Hồ Chí Minh – Biên niên tiểu sử – Tập 9 (Chú thích và bản chỉ dẫn tên người)

Việt Nam - Hồ Chí Minh

CHÚ THÍCH

1. Báo Pravđa (Sự thật): Tờ báo ra hàng ngày, cơ quan của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Số 1 của tờ báo phát hành ngày 22-4 (lịch cũ), tức là ngày 5-5-1912 ở Xanh Pêtécbua. Pravđa là tờ báo kế tiếp truyền thống của tờ Ixkra (Tia lửa) trước đó do V.I. Lênin sáng lập. Báo Pravđa là vũ khí tư tưởng của Đảng Cộng sản Liên Xô trong việc động viên, cổ vũ quần chúng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Xôviết xã hội chủ nghĩa. Trong hơn hai năm tồn tại dưới chế độ Nga hoàng, báo Pravđa bị kiểm duyệt và đóng cửa tới tám lần. Song báo vẫn tồn tại với những tên khác nhau. Khi chế độ Nga hoàng bị lật đổ, tờ Pravđa lại tái bản ngày 5-3-1917. Sau đó toà báo bị bọn phản động phá hoại, song báo vẫn tiếp tục phát hành dưới những tên: Trang sự thật, Vô sản, Công nhân, Con đường của công nhân.

Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, báo Pravđa bắt đầu xuất bản lại từ ngày 27-10-1917. Tr.4.

2. Cuộc vận động “Ba xây, ba chống”: Để phát huy những ưu điểm, khắc phục những thiếu sót trong công tác quản lý kinh tế, tài chính, ngày 26-4-1962, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã ra nghị quyết về “cuộc vận động nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế, tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu”, gọi tắt là cuộc vận động “Ba xây, ba chống”. Cuộc  vận động đã được kỳ họp thứ sáu Quốc hội khoá II nhất trí phát động thành một cao trào thi đua rộng lớn trong các xí nghiệp, cơ quan Nhà nước và trong nhân dân. Ngày 20-10-1963, sau khi đã làm thử bước đầu ở một số cơ sở, Hội đồng Chính phủ chính thức phát động cuộc vận động này. Cuộc vận động được chia làm bốn đợt, kéo dài đến cuối năm 1965.

Thực hiện cuộc vận động “Ba xây, ba chống” từ khắp các cơ quan, công trường, xí nghiệp đã dấy lên một phong trào thi đua sôi nổi làm chuyển biến rõ rệt tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong làm việc của cán bộ công nhân. Nhiều sáng kiến cải tiến kỹ thuật được áp dụng, tệ tham ô, lãng phí, quan liêu giảm nhiều. Tr.6.

3. Đề nghị sáu điểm của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam: ngày 7-11-1963, Hội nghị Ban Thường trực Uỷ ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã đánh giá và nhận định về việc đế quốc Mỹ làm cuộc đảo chính lật đổ tập đoàn gia đình trị Ngô Đình Diệm.

Hội nghị ra tuyên bố nêu sáu yêu cầu cấp bách nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam sau khi tập đoàn gia đình trị Ngô Đình Diệm bị lật đổ. Đó là:

“1. Phải triệt hạ vô điều kiện toàn bộ chế độ độc tài phát xít Ngô Đình Diệm, bao gồm đường lối lệ thuộc Mỹ, các chính sách chống cộng, các chính sách chiến tranh, độc tài phát xít, các chính sách phản động nói chung về đối nội cũng như đối ngoại, các hình thức tổ chức chính trị phản động… của chúng. Phải trả tự do cho tất cả tù chính trị và trừng trị những bọn có nhiều nợ máu đối với nhân dân.

2. Thực hiện một nền dân chủ thực sự.

3. Phải chấm dứt ngay sự xâm lược của đế quốc Mỹ ở miền Nam. Đế quốc Mỹ phải tôn trọng độc lập và chủ quyền của miền Nam Việt Nam.

4. Phải thực hiện chính sách kinh tế độc lập, dân chủ và hợp lý để nâng cao dần mức sống của nhân dân, tiến tới chiến thắng thất nghiệp và nghèo dốt.

5. Đình chỉ chiến tranh, khôi phục lại hoà bình, an ninh và ổn định ở nông thôn và giải quyết các vấn đề trọng đại của đất nước.

6. Các phái hữu quan ở miền Nam cùng nhau thương lượng để đi đến ngừng bắn và giải quyết các vấn đề trọng đại của đất nước. Tr.29.

4. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên: Cuối năm 1924, sau một thời gian hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc) để xúc tiến việc chuẩn bị thành lập Đảng. Tháng 6-1925, tại đây, Người đã sáng lập Hội Việt Nam cách mạng  thanh niên– một tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội có Chính cương, Chương trình hoạt động và Điều lệ tóm tắt. Cơ quan tuyên truyền của Hội là tuần báo Thanh niên. Tại Quảng Châu, Tổng bộ Hội Việt Nam cách mạng  thanh niên đã mở các lớp huấn luyện chính trị. Nguyễn Ái Quốc là người trực tiếp phụ trách tổ chức và huấn luyện các lớp học này.

Hội Việt Nam cách mạng thanh niên là một tổ chức cách mạng đầu tiên ở nước ta theo xu hướng chủ nghĩa cộng sản khoa học. Hội đã đi vào quần chúng, vận động công nhân, nông dân theo quan điểm tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin.

Hội Việt Nam cách mạng  thanh niên đã làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình là chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho một đảng cộng sản chân chính ra đời ở Việt Nam. Tr.40.

5. Cuộc bạo động Yên Bái: Cuộc khởi nghĩa do Việt Nam Quốc dân Đảng tổ chức và thực hiện. Việt Nam Quốc dân Đảng là một tổ chức cách mạng theo xu hướng quốc gia tư sản, thành lập ngày 25-12-1927.

Do đường lối tổ chức không chặt chẽ, lại kết nạp đảng viên dễ dãi, để bọn mật thám chui vào nên đầu năm 1930, cơ sở của Đảng bị vỡ ở nhiều nơi, nhiều cán bộ, đảng viên bị bắt. Trước tình hình đó, các lãnh tụ của Đảng là Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu quyết định khởi nghĩa, vì cho rằng: đằng nào Đảng cũng bị khủng bố và bị tiêu diệt, cho nên cứ bạo động, “không thành công cũng thành nhân”.

Ngày 11-2 -1930, 10 giờ tối, bạo động đã nổ ra. Nghĩa quân chiếm các đồn Pháp ở Yên Bái. Một bộ phận binh lính Việt Nam trong quân đội Pháp phản chiến tham gia vào quân khởi nghĩa. Nghĩa quân chiếm được nhà dây thép (bưu điện), nhà ga, phát truyền đơn, hô hào quần chúng và binh lính hưởng ứng. Ngay sáng hôm sau, thực dân Pháp đã phản công, cuộc bạo động bị thất bại. Trong vòng một tuần, phong trào khởi nghĩa bị dập tắt ở các nơi. Nguyễn Thái Học và các lãnh tụ khác bị bắt và bị xử tử. Việt Nam Quốc dân Đảng cũng bị tan rã.

Trong lúc Việt Nam Quốc dân Đảng chuẩn bị khởi nghĩa, Nguyễn Ái Quốc đã nhận xét “cuộc bạo động ấy quá sớm và khó thành công”.Tr.40.

6. Hội nghị Chính trị đặc biệt: Căn cứ theo Điều 67 của Hiến pháp (năm 1959) nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và yêu cầu phải tăng cường hơn nữa sự đoàn kết nhất trí trong toàn dân trước âm mưu của đế quốc Mỹ đang đẩy mạnh và mở rộng chiến tranh xâm lược nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định triệu tập và chủ trì Hội nghị Chính trị đặc biệt. Hội nghị họp từ ngày 27 đến 28-3-1964 tại hội trường Ba Đình (Hà Nội). Dự Hội nghị có các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và hơn 300 đại biểu của những cán bộ lão thành, những nhà hoạt động chính trị đại biểu cho các tầng lớp nhân dân việt Nam, những người tiêu biểu cho các giới, các ngành…, những anh hùng và chiến sĩ thi đua, những trí thức và những nhân sĩ v.v..

Hội nghị đã nghe và thảo luận Báo cáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về những thành tích to lớn của nhân dân ta trong 10 năm qua, về tình hình hiện tại và nhiệm vụ trước mắt, đường lối đối nội và đối ngoại của Đảng và Chính phủ ta. Toàn thể Hội nghị đã nhất trí với Báo cáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Hội nghị này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi đồng bào miền Bắc ra sức thi đua “Mỗi người làm việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào miền Nam ruột thịt”. Bản báo cáo tại Hội nghị Chính trị đặc biệt là một văn kiện lớn được phổ biến sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Nhiều báo cáo, tham luận đại biểu cho các tổ chức chính trị – xã hội, các tầng lớp nhân dân đã biểu lộ sự  đồng tình với Báo cáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Sau Hội nghị này, Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Thủ tướng Chính phủ đã ra chỉ thị phát động và hướng dẫn tổ chức cao trào thi đua làm việc theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Mỗi người làm việc bằng hai, ra sức thi đua xây dựng và bảo vệ miền Bắc, tích cực ủng hộ cách mạng giải phóng miền Nam. Tr.41.

7. Chiến tranh đặc biệt: Chiến lược chiến tranh do đế quốc Mỹ tiến hành ở miền Nam Việt Nam từ năm 1961 đến đầu năm 1965. Đây cũng là một bộ phận quan trọng trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của Mỹ. Đặc điểm chủ yếu của chiến lược chiến tranh này là được tiến hành theo công thức cố vấn Mỹ chỉ huy, vũ khí, trang bị và các phương tiện chiến tranh khác do Mỹ cung cấp; quân đội Sài Gòn trực tiếp thực hiện nhằm chống lại các lực lượng vũ trang và nhân dân miền Nam Việt Nam. Địch coi chương trình bình định, gom dân lập ấp chiến lược là “xương sống” của “Chiến tranh đặc biệt”.

