉ đạo phong trào cách mạng trong nước. Tr.67.

cpv.org.vn

Chú tích (15 – 19)

16. Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền: Một văn kiện quan trọng và nổi tiếng của Cách mạng tư sản Pháp công bố ngày 26-8-1789. Tuyên ngôn nêu lên những quyền tự nhiên và không thể tước bỏ của con người và của người công dân. Nó mở đầu bằng nguyên tắc mọi người sinh ra đều tự do, bình đẳng, xác định chủ quyền quốc gia thuộc về nhân dân và ban hành nhiều quyền tự do dân chủ. Thực chất, nó quy định những nguyên tắc cơ bản của chế độ tư bản, mà nổi bật nhất là quyền tư hữu. So với chế độ phong kiến chuyên chế thì đây là một bước tiến bộ, phản ánh sức mạnh đấu tranh của quần chúng nhân dân Pháp. Nhưng trên thực tế, giai cấp tư sản không bao giờ chịu thực hiện đầy đủ các quyền kể trên mà thiết lập chế độ áp bức bóc lột tàn bạo đối với quần chúng lao động. Tr.46.

17. Báo Le Paria: Cơ quan tuyên truyền của Hội Liên hiệp thuộc địa, do Nguyễn ái Quốc và một số nhà cách mạng Angiêri, Tuynidi, Mangát, Máctiních, Marốc… sáng lập năm 1922, tại Pari. Báo xuất bản bằng tiếng Pháp, lúc đầu mỗi tháng ra một số, sau tăng lên hai số. Số 1 ra ngày 1-4-1922 với tiêu đề Diễn đàn của các dân tộc thuộc địa , đến tháng 1-1924 đổi thành Diễn đàn của vô sản thuộc địa.

Thời gian đầu Nguyễn ái Quốc vừa là chủ nhiệm kiêm chủ bút của tờ báo. Sau khi Nguyễn ái Quốc sang Liên Xô hoạt động (giữa năm 1923), báo không ra được đều nữa; và đến số 38 (tháng 4-1926) thì đình bản. Tr.59.

18. Những điều kiện kết nạp vào Quốc tế Cộng sản đã được Đại hội lần thứ II (năm 1920) của Quốc tế Cộng sản thông qua. Tinh thần cơ bản của nó là đòi hỏi các đảng vô sản các nước muốn được kết nạp vào Quốc tế Cộng sản phải có thái độ dứt khoát về đường lối và về tổ chức đối với Quốc tế thứ hai, phải đấu tranh kiên quyết về mặt tư tưởng cũng như về những biện pháp hoạt động cụ thể chống mọi hình thái của chủ nghĩa cơ hội và xét lại. Các đảng đó phải nghiêm chỉnh thực hiện và tuyên truyền giáo dục quần chúng đường lối và quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin; phải đổi tên là đảng cộng sản; phải có kỷ luật chặt chẽ và triệt để tuân theo những nghị quyết của Quốc tế Cộng sản.

Về vấn đề giải phóng dân tộc, điều 8 của văn kiện ghi rõ: “Đảng nào muốn ở trong Quốc tế thứ ba đều buộc phải thẳng tay vạch mặt những thủ đoạn xảo trá của bọn đế quốc “nước mình” trong các thuộc địa, ủng hộ trên thực tế chứ không phải bằng lời nói mọi phong trào giải phóng ở thuộc địa”. Tr.62.

19. Quốc tế thứ ba (Quốc tế Cộng sản): Một tổ chức cách mạng của giai cấp vô sản quốc tế, trung tâm lãnh đạo phong trào công nhân thế giới.

Tháng 3-1919, dưới sự lãnh đạo của Lênin, các đảng cộng sản, nhóm cộng sản của 30 nước đã tiến hành Đại hội thành lập Quốc tế Cộng sản tại Mátxcơva. Quốc tế Cộng sản có vai trò lịch sử và công lao to lớn đối với phong trào cộng sản và công nhân thế giới. Tại Đại hội lần thứ VII (1935), Quốc tế Cộng sản đã đề ra chủ trương lập Mặt trận nhân dân chống chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh. Quốc tế Cộng sản rất chú trọng đến vấn đề giải phóng dân tộc. Những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địacủa Lênin đã đặt nền tảng cho việc giải quyết đúng đắn những vấn đề phức tạp của công cuộc giải phóng dân tộc.

