Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho phụ nữ Việt Nam sự quan tâm đặc biệt, những tình cảm chứa chan, chân tình như một người cha, người chú, người anh. Người luôn khuyên nhủ chị em phụ nữ cố gắng rèn luyện phẩm chất đạo đức để phát huy hết nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Nhân dịp kỷ niệm 83 năm Ngày thành lập Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam chúng ta hãy cùng đọc lại những câu chuyện về kỷ niệm được gặp Bác của các thế hệ phụ nữ Việt Nam để thấy được tình cảm sâu sắc mà Bác dành cho chị em phụ nữ.
Thư viện
Bài phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Lễ kỷ niệm lần thứ 20 Ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (19-10-1966)
Bác Hồ với phụ nữ Nghệ An
Bác Hồ với sự nghiệp giải phóng phụ nữ
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Người khẳng định: “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”(1), làm cách mạng mà không giải phóng phụ nữ thì mới giải phóng một nửa thế giới và chỉ làm cách mạng giải phóng dân tộc để có độc lập dân tộc thì phụ nữ mới được giải phóng.
Trong văn kiện thành lập Đảng tháng 2 năm 1930, Bác Hồ đã nêu một chủ trương lớn về phương diện xã hội “thực hiện nam nữ bình quyền”. Điều đó chứng tỏ, ngay từ khi thành lập Đảng, vấn đề giải phóng phụ nữ đã được Bác Hồ và Đảng ta hết sức coi trọng, là một nội dung trong đường lối cách mạng giải phóng dân tộc. Nét đặc biệt là Người đặt vấn đề giải phóng phụ nữ trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Quyền của phụ nữ gắn liền quyền dân tộc độc lập, quyền dân tộc tự quyết. Đấu tranh giành quyền độc lập dân tộc thì mới thực hiện được quyền bình đẳng của phụ nữ. Trên con đường đi tìm đường cứu nước và hoạt động ở nước ngoài, tình cảnh người phụ nữ Việt Nam, phụ nữ các dân tộc bị áp bức là nỗi đau trăn trở đối với Bác. Trong hàng loạt bài viết của mình, Hồ Chí Minh đã tố cáo tội ác man rợ của chế độ thực dân đối với người phụ nữ. Trong bài “Phụ nữ An Nam và sự đô hộ của Pháp” đăng trên báo Lơ Paria (Người cùng khổ) ngày 1-8-1922, Người viết: “Chế độ thực dân, tự bản thân nó đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi. Bạo lực đó đem ra đối xử với trẻ em và phụ nữ lại càng bỉ ổi hơn nữa”(2). Người gọi chế độ thực dân là chế độ “ăn cướp và hiếp dâm”. Vì vậy, chỉ khi nào đánh đuổi được bọn thực dân cướp nước, giành độc lập dân tộc, người phụ nữ mới được giải phóng.
Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, trong hoàn cảnh bị tù đày và khi đã là lãnh tụ cách mạng, Người cảm nhận sâu sắc thân phận của người phụ nữ phải chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội, nhất là trong xã hội còn chịu ảnh hưởng tàn dư của chế độ phong kiến và đô hộ, áp bức của chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không thể xây dựng được chủ nghĩa xã hội. Và chỉ có chủ nghĩa xã hội mới thật sự đem lại lợi ích cho con người, trong đó phụ nữ được chăm lo, được giải phóng. Đó cũng là công việc quan trọng trong công cuộc kiến thiết nước nhà, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Theo Người, nội dung cơ bản là huy động phụ nữ tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tạo ra nhiều cơ hội cho phụ nữ vươn lên, thật sự bình đẳng với nam giới. Muốn làm được điều đó, “phụ nữ cần phải học, đã lâu chị em bị kìm hãm, đây là lúc chị em phải cố gắng để kịp nam giới, để xứng đáng mình là một phần tử trong nước, có quyền bầu cử và ứng cử”(3).
Giải phóng phụ nữ trước hết là giải phóng về chính trị. Bởi vì nước mất, nhà tan, phụ nữ là người bị đọa đày đau khổ nhất. Dân tộc được giải phóng thì phụ nữ có quyền bình đẳng với nam giới trong việc ứng cử và bầu cử vào các cơ quan dân cử, hệ thống chính trị theo Hiến pháp, pháp luật. Theo Bác, muốn giải phóng phụ nữ một cách triệt để thì phải bằng các hình thức thích hợp đào tạo và bồi dưỡng họ trở thành những cán bộ giỏi đủ sức thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Các cấp uỷ đảng, cơ quan, đơn vị phải quan tâm chăm lo công tác phụ nữ, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ, vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Tại Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ III, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Tất cả phụ nữ phải hăng hái nhận lấy trách nhiệm của người làm chủ đất nước, tức là phải ra sức thi đua tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm để xây dựng nước nhà, xây dựng CNXH. Muốn làm tròn nhiệm vụ vẻ vang đó, phụ nữ ta phải xoá bỏ cái tâm lý tự ty và ỷ lại; phải có ý chí tự cường, tự lập… Phụ nữ phải nhận rõ địa vị người làm chủ và nhiệm vụ người làm chủ nước nhà; phải có quyết tâm mới, đạo đức mới, tác phong mới để góp phần xứng đáng vào công cuộc xây dựng CNXH”(4) .
Hai là, giải phóng về xã hội. Phụ nữ được bình đẳng với nam giới trong việc tham gia công việc xã hội. Đồng thời bình đẳng trong hôn nhân với chế độ một vợ một chồng. Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo xây dựng Hiến pháp và Luật Hôn nhân gia đình. Bác nhiều lần bày tỏ chính kiến trước công luận là phải tiêu diệt tư tưởng phong kiến và đầu óc gia trưởng, tư tưởng tư sản, trọng nam khinh nữ. Đồng thời phụ nữ phải tự giải phóng, tự vươn lên làm tốt vai trò của mình trong chế độ mới, chú trọng thiên chức của người phụ nữ trong gia đình. Người chỉ rõ: Công bằng cho phụ nữ là sự phân công một cách hợp lý công việc đến từng người, tuỳ theo khả năng, hoàn cảnh cá nhân và sức khoẻ. Sự bình đẳng phải được thể hiện trên mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội.
Ba là, giải phóng tâm lý tự ty, đầu óc phụ thuộc bởi thân phận người phụ nữ trong chế độ cũ, phát huy phẩm chất truyền thống tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam trong điều kiện xã hội mới, thật sự giải phóng tư tưởng, giải phóng năng lực để người phụ nữ vươn lên làm chủ bản thân, gia đình, làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội. Bác nhắc nhở phụ nữ phải vươn lên để bình đẳng với nam giới về trình độ, về năng lực quản lý kinh tế và quản lý xã hội. Muốn vậy phụ nữ phải cố gắng học tập, chủ động quyết tâm khắc phục khó khăn, phải tự tin, tự lực, tự cường, không nên tự ty, ngồi chờ Chính phủ giải phóng cho mình. Người khẳng định: “Dưới chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, người phụ nữ dũng cảm có thể hoàn thành mọi nhiệm vụ mà người đàn ông dũng cảm có thể làm, dù nhiệm vụ ấy đòi hỏi rất nhiều tài năng và nghị lực như việc lái các con tàu vũ trụ Phương Đông”(5).
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trên khắp cả nước, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam “Anh hùng, Bất khuất, Trung hậu, Đảm đang” trở thành biểu tượng sáng ngời của tinh thần yêu nước. Trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc chống xâm lược Pháp và Mỹ, hàng triệu phụ nữ giỏi việc nước, đảm việc nhà, các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, hàng vạn, hàng nghìn anh hùng, liệt sĩ là nữ mà tên tuổi của họ còn ghi mãi trong sử vàng dân tộc. Trong bài nói chuyện nhân dịp kỷ niệm lần thứ 20 Ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Bác nói: “Phó tổng tư lệnh quân giải phóng là cô Nguyễn Thị Định. Cả thế giới chỉ có nước ta có vị tướng quân gái như vậy. Thật là vẻ vang cho miền Nam, cho cả dân tộc ta”(6).
Trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước hiện nay, phụ nữ Việt Nam luôn vươn lên khẳng định vị trí người làm chủ xã hội, thiên nhiên và gia đình, bản thân. Trên tất cả các lĩnh vực sản xuất, đời sống, xã hội, kinh tế, văn hóa, chính trị, khoa học, kỹ thuật, giáo dục, y tế, xây dựng gia đình văn hóa mới đều có và ngày càng nhiều phụ nữ tiêu biểu cho phẩm chất, năng lực, đạo đức con người mới. Vị thế và vai trò người phụ nữ ngày càng nâng cao. Trong gần 20 năm qua, liên tục có phó chủ tịch nước là nữ. Các nhiệm kỳ Đại hội Đảng luôn có nữ là ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng và nhiều ủy viên Trung ương, bộ trưởng, thứ trưởng; tỷ lệ nữ trong quốc hội chiếm 25%… Trong phát triển kinh tế, lao động nữ chiếm tỷ lệ hơn 50% trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp và nữ tham gia nhiều ngành nghề mới mà trước chỉ dành cho nam giới. Ở lĩnh vực khoa học, công nghệ phụ nữ tham gia tới gần 40% và tỷ lệ các nhà khoa học nữ đạt hơn 6%. Đặc biệt trong giáo dục, đào tạo và y tế, cán bộ nữ chiếm tỷ lệ lớn và nhiều người có trình độ cao…
Trong những năm qua, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ luôn được thể hiện trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Quan điểm của Người ngời sáng niềm tin vào tinh thần yêu nước và khả năng lao động sáng tạo của phụ nữ. Người đã khởi động, xây dựng, phát huy phong trào phụ nữ thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định: Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần tiếp tục thực hiện bình đẳng giới. Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò của người công dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Bồi dưỡng, đào tạo để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp, chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ bà mẹ, trẻ em.