Sau khi “Chiến tranh đặc biệt” bị thất bại ở miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ chuyển sang thực hiện “chiến tranh cục bộ”. Tr.41.

8. Cao trào thi đua “Mỗi người làm việc bằng hai”: Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 18-4-1964, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra chỉ thị phát động cao trào thi đua “Mỗi người làm việc bằng hai, ra sức xây dựng và bảo vệ miền Bắc, tích cực ủng hộ cách mạng giải phóng miền Nam”.

Mục đích của đợt phát động này là nhằm làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nhận thức được một cách có hệ thống và nhất trí sâu sắc hơn về đường lối cách mạng của Đảng, do đó nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa và lòng yêu nước, bồi dưỡng ý chí cách mạng, truyền thống quyết chiến quyết thắng, không sợ khó khăn gian khổ, phát huy ý thức làm chủ tập thể, tự lực cánh sinh, dám nghĩ, dám làm, dũng cảm vươn lên làm tròn nhiệm vụ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra. Tr.42.

9. Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III): Tháng 12-1963, Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) đã bàn về tình hình thế giới và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam. Hội nghị đã phân tích và nêu lên những quan điểm của Đảng ta về vấn đề chiến tranh, hoà bình và cùng tồn tại hoà bình; vấn đề đẩy mạnh sự nghiệp giải phóng dân tộc và tiếp tục xoá bỏ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc; vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chuyên chính vô sản; vấn đề triệt để hoàn thành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. Hội nghị nhất trí cho rằng để hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang của mình, các đảng cộng sản và đảng công nhân ra sức đấu tranh bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin và bảo đảm vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin một cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể của thế giới và mỗi nước.

Hội nghị đã tổng kết kinh nghiệm phong phú của cách mạng miền Nam trong những năm qua và định ra những phương hướng, nhiệm vụ cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống Mỹ trong thời gian tới. Hội nghị nhận định rằng quân và dân miền Nam đã giành được những thắng lợi quan trọng trong chống “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ. Thắng lợi đó đã chỉ ra cho quân và dân miền Nam khả năng kiềm chế và thắng địch trong “chiến tranh đặc biệt” và phải sẵn sàng đối phó nếu địch liều lĩnh gây Chiến tranh cục bộ ở miền Nam. Tr.42.

10. Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá II: Họp từ ngày 29-3 đến ngày 4 -4 -1964, tại Hà Nội. Trong kỳ họp này, Quốc hội  đã nghe và thảo luận báo cáo về công tác của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Báo cáo của Chính phủ về kế hoạch và ngân sách Nhà nước năm 1964; Báo cáo của Toà án nhân dân tối cao và của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Quốc hội còn nghe báo cáo về kết quả Hội nghị Chính trị đặc biệt do Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập hồi tháng 3-1964.

Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về kế hoạch Nhà nước năm 1964; Nghị quyết  phê chuẩn ngân sách Nhà nước năm 1964; Nghị quyết về kết quả của Hội nghị chính trị đặc biệt. Quốc hội kêu gọi toàn thể đồng bào miền Bắc ra sức thực hiện lợi kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Mỗi người chúng ta phải làm việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào miền Nam ruột thịt”, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Tr.44.

11. Cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật: Là một cuộc vận động lớn được phát động ở nông thôn theo Nghị quyết Bộ Chính trị ngày 19-2-1962: “Cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc”. Cuộc vận động kéo dài trong 3 năm 1963-1965 nhằm 3 mục tiêu sau:

1. Cải tiến công tác quản lý hợp tác xã.

2. Cải tiến kỹ thuật và bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho hợp tác xã.

3. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đối với nông nghiệp và hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Tr.45.

12. Cách mạng Pháp (1789 – 1794): Cuộc cách mạng tư sản điển hình nhất ở châu Âu. Nó đã xoá bỏ chế độ phong kiến chuyên chế – một chế độ mục nát bị nhân dân lao động và giai cấp tư sản Pháp hết sức căm ghét, – mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ ở Pháp và một số nước châu Âu.

Cuộc cách mạng này có ảnh hưởng đến các cuộc cách mạng tư sản ở châu Âu trong thế kỷ XIX. Nhưng vì là cách mạng tư sản, cho nên nó vẫn duy trì chế độ tư hữu và chế độ bóc lột. Thực chất của nó chỉ là việc đưa một nhóm người thuộc giai cấp tư sản bóc lột này vào chính quyền thay thế một nhóm người thuộc giai cấp phong kiến trước kia mà thôi. Đó chính là điều khác nhau căn bản giữa cách mạng tư sản với bất cứ cuộc cách mạng vô sản nào. Tr.52.

13. Công xã Pari: Cuối thế kỷ XIX, mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với tư sản trong xã hội Pháp ngày càng trở nên gay gắt. Trước cuộc xâm lược của quân Đức, Chính phủ tư sản Pháp đầu hàng đã cắt nhượng cho Đức hai tỉnh Andátxơ và Lôren, chịu bồi thường năm tỷ phrăng, mở đường cho lính Đức tiến vào sát Thủ đô Pari. Công nhân và nhân dân Pari đã tự vũ trang và tổ chức bố phòng để bảo vệ thành phố. Nhưng Chính phủ tư sản Pháp, đứng đầu là Chie, đã ra lệnh tước vũ khí của công nhân, giải tán các tuyến phòng thủ. Điều đó làm nhân dân căm phẫn nổi dậy khởi nghĩa vào ngày 18-3-1871, đánh đuổi giai cấp tư sản, thành lập chính quyền mới ở Pari gọi là Công xã Pari – chính quyền đầu tiên của giai cấp vô sản trên thế giới. Cuộc cách mạng năm 1871 và việc thành lập Công xã Pari là cuộc cách mạng vô sản đầu tiên thiết lập nhà nước của giai cấp vô sản, đánh dấu bước phát triển mới của phong trào công nhân quốc tế. Tr.52.

14. Kế hoạch Mác Namara: Sau khi kế hoạch Xtalây – Tayo nhằm bình định miền Nam Việt Nam trong 18 tháng bị thất bại, tháng 2-1964, Tổng thống Mỹ L. Giônxơn thông qua một kế hoạch xâm lược mới gọi là kế hoạch Giônxơn – Mác Namara. Kế hoạch này được đưa ra thực hiện từ tháng 3-1964. Với kế hoạch này, đế quốc Mỹ quyết tâm bình định miền Nam trong vòng 2 năm (1964 – 1965).

Toàn bộ kế hoạch này của đế quốc Mỹ nhằm gây sức ép và phá hoại nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với hy vọng là Bắc Việt Nam mà yếu thì “Việt cộng” ở Nam Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn, trên cơ sở đó nhanh chóng bình định miền Nam Việt Nam. Trên thực tế, kế hoạch này đã bị thất bại nhanh chóng. Tr.58.

15. Chiến thắng Điện Biên Phủ: Chiến thắng lớn nhất trong cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược, chiến thắng có ý nghĩa chiến lược trên toàn chiến trường Đông Dương. Từ giữa tháng 11-1953, thực dân Pháp được Mỹ giúp sức đã xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm với tổng số hơn 16.000 quân, gồm 17 tiểu đoàn bộ binh và lính dù, 2 tiểu đoàn và 3 đại đội xe tăng, 1 phi đội máy bay, tổ chức thành 8 cụm với 46 cứ điểm.

Chiến dịch bắt đầu từ ngày 13-3-1953 và kết thúc thắng lợi vào ngày 7-5-1954. Sau 56 ngày đêm chiến đấu, với ba đợt tiến công, các lực lượng vũ trang ta đã tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm, tướng Đờ Catxtơri và Bộ Chỉ huy tập đoàn cứ điểm bị bắt. Tr.64.

16. Bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ: Cuộc chiến tranh giải phóng của nhân dân Bắc Mỹ chống chủ nghĩa thực dân Anh bắt đầu từ năm 1775 đến năm 1781. Trong cuộc chiến tranh giải phóng này, các xứ thuộc địa ở Bắc Mỹ đã tổ chức các đại hội đại biểu để thảo luận các biện pháp chống thực dân Anh. Đại hội lần thứ hai ở Philađenphi đã cử ra một uỷ ban do T. Giépphécxơn làm Chủ tịch để thảo ra Nghị quyết tuyên bố các xứ thuộc địa là những nước tự do và độc lập, tách khỏi quyền lực của hoàng gia Anh. Bản Nghị quyết đó được đại biểu 13 bang thông qua ngày 4-7-1776 và trở thành bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ. Bản Tuyên ngôn này tiêu biểu cho nguyện vọng của các dân tộc thuộc địa ở Bắc Mỹ đấu tranh giành độc lập, tự do cho nhân dân Mỹ.

Nhưng sau khi giành được độc lập, giai cấp tư sản Mỹ nắm được chính quyền đã đi ngược lại lợi ích và nguyện vọng của nhân dân Mỹ, thi hành chính sách phân biệt chủng tộc, áp bức bóc lột nhân dân trong nước, đồng thời xâm lược các nước khác bằng chủ nghĩa thực dân cũ rồi chủ nghĩa thực dân mới, chà đạp lên những nguyên tắc tự do, bình đẳng, bác ái đã ghi trong bản Tuyên ngôn độc lập  của nước Mỹ.Tr.68.

17. Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá III: Họp từ ngày 25-6 đến ngày 3-7-1964, tại Hà Nội. Trong kỳ họp này, Quốc hội đã nghe và thảo luận Báo cáo của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội khóa III và quyết định về tư cách đại biểu Quốc hội. Đồng thời Quốc hội đã nghe và thảo luận Báo cáo chính trị của Thủ tướng Chính phủ; các báo cáo bổ sung về phong trào thi đua “Mỗi người làm việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào miền Nam” và tình hình đấu tranh của toàn dân ta thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà.