Tháng 5 năm 1943, căn cứ vào hoàn cảnh mới, Đoàn chủ tịch Quốc tế Cộng sản với sự tán thành của đại đa số các đảng cộng sản, đã thông qua nghị quyết tự giải tán. Tr.62.

cpv.org.vn

Chú tích (09 – 14)

9. Đêm 30-8-1917, dưới sự lãnh đạo của Đội Cấn (tức Trịnh Văn Cấn) và Lương Ngọc Quyến, binh lính người Việt trong quân đội Pháp ở Thái Nguyên đã nổi dậy đánh chiếm tỉnh lỵ. Sau 6 ngày chiến đấu với quân Pháp được tăng viện từ Hà Nội và nhiều nơi khác lên, Lương Ngọc Quyến hy sinh, nghĩa quân rút khỏi tỉnh lỵ, chuyển về hoạt động ở vùng rừng núi các tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Hoà Bình, Sơn Tây. Do bị truy nã ráo riết, cuộc khởi nghĩa yếu dần, ngày 11-1-1918, Đội Cấn tự sát để giữ trọn khí tiết. Cuộc khởi nghĩa bị thất bại. Tr.18.

10. Đại hội toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp: Đại hội họp tại thành phố Tua (Pháp) từ ngày 25 đến ngày 30-12-1920, thảo luận vấn đề Đảng nên gia nhập Quốc tế thứ ba hay ở lại Quốc tế thứ hai. Với đa số phiếu tuyệt đối (3.208 tán thành; 1.022 phiếu chống), Đảng Xã hội Pháp tán thành gia nhập Quốc tế thứ ba.

Nguyễn ái Quốc tham gia Đại hội với tư cách là đại biểu thuộc địa

Đông Dương. Tại Đại hội, Người đã phát biểu lên án chủ nghĩa thực dân, kêu gọi giai cấp vô sản Pháp ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân Đông Dương. Cùng với các đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân Pháp, Nguyễn ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành Đảng gia nhập Quốc tế thứ ba và trở thành một trong những người tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Tr.22.

11. Báo La Dépêche Coloniale : Báo xuất bản ở Pari từ tháng 8-1896. Sau đổi tên thành La Dépêche Coloniale et Maritime . Tr.39.

12. Cuộc xung đột giữa Hy Lạp được đế quốc Anh hậu thuẫn và Thổ Nhĩ Kỳ năm 1920. Gây ra cuộc xung đột này, đế quốc Anh nhằm tiêu diệt chính phủ dân tộc và cải cách của Thổ Nhĩ Kỳ do Mutxtapha Kêman lãnh đạo. Tr.40.

13. Cuộc bạo động của nông dân ở Malaba (Tây Nam ấn Độ) bắt nguồn từ cuộc vận động không hợp tác với chính phủ thuộc địa Anh do Găngđi và Đảng Quốc đại phát động từ năm 1920. Sang năm 1921, phong trào phát triển thành một làn sóng đình công và đấu tranh vũ trang của quần chúng. Cuộc bạo động đã bị thực dân Anh đàn áp rất dã man. Tr.40.

14. Những sự kiện năm 1907, 1908 và 1909: Để dập tắt phong trào dân tộc ở ấn Độ, từ năm 1907, đế quốc Anh tiến hành một đợt đàn áp quy mô lớn, nhưng phong trào vẫn tiếp tục lan rộng. Nổi bật nhất là cuộc đình công của công nhân dệt ở Bombay năm 1908, cuộc khởi nghĩa của nông dân ở bang Pungiáp, v.v.. Từ năm 1906 đến năm 1909, chỉ riêng ở Bengan, Chính phủ thuộc địa Anh ở ấn Độ đã xử 550 vụ án chính trị. Tr. 42.