Trương Thị Hoài
Trường Sĩ quan Lục quân 2
———————————-
(1). Hồ Chí Minh toàn tập, t.5, Nxb CTQG, H, 1995, tr. 204
(2). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, H, 1995, Tr.96
(3). Hồ Chí Minh toàn tập, t.4, Nxb CTQG, H, 1995, tr. 37
(4). Hồ Chí Minh toàn tập, t.10, Nxb CTQG, H, 1995, tr. 294-296
(5). Hồ Chí Minh toàn tập, t.11, Nxb CTQG, H, 1995, tr. 97
(6). Hồ Chí Minh toàn tập, t.12, Nxb CTQG, H, 1995, tr. 148, 149
Nguồn: xaydungdang.org.vn
Vkyno (st)
Phát huy tinh thần bình đẳng giới của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Ảnh Tư liệu
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại luôn quan tâm và đánh giá cao vị trí, vai trò của phụ nữ trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam cũng như của thế giới. Bác từng nhấn mạnh: “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cùng già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”…
Trong hành trình tìm đường cứu nước, cũng như đấu tranh đòi quyền được sống, quyền được tự do, quyền được mưu cầu hạnh phúc cho tầng lớp nô lệ lầm than trên thế gian này, Người luôn đặc biệt quan tâm và dành nhiều tình cảm cho “nửa còn lại của thế giới”. Bởi theo Người, phụ nữ là lớp người khổ nhất trong những người cùng khổ và bất kỳ một dân tộc, một quốc gia nào muốn giải phóng mình, muốn thoát khỏi “xiềng xích nô lệ” thì phải giải phóng cho phụ nữ.Dẫn lời C.Mác: Ai đã biết lịch sử thì biết rằng muốn sửa sang xã hội mà không có phụ nữ giúp vào, thì chắc không làm nổi. Xem tư tưởng và việc làm của đàn bà con gái, thì biết xã hội tiến bộ ra thế nào? và V.I.Lênin “Đảng cách mệnh phải làm sao dạy cho đàn bà nấu ăn cũng biết làm việc nước, như thế cách mệnh mới gọi là thành công”, Bác khẳng định:“Đàn bà con gái cũng nằm trong nhân dân. Nếu cả dân tộc được tự do, đương nhiên họ cũng được tự do. Ngược lại nếu dân tộc còn trong cảnh nô lệ thì họ và con cái họ cũng sẽ sống trong cảnh nô lệ đó thôi”. Và, “những lời ấy không phải câu nói lông bông. Xem trong lịch sử cách mệnh chẳng có lần nào là không có đàn bà con gái tham gia”.
Không chỉ là lời nói mà bằng những hành động, việc làm cụ thể đã cho thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc giải phóng phụ nữ và đề cao vai trò của người phụ nữ trong mọi mặt của đời sống xã hội.
Đó là trong Bản Tuyên ngôn độc lập, Bác đã trịnh trọng tuyên bố với thế giới là: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Tiếp đó tại Sắc lệnh số 14 ngày 18 tháng 9 năm 1945, đã công nhận quyền bình đẳng của người phụ nữ là: “Tất cả công dân Việt Nam, cả trai và gái, từ 18 tuổi trở lên, đều có quyền tuyển cử và ứng cử…”
Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà năm 1946“… tuyên bố với thế giới: Phụ nữ Việt Nam đã được đứng ngang hàng với đàn ông để được hưởng chung mọi quyền tự do của một công dân”.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Bác không chỉ quan tâm đến sự nghiệp giải phóng phụ nữ mà còn nhìn thấy sức mạnh to lớn của phụ nữ đối với cách mạng và Bác cũng là người tiếp thêm sức mạnh cho chị em vùng dậy đấu tranh, giành độc lập dân tộc. Bác nêu ra nhiều tấm gương chiến đấu hy sinh của phụ nữ vì Tổ quốc như Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng từ buổi bình minh của lịch sử và kêu gọi chị em: Như buổi ấy là buổi phong kiến mà đàn bà, con gái còn biết cách mệnh. Huống chi bây giờ hai chữ “nữ quyền” đã rầm rầm khắp thế giới, chị em ta lại gặp cảnh nước suy vi, nỡ lòng nào ngồi yên được! Chị em ơi! Mau mau đoàn kết lại! Từ ngày dân Việt Nam tranh được chính quyền, phụ nữ đều ra sức gánh vác công việc. Nào giúp đỡ chiến sĩ, tăng gia sản xuất. Nào chống nạn mù chữ, tham gia tuyển cử, Tuần lễ vàng, Đời sống mới…, việc gì phụ nữ cũng hăng hái.
Người luôn đề cao vai trò của người phụ nữ, đề cao những vất vả, hy sinh mà phụ nữ Việt Nam nói riêng và phụ nữ thế giới nói chung đã hy sinh cho sự tiến bộ của xã hội.
“Nhân dịp 8-3, tôi kính cẩn nghiêng mình trước linh hồn các nữ liệt sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc, như cô Nguyễn Thị Cúc và nhiều người khác.
Tôi kính chào các bà mẹ có con trong bộ đội, và các bà mẹ cùng vợ con của các liệt sĩ.
Trong cuộc kháng chiến to lớn của dân tộc ta, phụ nữ ta đang gánh một phần quan trọng.
Nhiều bà cụ ngoài bảy tám mươi tuổi, chẳng những đã xung phong đi dân công, mà còn thách thi đua với các cụ ông và con cháu.
Các bà mẹ chiến sĩ và các chị em giúp thương binh đã hoà lẫn lòng yêu nước, yêu con, yêu chiến sĩ thành một mối yêu thương không bờ bến, mà giúp đỡ chiến sĩ và sǎn sóc thương binh như con em ruột thịt của mình.
Nói chung là phụ nữ ở vùng tạm bị chiếm, nói riêng là các nữ du kích, không quản khó nhọc nguy hiểm, ra sức giúp đỡ chiến sĩ và cán bộ, hǎng hái đấu tranh chống quân thù.
Hàng vạn phụ nữ Kinh, Thổ, Nùng, Mán, Mèo xung phong tham gia dân công, không quản trèo đèo lội suối, ǎn gió nằm sương.Phụ nữ ở xí nghiệp, ở nông thôn, ở cơ quan hǎng hái tham gia thi đua ái quốc, thành tích không kém đàn ông.
Trong phong trào phát triển bình dân học vụ, phụ nữ chiếm một phần lớn trong số người dạy cũng như trong số người học.
Nhiều chị em tiểu tư sản, trước kia quen đời sống phong lưu, nay cũng chịu khó làm lụng, tǎng gia sản xuất. Đó là một sự cải tạo lớn, một tiến bộ lớn về tư tưởng và tinh thần.
Tôi rất vui lòng thấy rằng trong mọi ngành hoạt động, các cháu nữ thanh niên đều xung phong, đều có thành tích khá.
Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ.
Các cấp lãnh đạo đi sát hơn, thiết thực hơn, thì phong trào phụ nữ chắc rộng hơn, mạnh hơn nữa”
Trích thư gửi Phụ nữ nhân dịp kỷ niệm khởi nghĩa Hai Bà Trưng và Quốc tế Phụ nữ ngày 8-3-1952
Người không chỉ nêu lên vai trò, vị trí của người phụ nữ đối với xã hội mà còn là người đi tiên phong trong phong trào đấu tranh đòi quyền bình đẳng nam nữ. Người chỉ rõ: Công tác phụ nữ trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, một trong những nội dung quan trọng là phải đấu tranh giành quyền bình đẳng cho phụ nữ. Người nhắc nhở các cấp, các ngành… phải kính trọng phụ nữ, quan tâm đến đời sống vật chất cũng như tinh thần của nữ giới.
Người cũng luôn động viên, khuyến khích chị em phụ nữ phải biết phấn đấu vươn lên tự khẳng định vị trí, vai trò của mình trong đời sống cũng như công tác xã hội. Bác khuyên phụ nữ phải biết mạnh dạn, tự tin, không nên rụt rè, nhút nhát tự ti như thời đại phong kiến mà cần phải có ý kiến của mình và mạnh dạn bảo vệ những ý kiến đó, có như vậy thì mới phát huy được hết khả năng, trí tuệ của mình. Chị em phụ nữ phải biết đấu tranh, tự mình bảo vệ mình chứ không nên chỉ ngồi chờ đợi chính sách từ Đảng và Nhà nước.
Đã qua hơn nửa thế kỷ nhưng lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ vẫn có giá trị thời sự, luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm bằng các việc làm, hành động cụ thể như thông qua các khung chính sách, pháp luật về bình đẳng giới đồng thời luật hóa các quy định liên quan trong các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên (tiêu biểu là CEDAW-Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ) qua các văn bản pháp luật tiêu biểu như: Luật Cán bộ, công chức, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân…Luật Bình đẳng giới được Quốc hội thông qua năm 2006 đánh dấu bước ngoặt và có tính đột phá trong sự nghiệp bình đẳng giới ở Việt Nam. Đây là văn bản luật quy định tập trung nhất các nội dung về bình đẳng giới và bảo đảm quyền của phụ nữ. Điểm nổi bật của Luật này là: Lần đầu tiên hình thành nên cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới ở Việt Nam; quy định bắt buộc quy trình lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong văn bản quy phạm pháp luật và yêu cầu các cơ quan chức năng xây dựng các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới…
Chính phủ đã xây dựng và triển khai thực hiện các chiến lược, kế hoạch đặc thù riêng cho phụ nữ như: Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam giai đoạn 2001-2010; Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 với mục tiêu tổng quát là: “Đến năm 2020, về cơ bản, bảo đảm bình đẳng thực chất giữa nam và nữ về cơ hội, sự tham gia và thụ hưởng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước”; thực hiện lồng ghép vấn đề bình đẳng giới vào chiến lược, kế hoạch, các chương trình chung của quốc gia như: Chiến lược toàn diện tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2006- 2010…
Bộ máy tổ chức thực thi bình đẳng giới ngày càng được hoàn thiện, phát triển. Nếu cách đây 10 năm, Việt Nam mới chỉ có một tổ chức phối hợp liên ngành vì sự tiến bộ của phụ nữ được thành lập từ Trung ương tới địa phương, thì đến nay, sau khi Luật Bình đẳng giới được ban hành và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2007, hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới đã được hình thành và đi vào hoạt động. Hiện nay, bộ máy quốc gia về bình đẳng giới ở Việt Nam gồm có: Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam. Ngoài ra, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam và Nhóm nữ nghị sĩ Việt Nam cũng tích cực tham gia thực hiện công tác này.