Cũng trong kỳ họp này, Quốc hội đã bầu lại các chức vị và các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước. Quốc hội hoàn toàn nhất trí bầu đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch và đồng chí Tôn Đức Thắng làm Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà; đồng chí Trường Chinh làm Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; đồng chí Phạm Văn Đồng làm Thủ tưởng Chính phủ. Quốc hội thông qua Nghị quyết thành lập Uỷ ban Văn hoá và Xã hội của Quốc hội; Nghị quyết về Báo cáo chính trị của Hội đồng Chính phủ cùng một số nghị quyết khác.

Quốc hội ra Tuyên bố lên án đế quốc Mỹ tiến thêm một bước trên con đường phiêu lưu của chúng ở miền Nam Việt Nam và Đông Dương; đồng thời động viên quân và dân ta quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, thực hiện một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, dộc lập, dân chủ và giàu mạnh. Tr.78.

18. Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Việt Nam: Hiệp định được ký kết tại Hội nghị các Bộ trưởng Ngoại giao bàn về vấn đề lập lại hoà bình ở Đông Dương, họp tại Giơnevơ (Thụy Sĩ) từ ngày 8-5 đến ngày 21-7-1954. Nội dung cơ bản của các văn kiện được ký kết tại Hội nghị (các hiệp định, tuyên bố chung của Hội nghị) như sau:

– Các nước tham gia Hội nghị cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của các nước Việt Nam, Lào, Campuchia.

– Ngừng bắn đồng thời ở Việt Nam và trên toàn chiến trường Đông Dương; quân đội Pháp phải rút khỏi Đông Dương. Mỗi nước Đông Dương sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do để thống nhất đất nước.

– Vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời chia Việt Nam làm hai miền; sau  hai năm (7-1956) sẽ tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất nước Việt Nam.

– Ở Lào, các lực lượng kháng chiến tập kết tại hai tỉnh Sầm Nưa và Phongxalì. Ở Campuchia, lực lượng kháng chiến phục viên tại chỗ.

Bản Tuyên bố chung ghi rõ: “Ở Việt Nam, đường ranh giới về quân sự chỉ có tính chất tạm thời, không thể coi như một biên giới chính trị hoặc lãnh thổ”.

Về âm mưu thôn tính nước ta, ngay từ đầu, đế quốc Mỹ đã ra sức phá hoại Hiệp định Giơnevơ. Năm 1955, chúng hất cẳng Pháp, xây dựng bộ máy chính quyền tay sai của chúng ở miền Nam, tiến hành đàn áp dã man những người kháng chiến và cự tuyệt tổng tuyển cử tự do trên cả nước. Trước tình hình đó, nhân dân cả nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã anh dũng tiến hành cuộc đấu tranh để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới thực hiện thống nhất đất nước. Tr.84.

19. Hiệp định Giơnevơ năm 1962 về Lào: Hiệp định được ký kết giữa các nước tham gia Hội nghị quốc tế tại Giơnevơ (Thụy Sĩ) họp từ tháng 5-1961 đến tháng 7-1962 để giải quyết vấn đề hoà bình trung lập của Lào.

Sau 14 tháng đàm phán, ngày 23-7-1962, 14 nước tham gia Hội nghị đã ký Hiệp định, gồm hai văn kiện đã được Hội nghị thông qua: Bản Tuyên bố về nền trung lập của Lào và Nghị định thư kèm theo “Bản tuyên bố về nền trung lập của Lào – văn kiện chủ yếu của Hội nghị – quy định những nguyên tắc quan trọng phù hợp với yêu cầu của nhân dân Lào và lợi ích của hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới”. Các nước tham gia Hội nghị cam kết tôn trọng chủ quyền, độc lập, trung lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Lào, cam kết không can thiệp vào công việc nội bộ của Lào.

Hiệp định Giơnevơ năm 1962 kết thúc một giai đoạn đấu tranh gian khổ nhưng rất vinh quang của nhân dân Lào. Tr.85.

20. Khối quân sự Đông Nam Á (SEATO): Được thành lập sau Hội nghị Manila (Philíppin) và Hội nghị Băng Cốc (Thái Lan), do Mỹ triệu tập vào tháng 9 – 1954. Tham gia SEATO có các nước Mỹ, Anh, Pháp, Ôxtrâylia, Niu Dilân, Philíppin, Thái Lan, Pakixtan.

Sau thắng lợi hoàn toàn của nhân dân ba nước Đông Dương trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược (1954-1975), khối SEATO lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc. Tháng 9-1975, khối SEATO tuyên bố tự giải tán. Tr.136.

21. Cách mạng Tháng Mười Nga: Ngày 7-11-1917 (tức ngày 25-10, theo lịch Nga), dưới sự lãnh đạo của Đảng Công nhân xã hội – dân chủ Nga, đứng đầu là Lênin, giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga đã nổi dậy lật đổ chính quyền tư sản và bọn phản cách mạng, thành lập chính phủ Xôviết do Lênin làm Chủ tịch. Đây là cuộc cách mạng vô sản thắng lợi đầu tiên trên thế giới. Cách mạng Tháng Mười Nga đã thức tỉnh giai cấp công nhân và nhân dân lao động bị áp bức, soi sáng con đường cho các dân tộc thuộc địa tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên xây dựng xã hội mới. Tr. 140.

22. Trận Trân Châu cảng: Trận đánh mở đầu chiến tranh Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Ngày 7-12-1941, Nhật không tuyên chiến bất ngờ tiến công hạm đội Mỹ ở cửa biển Trân Châu (Pearl Harbour), căn cứ quân sự của Mỹ ở gần quần đảo Haoai. Mỹ cho rằng Nhật sẽ tấn công Liên Xô nên thiếu sự đề phòng và đã bị thiệt hại nặng; năm trong tám thiết giáp  hạm bị đánh đắm, ba chiếc còn lại bị hư hỏng nặng, mất 19 tàu chiến khác và 177 máy bay. Đây là sự kiện chưa từng có trong lịch sử chiến tranh hải quân. Hai ngày sau, ở ngoài khơi Malaixia, thiết giáp hạm Prince of Wales và tuần dương hạm Repulse của Anh cũng bị Nhật đánh đắm. Sau đó, phe Đức – Ý – Nhật đều tuyên chiến với Mỹ. Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai lan ra khắp thế giới. Tr. 143.

23. Hội nghị quốc tế đoàn kết với nhân dân Việt Nam chống Mỹ xâm lược, bảo vệ hoà bình: Hội nghị do Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Uỷ ban Bảo vệ hoà bình thế giới của Việt Nam, Uỷ ban Đoàn kết nhân dân Á – Phi của Việt Nam tổ chức tại Hà Nội từ ngày 25 đến ngày 29-11-1964. Dự Hội nghị có 64 đoàn đại biểu thay mặt cho nhân dân 52 nước và 12 tổ chức quốc tế. Sau khi Đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam báo cáo về tội ác của đế quốc Mỹ ở Việt Nam và cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam chống Mỹ, Hội nghị đã nghe 65 bản tham luận của các đoàn đại biểu lên án đế quốc Mỹ xâm lược và ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân ta. Hội nghị thông qua một số nghị quyết quan trọng ủng hộ nhân dân Việt Nam và nhân dân các nước chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân. Hội nghị gửi thư tới nhân dân miền Nam Việt Nam và nhân dân tiến bộ Mỹ.

Hội nghị quyết định hàng năm lấy ngày 20-12, ngày thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam làm ngày đoàn kết của nhân dân thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam. Tr.153.

24. Cuộc vận động xây dựng chi bộ và đảng bộ cơ sở “Bốn tốt”: Muốn lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà, Đảng ta phải thật trong sạch và vững mạnh. Để đáp ứng yêu cầu đó, tháng 6-1962, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã quyết định mở cuộc vận động xây dựng chi bộ và đảng bộ cơ sở “Bốn tốt”. Cuộc vận động đã nhanh chóng được triển khai toàn Đảng. Nhiều đảng uỷ, chi uỷ, chi bộ được kiện toàn, tác phong công tác ở cơ sở có nhiều chuyển biến tốt. Tính tích cực, vai trò tiên phong gương mẫu của cán bộ đảng viên được tăng cường một bước.

Năm 1965, trước yêu cầu ngày càng lớn của nhiệm vụ sản xuất và chiến đấu, công tác xây dựng đảng nhất là xây dựng đảng ở cơ sở càng quan trọng. Vì thế, ngày 6-4-1965, Ban Bí thư Trung ương Đảng quyết định đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận động xây dựng chi bộ và đảng bộ cơ sở “Bốn tốt”. Tr.163.

25. Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III): Họp tháng 12-1964, bàn về vấn đề lưu thông, phân phối, hàng hoá và giá cả. Hội nghị chỉ rõ: Công tác lưu thông, phân phối là loại công tác tổng hợp, nhiệm vụ phức tạp, tác động đến các mặt trong đời sống xã hội. Muốn tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trên mặt trận kinh tế, Đảng phải chú trọng đến vấn đề giá cả. Hội nghị lần thứ 10 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tổng kết công tác thương nghiệp, giá cả trong 10 năm qua và rút ra được quy luật cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là phải tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, lấy cách mạng kỹ thuật làm then chốt. Tr. 165.

26. Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam:  Cuối năm 1944, tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến chuyển thuận lợi cho cách mạng. Trên cơ sở lực lượng chính trị đã phát triển và lực lượng vũ trang nhân dân đang hình thành, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Nhiệm vụ chính của Đội là thực hành vũ trang tuyên truyền, giúp đỡ các cán bộ và lực lượng vũ trang ở các địa phương; kêu gọi, tổ chức toàn dân đứng dậy, chuẩn bị cơ sở chính trị và quân sự cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền trong cả nước.

Theo chỉ thị đó, ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân gồm 34 chiến sĩ do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy, được thành lập trong khu rừng Sam Cao, thuộc tổng Hoàng Hoa Thám, châu Nguyên Bình (Cao Bằng). Dưới lá cờ đỏ sao vàng, toàn đội đã đọc 10 lời thề danh dự. Ngay sau khi mới thành lập, đội quân cách mạng ấy đã đánh thắng hai trận đầu tiên ở Phay Khắt và Nà Ngần (Cao Bằng) ngày 24 và 25-12-1944, cổ vũ phong trào đánh Nhật đuổi Pháp, mở đường cho những thắng lợi tiếp theo. Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là khởi điểm phát triển thành Quân đội nhân dân Việt Nam và ngày 22-12 được lấy là Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam. Tr.166.