15. Báo Le Libertaire: Tuần báo của Hội vô chính phủ – cộng sản, sau đó là cơ quan ngôn luận của Liên đoàn cộng sản tự do Pháp, xuất bản ở Pari từ năm 1895. Tr.46.

cpv.org.vn

Chú tích (01 – 08)

1. Ngay sau khi Nguyễn ái Quốc gửi bản Yêu sách của nhân dân An Nam tới trưởng đoàn các nước dự Hội nghị Vécxây, bọn bồi bút thực dân lồng lộn. Trên tờ Courrier Colonial ra ngày 27-6 có một bài nhan đề Giờ phút nghiêm trọng chỉ trích bản yêu sách : “Làm sao một người dân thuộc địa lại có thể dùng bản yêu sách của nhân dân để công kích Chính phủ Pháp. Thật là quá quắt. Cứ theo đà này thì bọn dân thuộc địa sẽ lên ngang hàng với người Pháp chúng ta và sớm trở thành ông chủ của chúng ta. Không được, phải kìm giữ chúng mãi mãi trong vòng nô lệ”. Nguyễn ái Quốc viết bài này là để trả lời bài báo sặc mùi thực dân trên. Tr. 1.

2. Bản Yêu sách của nhân dân An Nam: Năm 1918, Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc. Ngày 18-1-1919, đại biểu các nước đế quốc tham gia chiến tranh họp hội nghị ở Vécxây (Pháp). Hội nghị này (còn gọi là Hội nghị hoà bình Pari) nhằm xác định sự thất bại của Đức và các nước đồng minh của Đức, chia lại thị trường thế giới cho các nước đế quốc thắng trận, chủ yếu là Mỹ, Anh, Pháp.

Nhân danh nhóm người yêu nước Việt Nam, Nguyễn ái Quốc đã gửi đến Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam. Nguyễn ái Quốc còn thuê in thành truyền đơn, đăng trên các báo, gửi đến các nhà hoạt động chính trị có tên tuổi, phân phát trong các buổi hội họp, mít tinh, gửi cho Việt kiều ở Pháp và gửi về nước. Tr.1.

3. Báo Le Courrier d’Hai Phong: Báo xuất bản hằng ngày ở Hải Phòng, năm 1887, do Toà đốc lý của chính quyền thuộc địa phụ trách. Tr.4.

4. Báo L’Humanité: Tờ báo hằng ngày của Đảng Xã hội Pháp do Giăng Giôrét sáng lập năm 1904. Sau Đại hội lần thứ XVIII (Đại hội Tua), Đảng Cộng sản Pháp thành lập, báo L’Humanité trở thành cơ quan ngôn luận chính thức của Đảng Cộng sản Pháp. Tr.6.

5. Hội nghị Hòa bình: Xem chú thích số 1 về bản Yêu sách của nhân dân An Nam. Tr.6.

6. Journal officiel de l’Indochine – Francaise: Công báo do Phủ toàn quyền Đông Dương xuất bản từ năm 1889 đến năm 1950. Tr.17.

7. Báo Le Populaire : Báo xuất bản hằng ngày ở Pari từ tháng 5-1916, là cơ quan trung ương của Đảng Xã hội Pháp. Từ sau Đại hội Tua (12-1920), Le Populaire tiếp tục là cơ quan trung ương của Đảng Xã hội (S.F.I.O.). Bị gián đoạn trong những năm Pháp bị Đức chiếm đóng. Tháng 8-1944, báo tục bản và đình bản vào tháng 2-1970. Tr.17.

8. Vụ mưu khởi nghĩa ở Huế (3-5-1916) do hai sĩ phu yêu nước Thái Phiên và Trần Cao Vân lãnh đạo dưới danh nghĩa của vua Duy Tân. Tuy nổ ra ở Huế nhưng khởi nghĩa có quan hệ mật thiết với phong trào Việt Nam Quang phục hội ở các tỉnh Nam Trung Kỳ. Lực lượng khởi nghĩa là binh lính người Việt, phần lớn sắp bị đưa sang chiến trường châu Âu. Kế hoạch bại lộ, những người lãnh đạo bị hy sinh, vua Duy Tân bị thực dân Pháp bắt và đày ra đảo Rêuyniông. Tr.18.

cpv.org.vn

Bản chỉ dẫn tên người (U – V – X)

U

UTƠRÂY, Ecnếxtơ: Người Pháp, tham gia Hội đồng thuộc địa Nam Kỳ và là đại biểu của Hội đồng thuộc địa Nam Kỳ trong Hạ nghị viện Pháp. Utơrây là một đại địa chủ, dùng quyền thế chiếm 2000 ha đất lập đồn điền ở Nam Bộ. Về chính trị, Utơrây là một viên chức thực dân cực kỳ phản động.