Luôn ghi nhớ công ơn, sự quan tâm của Bác cũng như của Đảng và Nhà nước dành cho phụ nữ, các thế hệ phụ nữ Việt Nam đã luôn cố gắng hết mình phấn đấu đóng góp công sức vào sự phát triển của đất nước trong từng giai đoạn lịch sử. Trong giai đoan hiện nay, với sự phát triển chung của xã hội, phụ nữ ta lại càng phải phấn đấu hết mình để vượt qua khó khăn, thách thức, đáp ứng yêu cầu của xã hội hiện đại. Hiện nay, phụ nữ tham gia hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhiều người được giao đảm nhiệm các vị trí quan trọng của Đảng, chính quyền, đoàn thể ở các cấp từ Trung ương đến địa phương. Trong hơn thập kỷ qua Phó Chủ tịch nước luôn là nữ. Nhiệm kỳ 2004-2009, lần đầu tiên Quốc hội có một Phó Chủ tịch Quốc hội là nữ.Trong Quốc hội, Việt Nam là một trong số ít nước trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội đạt trên 25%. Số đại biểu nữ giữ các trọng trách quan trọng trong các cơ quan của Quốc hội đã tăng lên. Trong khối cơ quan Đảng, ở cấp Trung ương, nhiệm kỳ 2005-2011, tỷ lệ nữ tham gia Ban Chấp hành Trung ương Đảng (kể cả ủy viên dự khuyết) là 10%, tăng so với nhiệm kỳ 2001-2005 (8,6%), tỷ lệ cán bộ nữ tham gia Ban Bí thư Trung ương Đảng là 20% (2/10 đồng chí). Ở địa phương, tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cấp tỉnh nhiệm kỳ 2004-2011 đạt 23,9%, cấp huyện là 23,01% và cấp xã là 19,5%. Tỷ lệ nữ tham gia cấp uỷ Đảng tăng nhẹ: Ở cấp tỉnh, tỷ lệ nữ ủy viên chiếm 11,75% so với tỷ lệ 11,3% của nhiệm kỳ trước, nữ Uỷ viên Ban thường vụ chiếm 7%, có 5 nữ bí thư Tỉnh uỷ. Ở cấp huyện và xã, tỷ lệ này lần lượt đạt 14,7% (so với 12,9%) và đạt 15,1% (so với 11,9%). Trong khối cơ quan hành chính nhà nước, đội ngũ cán bộ, công chức nữ tăng cả về số lượng và chất lượng. Trong nhiệm kỳ 2007-2011, tỷ lệ nữ Bộ trưởng và tương đương là 4,5%, Thứ trưởng và tương đương là 8,4%.
Ngày càng nhiều phụ nữ trở thành nhà chính trị, nhà khoa học, nhà quản lý, nhà văn, nghệ sỹ… Nhiều lĩnh vực không thể thiếu sự có mặt của người phụ nữ như giáo dục, dệt, may mặc, dịch vụ. Phụ nữ đã có những đóng góp quan trọng vào thành tựu của đất nước trên từng chặng đường phát triển. Với sự nỗ lực phấn đấu của mình, đồng thời được sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, nhất định phụ nữ nước ta sẽ phát huy được truyền thống tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam và ngày càng đóng góp xứng đáng hơn vào sự nghiệp đổi mới phát triển đất nước, xứng đáng với công ơn trời biển của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
Kim Yến
bqllang.gov.vn
Bác Hồ nói chuyện tại Đại hội Phụ nữ 5 tốt
Điều thứ một trong phong trào là đoàn kết, sản xuất và tiết kiệm tốt. Đoàn kết tốt thì việc gì to lớn mấy, khó khăn mấy cũng làm được.
– Ngày 30/4/1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và nói chuyện với Đại hội liên hoan Phụ nữ “5 tốt”. Trong bài nói, Bác khẳng định: “Ngay từ lúc đầu, Đảng và Nhà nước ta đã thi hành chính sách đối với phụ nữ cũng được bình quyền, bình đẳng với đàn ông”.
Phân tích những nôi dung của “5 tốt”, Bác nhấn mạnh: “Điều thứ một trong phong trào là đoàn kết, sản xuất và tiết kiệm tốt. Đoàn kết tốt thì việc gì to lớn mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con đường đi đến xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, xây dựng hạnh phúc cho nhân dân. Tăng gia là tay phải của hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc”.
Năm 1969, Bác tặng hoa phong lan cho các nữ chiến sĩ Quảng Bình.
Về nội dung “gia đình”, Bác đưa ra quan niệm: “Gia là nhà, Đình là sân. Theo nghĩa cũ thì gia đình chỉ giới hạn hẹp hòi trong cái nhà, cái sân. Nghĩa là chỉ lo cho cha mẹ, vợ con trong nhà mình ấm no, yên ổn, ngoài ra ai nghèo khổ mặc ai. Như thế là ích kỷ, là không tốt.
Theo nghĩa mới thì gia đình rộng rãi hơn, tốt đẹp hơn. Ví dụ những người cùng lao động trong một nhà máy, một cơ quan, trong một hợp tác xã… đều phải đoàn kết và thương yêu nhau như là anh em trong một gia đình. Rộng ra nữa là đồng bào cả nước đều là anh em trong một đại gia đình. Ta có câu hát: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/ Người trong một nước thì thương nhau cùng”.
Nhân ngày kỷ niệm 20 năm thành lập Hội Phụ nữ Việt Nam, trong phát biểu ngày 19/10/1966, Bác biểu dương: “Hội phụ nữ mới 20 tuổi. Nhưng truyền thống anh hùng của phụ nữ Việt Nam ta đã có gần 2000 năm và ngày càng phát triển. Từ đầu thế kỷ thứ Nhất, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, đánh giặc cứu dân cho đến ngày nay mỗi khi nước nhà gặp nguy nan, thì phụ nữ ta đều hăng hái đứng lên, góp phần xứng đáng của mình vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Do đó ta có câu tục ngữ rất hùng hồn “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”.
Trong các ngày 13, 16,18 và 20/11, Bác liên tiếp gửi điện khen các đơn vị nữ dân quân ở các xã Võ Ninh (Quảng Bình), xã Hà Phú và Hà Toại (Thanh Hoá), dùng súng bộ binh bắn rơi máy bay Mỹ.
Trong bức điện khen dân quân gái xã Hoàng Hải, Thanh Hoá, Bác khích lệ: “Cùng với thành tích to lớn chống Mỹ, cứu nước của phụ nữ cả nước ta, chiến công của các cháu càng làm rạng rỡ thêm truyền thống phụ nữ Việt Nam dũng cảm, đảm đang” (13/11/1967).
X&N
Vkyno (st)
Những câu chuyện đời thường của Bác Hồ với phụ nữ
Không có chỗ cho “Bác gái” đứng à?
Ngày 26 tháng 12 năm 1956, Bác Hồ đã tiếp hơn 300 đại biểu phụ nữ Thủ đô tại Phủ Chủ tịch. Họ là những phụ nữ ưu tú, gồm đủ các thành phần: Công nhân, nông dân, trí thức, tiểu thương, học sinh, các tôn giáo, phụ nữ miền Nam tập kết ra Bắc và các gia đình có công với cách mạng. Được đi gặp Bác, ai cũng tươi cười hớn hở, diện những bộ quần áo đẹp nhất.
Sau khi nói chuyện và căn dặn các đại biểu phụ nữ, Bác vui vẻ chỉ vào những đĩa bánh, những đĩa kẹo bày trên bàn và bảo:
– Các cô ăn bánh, ăn kẹo đi. Cô nào có cháu bé thì mang về cho cháu; có chồng thì mang về cho chồng; có người yêu thì mang về cho người yêu, nói là quà của Bác Hồ.
Được lời của Bác, mọi người phấn khởi chia nhau bánh, kẹo.
Nào bây giờ Bác cháu ta ra chụp ảnh.
Mọi người cùng kéo cả ra thềm Phủ Chủ tịch. Chị nào, cô nào cũng muốn được đến gần Bác để chụp ảnh. Bác bảo:
– Ai cũng muốn đứng gần Bác cả thì không có chỗ cho “bác gái” đứng à?
Mọi người còn chưa hiểu “bác gái” nào Bác đã kéo bác sĩ Trần Duy Hưng, Chủ tịch thành phố Hà Nội lại bảo: “Bác gái đây!”.
Tất cả mọi người cười vui vẻ. Bác nói tiếp:
– Bây giờ những cô nào đứng phía trước thì ngồi xuống, để những người đứng phía sau được rõ mặt hơn.
Mọi người răm rắp vâng theo lời Bác.
Nhà nhiếp ảnh bấm liền mấy “pô” ảnh. Ai cũng nghĩ: Chụp ảnh xong sẽ được chào Bác ra về. Nhưng đến khi quay lại, Bác đã không đứng đó nữa làm mọi người vô cùng luyến tiếc.
Các chú ấy nói có đúng không?
Chủ nhật trước ngày 2 tháng 9 năm 1958, một số chị em trong cơ quan Thành hội Phụ nữ đã đi phố sắm sửa cho ngày lễ. Nhưng khu tập thể vẫn đông vui vì hôm đấy không chỉ có các ông chồng về chơi, mà nhiều chị em còn đón cả bố mẹ ở quê ra dự ngày hội lớn ở Thủ đô. Mọi người không ngờ đã được Bác Hồ đến thăm. Xe vừa đỗ, Bác nhanh nhẹn bước xuống. Các chị trong cơ quan mừng quá, ùa ra đón, mời Bác vào phòng khách, nhưng Bác không vào mà nói:
– Không, Bác chưa vào phòng khách. Các cô cứ để Bác đi xem các cô ăn ở thế nào đã.
Bác đi qua sân, qua dãy nhà tập thể xuống thẳng bếp, hỏi thăm việc nấu nướng và khen ngợi chị em cấp dưỡng giữ gìn bếp núc sạch sẽ. Đến thăm nhà trẻ nhưng là ngày nghỉ, các cháu ở nhà, Bác nhìn qua cửa thấy nhà trẻ sạch bong, Bác gật đầu tỏ ý hài lòng. Bác thấy ngoài sân có một số cán bộ nam giới, Bác hỏi anh em:
– Cơ quan phụ nữ sao lại có các chú ở đây?