27. Tết trồng cây: Ngày 28-12-1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh – dưới bút danh Trần Lực – đã viết bài đăng báo Nhân dân, nhan đề: Tết trồng cây. Người phân tích ý nghĩa và lợi ích thiết thực của việc trồng cây đối với đất nước, gia đình và mỗi người dân. Cuối năm 1959, Người kêu gọi toàn dân hưởng ứng một tháng trồng cây từ ngày 6-1 đến ngày 6-2-1960, gọi là Tết trồng cây. Từ đó, hàng năm, mỗi khi mùa Xuân đến, nhân dân ta lại tổ chức Tết trồng cây theo lời Người và đời đời nhớ ơn Người.

Tết trồng cây trở thành một phong tục tập quán tốt đẹp của nhân dân ta trong những dịp vui Tết đón Xuân. Tr.172.

28. Chiến thắng Ấp Bắc: Ngày 2-1-1963, địch huy động hơn 2.000 quân gồm đủ các binh chủng cùng với một đại đội pháo 105 ly, một đại đội xe lội nước M.113, 13 tàu chiến, 21 máy bay dưới sự chỉ huy của tướng Mỹ R.York mở cuộc càn quét lớn vào Ấp Bắc, một ấp nhỏ chưa đầy 600 dân thuộc xã Tân Phú, huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền Giang). Trận đánh diễn ra ác liệt từ 6 giờ sáng cho đến gần tối. Địch đã trút xuống xóm nhỏ này hàng chục tấn bom đạn nhưng kết cục vẫn phải chịu thất bại thảm hại. Tại đây, lần đầu tiên, với số quân ít hơn địch 10 lần, quân và dân miền Nam đã thắng lớn: tiêu diệt 450 quân địch, trong đó có 19 sĩ quan Mỹ, bắn rơi 8 máy bay, bắn bị thương 15 chiếc khác; bắn cháy ba xe lội nước M.113, bắn chìm một tàu chiến, thu một số súng.

Chiến thắng Ấp Bắc đã thể hiện tinh thần chiến đấu vô cùng dũng cảm của quân và dân ta ở miền Nam. Nó chứng tỏ đồng bào miền Nam hoàn toàn có khả năng thắng Mỹ về quân sự trong “chiến tranh đặc biệt”. Tr.176.

29. Trận An Lão: Đêm mồng 6 rạng ngày 7-12-1964, Quân giải phóng tấn công chi khu quân sự An Lão, một trong số 11 quận của tỉnh Bình Định và ba cứ điểm Hội Long, Vụ Khánh, đồi 193. Sau hai ngày liên tục tiến công địch, Quân giải phóng đã tiêu diệt và làm bị thương 681 tên địch trong đó có quân Mỹ, giải phóng 15.000 dân, bắn cháy và phá huỷ 6 xe lội nước M.113, thu trên 300 súng các loại, bắn rơi một máy bay. Tr. 176.

30. Trận Bình Giã: Đêm ngày 4 rạng ngày 5-12-1964 Quân giải phóng đã đột nhập tiêu diệt “ấp chiến lược” Bình Giã (Bà Rịa – Vũng Tàu), bao vây bắn phá chi khu quân sự Đức Thạch. Đến ngày 8-12 Quân giải phóng lại tiến công quận lỵ Đất Đỏ; ngày 9-12 tiêu diệt hoàn toàn chi đoàn xe lội nước M.113 trên đường số 2 và liên tục đánh địch 6 ngày liền từ ngày 28-12-1964 đến ngày 2-1-1965 tại các khu vực này. Trận Bình Giã là trận đánh kéo dài nhất kể từ ngày có đấu tranh vũ trang chống Mỹ – nguỵ (đến tháng 12-1964). Quân ta đã giành được thắng lợi lớn: loại khỏi vòng chiến đấu hơn 2.000 địch, trong đó có 28 quân Mỹ, diệt 37 xe quân sự các loại, bắn rơi 24 máy bay, bắn hỏng 13 chiếc khác.

Chiến thắng Bình Giã có ý nghĩa chiến lược lớn, đánh dấu sự phá sản của chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Tr. 176.

31. Cải cách ruộng đất: Cuộc vận động chống phong kiến được thực hiện từ tháng 11-1953 và kết thúc vào tháng 7-1956. Sau gần ba năm tiến hành, cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc nước ta đã giành được những thắng lợi có tính chất chiến lược: đánh đổ giai cấp địa chủ phong kiến; xoá bỏ chế độ chiếm hữu ruộng đất phong kiến; thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng”, đưa nông dân lên địa vị người làm chủ ở nông thôn; tăng cường và củng cố khối liên minh công nông, cơ sở vững chắc của Mặt trận dân tộc thống nhất và của chính quyền dân chủ nhân dân.

Cải cách ruộng đất là một chủ trương đúng. Song trong quá trình thực hiện, có những nơi, những lúc do không quán triệt đúng đường lối của Đảng ở nông thôn, không căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương nên đã phạm những sai lầm nghiêm trọng. Những sai lầm đó đã được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh phát hiện và kịp thời chỉ đạo việc thực hiện sửa sai. Tr.192.

32. Hội nghị nhân dân Đông Dương: Trước tình hình đế quốc Mỹ tăng cường chiến tranh chống nhân dân Việt Nam và uy hiếp độc lập, hoà bình trung lập của Lào và Campuchia, Hội nghị nhân dân Đông Dương đã họp tại Phnôm Pênh, Thủ đô Campuchia từ ngày 1 đến ngày 9-3-1965. Tham gia Hội nghị có các đoàn đại biểu của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Cộng đồng xã hội bình dân Campuchia, Neo Lào Hắcxạt, lực lượng trung lập Lào yêu nước và các đoàn thể, tổ chức khác thuộc ba nước Đông Dương.

Hội nghị đã lên án đế quốc Mỹ phá hoại Hiệp định Giơnevơ, gây ra cuộc chiến tranh xâm lược đầy tội ác chống nhân dân Việt Nam, can thiệp vũ trang vào Lào và âm mưu xâm lược Campuchia. Hội nghị đã thông qua Nghị quyết chung, khẳng định tình đoàn kết của nhân dân Đông Dương trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và thông qua ba nghị quyết riêng về Việt Nam, Lào, Campuchia. Tr.196.

33. Mặt trận Nhân dân Pháp: Được thành lập năm 1935 theo sáng kiến của Đảng Cộng sản Pháp. Tham gia Mặt trận có Đảng Cộng sản, Đảng Xã hội cùng nhiều đảng phái và tổ chức cấp tiến khác, nhằm chống lại chủ nghĩa phát xít. Năm 1936, Mặt trận Nhân dân giành được thắng lợi lớn trong cuộc bầu cử Nghị viện. Chính phủ Mặt trận Nhân dân (1936-1938) đã thi hành nhiều chính sách tiến bộ.

Những chính sách tiến bộ ấy đã có ảnh hưởng đến tình hình Đông Dương. kết hợp chặt chẽ chính sách của Mặt trận Dân chủ Đông Dương với các hoạt động bí mật, Đảng ta đã triệt để lợi dụng những khả năng tổ chức và đấu tranh công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp để phát triển lực lượng cách mạng của nhân dân, nhờ đó, phong trào đấu tranh trong thời kỳ này phát triển mạnh mẽ. Tr.202.

34. Mặt trận Dân chủ Đông Dương: Trước sự bành trướng của chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh thế giới do phát xít Đức, Ý, Nhật ráo riết chuẩn bị, theo chủ trương của Quốc tế Cộng sản, các đảng cộng sản đều chuyển hướng hoạt động, thành lập mặt trận nhân dân rộng rãi chống phát xít, chống chiến tranh. Ở Việt Nam, tháng 7-1936, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Nhân dân phản đế Đông Dương, từ năm 1938 là Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Đó là một chủ trương sáng suốt, kịp thời đã tạo ra một cao trào cách mạng 1936-1939. Tr.202.

35. Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khoá III: Trong những ngày 25, 26, 27 tháng 3-1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ 11. Hội nghị phân tích sâu sắc tình hình ở hai miền nước ta và chỉ rõ: với âm mưu và hành động chiến tranh mới của đế quốc Mỹ, tình hình một nửa nước có chiến tranh, một nửa nước có hòa bình đã biến thành tình hình cả nước có chiến tranh với hình thức và mức độ khác nhau. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước lần này, miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn. Hậu phương lớn phải cùng với tiền tuyến lớn đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Về nhiệm vụ trước mắt của miền Bắc, Trung ương Đảng khẳng định tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, kết hợp chặt chẽ xây dựng kinh tế và tăng cường quốc phòng, kiên quyết bảo vệ miền Bắc, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại và phong toả bằng không quân và hải quân của địch, chuẩn bị sẵn sàng để đánh bại địch trong trường hợp chúng đưa cuộc chiến tranh phá hoại hiện nay đến một trình độ ác liệt gấp bội, hoặc chuyển nó thành một cuộc chiến tranh cục bộ cả ở miền Nam lẫn miền Bắc, ra sức động viên lực lượng của miền Bắc chi viện cho miền Nam, ra sức giúp đỡ cách mạng Lào. Tr.212.

36. Hội nghị Băngđung: Hội nghị họp từ ngày 18 đến ngày 24-4-1955 tại Băngđung (Inđônêxia). Dự Hội nghị, ngoài 5 nước khởi xướng là Inđônêxia, Ấn Độ, Mianma, Xri Lanca và Pakixtan, còn có 24 nước Á – Phi khác. Đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu đã tham dự Hội nghị.