UYNXƠN, Vuđrô (1856-1924): Tổng thống Mỹ năm 1913-1921. Dưới thời Uynxơn, về đối nội, Chính phủ Mỹ đã thi hành chính sách đàn áp dã man phong trào công nhân; về đối ngoại, thi hành chính sách ăn cướp và bành trướng, can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của các nước khác, đặc biệt là với các nước châu Mỹ Latinh.

Năm 1918, Uynxơn đưa ra “Chương trình 14 điểm”. Thực chất chương trình này là thiết lập ách thống trị của Mỹ trên thế giới, chống lại nước Nga Xôviết mới ra đời. Chính sách này được che đậy bằng những lời lẽ mỹ miều như “dân chủ”, “quyền dân tộc tự quyết”.

Năm 1920, Uynxơn bị thất bại trong cuộc bầu cử tổng thống và thôi hoạt động chính trị.

V

VAREN, Alếchxăngđrơ Clốt đơ (1870-1947):Luật sư, nhà báo, đảng viên Đảng Xã hội Pháp, dự Đại hội Xtraxbua và Tua (thuộc phái Lôngghê), không tán thành Quốc tế Cộng sản. Toàn quyền Đông Dương năm 1925. Sau bỏ Đảng Xã hội; đại biểu của Đảng Xã hội cấp tiến trong Quốc hội năm 1945-1946, Bộ trưởng năm 1946.

VAYĂNG CUTUYARIÊ, Pôn (1892-1937): Một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp; nguyên nghị sĩ Quốc hội Pháp, cựu Chủ nhiệm báo L’Humanité; là người giới thiệu Nguyễn ái Quốc vào Đảng Xã hội Pháp (1919). Tại Đại hội Tua năm 1920, là một trong những người đấu tranh bảo vệ chủ trương Đảng Xã hội Pháp gia nhập Quốc tế Cộng sản và ủng hộ bài phát biểu của Nguyễn ái Quốc ở Đại hội này. Vayăng Cutuyariê còn là người tích cực giúp đỡ Nguyễn ái Quốc khi Người thoát khỏi nhà ngục Hồng Công lên Thượng Hải, bắt liên lạc với tổ chức để đến Liên Xô.

VINHÊ ĐỐCTÔNG, Pôn. Pôn Vinhê Đốctông là bút danh của Pôn Echiên Vinhê (1839 – 1943): Người Pháp; học dược và phục vụ trong ngành hàng hải từ năm 1880. Từ năm 1889 – 1893, làm việc ở châu Phi, sáng tác văn học, đã xuất bản 10 cuốn tiểu thuyết. Trong hoạt động chính trị, Vinhê Đốctông tham gia phái cấp tiến cực tả, tác giả cuốn Vinh quang của lưỡi gươm, xuất bản lần đầu năm 1900, được các nhà nghiên cứu lịch sử ở Pháp xem là cuốn sách đầu tiên công khai chống chủ nghĩa thực dân.

VÔITINXKI (Đarkhin), Grigôri Naumôvích (1893-1953): Người Nga, tham gia Đảng Cộng sản Nga (b) năm 1918. Năm 1920, làm Thư ký Ban phương Đông của Quốc tế Cộng sản; Phó Tiểu ban Viễn Đông của Ban phương Đông. Những năm 20, Vôitinxki đến Trung Quốc với tư cách đại biểu của Quốc tế Cộng sản làm việc với Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Từ những năm 30, làm công tác khoa học và giáo dục ở Liên Xô.