– Thưa Bác, hôm nay là Chủ nhật, chúng cháu về thăm gia đình ạ!
Bác hỏi lại:
– Các chú chỉ về thăm thôi à? Các chú về phải giúp đỡ các cô ấy việc gì chứ!
– Thưa Bác, chúng cháu có giặt giũ, bế con, dọn dẹp nhà cửa đấy ạ!
Bác quay lại hỏi các chị em:
Thế nào, các chú ấy nói có đúng không?
– Thưa Bác, đúng ạ!
Tất cả vui vẻ cười rộ lên sung sướng theo cái gật đầu, bằng lòng của Bác. Lúc ấy Bác mới đi vào phòng khách và hỏi thăm sức khỏe, tuổi tác của mấy cụ già, rồi căn dặn các chị em làm việc tốt, riêng với các cô giữ trẻ, Bác nhắc nhở:
– Các cháu là mầm non của Tổ quốc, là tương lai của xã hội, các cô phải trông nom dạy dỗ các cháu cho chu đáo.
Eo ơi, tướng giặc, sợ quá!
Trong đời mình, nghệ sĩ ưu tú Lệ Thanh đã nhiều lần vinh dự được vào Phủ Chủ tịch hát và cũng đồng nghiệp biểu diễn phục vụ Bác. Đầu năm 1967, Đoàn Kim Phụng đã biểu diễn vở Kiều Nguyệt Nga để Bác xem. Về lần biểu diện này nghệ sĩ Lệ Thanh kể:
“Chúng tôi chọn màn đầu của vở Kiều Nguyệt Nga vì muốn để Bác được nghe nhiều làn điệu và vui. Tôi đóng vai Lục Vân Tiên. Các vai khác cũng do toàn nữ diễn viên đóng. Anh Ngọc vai Kim Liên, Liên Phương vai quân hầu và chị Tốn đóng vai tướng giặc Phong Lai.
Trong khi chúng tôi đang hóa trang, đột nhiên Bác bước vào, tay cầm mảnh giấy đọc:
– Hồng Trang: Bà bầu.
Chị Hồng Trang lúc đấy là Trưởng đoàn Kim Phụng vội thưa:
– Thưa Bác, cháu đây ạ!
Bác gọi tiếp:
– Lệ Thanh, Lục Vân Tiên.
Tôi vội đứng lên:
– Thưa Bác, cháu ạ!
Bác cười:
– Con gái đóng con trai à?
Tôi thưa :
– Vâng ạ!
Bác lại gọi:
– Tướng giặc Phong Lai đâu?
Chị Tốn đang vẽ mặt, đeo râu, vội bước ra.
Bác giơ hai bàn tay, lắc đầu nói vui:
– Eo ơi, Tướng giặc, sợ quá!
Tất cả Bác cháu đều cười rộ lên rất vui vẻ. Khi biểu diễn xong, các diễn viên đứng ra chào, được Bác lên tặng hoa và bắt tay từng người. Lúc đến trước mặt tôi vẫn trong trang phục Lục Vân Tiên – Bác nói vui:
– Dại thế, lúc nãy Kiều Nguyệt Nga tặng trâm sao không lấy?
Tôi cũng cười, mạnh dạn thưa:
– Thưa Bác, vì Vân Tiên là một tráng sĩ gặp người bị nạn giữa đường thì cứu giúp, vì việc nghĩa chứ không vì vàng bạc ạ.
Bác cười gật đầu…
Bác đến thăm và nói chuyện với Đại hội Ba đảm đang của phụ nữ Thủ đô
Ảnh Tư liệu
Đại hội Ba đảm đang của phụ nữ Thủ đô lần thứ nhất, khai mạc rất trọng thể vào tối 1-12-1965 tại hội trường Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc. Chiều 2-12-1065 (ngày họp thứ 2) vào khoảng 16 giờ, Đại hội vô cùng sung sướng, phấn khởi được đón Bác. Cùng đi với Người có Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Anh hùng miền Nam Tạ Thị Kiều. Vừa thấy Bác, cả Hội trường đứng bật dậy, vỗ tay ran như sấm lẫn với tiếng reo vô cùng phấn khởi.
– Bác! Bác đến! Bác đến!… Hồ Chủ tịch muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn năm!
Sau mấy phút vô cùng sôi nổi, Bác giơ tay ra hiệu (một cử chỉ thường có của Bác) cho Đại hội im lặng, rồi Bác tươi cười chỉ vào chị Kiều và nói:
– Hôm nay, Bác dẫn “cô bé này” đến với Đại hội, các cô, các chú(Đại hội có một số đại biểu là nam giới) có phấn khởi không?
Cả Đại hội vỗ tay rầm rầm xen lẫn tiếng:
– Thưa Bác, có ạ!
Không khí Đại hội thật vô cùng náo nhiệt, sôi nổi. Bác đã kể cho Đại hội nghe về những gương anh hùng của phụ nữ ta trong thời kỳ bí mật, trong cuộc kháng chiến chống Pháp và sự hy sinh anh dũng của chị em miền Nam trong chống Mỹ.
Thật bất ngờ, Bác rút trong túi ra một cột báo của Báo Thủ đô ngày hôm đó, đọc tên bảy bà và chị, xong Bác hỏi:
– Các cô ấy có mặt ở Đại hội này không?
Hội trường lại vang lên:
– Thưa Bác, có ạ!
Bác tươi cười nói:
– Hôm nay, Bác đọc báo thấy có đăng thành tích của bảy cô là công nhân, là nông dân, là giáo viên… Bác rất vui, Bác có mấy chiếc huy hiệu để tặng các cô ấy.
Mọi người sung sướng vỗ tay tưởng làm vỡ phòng họp.
Sau cùng Bác hỏi:
– Các cô có muốn được Bác thưởng Huy hiệu của Bác không?
Cả Hội trường lại phấn khởi trả lời vang lên:
– Thưa Bác, có ạ, có ạ!
Vậy các cô về làm công tác cho tốt, Bác sẽ thưởng!
Cả Hội trường lại vang lên như sấm.
Vào nhầm nhà trẻ
Ở chiến khu Việt Bắc, một lần Bác đến thăm nhà nữ đồng chí Loan, người đã kéo cờ ở Quảng trường Ba Đình ngày 2-9-1945. Vào đến nhà, thấy đông con nhỏ, Bác nói vui:
– Ồ tưởng đây là nhà cô Loan, hóa ra mình vào nhầm nhà trẻ!
Biết Bác phê bình khéo, chị gượng cười và báo cáo:
– Thưa Bác đây là tiểu đội của vợ chồng cháu đấy ạ!
Bác vui vẻ bảo chị tập trung “tiểu đội” cứ lần lượt, bé nhất đứng trước Bác chia kẹo. Chị đang loay hoay sắp xếp đội hình, Bác bảo:
– Tiểu đội trưởng cũng đứng vào hàng chứ!
Bác chia kẹo cho các cháu và chị nữa. Khi đến lượt chị, Bác nói vui:
– Bác khen là cô đã có công nuôi dạy các cháu ngoan.
Bác “Chấm bài” cho một cô giáo
Ảnh Tư liệu
Sáng 17 tháng 9 năm 1958, Bác đến thăm ngót 3.000 thầy giáo, cô giáo của toàn miền Bắc được tập trung về Trường Bổ túc Công nông Trung ương để nghiên cứu tình hình nhiệm vụ của cách mạng và nhiệm vụ của ngành giáo dục.
Bác nói chuyện với các thầy giáo, cô giáo về nghề dạy học, nghề “trồng người”.
Tại buổi nói chuyện này, có một chuyện làm mọi người nhớ mãi và trở thành một kỷ niệm không thể quên. Lúc Bác nói chuyện xong một cô giáo của Trường Lương Ngọc Quyến – Liên khu Việt Bắc lên tặng Bác một món quà nhỏ. Mọi người thấy cô giáo trân trọng tặng Bác một chiếc cặp ba dây. Bác mở ra: Trong cặp có 4 chiếc khăn mùi soa. Bác cầm một chiếc và đọc to những dòng chữ thêu trên khăn. Đó là một bài thơ ngắn. Đọc xong Bác trích ra hai câu và “chấm bài” ngay tại chỗ. Câu thứ nhất: “Bác là ánh sáng quang vinh”, Bác sửa: “Bác là Hồ Chí Minh” ; và câu thứ hai: “Chúng con quyết trí hy sinh” lại được Bác sửa: “Chúng tôi quyết chí hy sinh”. Bác vui vẻ nói: “Quyết chí” mà cô giáo viết sai chính tả thành “Quyết trí”. Cả Hội trường cười vui, làm không khí thân mật, đầm ấm, tình cảm giữa lãnh tụ với nhân dân mà ấm áp như cha con trong nhà.
Gái mà làm anh nuôi à?
Đến thăm một đơn vị bộ đội phòng không, đang giữa câu chuyện với ngót 500 cán bộ, chiến sĩ, Bác hỏi:
– Có anh nuôi ở đây không?
– Có ạ!
– Các cháu lên đây.
Các cô gái ngày thường lấm lem than nồi, thế mà giờ đây lại được Bác Hồ quan tâm, cảm động quá cứ ôm lấy Bác Hồ mà khóc. Bác hỏi vui:
– Các cháu làm gì?
– Chúng cháu làm anh nuôi ạ!
– Gái mà làm anh nuôi à?
Bác cháu bật cười vui vẻ.
Tâm Trang (Tổng hợp)
bqllang.gov.vn
Một số lời dạy của Bác Hồ dành cho phụ nữ Việt Nam
Bác Hồ với phụ nữ các dân tộc thiểu số
Sinh thời, Bác Hồ rất quan tâm đến phụ nữ Việt Nam và vấn đề giải phóng phụ nữ, giáo dục phụ nữ, làm thế nào để giúp phụ nữ bình đẳng, phát triển tiến bộ. Người đã nhìn nhận, đánh giá cao những truyền thống quý báu của phụ nữ Việt Nam, ghi nhận những đóng góp của phụ nữ Việt Nam đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc: “Phụ nữ Việt Nam ta sẵn có truyền thống đấu tranh anh dũng và lao động cần cù. Trong kháng chiến, phụ nữ ta từ Bắc đến Nam đều hăng hái tham gia đánh giặc cứu nước.