Thông cáo chung của Hội nghị nêu rõ: chủ nghĩa thực dân dưới mọi biểu hiện của nó là một tai hoạ cần phải nhanh chóng tiêu diệt. Hội nghị hoàn toàn ủng hộ quyền bình đẳng và quyền tự quyết dân tộc, lên án chính sách phân biệt chủng tộc và yêu cầu Hội đồng bảo an Liên hợp quốc kết nạp một số nước, trong đó có nước Việt Nam làm thành viên của Liên hợp quốc. Thông cáo chung kêu gọi các nước hãy tiến hành ngay việc giải trừ quân bị, nghiêm cấm việc sản xuất vũ khí hạt nhân, thực hiện hoà bình, hợp tác thân thiện và giải quyết những vấn đề tranh chấp bằng thương lượng. Tr.216.

37. Cuộc đàm phán Nhật Bản – Nam Triều Tiên: Nhằm mục đích lôi kéo Nhật Bản vào cuộc chiến tranh Triều Tiên và nhằm tổ chức khối quân sự ở khu vực Đông – Bắc Á, vào cuối năm 1951, đế quốc Mỹ đã giật dây cho giới cầm quyền ở Nam Triều Tiên và Nhật Bản đàm phán với nhau về vấn đề bình thường hoá quan hệ giữa Nam Triều Tiên và Nhật Bản. Từ năm 1952 đến tháng 5-1965 hai bên đã tiến hành bảy đợt đàm phán.

Ngày 20-2-1965, hai bên đã ký Hiệp định về các quan hệ cơ bản giữa hai nước Cộng hòa Triều Tiên và Nhật Bản.

Ngày 3-4-1965 các hiệp định về các vấn đề bồi thường tài sản và quy chế của kiều dân Triều Tiên thực chất là sự thông đồng của Mỹ và Nhật Bản. Dành cho Nhật Bản một số quyền lợi ở Nam Triều Tiên để buộc Nhật Bản tham gia tích cực hơn nữa vào kế hoạch chiến tranh của Mỹ và củng cố chế độ thân Mỹ ở Nam Triều Tiên. Tr.219.

38. Kỳ họp thứ hai Quốc hội khoá III: Họp tại Hà Nội, từ ngày 7 đến ngày 10-4-1965. Quốc hội họp trong khí thế cách mạng một lòng chống Mỹ, cứu nước của toàn dân ta.

Trong kỳ họp này Quốc hội đã thông qua:

– Nghị quyết về báo cáo của Chính phủ.

– Nghị quyết giao cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội được sử dụng một số quyền của Quốc hội trong trường hợp Quốc hội không thể họp theo thường lệ.

– Đạo luật sửa đổi và bổ sung một số điều trong Luật nghĩa vụ quân sự.

– Lời kêu gọi của Quốc hội nước ta gửi Quốc hội các nước trên thế giới đề nghị có những hành động thích hợp ủng hộ mạnh mẽ lập trường chính nghĩa của Quốc hội, Chính phủ và nhân dân ta, đồng thời kiên quyết đòi Chính phủ Mỹ phải đình chỉ xâm lược miền Nam Việt Nam và đình chỉ khiêu khích, bắn phá, tiến công nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát biểu trước Quốc hội trong phiên họp bế mạc. Người kêu gọi toàn dân ta: “Lúc này, chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam yêu nước”… “Tất cả chúng ta hãy đoàn kết, triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Tr.221.

39. Liên đoàn Thanh niên Dân chủ thế giới (WBDY): Tổ chức thanh niên quốc tế lớn nhất, được thành lập để đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, vì hoà bình, dân chủ, độc lập dân tộc, vì lợi ích sống còn và quyền lợi của thế hệ trẻ. Liên đoàn Thanh niên Dân chủ thế giới được thành lập từ tháng 10-1945 tại Đại hội thanh niên thế giới ở Luân Đôn (Anh), với sự tham gia của đại biểu của 63 nước. Liên đoàn tập hợp tổ chức thanh niên của hơn 100 nước. Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam gia nhập tổ chức này từ năm 1949.

Theo sáng kiến của Liên đoàn Thanh niên Dân chủ thế giới, ngày 24-4 hàng năm được coi là “Ngày đoàn kết quốc tế của thanh niên”.Tr.228.

40. Chiến thắng phát xít Đức của Hồng quân Liên Xô: Ngày 22-6-1941, 190 sư đoàn của phát xít Đức và các nước chư hầu bất ngờ tiến công vùng biên giới phía Tây Liên Xô và tổ chức nhiều mũi tiến sâu vào lãnh thổ Liên Xô.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô, quân đội và nhân dân Liên Xô đã đứng dậy tiến hành cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại. Ngay những năm tháng đầu tiên của cuộc chiến đấu, quân đội và nhân dân Liên Xô đã giành những thắng lợi to lớn, trong đó có trận đánh thắng ở Xmôlenxcơ (từ tháng 7 đến tháng 9-1941); cuộc chiến đấu bảo vệ Lêningrát (nay là Xanh Pêtécbua) bắt đầu từ tháng 8-1941; cuộc phòng thủ Kiép (từ tháng 7 đến tháng 9-1941); ở Ôđétxa (từ tháng 8 đến tháng 10-1941); ở Xêvátxtôpôn (từ tháng 11-1941 đến tháng 7-1942). Trong chiến dịch tấn công mùa đông 1941-1942, quân đội Liên Xô đã chiến thắng quân Đức ở Rốtxtốp trên sông Đông, ở Crưm, ở Tikhơvin… Phối hợp với các cuộc chiến đấu của du kích vùng địch hậu, quân đội Xôviết đã phá tan kế hoạch chiến lược tiến công bất ngờ và chớp nhoáng của phát xít Đức, gây cho chúng nhiều thất bại nặng nề.

Tháng 12-1941, quân phát xít Đức bị quân đội Liên Xô đánh tan ở gần Mátxcơva. Đây là thất bại to lớn đầu tiên của phát xít Đức trong năm đầu của cuộc chiến tranh.

Sang năm 1942, A. Hítle tiếp tục điều động 266 sư đoàn, trong đó có 193 sư đoàn quân Đức vào mặt trận Xô – Đức. Chúng tiến công vào Xtalingrát (nay là Vôngagrát). Quân đội Liên Xô phản công mãnh liệt ở mặt trận Xtalingrát, diệt 33 vạn quân phát xít (ngày 2-2-1943). Sau đó quân địch liên tiếp bị tiêu diệt ở nhiều nơi trên lãnh thổ Liên Xô.

Mùa hè năm 1943, phát xít Đức tập trung trên mặt trận Cuốcxcơ, quân đội Liên Xô bắt đầu mở cuộc tổng phản công trên quy mô 2.000 km, giành thắng lợi liên tiếp ở nhiều mặt trận, tạo ra khả năng chuyển biến cơ bản của cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại.

Năm 1944, quân đội Liên Xô mở nhiều chiến dịch tấn công rộng lớn, quét sạch quân phát xít ra khỏi lãnh thổ Liên Xô.

Sau khi giải phóng Tổ quốc Xô viết, quân đội Liên Xô đã phối hợp với quân đội các nước anh em, giải phóng hàng loạt nước châu Âu như Ba Lan, Tiệp Khắc, v.v.. Tháng 4-1945, quân đội Liên Xô tiến công đánh chiếm sào huyệt của phát xít Đức ở Béclin, buộc chúng phải đầu hàng không điều kiện ngày 8-5-1945.

Thắng lợi của Liên Xô chứng tỏ sức mạnh vô địch của nhân dân và quân đội Liên Xô dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô, là thắng lợi của chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt. Thắng lợi của Liên Xô tạo thêm sức mạnh cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các nước.

Việc tiêu diệt phát xít Đức và quân phiệt Nhật đã kết thúc cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Tr.235.

41. Đại hội đoàn kết nhân dân Á – Phi lần thứ IV: Đại hội họp ở Uynnơba (Gana) từ ngày 9 đến ngày 16-5-1965. Đại hội đã thông qua một số nghị quyết quan trọng trong đó có nghị quyết về Việt Nam. Đại hội kịch liệt lên án đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam và hoàn toàn ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ nhằm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc. Đại hội đã quyết định tổ chức “Tuần ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ xâm lược, bảo vệ độc lập dân tộc và hoà bình” từ ngày 14 đến ngày 20-7-1965. Tr.237.

42.. Bốn điểm của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: nêu trong Tuyên bố tại Quốc hội khoá III, Kỳ họp thứ hai, ngày 8-4-1965 là:

1. Xác nhận những quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam: hòa bình, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Theo đúng Hiệp định Giơnevơ, Chính phủ Mỹ phải rút quân đội, nhân viên quân sự và các loại vũ khí Mỹ ra khỏi miền Nam, xoá bỏ liên minh quân sự với miền Nam; Chính phủ Mỹ phải đình chỉ chính sách can thiệp và xâm lược đối với miền Nam; phải đình chỉ hành động chiến tranh đối với miền Bắc, hoàn toàn chấm dứt mọi hành động xâm phạm lãnh thổ và chủ quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

2. Trong lúc chờ đợi hòa bình thống nhất nước Việt Nam, trong lúc nước Việt Nam còn tạm thời bị chia làm hai miền thì phải triệt để tôn trọng những điều khoản quân sự của Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Việt Nam như: hai miền đều không có liên minh quân sự với nước ngoài, không có căn cứ quân sự, quân đội và nhân viên quân sự của nước ngoài trên đất mình.

3. Công việc miền Nam phải do nhân dân miền Nam tự giải quyết theo Cương lĩnh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, không có sự can thiệp của nước ngoài.

4. Việc thực hiện hòa bình thống nhất nước Việt Nam do nhân dân Việt Nam ở hai miền tự giải quyết, không có sự can thiệp của nước ngoài.Tr.268.

43. Năm điều trong tuyên bố của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (ngày 22-3-1965): Tóm tắt như sau:

1. Đế quốc Mỹ là kẻ phá hoại Hiệp định Giơnevơ, là kẻ gây chiến và xâm lược, là kẻ thù của nhân dân Việt Nam.

2. Nhân dân miền Nam Việt Nam cương quyết đánh đuổi đế quốc Mỹ để giải phóng miền Nam, thực hiện một miền Nam Việt Nam độc lập, dân chủ, hoà bình và trung lập, tiến tới thống nhất đất nước.