VÔNTE, Phrăngxoa Mari Aruê đơ (1694-1778): Nhà văn, nhà triết học xuất sắc, nhà tư tưởng của trào lưu triết học “ánh sáng” ở Pháp thế kỷ XVIII. Đả kích chế độ phong kiến, phê phán sâu sắc giáo hội, đòi hỏi tự do, bình đẳng nhưng không triệt để, vẫn chủ trương bảo hoàng và duy trì tôn giáo.

VÔRỐPXKI, Vasláp Vaslavôvích (1871-1923): Nhà hoạt động Đảng Cộng sản Liên Xô, nhà phê bình văn học, nhà ngoại giao; tham gia đoàn đại biểu Liên Xô tại Hội nghị Lôdannơ (1922-1923); bị quân bạch vệ phát xít bắn chết ở Lôdannơ ngày 10-5-1923.

VRANGHEN, Piốt Nicôlaiêvích (1878-1928): Tướng trong quân đội Nga hoàng, một phần tử quân chủ. Trong thời kỳ vũ trang can thiệp của nước ngoài và nội chiến ở Liên Xô, Vranghen là tay chân của đế quốc Anh, Pháp và Mỹ. Năm 1920, là Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang bạch vệ miền Nam nước Nga. Sau khi bị Hồng quân đánh tan ở Bắc Tavrích và Crưm, Vranghen đã chạy ra nước ngoài.

VŨ: Một ông vua mang nhiều tính huyền thoại trong lịch sử Trung Quốc thời mạt kỳ công xã thị tộc, nổi tiếng về lòng yêu nước và đức nhân từ; có nhiều công lao tổ chức đắp đê, xây đập phòng chống bão lụt, hạn hán bảo vệ mùa màng.

X

XANH, Luyxiêng: Toàn quyền Pháp ở Tuynidi.

XARÔ, Anbe (1872-1962): Toàn quyền Pháp tại Đông Dương trong những năm 1911-1914 và 1917-1919. Trong những năm 20, là Bộ trưởng Bộ Thuộc địa, năm 1936, là Thủ tướng Pháp, năm 1951, là Chủ tịch Hội đồng Liên hiệp Pháp.

XELIÊ, Lui (1885-1978): Đảng viên Đảng Xã hội Pháp, tán thành những quan điểm của Casanh – Phrốtxa; tham gia Quốc tế thứ ba; đại biểu Đảng bộ Xen tham gia Đại hội lần thứ XVIII ở Tua và được bầu vào Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Pháp năm 1920, năm 1922-1924; Uỷ viên Trung ương Đảng năm 1925-1926; Uỷ viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng năm 1923-1926. Năm 1929, ra khỏi Đảng Cộng sản; sau trở lại Đảng Xã hội rồi lại bị khai trừ khỏi Đảng Xã hội.

XITRÔÊN, Ăngđrê (1878-1935): Kỹ sư và nhà công nghiệp Pháp. Năm 1915, lập xưởng sản xuất vũ khí. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), chuyển sang sản xuất xe chạy xích, rồi xe hơi. Sản phẩm của Xitrôên có tiếng ở Pháp và trên thế giới.

XTALIN, Iôxíp Víchxariônôvích (1879-1953): Một trong những nhà hoạt động nổi tiếng của Đảng Cộng sản và Nhà nước Liên Xô. Năm 1898, gia nhập Đảng Công nhân dân chủ – xã hội Nga rồi trở thành đảng viên bônsêvích sau Đại hội lần thứ II của Đảng. Thời kỳ chuẩn bị tiến hành Cách mạng Tháng Mười Nga, là Uỷ viên Trung tâm quân sự cách mạng. Thời kỳ nước ngoài vũ trang can thiệp và nội chiến, là Uỷ viên Hội đồng Quân sự cách mạng. Năm 1922, là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản (b) Nga. Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (1941-1945) là Chủ tịch Uỷ ban Quốc phòng và là Uỷ viên nhân dân Quốc phòng Liên Xô, Tổng tư lệnh tối cao các lực lượng vũ trang Liên Xô. Xtalin còn là tác giả của nhiều tác phẩm lý luận.

cpv.org.vn