Suốt hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc phụ nữ ta đã kiên cường kề vai sát cánh cùng các đồng chí nam giới để bền bỉ đấu tranh giành độc lập dân tộc thống nhất đất nước. Không chỉ trên tiền tuyến mà ở hậu phương chị em phụ nữ cũng ra sức phấn đấu thi đua, tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm để phục vụ cho đất nước, xứng đáng với tám chữ vàng mà Bác Hồ khen tặng: “ Anh hùng – Bất khuất – Trung hậu – Đảm đang ”
Tuy nhiên, Người cũng nhận thấy những hạn chế, ngăn cản sự phát triển, bình đẳng của phụ nữ Việt Nam. Đó là những khó khăn xuất phát từ bản thân chị em phụ nữ và hoàn cảnh khách quan: “Phụ nữ ta còn có một số nhược điểm như bỡ ngỡ, lúng túng, tự ti, thiếu tin tưởng vào khả năng của mình; mặt khác, phụ nữ cũng gặp nhiều khó khăn về gia đình, con cái” .
Tại Hội nghị cán bộ phụ nữ miền núi (ngày 19/3/1964), Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn bản thân phụ nữ phải ra sức phấn đấu:
Pháp luật của Nhà nước ta đã quy định đàn bà cũng có mọi quyền lợi như đàn ông. Để thực hiện thật sự bình quyền, phụ nữ phải ra sức phấn đấu.
Ngày 9/3/1961 khi nói chuyện với các đại biểu dự Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần III, Bác dặn dò phụ nữ phải nhận rõ địa vị làm chủ của mình:
“Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã nêu rõ chính sách nam nữ bình đẳng. Hiến pháp ta đã xác định chính sách đó. Trong mọi việc, Đảng và Chính phủ ta luôn luôn quan tâm giúp đỡ phụ nữ. Vậy chị em phụ nữ ta phải nhận rõ địa vị làm người chủ và nhiệm vụ người làm chủ nước nhà; phải có quyết tâm mới, đạo đức mới, tác phong mới để làm trọn nghĩa vụ mới của mình là góp phần xứng đáng vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, trước mắt là thi đua hoàn thành tốt kế hoạch năm nay, để làm đà tốt cho cả kế hoạch 5 năm, để xây dựng đời sống tươi vui hạnh phúc cho nhân dân ta, cho con cháu ta”…
Tại Đại hội liên hoan Phụ nữ “năm tốt” (ngày 30/4/1964), Bác thể hiện mong muốn chị em phải tích cực thi đua, cố gắng học tập, phấn đấu vươn lên:
“Phụ nữ phải nâng cao tinh thần làm chủ, cố gắng học tập và phấn đấu; phải xoá bỏ tư tưởng bảo thủ, tự ti; phải phát triển chí khí tự cường, tự lập. Có như thế thì phong trào “Năm tốt” sẽ ngày càng lan rộng, ăn sâu và sẽ thực hiện 100% bình quyền, bình đẳng”…
Tại Hội nghị cán bộ phụ nữ miền núi (ngày 19/3/1964), Chủ tịch Hồ Chí Minh định hướng phấn đấu, chỉ ra những việc làm cụ thể cho các chị em:
Phụ nữ cũng là người chủ nước nhà. Để xứng đáng là người chủ thì chị em phải ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm. Tổ chức và phát triển hợp tác xã cho tốt. Làm cho gia đình ngày càng no ấm, làm tốt nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Phụ nữ cần phải xung phong trong việc xây dựng đời sống mới. Ở miền núi đang còn những phong tục không tốt do bọn phong kiến để lại, như: ma chay, cúng bái rất tốn kém. Cưới vợ, gả chồng quá sớm. Vệ sinh phòng bệnh, v.v… còn kém. Đó là những mê tín và hủ tục nên xóa bỏ, để xây dựng mỹ tục thuần phong.
Đoàn kết là sức mạnh. Đồng bào miền núi, trước hết là chị em phụ nữ, cần phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Đoàn kết giữa dân tộc mình, đoàn kết giữa các dân tộc. Đoàn kết với đồng bào miền xuôi lên phát triển kinh tế miền núi. Tất cả các dân tộc miền núi và miền xuôi phải đoàn kết như anh em, chị em trong một nhà, cùng nhau ra sức xây dựng miền Bắc giàu mạnh và ủng hộ đồng bào miền Nam ruột thịt đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ Việt gian.
Một việc rất quan trọng nữa là: toàn thể đồng bào miền núi phải nâng cao tinh thần cảnh giác, giữ gìn trật tự trị an, luôn luôn sẵn sàng tiêu diệt bọn biệt kích, ngăn chặn bọn phản cách mạng âm mưu phá hoại.
Để làm tốt những việc nói trên, chị em phải cố gắng học tập. Học văn hoá, học chính trị, học nghề nghiệp. Nếu không học thì không tiến bộ. Có quyết tâm thì nhất định học được. Hiện nay đã có phụ nữ miền núi làm thày giáo, làm bác sĩ, làm cán bộ kỹ thuật, đội trưởng dân quân, v.v.. Tất cả phụ nữ trong huyện Đà Bắc ở tỉnh Hoà Bình đã xoá xong nạn mù chữ. Đó là những gương mẫu có quyết tâm thì thành công. Bác chờ để khen thưởng những chị em có thành tích xuất sắc nhất…
Trong lời chúc mừng Ngày quốc tế phụ nữ 8/3/1957, Bác cũng chỉ ra những nhiệm vụ của từng đối tượng phụ nữ
“Để kỷ niệm ngày 8 tháng 3 một cách thiết thực và xứng đáng, chúng ta cần động viên:
Chị em phụ nữ nông thôn THI ĐUA góp sức hoàn thành tốt cải cách ruộng đất và lập những tổ đổi công tốt.
Chị em công nhân và công chức THI ĐUA làm trọn nhiệm vụ của mình.
Chị em trí thức THI ĐUA góp phần vào việc phát triển văn hoá.
Nữ thanh niên tuỳ theo cương vị của mình, THI ĐUA học và hành, xung phong trong mọi công việc…
Tại Hội nghị phụ nữ lao động tích cực lần thứ nhất của Hà Nội ngày 18-10-1958, Bác đã căn dặn chị em phụ nữ Thủ đô:
“Chị em phụ nữ cố gắng thi đua tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giành thống nhất Tổ quốc. Phụ nữ công nhân cần tích cực tham gia quản lý thật tốt nhà máy, công trường. Phụ nữ nông dân cần hăng hái tham gia phong trào đổi công, hợp tác, gặt tốt vụ mùa, chuẩn bị tốt vụ chiêm năm tới. Các tầng lớp phụ nữ ở thành phố cần chấp hành tốt các chính sách của Đảng và Chính phủ. Chị em làm nghề buôn bán cần giữ đức tính thật thà, đúng đắn, bài trừ tệ “mua rẻ, bán đắt”, tệ “mặc cả, nói thách”. Chị em phụ nữ phải hết sức chăm lo bảo vệ sức khoẻ của con cái, vì thiếu nhi là tương lai của dân tộc”.
Đặc biệt, trong thư gửi phụ nữ Việt Nam nhân dịp xuân Bính Tuất (1946), Bác đã tặng bài thơ như một lời nhắc nhở, động viên chị em phấn đấu rèn luyện, tu dưỡng cách sống “Đời sống mới”:
Năm mới Bính Tuất
Phụ nữ đồng bào
Phải gắng làm sao
Gây “Đời sống mới”
Việc thành là bởi
Chúng ta siêng mần
Vậy nên chữ cần
Ta thực hành trước
Lại phải kiệm ước
Bỏ thói xa hoa
Tiền của dư ra
Đem làm việc nghĩa
Thấy của bất nghĩa
Ta chớ tham tàn
Thế tức là liêm
Đã liêm thì khiết
Giữ mình làm việc
Quảng đại công bình
Vì nước quên mình
Thế tức là chính
Cần, kiệm, liêm, chính
Giữ được vẹn mười
Tức là những người
Sống “Đời sống mới”.
Báo Tiếng gọi phụ nữ, số Xuân Bính Tuất, năm 1946,
Bên cạnh những lời động viên, khuyến khích dành cho phụ nữ, Bác còn chỉ ra những nhược điểm nào của phụ nữ và hướng dẫn cách khắc phục.
Nói chuyện tại Hội nghị các đại biểu phụ nữ tham gia công tác chính quyền toàn miền Bắc (ngày 1-8-1960), Bác chỉ rõ:
“Phụ nữ ta còn có một số nhược điểm như bỡ ngỡ, lúng túng, tự ti, thiếu tin tưởng vào khả năng của mình; mặt khác, phụ nữ cũng gặp nhiều khó khăn về gia đình, con cái. Muốn giải quyết khó khăn không nên ỷ lại vào Đảng, Chính phủ mà phải quyết tâm học tập, phát huy sáng kiến, tin tưởng ở khả năng mình, nâng cao tinh thần tập thể, đoàn kết giúp đỡ nhau để giải quyết mọi khó khăn của phụ nữ trong công tác chính quyền”…
Cùng với việc căn dặn, nhắc nhở phụ nữ, Bác Hồ đã nhiều lần nêu rõ trách nhiệm của các cơ quan Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ tham gia hoạt động, phấn đấu. Đó là: Khi nói chuyện tại Lớp bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo cấp huyện (18/1/1967), Bác phê bình sự thiếu sót trong bồi dưỡng cán bộ nữ, Người đánh giá cao vai trò của cán bộ nữ đồng thời yêu cầu phải đấu tranh mạnh bệnh thành kiến hẹp hòi đối với phụ nữ:
“Cán bộ nữ ít như vậy là một thiếu sót. Các đồng chí phụ trách lớp học chưa quan tâm đến việc bồi dưỡng cán bộ nữ. Đây cũng là thiếu sót chung ở trong Đảng. Nhiều người còn đánh giá không đúng khả năng của phụ nữ, hay thành kiến, hẹp hòi. Như vậy là rất sai. Hiện nay, có nhiều phụ nữ tham gia công tác lãnh đạo ở cơ sở. Nhiều người công tác rất giỏi. Có cháu gái làm chủ nhiệm hợp tác xã toàn thôn, không những hăng hái mà còn làm rất tốt. Các cháu gái ở các hợp tác xã thường có nhiều ưu điểm: ít mắc tệ tham ô, lãng phí, không hay chè chén, ít hống hách, mệnh lệnh như một số cán bộ nam, có đúng như thế không?