3. Nhân dân miền Nam Việt Nam và Quân giải phóng miền Nam quyết hoàn thành đầy đủ nhất nghĩa vụ thiêng liêng của mình là đánh đuổi đế quốc Mỹ để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc.

4. Nhân dân miền Nam Việt Nam tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân yêu chuộng hoà bình và công lý trên toàn thế giới và ra tuyên bố sẵn sàng tiếp nhận mọi sự giúp đỡ, kể cả vũ khí và mọi dụng cụ chiến tranh của bạn bè khắp năm châu.

5. Toàn dân đoàn kết, toàn dân vũ trang, tiếp tục chiến đấu, quyết chiến quyết thắng quân Mỹ xâm lược. Tr.268.

44. Phong trào thanh niên “Ba sẵn sàng”: Phong trào cách mạng của thanh niên hưởng ứng lời kêu gọi chống Mỹ, cứu nước của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh, do Trung ương Đoàn phát động từ tháng 2-1965 với nội dung:

1. Thanh niên sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu dũng cảm và sẵn sàng gia nhập các lực lượng vũ trang.

2. Thanh niên khắc phục khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, học tập trong bất kỳ tình huống nào.

3. Thanh niên sẵn sàng đi bất cứ nơi nào, làm bất cứ việc gì mà Tổ quốc cần đến.

Trong một thời gian ngắn, hàng triệu thanh niên đã hăng hái tham gia phong trào “Ba sẵn sàng”, quyết tâm đi đầu trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đến cuối tháng 5-1965 đã có 2,5 triệu đoàn viên và thanh niên ghi tên tình nguyện thực hiện “Ba sẵn sàng”.Tr.268.

45. Phong trào phụ nữ “Ba đảm đang”: Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 15 Ngày toàn quốc chống Mỹ (19-3-1950 – 19-3-1965), ngày 18-3-1965, Ban Chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam kêu gọi phụ nữ toàn quốc thi đua với phụ nữ miền Nam, quyết tâm đánh thắng quân Mỹ xâm lược. Nhân dịp này, Ban Chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phát động phong trào “Ba đảm đang” trong phụ nữ với nội dung:

1. Phụ nữ đảm đang sản xuất và công tác, thay thế cho chồng, con đi chiến đấu.

2. Phụ nữ đảm đang việc gia đình cho chồng, con, anh em tòng quân và phục vụ lâu dài trong quân đội.

3. Phụ nữ đảm đang phục vụ chiến đấu, tham gia dân quân tự vệ, tập luyện quân sự để sẵn sàng chiến đấu, phục vụ bộ đội, công an, dân quân tự vệ khi chiến đấu. Tr.268.

46. Đại hội thi đua “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” của các lực lượng vũ trang  nhân dân: Họp ngày 7-8-1965, tại Hà Nội. Tại Đại hội này, 367 đơn vị quân đội, công an vũ trang và dân quân tự vệ toàn miền Bắc đã được tặng danh hiệu “Đơn vị quyết thắng“. Đây là đại hội đầu tiên của các đơn vị anh hùng chống Mỹ, cứu nước. Tr.280.

47. Tổ chức thống nhất châu Phi (OAU): Tổ chức kinh tế – chính trị của các nước độc lập ở châu Phi, thành lập ngày 25-5-1963 (ngày ký kết Điều lệ) trong Hội nghị lần thứ ba của những vị đứng đầu nhà nước và chính phủ của 30 nước châu Phi độc lập được tiến hành ở Ađi Abêba (thủ đô Êtiôpia). Đến năm 1981 đã có hơn 50 nước tham gia tổ chức này. Mục tiêu của tổ chức là thúc đẩy việc củng cố sự thống nhất và đoàn kết các nước châu Phi; phối hợp và phát triển sự hợp tác giữa các nước châu Phi; thống nhất những nỗ lực của các nước đó nhằm đảm bảo những điều kiện tối ưu cho các dân tộc châu Phi; bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền và độc lập; đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới; phát triển sự hợp tác quốc tế trên cơ sở Hiến chương Liên hợp quốc và Tuyên ngôn về các quyền con người.

Thành viên của tổ chức này gồm tất cả các nước độc lập có chủ quyền ở châu Phi. Việc kết nạp thành viên mới được quyết định theo đa số phiếu thông thường. Tr.306.

48. Trận Vạn Tường: Trận đọ sức quyết liệt đầu tiên giữa chủ lực Quân giải phóng với quân viễn chinh Mỹ tại thôn Vạn Tường, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi, từ ngày 18 đến ngày 20-5-1965. Sau hai ngày chiến đấu ác liệt, Quân giải phóng đã tiêu diệt 919 quân Mỹ, phá huỷ 22 xe bọc thép, bắn rơi 13 máy bay.

Nếu trận Ấp Bắc đã mở đầu cao trào diệt quân nguỵ được Mỹ tổ chức huấn luyện, trang bị và chỉ huy thì trận Vạn Tường mở đầu cho cao trào diệt quân Mỹ xâm lược. Trận Vạn Tường cũng chứng tỏ rằng quân và dân ta ở miền Nam hoàn toàn có khả năng thắng Mỹ về quân sự trong “chiến tranh cục bộ”. Tr.332.

49. Chiến thắng Plâyme: Suốt 38 ngày đêm (từ 10-10 đến 18-11-1965), Quân giải phóng miền Nam đã liên tục tấn công địch, ở Plâyme, một làng nhỏ thuộc tỉnh Gia Lai. Trong chiến dịch này, Quân giải phóng đã tiêu diệt 3.000 quân địch, trong đó có 1.700 quân Mỹ; một tiểu đoàn Mỹ và hai tiểu đoàn nguỵ bị diệt gọn, 88 xe quân sự bị phá huỷ, 44 máy bay bị bắn rơi. Uy thế sư đoàn “kỵ binh bay”của Mỹ bị chôn vùi sau cuộc xuất quân đầu tiên. Tr.332.

50. Chiến thắng Bầu Bàng: Một trong những chiến thắng lớn nhất của quân và dân ta trong chiến dịch Dầu Tiếng. Bầu Bàng là một địa phương của Thủ Dầu Một (nay thuộc tỉnh Bình Dương). Địch tập trung ở đây một lữ đoàn bộ binh Mỹ, hai tiểu đoàn xe tăng và M.113, một đại đội pháo binh. 5 giờ sáng ngày 12-11-1965, Quân giải phóng bất ngờ tiến công vào sở chỉ huy, sở liên lạc và khu pháo binh địch ở Bầu Bàng. Sau ba giờ chiến đấu dũng cảm và ác liệt, Quân giải phóng đã tiêu diệt gọn hai tiểu đoàn bộ binh, một đại đội pháo, hai chi đoàn xe bọc thép, giết và làm bị thương hơn 2.000 quân Mỹ, phá huỷ 40 xe tăng, bắn rơi hai máy bay địch.

Trận Bầu Bàng là trận tiêu diệt một lực lượng quân Mỹ lớn nhất, diệt gọn nhiều tiểu đoàn quân Mỹ từ khi chúng vào miền Nam Việt Nam (đến tháng 11-1965). Tr.332.

51. Chiến thắng Dầu Tiếng: Trong ba ngày 20, 21 và 27-11-1965, Quân giải phóng đã tiến công địch ở Dầu Tiếng, Thủ Dầu Một (nay thuộc tỉnh Bình Dương) và đại thắng. Trận thứ nhất: trận Câm Xe (20-11), diệt 500 quân Mỹ, phá huỷ 40 xe M.113. Trận thứ hai: đêm 21-11, tập kích quân nguỵ đóng ở đồn điền cao su Misơlanh, diệt gọn một tiểu đoàn. Trận thứ ba: sáng ngày 27-11, tập kích sở chỉ huy trung đoàn 7 sư đoàn 5 nguỵ và hai tiểu đoàn còn lại của trung đoàn này đóng ở làng 14 trong đồn điền cao su Misơlanh, giết và bắt hơn 700 địch.Tr.332.

52. Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa III: Họp từ ngày 21 – 27-12-1965 để nhận định tình hình cách mạng Việt Nam, đề ra chủ trương, đường lối mới trong điều kiện đế quốc Mỹ leo thang trong “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam, tăng cường ném bom bắn phá miền Bắc. Nghị quyết Hội nghị chỉ rõ tính chất cơ bản của chiến tranh xâm lược miền Nam là cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới, với hai lực lượng là quân viễn chinh Mỹ cùng lực lượng ngụy quân, ngụy quyền. Trên cơ sở phân tích những mặt mạnh, mặt yếu của đế quốc Mỹ và tay sai, Hội nghị nêu rõ nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc ta, của nhân dân ta từ Nam chí Bắc. Hội nghị quyết định chuyển toàn bộ hoạt động các mặt trên miền Bắc vào thời kỳ có chiến tranh. Nhiệm vụ của nhân dân miền Bắc là vừa sản xuất, vừa chiến đấu, chi viện cao nhất cho miền Nam và làm tròn nhiệm vụ quốc tế; tích cực chuẩn bị đánh địch nếu chúng mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả nước. Nhiệm vụ của nhân dân miền Nam là kiên quyết chiến đấu tiêu diệt đế quốc Mỹ và tay sai để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất Tổ quốc.

Hội nghị khẳng định: Mặc dầu đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn tên lính viễn chinh, nhưng lực lượng so sánh giữa ta và địch vẫn không có thay đổi lớn. Thắng lợi cuối cùng nhất định sẽ thuộc về dân tộc ta. Tr.334.

53. Hội nghị trí thức Việt Nam chống Mỹ, cứu nước: Do ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam triệu tập được tiến hành tại Hà Nội từ ngày 4 đến ngày 6-1-1966. 650 đại biểu đại diện cho giới trí thức cách mạng trên các mặt trận sản xuất và chiến đấu đã biểu thị cho ý chí quyết tâm mang hết trí tuệ, tài năng cống hiến cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Hội nghị quyết định phát động phong trào “Ba quyết tâm” trong giới trí thức với nội dung:

1- Quyết tâm phục vụ sản xuất và chiến đấu.