Bác mong rằng các đồng chí hãy thật sự sửa chữa bệnh thành kiến, hẹp hòi đối với phụ nữ. Các cô, nhất là các cô ở huyện, phải đấu tranh mạnh. Vì các cô mà không đấu tranh thì những đồng chí nam có thành kiến với phụ nữ sẽ không tích cực sửa chữa”.
Trong bài “Phải thật sự đảm bảo quyền lợi của phụ nữ” đăng trên báo Nhân dân ngày 28/12/1962, Bác viết
“Từ nay, đảng bộ, chính quyền và đoàn thể quần chúng (trước hết là đoàn thể phụ nữ và thanh niên) cần phải ra sức tuyên truyền Luật Hôn nhân và gia đình sâu rộng hơn nữa và phải chấp hành thật nghiêm chỉnh. Những thói dã man đánh vợ và ép con cần phải chấm dứt. Lợi quyền của phụ nữ cần được thật sự bảo đảm. Bản thân phụ nữ thì phải đấu tranh tự cường tự lập để giữ lấy lợi quyền của mình”…
Trong Di chúc, Người vẫn đau đáu một nỗi niềm : “Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày càng thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo”…
Di chúc
Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 12, NXB Chính trị quốc gia, tr. 510
Tuy vậy, Người luôn nhấn mạnh đến khả năng tự lực vươn lên của phụ nữ: “Bản thân phụ nữ thì phải đấu tranh tự cường tự lập để giữ lấy lợi quyền của mình”…
Phải thật sự đảm bảo quyền lợi của phụ nữ,
Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 10, NXB Chính trị quốc gia, tr. 661 – 662
Tâm Trang (Tổng hợp)
bqllang.gov.vn
Những mẩu chuyện đầy xúc động và chân tình của Bác Hồ với phụ nữ
Đại biểu phụ nữ các dân tộc tỉnh Hà Giang về thăm Hà Nội
vui mừng được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh (25-11-1965)
Suốt cuộc đời mình Bác luôn đứng về lẽ phải, đấu tranh bảo vệ cho những kiếp người cơ cực lầm than. Người đặc biệt quan tâm đến phụ nữ và trẻ em bởi theo Người đó là lớp người khổ nhất trong những người khổ cực. Như nhà thơ Tố Hữu đã từng viết:
Bác ơi tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông mọi kiếp người
Trong những “kiếp người” lầm than đó Bác dành sự quan tâm đặc biệt cho phụ nữ. Bởi hơn ai hết Bác là người hiểu rõ rằng: Trong xã hội, người phụ nữ là người bị áp bức, chịu đau khổ và thiệt thòi nhiều nhất. Bác nhiều lần bày tỏ chính kiến trước công luận là phải tiêu diệt tư tưởng phong kiến và đầu óc gia trưởng, tư tưởng trọng nam khinh nữ. Bác cũng chỉ rõ: “Luật lấy vợ lấy chồng nhằm giải phóng phụ nữ, tức là giải phóng phần nửa xã hội. Giải phóng người đàn bà”, “phải tiêu diệt tư tưởng phong kiến”, tư tưởng “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” (Một nam là có, mười nữ như không) trong người đàn ông. Bác phê phán tình trạng chồng đánh vợ và khẳng định đây là tệ nạn về mặt đạo đức và vi phạm pháp luật: “Đàn ông là người công dân, đàn bà cũng là người công dân, dù là vợ chồng, người công dân này đánh người công dân khác tức là phạm pháp”. Theo quan điểm của Bác, vấn đề giải phóng phụ nữ là một vấn đề xã hội to lớn, không phải chỉ là việc riêng của phụ nữ, mà là công việc quan trọng của Đảng, Nhà nước và đòi hỏi phải có sự tham gia của toàn xã hội, của tất cả mọi người. Việc giải phóng phụ nữ là phải tạo điều kiện để phụ nữ tham gia vào các hoạt động xã hội; Chỉ có đưa phụ nữ tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa… thì mới bảo đảm quyền bình đẳng thực sự cho phụ nữ. Muốn vậy phải tôn trọng phụ nữ, phải tính đến đặc thù của lao động nữ, phải thực hiện phân công sắp xếp lao động toàn xã hội, mở rộng các dịch vụ xã hội, tổ chức đời sống mới để phụ nữ có thời gian học tập và tham gia vào các hoạt động xã hội. Đảng và Chính phủ cần có những chủ trương chính sách phù hợp để phụ nữ tham gia vào các công việc của xã hội theo khả năng của họ. Song thực hiện bình đẳng giới, cũng không có nghĩa là “cào bằng” trong mọi việc, mà phải là, ngoài những cơ chế chính sách chung đối với người lao động, các cơ quan chức năng cần chú ý “quán triệt quan điểm giới” khi xây dựng chính sách, pháp luật đối với người lao động, nhằm bảo vệ sức khoẻ của phụ nữ, bảo vệ sức khoẻ bà mẹ và trẻ em khỏi những lao động độc hại và phi đạo đức, đồng thời đảm bảo phân phối công bằng cho cả hai giới, khi cùng làm một công việc và cống hiến như nhau. Bác Hồ cũng khẳng định, sự nghiệp giải phóng phụ nữ phụ thuộc vào chính bản thân người phụ nữ. Người đánh giá cao vai trò của phụ nữ khi nhìn nhận họ là một lực lượng lao động đông đảo của xã hội, làm việc không thua kém nam giới. Phụ nữ có thể đảm nhận và hoàn thành tốt những công việc lớn của cách mạng, của nhân dân. Tuy nhiên, để phát huy vai trò của phụ nữ, Người yêu cầu: “Chị em phụ nữ không nên ngồi chờ Chính phủ, chờ Đảng ra chỉ thị giải phóng phụ nữ mà tự mình phải tự cường đấu tranh”. “Mỗi một người và tất cả phụ nữ phải hăng hái nhận trách nhiệm của người làm chủ đất nước, tức là phải ra sức thi đua sản xuất và thực hành tiết kiệm để xây dựng nước nhà, xây dựng xã hội chủ nghĩa. Muốn làm tròn nhiệm vụ vẻ vang đó, phụ nữ phải xóa bỏ tâm lý tự ti và ỷ lại, phải có ý chí tự cường tự lập, phải nâng cao lên mãi trình độ chính trị, văn hóa, kỹ thuật”. “Phải nâng cao tinh thần làm chủ, cố gắng học tập và phấn đấu. Người phụ nữ phải tự khẳng định mình thông qua năng lực trình độ, thông qua sự hiểu biết và sự đóng góp của chính họ vào gia đình và xã hội. Từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, nâng cao vị trí của người phụ nữ trong xã hội và thực hiện xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc, bình đẳng và tiến bộ. Và trên thực tế, đã không ít tài liệu ghi lại những mẩu chuyện của Bác Hồ với phụ nữ đầy xúc động và chân tình.
Một lần, tới một Hội nghị, nhìn suốt dọc hội trường Bác hỏi: “Này các chú, phụ nữ đâu mà không thấy phụ nữ ngồi hàng đầu?” Rồi Bác lại hỏi tiếp: “Các cô gái có đấy không?” “Có ạ”.“Vậy mời lên đây ngồi. Ngay việc ngồi cũng không bình đẳng. Phụ nữ muốn được bình đẳng không phải bảo Đảng và Chính phủ hay nam giới mời lên ngồi mới ngồi mà phải tự đấu tranh phấn đấu giành lấy”. Đó chính là lời căn dặn của Bác với phụ nữ, bởi hơn ai hết Bác luôn quan tâm và giành nhiều tình cảm cho lớp người đã chịu nhiều lầm than này.
Một câu chuyện kể rằng vào tháng 1 năm 1963, trong phiên họp của Bộ Chính trị để bàn về những vấn đề quan trọng của cách mạng, Người đã đọc một bức thư của một phụ nữ trong cuộc họp này, đó là bức thư một nữ cán bộ cách mạng ở Vĩnh Phúc bị chồng đối xử đánh đập tàn tệ mà không được chính quyền đoàn thể can thiệp, cán bộ đảng viên thì lẩn tránh. Bác xem đó là tội ác, là tàn dư còn lại tồi tệ nhất của chế độ cũ và yêu cầu cuộc họp ưu tiên giải quyết trường hợp này trước.
Có lần tại một Hội nghị cấp huyện, Bác hỏi: Ở đây có Hải Phòng không? Có ạ!. Hợp tác xã các chú làm thế nào mà phải sang Hợp tác xã khác mượn lợn để lừa dối cấp trên? Có không? Có ạ. Vậy không nên làm như thế nữa”. Lúc đó, gần Tết, Bác kêu gọi tiết kiệm. Bác nói: Các chú phải có văn hóa không được đánh vần chữ “tiết kiệm” thành “tiết canh”. Phụ nữ người ta làm Chủ nhiệm đâu có đánh chén. Chủ nhiệm phụ nữ thật thà, phải đưa nhiều phụ nữ tham gia làm Chủ nhiệm”… Thế mới thấy được Bác rất coi trọng vai trò của phụ nữ Việt Nam. Thế nên khi đi thăm các nước, Bác thường nói với phụ nữ các nước đó: Phụ nữ Việt Nam làm được nhiều việc cho đất nước, phụ nữ Việt Nam thay thế nam giới thực hiện phục vụ cho chiến đấu, sản xuất. Đặc biệt, khi làm Chủ nhiệm Hợp tác xã, phụ nữ làm tốt hơn nam giới, cần cù hơn, không lãng phí, không đánh chén.