2- Quyết tâm đẩy mạnh cách mạng khoa học – kỹ thuật, cách mạng văn hóa – tư tưởng.

3- Quyết tâm xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa. Tr.351.

54. Liên hợp quốc: Tổ chức quốc tế được thành lập theo quyết định của Hội nghị Xan Phranxixcô (Mỹ) diễn ra từ ngày 25-4 đến ngày 26-6-1945 trên cơ sở liên minh tự nguyện của các nước có chủ quyền, nhằm giữ gìn hoà bình và phát triển sự hợp tác giữa các nước.

Theo Hiến chương Liên hợp quốc, nhiệm vụ của Liên hợp quốc là gìn giữ hoà bình và an ninh bằng cách áp dụng những biện pháp chung chống lại những hành động xâm lược; phát triển quan hệ thân thiện giữa các dân tộc và thực hiện sự hợp tác nhằm giải quyết những vấn đề quốc tế có tính chất kinh tế, xã hội, văn hoá, nhân đạo cũng như phát triển sự tôn trọng nhân quyền và quyền tự do căn bản của con người, không phân biệt chủng tộc, nam nữ, tiếng nói và tín ngưỡng. Liên hợp quốc thành lập theo nguyên tắc bình đẳng đối với tất cả mọi hội viên và không can thiệp vào công việc nội bộ của bất cứ nước nào. Tr.357.

55. Kỳ họp thứ ba của Quốc hội khóa III: Kỳ họp diễn ra từ ngày 16 đến ngày 22-4-1966 tại Hà Nội. Kỳ họp đã tổng kết và biểu dương những thành tích của quân và dân cả nước trong một năm chống Mỹ, cứu nước; thông qua một số nghị quyết quan trọng và bản Tuyên bố của Quốc hội kêu gọi quân và dân ta đẩy mạnh sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến toàn thắng, kêu gọi nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới đẩy mạnh phong trào giúp đỡ và ủng hộ Việt Nam, kêu gọi nhân dân tiến bộ Mỹ tăng cường cuộc đấu tranh đòi giới cầm quyền Mỹ chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược ở miền Nam và cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc Việt Nam. Tr.395.

56. Cuộc chiến tranh của đế quốc Mỹ xâm lược Triều Tiên (1950-1953): Ngày 25-6-1950, được đế quốc Mỹ giúp sức, quân đội của chính quyền thân Mỹ ở Nam Triều Tiên vượt vĩ tuyến 38 thâm nhập và tấn công nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Lực lượng được họ huy động gồm tám sư đoàn với hơn 100.000 quân được Mỹ trang bị hiện đại và làm hậu thuẫn. Các lực lượng vũ trang Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên đã chặn đứng được đợt đột kích này và nhanh chóng chuyển sang tiến công. Sau một số chiến dịch, quân đội Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên chiếm phần lớn lãnh thổ Nam Triều Tiên. Để cứu nguy, tập đoàn quân thứ 8 của Mỹ (gồm lực lượng của 15 nước, dưới chiêu bài “quân đội Liên hợp quốc”) và quân đội Nam Triều Tiên tiến công chiếm lại Xơun (ngày 16-9-1950); ngày 23-10, họ đánh chiếm Bình Nhưỡng, sau đó tiến quân tới sát biên giới Trung Quốc.

Trong tình hình đó, Chính phủ Trung Quốc quyết định gửi quân chí nguyện sang giúp cuộc chiến tranh giải phóng của nhân dân Triều Tiên, đẩy lui sự tiến công của liên quân Mỹ và các nước thân Mỹ. Tháng 11-1951, mặt trận ổn định ở vĩ tuyến 38 và hai bên bắt đầu thương lượng hòa bình. Cuộc chiến tranh kết thúc ngày 27-7-1953 bằng sự kiện ký kết bản Hiệp định đình chiến ở Bàn Môn Điếm. Tr.400.

57. Chiến tranh cục bộ: Là một trong những loại hình chiến tranh nằm trong chiến lược quân sự “phản ứng linh hoạt” và chiến lược toàn cầu của đế quốc Mỹ, được triển khai và áp dụng trong cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam từ năm 1965 đến năm 1968.

Thực hiện cuộc chiến tranh này, đế quốc Mỹ đã ồ ạt đưa quân viễn chinh vào miền Nam (số quân cao nhất lên tới hơn 52 vạn), cùng với quân đội nguỵ mở hàng loạt chiến dịch hành quân “tìm diệt”; đồng thời ném bom bắn phá rất ác liệt miền Bắc, nhằm ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc đối với miền Nam. Phương tiện chiến tranh, vũ khí, kỹ thuật được họ huy động lên mức rất cao, nhưng họ đã phải chịu thất bại rất nặng nề trên chiến trường miền Nam cũng như chiến trường toàn Đông Dương. Đặc biệt là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân (1968) trên chiến trường miền Nam đã làm rung chuyển nước Mỹ, là đòn bất ngờ và mạnh mẽ đánh dấu sự phá sản của chiến lược “Chiến tranh cục bộ”. Ngày 31-3-1968, Tổng thống Mỹ buộc phải tuyên bố hạn chế hoạt động quân sự của Mỹ và ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra.

Những quyết định đó của Tổng thống Mỹ đã chính thức thừa nhận sự phá sản của “Chiến tranh cục bộ”. Tr.439.

58. Thất bại của Mỹ trong mùa khô 1965-1966: Cuối năm 1965, khi đã tăng quân trên chiến trường miền Nam lên 72 vạn (trong đó có 20 vạn lính Mỹ và chư hầu) cùng nhiều phương tiện chiến tranh hiện đại, đế quốc Mỹ tiến hành cuộc phản công chiến lược nhằm tiêu diệt các lực lượng chủ lực của ta để giành thế chủ động trên chiến trường.

Từ tháng 1 đến tháng 4-1966, chúng mở 450 cuộc hành quân lớn nhỏ, tập trung càn quét vùng đồng bằng Khu V và miền Đông Nam Bộ. Cùng với việc đánh trả các cuộc hành quân càn quét của địch, các lực lượng vũ trang của ta còn tiến hành tập kích vào nhiều căn cứ, hậu phương của địch, gây cho chúng những tổn thất nặng nề. Kết quả trong mùa khô 1965-1966, quân và dân miền Nam đã loại khỏi vòng chiến 104.000 quân địch (có 46.000 Mỹ và chư hầu); bắn rơi và phá huỷ 1.430 máy bay, 600 xe tăng và xe thiết giáp, 80 khẩu pháo lớn, 1.310 ô tô, 27 tàu xuồng các loại. Tr.475.

59. Hiệp ước Vácsava: Hiệp ước hữu nghị, hợp tác và tương trợ giữa các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Âu được ký kết ngày 14-5-1955, tại Vácsava (Ba Lan). Tham gia Hiệp ước có các nước: Ba Lan, Bungari, Hunggari, Rumani, Tiệp Khắc, Cộng hòa Dân chủ Đức, Anbani và Liên Xô. Mục đích của việc ký hiệp ước là để đối phó lại việc Mỹ và các nước khối NATO tái vũ trang Cộng hòa Liên bang Đức và đưa nước này gia nhập NATO. Hiệp ước quy định các biện pháp cần thiết để đảm bảo an ninh cho các nước thành viên, không đe doạ tấn công xâm lược nước nào.

Năm 1962, Anbani tự tuyên bố rút khỏi Hiệp ước và ngày 1-7-1991, do những biến động chính trị ở Liên Xô và sự tan vỡ hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, các nước thành viên đã ký nghị định thư chấm dứt hiệu lực của Hiệp ước Vácsava. Tr.482.

60. Toà án quốc tế Béctơrăng Rútxen: Toà án quốc tế xét xử tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ ở Việt Nam, thành lập ngày 15-11-1966, theo sáng kiến và mang tên của nhà bác học Anh Béctơrăng Rútxen. Toà án đã có kỳ họp chính thức thứ nhất từ ngày 2 đến ngày 13-5-1967, tại Xtốckhôm (Thuỵ Điển) và kỳ họp thứ hai từ ngày 20-11 đến ngày 1-12-1967, tại Côpenhaghen (Đan Mạch). Với các bằng chứng thực tế, Toà án Béctơrăng Rútxen kết luận giới cầm quyền Mỹ là thủ phạm chính và chính giới một số nước đồng loã đã phạm những tội ác man rợ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, vi phạm nhiều điều mà luật pháp quốc tế đã ngăn cấm.

Toà án Béctơrăng Rútxen không quy định những hình phạt cụ thể vì nó không đại diện cho một nhà nước cụ thể nào. Nhưng kết luận của Tòa án là một bản án có ý nghĩa về mặt chính trị, tinh thần và có ảnh hưởng rộng rãi trong việc thức tỉnh lương tri của nhân loại tiến bộ đấu tranh chống lại những tội ác của đế quốc Mỹ ở Việt Nam. Tr.484.

BẢN CHỈ DẪN TÊN NGƯỜI

A

AIXENHAO, Đ. Đ. (1890-1969): Nhà hoạt động chính trị và quân sự Mỹ; Tổng tư lệnh lực lượng Đồng minh ở Bắc Phi từ 1942-1943, ở châu Âu từ 1944-1945; Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang Khối quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO) từ 1950-1952; Tổng thống Mỹ từ 1953-1960.

Aixenhao là người chủ trương xây dựng chế độ thực dân mới và đã bị phá sản trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam những năm 1955-1960.

B

BEN BENLA, A. sinh năm 1916: Nhà hoạt động chính trị Angiêri; một trong những người tham gia lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang năm 1954; Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang Angiêri từ 1963-1965.