Một lần đến thăm một đơn vị nữ Thanh niên xung phong, Bác nghe báo cáo, đi xuống tận đơn vị sản xuất rồi góp ý với lãnh đạo đơn vị: “Đi chặt gỗ, việc ấy nặng nhọc, lúc hăng các cháu làm được hết; hay đi đắp đường, chỗ núi non khó khăn, các cháu cũng làm được. Nhưng lãnh đạo không nên để các cháu làm những việc như thế…phân phối công tác cho phụ nữ phải thích hợp…”. Lần ấy, các nữ Thanh niên xung phong đã rơi nước mắt trước nỗi lo toan rất đời thường của vị Chủ tịch nước.
Ngày lễ 2/9/1949, Bác đến thăm chị em cán bộ, nhân viên Văn phòng Trung ương Đảng tại chiến khu Việt Bắc. Người bước vào hội trường, ngồi xuống trước rồi bảo mọi người ngồi xuống theo. Các cán bộ nhanh chân đến trước vây quanh Chủ tịch. Các chị các cô vì có cháu nhỏ đi theo không chen kịp, đành ngồi phía sau hội trường, dù rất muốn được gần Bác.
Khi được báo cáo anh chị em đã đến đủ, Bác nhìn quanh nhận ra ngay điều bất hợp lý, liền nói:
– Để ổn định trật tự cho buổi “diễn thuyết” được thành công, các cô các chú phải ngồi đúng vị trí của mình. Riêng “diễn giả” được phép thay đổi chỗ.
Người đứng dậy đi đến cuối hội trường, hô:
– Đằng sau, quay!
Ngày ấy hội trường gồm toàn những ghế băng. Thế là các chị, các cô, các cháu nhỏ chỉ cần quay lại là được gần Bác nhất.
Chính sự quan tâm ngay cả những điều tưởng như nhỏ nhặt trong cuộc sống, đã làm cho hình ảnh của Người vốn đã vĩ đại càng trở thành bất tử.
Bác Vũ Kỳ, Thư ký riêng của Bác kể lại rằng: “Vào tháng 5 năm 1968, Bác Hồ đọc lại bản Di chúc và thấy cần phải viết thêm mấy điểm về phụ nữ”. Thế rồi, trong bản Di chúc Bác viết: “Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, phụ nữ đảm đang ta đã góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất, Ðảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Ðó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”. Đó là những lời chân tình, chứa chan tình cảm và cũng là sự nhắc nhở, huấn thị của Bác với phụ nữ trước khi đi xa.
Bác không có gia đình riêng, nhưng Người hiểu và thông cảm sâu sắc với người phụ nữ làm bổn phận người vợ, người mẹ trong gia đình, người lao động của xã hội. Trong cuộc sống gia đình, người phụ nữ phải lo bộn bề công việc “không tên” nhưng chính nó lại tạo nên của cải tinh thần vô cùng to lớn, đó là không khí gia đình, là tổ ấm của mỗi người Việt Nam.
Sự quan tâm của Bác Hồ với phụ nữ Việt Nam thật nhân ái bao la. Bác từng viết: “Ông Các Mác nói rằng: Ai đã biết lịch sử thì biết rằng muốn sửa sang xã hội mà không có phụ nữ giúp vào, thì chắc không làm nổi ( Đường Kách Mệnh). Đối với Bác, tầng lớp phụ nữ luôn có vị trí quan trọng trong cuộc cách mạng chung của dân tộc và hoàn toàn có thể tự hào mà ngẩng cao đầu trước các đấng mày râu. Và quả thật vây, nhìn lại những chặng đường đã đi qua, những anh hùng lao động, những chiến sỹ thi đua, những tấm huân chương, những giải thưởng khoa học là bằng chứng ghi nhận công lao đóng góp của chị em phụ nữ, dấu ấn ghi đậm truyền thống phụ nữ Việt Nam dũng cảm, đảm đang. Chị em phụ nữ hôm qua, hôm nay và ngày mai sẽ viết tiếp những truyền thống hào hùng đó, sẽ làm rạng danh dân tộc Việt Nam để thoả ước nguyện của Người trước lúc đi xa.
Kim Yến (Tổng hợp)
bqllang.gov.vn
Những nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức đối với Phụ nữ
1 … Nói phụ nữ là nói phân nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người.
Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa.
… Về phần mình, chị em phụ nữ không nên ngồi chờ Chính phủ, chờ Đảng ra chỉ thị giải phóng cho mình, mà tự mình phải tự cường, phải đấu tranh.
Bài nói tại Hội nghị cán bộ thảo luận Luật Hôn nhân và gia đình
ngày 10-10-1959, sđd, t.9, tr 523, 524.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nữ đại biểu tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III,
tháng 9 năm 1960. (Ảnh tư liệu)
2. … Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã nêu rõ chính sách nam nữ bình đẳng, Hiến pháp ta đã xác định chính sách đó. Trong mọi việc, Đảng và Chính phủ ta luôn luôn quan tâm giúp đỡ phụ nữ. Vậy chị em phụ nữ ta phải nhận rõ địa vị làm người chủ và nhiệm vụ người làm chủ nước nhà; phải có quyết tâm mới, đạo đức mới, tác phong mới để làm trọn nghĩa vụ mới của mình là góp phần xứng đáng vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội…
Bài nói chuyện tại Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ III
ngày 9-3-1961, sđd, t.10, tr. 296.
Bác Hồ với các đại biểu phụ nữ các dân tộc Việt Bắc năm 1959. (Ảnh tư liệu)
3. Phụ nữ cũng là người chủ nước nhà. Để xứng đáng là người chủ thì chị em phải ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm…
4. Phụ nữ cần phải xung phong trong việc xây dựng đời sống mới. Ở miền núi đang còn những phong tục không tốt do bọn phong kiến để lại, như: ma chay, cúng bái rất tốn kém. Cưới vợ, gả chồng quá sớm. Vệ sinh phòng bệnh, v.v… còn kém. Đó là những mê tín và hủ tục nên xóa bỏ, để xây dựng mỹ tục thuần phong.
5. Đoàn kết là sức mạnh. Đồng bào miền núi, trước hết là chị em phụ nữ, cần phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Đoàn kết giữa dân tộc mình, đoàn kết giữa các dân tộc. Đoàn kết với đồng bào miền xuôi lên phát triển kinh tế miền núi…
6. Để làm tốt những việc nói trên, chị em phải cố gắng học tập. Học văn hóa, học chính trị, học nghề nghiệp. Nếu không học thì không tiến bộ. Có quyết tâm thì nhất định học được…
Nói chuyện Hội nghị cán bộ phụ nữ miền núi,
ngày 19-3-1964, sđd, t.11, tr. 215
(theo Một số lời dạy và mẫu chuyện về
Tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh – Nxb Chính trị quốc gia)
Phuly.edu.vn
Huyền Trang (st)
bqllang.gov.vn
Tình cảm Bác Hồ dành cho phụ nữ Việt Nam
“Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta
trẻ cũng như già, ra sức thêu dệt mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”
– Hồ Chí Minh
Bác Hồ và đại biểu phụ nữ dân tộc ít người
tại Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ III, tháng 3 năm 1961.
Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ vĩ đại, một con người tiêu biểu cho lòng yêu nước, yêu thương con người. Người có một tấm lòng yêu thương rộng mở với tất cả lớp người cùng khổ trên thế gian. Trong đó người đặc biệt dành tình cảm sâu nặng nghĩa tình, nâng niu quý trọng cho trẻ em và phụ nữ. Người cho đó là lớp người khổ nhất trong những người khổ cực.
Ngay từ khi bôn ba nơi đất khách quê người, tìm đường cứu nước, Bác của chúng ta cũng luôn quan tâm đến sự khổ cực, bất công mà phụ nữ ở các nước thuộc địa nói chung và Việt Nam nói riêng phải chịu đựng. Trong “Bản án chế độ thực dân Pháp” Người đã thẳng thắn lên án bọn cai trị đã đối xử hết sức bất công tàn bạo với phụ nữ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định rằng: “Nói phụ nữ là nói phần nửa xã hội”. Và không chỉ đánh giá đúng vai trò, vị trí của người phụ nữ trong xã hội, trong quá trình đấu tranh giành độc lập, cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Bác Hồ luôn là nguồn động viên, cổ vũ cho phụ nữ Việt Nam phấn đấu vươn lên, khẳng định vị thế và những đóng góp của mình cho xã hội.
Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, đến với con đường cứu nước của Lênin vĩ đại. Từ bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Mười Nga, ý thức sâu sắc rằng, cứu nước là công việc chung của tất cả mọi người, hơn ai hết, Bác Hồ hiểu và đồng cảm với thân phận của người phụ nữ Việt Nam, để từ đó đánh giá đúng về họ, tin vào họ. Là người Việt Nam đầu tiên đặt nhiệm vụ giải phóng phụ nữ trong nhiệm vụ giải phóng dân tộc, Người khẳng định: Phụ nữ là một lực lượng hùng hậu trong sự nghiệp cách mạng qua mọi thời đại. Người coi sự nghiệp giải phóng phụ nữ cũng là một mục tiêu của cách mạng. Theo Người, sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ có ý nghĩa thực sự khi giải phóng được phụ nữ, bởi vì: “Phụ nữ chiếm một nửa nhân loại, nói đến phụ nữ là nói đến một nửa xã hội. Nếu phụ nữ chưa được giải phóng thì xã hội chưa được giải phóng. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng xã hội chủ nghĩa chỉ một nửa”.
Quan điểm nam nữ bình quyền của Bác được xác định ngay trong bản Cương lĩnh đầu tiên của Đảng và mục tiêu này cũng được Người đưa vào chương trình hoạt động của Việt Minh năm 1941… Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Bác cũng khẳng định với toàn thể đồng bào và tất cả bạn bè thế giới về quyền bình đẳng của phụ nữ Việt Nam với nam giới. Trong cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa chị em phụ nữ Việt Nam cũng được xếp ngang hàng với nam giới không phân biệt trong việc ứng cử cũng như bầu cử. Ngày 20 tháng 10 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra chỉ thị thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam để tập hợp phụ nữ Việt Nam thành một khối thống nhất.
Suốt hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc Người luôn đề cao vai trò của phụ nữ. Trong diễn ca “Lịch sử nước ta” Bác đã khẳng định:
“Phụ nữ ta chẳng tầm thường
Đánh đông dẹp Bắc lắm gương để đời”
Và vì thế Người luôn tự hào rằng “Dân tộc Việt Nam là dân tộc anh hùng… Phụ nữ Việt Nam là phụ nữ anh hùng”, cả trong kháng chiến chống Pháp. Rồi chống Mỹ “ta cũng có nhiều anh hùng là phụ nữ”. Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, với những đóng góp to lớn của họ, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Từ trước đến nay phụ nữ Việt Nam ta đã có nhiều đóng góp cho cách mạng, phụ nữ ta rất đáng kính, phụ nữ ta đã có rất nhiều tiến bộ”. Tuy nhiên, hiểu rất rõ rằng cuộc cách mạng giải phóng phụ nữ không thể kết thúc một sớm, một chiều được, một mặt động viên chị em tự mình khắc phục khó khăn, cố gắng phấn đấu, mặt khác Người cũng “mong phụ nữ tiến bộ nhiều hơn nữa”. Bởi theo Người, muốn giải phóng phụ nữ, muốn biến sự bình đẳng nam nữ thành hiện thực sinh động trong cuộc sống thường ngày, thì phải có sự tiến bộ về nhiều mặt: Kinh tế, chính trị, văn hoá – xã hội…Đấu tranh để giải phóng phụ nữ thực sự là một cuộc đấu tranh to và khó, vì “trọng trai, khinh gái là một thói quen mấy nghìn năm để lại, vì nó đã ăn sâu trong đầu mọi người, mọi gia đình, mọi tầng lớp xã hội”. Khó nhưng không có nghĩa là không thể thực hiện được, và từ trong thực tiễn cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, phụ nữ Việt Nam đã ngày mỗi ngày một tiến bộ. Họ đã tỏ rõ vai trò người chủ, “xứng đáng mình là một phần tử trong nước Việt Nam mới”.
Đáp lại tấm chân tình của Bác giành cho phụ nữ Việt Nam, các thế hệ phụ nữ Việt Nam ta đã góp phần làm nên những chiến công hiển hách, xứng đáng với tám chữ vàng mà Bác Hồ trao tặng: Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang. Trong thời chiến, chị em không hề thua kém cánh nam giới mà tham gia kháng chiến chống giặc cứu nước mạnh mẽ hơn, hiên ngang hơn, với hừng hục khí thế, sẳn sàng chống lại mọi bom đạn, ngục tù của quân thù… để kháng chiến thành công giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước. Hòa bình lập lại tất cả phụ nữ Việt Nam lại cùng chung vai, chung sức với nam giới để bắt tay vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước ta ngày càng giàu đẹp hơn, văn minh hơn.
Ngày 20 tháng 10 hàng năm là dịp để tôn vinh phụ nữ Việt Nam cũng là cơ hội để chị em tỏ lòng biết ơn với Bác kính yêu, cũng như nhìn lại những chặng đường lịch sử đã qua của dân tộc để cảm thấy tự hào về những gì mà phụ nữ Việt Nam đã làm. Đó là những tấm gương anh hùng lao động, những chiến sỹ thi đua, những tấm huân chương, những giải thưởng khoa học là bằng chứng ghi nhận công lao đóng góp của chị em phụ nữ, dấu ấn ghi đậm truyền thống phụ nữ Việt Nam giỏi việc nước, đảm việc nhà. Để từ đó nhận thức được vai trò trách nhiệm của mình, không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao trình độ chính trị, năng lực chuyên môn để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Chứng minh rằng phụ nữ Việt Nam không chỉ là người mẹ hiền đảm đang giữ gìn hạnh phúc gia đình, mà còn là những nhà khoa học, những vị lãnh đạo tài năng có những cương vị cao trong các cơ quan Đảng và Nhà nước từ cơ sở đến Trung ương, xứng đáng với sự quan tâm và tin tưởng của Bác Hồ kính yêu./.
Kim Yến
bqllang.gov.vn
Người phụ nữ đặc biệt và bữa cơm với Hồ Chủ tịch
Mái tóc dài buông xõa, đôi hàng lông mày cong cong, khóe miệng tươi ghi dấu một thời xuân sắc, gặp bà Trương Thị Khuê ít ai có thể nghĩ trong cái thời “ăn cơm Bắc, đánh giặc Nam” người phụ nữ ấy kiên gan cầm súng canh giữ từng tấc đất Vĩnh Linh. Bà đã cùng đồng đội sáu lần bắn rơi máy bay địch, ba lần vinh dự gặp mặt Bác Hồ…
Bắn rơi 6 máy bay địch
Nơi đầu sóng ngọn gió của thời kỳ chống Mỹ, năm 1945, Trương Thị Khuê sinh ra trong một gia đình nông dân xã Vĩnh Thủy, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Mảnh đất khói lửa ấy đã sớm được hun đúc nên một cá tính mạnh mẽ và quả cảm.
Mới lên chín tuổi thì mẹ mất, tới 18 tuổi bố bị bom Mỹ giết hại, hoàn cảnh gia đình đã rèn cho cô bé Khuê tính tự lập, đảm đang, không chỉ trong gia đình mà ở các hoạt động của cộng đồng như phụ trách đội thiếu nhi, đội du kích…
Năm 1965, ở tuổi 20, Trương Thị Khuê đã trở thành Xã đội phó kiêm Trung đội trưởng pháo 12 ly 7 xã Vĩnh Thủy, khu vực Vĩnh Linh. Trong thời gian này bà đã cùng đơn vị dũng cảm, tích cực tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu.
Bà cùng đồng đội từng bắn rơi sáu chiếc máy bay địch, bắt giữ hàng chục lính Ngụy. Tuy nhiên khi nói về những thành tích này, bà chỉ khiêm tốn nói “của đơn vị đấy, chứ tôi có làm được gì đâu.”
Bởi bà tâm niệm giản dị rằng: “Đừng ai nói với tôi là sao bà lại có thể như thế này, như thế kia. Không phải là người phụ nữ Việt Nam thích chiến đấu đâu. Đơn giản là vì Mỹ mang quân đến Việt Nam xâm lược nên mình phải đánh trả lại thôi.”
Với những thành tích trong chiến đấu, bà Trương Thị Khuê đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba và Huy hiệu Bác Hồ. Đặc biệt, tháng 8 năm 1968, dân quân xã Vĩnh Thủy đã được tuyên dương đơn vị Anh hùng, bản thân bà cũng được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất và được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang.
Và bữa trưa với Bác…
Tuy nhiên, khi được hỏi trong chặng đường chiến đấu và kiên trung bảo vệ Tổ quốc phần thưởng cao quý nhất với bà là gì, bà Khuê nói, đó là những lần được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh, được ăn cơm cùng Bác, được kể chuyện chiến đấu cho Bác nghe, được hát phục vụ Bác.
“Tôi không bao giờ có thể quên, bây giờ những hình ảnh ấy vẫn còn in đậm trong tâm trí tôi. Bác kể chuyện, đem kẹo cho chúng tôi ăn. Nhưng cảm động nhất là bữa cơm được ăn cùng Bác có đĩa cá tre mà trong tôi gọi là cá hẹ kho, đĩa gà luộc, đĩa rau muống luộc, cà muối. Bữa trưa có thế thôi nhưng ấm áp vô cùng,” bà Khuê bồi hồi nhớ lại.
Nhắc đến đây bà Khuê rưng rưng nói: “Cảm động nhất là Bác tự tay chia phần cơm cho chúng tôi khiến chúng tôi nghẹn ngào không ăn được. Vì nghĩ hoàn cảnh mình là trẻ mồ côi không có ai chăm sóc, nhìn Bác gần gũi và giản dị giống như ông nội, ông ngoại của mình thôi, chứ không giống một vị Chủ tịch nước.”
Cũng trong năm đó, bà Khuê được Bác Hồ cho phép ở lại Hà Nội học tập phục vụ xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Nhưng với tình yêu quê hương mãnh liệt, cùng mong muốn được kề vai sát cánh cùng đồng đội bảo vệ mảnh đất Vĩnh Linh khói lửa, bà lại trở về phục vụ kháng chiến. Chỉ đến khi hòa bình lập lại, bà mới rời tay súng tham gia công tác Hội Phụ nữ địa phương.
Hai lần được gặp Bác Hồ sau đó đều trở thành những dấu ấn, để lại nhiều bài học về lối sống cũng như nhân cách cao đẹp của vị lãnh tụ đáng kính và có ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc đời bà Trương Thị Khuê.
Năm 1997, bà được tín nhiệm bầu là ủy viên Đảng đoàn – Phó Chủ tịch rồi đến Phó Chủ tịch thường trực, Phó Bí thư Đảng đoàn Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, nhiều năm liền bà là Đại biểu Quốc hội.
Trong gần 30 năm làm công tác Hội Phụ nữ, bà luôn tâm huyết và có trách nhiệm trước các phong trào của Hội. Bà trăn trở về thực trạng đời sống kinh tế, văn hóa của phụ nữ vùng sâu, vùng xa, những vấn đề còn bức xúc về lao động nữ trong các khu công nghiệp, sự bất bình đẳng giới diễn ra ở nhiều nơi.
Bởi trong mắt bà, vị thế của người phụ nữ cũng cần được củng cố và nâng cao trong cả gia đình và xã hội. Bà trở thành tấm gương sáng cho các cán bộ phụ nữ của cả nước và ngay tại quê hương mình.
Đến nay, khi đã bước vào tuổi “thất thập cổ lai hy,” cái tuổi lẽ ra đã được an nhàn vui vầy cùng con cháu thì bà Khuê vẫn cần mẫn tham gia các công tác xã hội địa phương. Bà tâm niệm “mình từng là cán bộ, phải gương mẫu chứ.”./.
Theo Xuân Mai (Vietnam+)
Huyền Trang (st)
bqllang.gov.vn
Bạn phải đăng nhập để bình luận.