BỚCSÉT, U. (1911-1984): Nhà báo nổi tiếng người Ôxtrâylia, là nhà báo nước ngoài đầu tiên đến Hirôsima (Nhật Bản) ngay sau khi Mỹ ném bom nguyên tử xuống thành phố này. Năm 1954, đến Việt Bắc (Việt Nam) để tìm hiểu và lấy tư liệu viết về chiến dịch Điện Biên Phủ. Bớcsét có mặt ở Hà Nội trong ngày giải phóng và có mặt ở Hải Phòng trong ngày quân đội viễn chinh Pháp rút khỏi miền Bắc Việt Nam. Khi Mỹ mở rộng chiến tranh ở Việt Nam, Bớcsét có mặt ở nhiều vùng giải phóng miền Nam; nhiều lần ra chiến trường để tìm hiểu cuộc chiến đấu của nhân dân ta. Trong công việc, Bớcsét đã nhiều lần được gặp  Chủ tịch Hồ Chí Minh.

BRÊGIƠNÉP, L. I. (1906-1982): Nhà hoạt động chính trị Xô viết; đảng viên Đảng Cộng sản (b) Liên Xô năm 1931; ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô từ 1952; ủy viên dự khuyết Đoàn Chủ tịch Trung ương Đảng từ 1956; ủy viên chính thức từ 1957; Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xôviết tối cao Liên Xô những năm 1960-1964, 1970-1982; Tổng Bí thư Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô từ 1964-1982.

Trong những năm giữ cương vị lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước Liên Xô, Brêgiơnép đã nhiệt tình ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ và công cuộc xây dựng đất nước của nhân dân ta. Đồng chí nói: Đoàn kết với Việt Nam là mệnh lệnh của trái tim những người cộng sản Xô viết. Brêgiơnép được Nhà nước ta tặng thưởng Huân chương Sao vàng.

BUMÊĐIÊN, H. (1925-1978): Nhà hoạt động chính trị, quân sự Angiêri; năm  1955, tham gia đấu tranh vũ trang chống thực dân Pháp; năm 1958, là Tham mưu trưởng lực lượng vũ trang tỉnh Oran; năm 1960-1962, là ủy viên Hội đồng quân sự và Tổng Tham mưu trưởng quân đội giải phóng. Năm 1963-1965, là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Từ ngày 19-6-1965, được bầu làm Chủ tịch Hội đồng cách mạng và từ ngày 10-7-1965, được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Angiêri dân chủ và nhân dân.

C

CAĐA, I. (1912-1989): Nhà hoạt động chính trị Hunggari; đảng viên Đảng Cộng sản Hunggari từ 1931; ủy viên Trung ương Đảng từ 1942; ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng từ 1943; Phó Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ 1946; Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa Hunggari từ 1957; Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng từ 1961; từ 1965, là ủy viên Đoàn Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Hunggari.

CAXTƠRÔ, PH. sinh năm 1926: Luật sư, nhà hoạt động chính trị Cuba; Năm 1952, là một trong những người lãnh đạo phong trào đấu tranh bí mật chống chế độ độc tài thân Mỹ ở Cuba. Năm 1956, dẫn đầu 80 thanh niên yêu nước đổ bộ vào miền Nam tỉnh Ôriêngtê và lập căn cứ cách mạng trong miền rừng núi Xiera Maestơra. Từ sau ngày cách mạng thành công (1959), được bầu giữ nhiều chức vụ quan trọng: Tổng Tư lệnh lực lượng vũ trang, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Thủ tướng Chính phủ (sau là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng) nước Cộng hòa Cuba.

CÂYTA, M. (1915-1977): Nhà hoạt động chính trị Mali. Năm 1945, tham gia sáng lập Đảng Liên minh Xuđăng; năm 1948, là Nghị sĩ Viện dân biểu địa phương Xuđăng; năm 1956, là đại biểu của Xuđăng trong Quốc hội Pháp; năm 1958, là Tổng Bí thư Đảng Liên minh Xuđăng; năm 1959, tham gia thành lập Liên bang Mali; từ năm 1960, là Tổng thống nước Cộng hòa Mali.

CHU ÂN LAI (1898-1976): Nhà hoạt động chính trị Trung Quốc. Từ 1917-1919, học tại Nhật; từ 1920-1924, học tại Pháp và cùng một số thanh niên Trung Quốc thành lập nhóm mácxít tại Pari, sau đó gia nhập Đảng Cộng sản Pháp. Chu Ân Lai về nước năm 1924 và được cử làm Chủ nhiệm Cục Chính trị, Học viện quân sự Hoàng Phố; năm 1927, tham gia lãnh đạo khởi nghĩa Nam Xương và được cử làm ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc; năm 1928, là Ủy viên Bộ Chính trị; từ 1949, được bầu làm Thủ tướng Quốc vụ viện nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Phó Chủ tịch Hội nghị Chính trị hiệp thương, Phó Chủ tịch Hội đồng quân sự nhân dân cách mạng; từ năm 1956, là Phó Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

CHU ĐỨC (1886-1976): Nhà hoạt động chính trị Trung Quốc; Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội Trung Quốc; tham gia Cách mạng Tân Hợi năm 1911. Năm 1922-1925, học ở Đức và gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc ở Đức; năm 1927, là ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc; ủy viên chính thức năm 1930, ủy viên Bộ Chính trị năm 1931; Tổng chỉ huy Hồng quân Trung Quốc năm 1931; cùng Mao Trạch Đông chỉ huy Vạn lý trường chinh và cuộc tấn công Tây Bắc năm 1934-1936; chỉ huy Quân đoàn 8 năm 1937; năm 1945-1956, là Tổng Tham mưu trưởng Quân giải phóng Trung Quốc; được phong quân hàm Nguyên soái năm 1955; từ 1949-1954, được bầu làm Phó Thủ tướng; từ 1954 là Phó Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa; từ 1956, là Phó Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc. Từ năm 1959, được bầu làm Ủy viên trưởng Uỷ ban Thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc các khoá II, III, IV.

CÔXƯGHIN, A. N. (1904-1980): Nhà hoạt động chính trị Xôviết; năm 1939-1940, là Ủy viên nhân dân Công nghiệp dệt; những năm 1940-1946, là Phó Chủ tịch Hội đồng ủy viên Nhân dân; những năm 1946-1953, là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô; từ tháng 3-1946, là Ủy viên dự khuyết và từ năm 1948 đến năm 1952 là Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô; năm 1957, được bầu làm Ủy viên dự khuyết Đoàn Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, đại biểu Xôviết tối cao Liên Xô từ khóa II đến khóa X, là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô từ năm 1964 đến năm 1980.

D

DAVÁTXKI, A. (1899-1964): Nhà hoạt động chính trị Ba Lan. Trong thời gian Chiến tranh  thế giới thứ hai là Tổng Tham mưu trưởng quân du kích Ba Lan, Phó Tư lệnh quân đội Ba Lan ở Liên Xô; sau chiến tranh, hoạt động trong phong trào công đoàn; năm 1952, được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Ba Lan. Tại Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương (10-1956), được bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Công nhân thống nhất Ba Lan.

DIỆP KIẾM ANH (1897-1986): Nhà hoạt động chính trị Trung Quốc; tham gia khởi nghĩa Nam Xương (1-8-1927); Giám đốc Trường Hồng  quân ở Giang Tây và tham gia cuộc Vạn lý trường chinh. Trong thời gian chiến tranh chống Nhật, vừa làm sĩ quan liên lạc của Đảng Cộng sản với Chính phủ Quốc dân Đảng, vừa làm Tham mưu trưởng của Bát lộ quân. Năm 1946, đứng đầu bộ phận cộng sản trong Bộ Chỉ huy thường trực ở Bắc Kinh để giám sát cuộc ngừng bắn. Khi cuộc ngừng bắn tan vỡ, Diệp Kiếm Anh trở về quân đội với chức vụ Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân giải phóng nhân dân; năm 1955, được phong quân hàm Nguyên soái, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Chủ tịch rồi Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Đ

ĐẶNG TIỂU BÌNH: (1904-1997); Nhà hoạt động chính trị Trung Quốc; thời trẻ đã từng du học tại Pháp, năm 1924 là đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc. Sau khi về nước hoạt động; tham gia Vạn lý trường chinh; là Chính ủy của Quân dã chiến thứ hai trong nội chiến; năm 1952, tại Đại hội VII được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc; năm 1952, là Phó Thủ tướng Chính phủ; năm 1955 là Ủy viên Bộ Chính trị, từ năm 1956 là Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị và là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Bị thanh trừng trong cách mạng văn hóa; năm 1973, được phục hồi chức vụ và lại bị mất chức vào năm 1976; từ năm 1978, là “kiến trúc sư” trong công cuộc cải cách và mở cửa của Trung Quốc.

ĐẶNG TÍNH (1920-1973): Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam; tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1944; Từ 1963 đến năm 1970, là Chính uỷ, Bí thư Đảng uỷ Quân chủng Phòng không-Không quân. Từ năm 1971, là Chính uỷ Bộ Tư lệnh Đoàn 559; đại biểu Quốc hội khóa III và IV. Hy sinh trên đường Trường Sơn năm 1973.

ĐOÓCTICỐT TÔRAĐÔ, Ô. (1919-1983): Nhà hoạt động chính trị Cuba; từ năm 1952 đến năm 1958, là một trong những người lãnh đạo phong trào kháng chiến nhân dân; năm 1958, là Chủ nhiệm Hội đồng Luật gia Cuba; năm 1959, được bầu làm Tổng thống nước Cộng hòa Cuba; năm 1962, được bầu làm Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Cuba và Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng từ năm 1965.

ĐÔBI, I. (1989-1968): Nhà hoạt động chính trị Hunggari; Chủ tịch Đảng những người tiểu nông từ năm 1947; Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng từ năm 1948; Chủ tịch Đoàn Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Hunggari từ năm 1952; Ủy viên Đoàn Chủ tịch Đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa Hunggari từ năm 1959.

ĐỖ MƯỜI (sinh năm 1917): Nhà hoạt động chính trị, quê huyện Thanh Trì, Hà Nội. Đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1939; Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ năm 1955, Ủy viên chính thức năm 1960; Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam những năm 1987-1991; Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1991 đến năm 1997; từ năm 1997 đến năm 2001, là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

ĐỔNG TẤT VŨ (1885-1975): Nhà hoạt động chính trị Trung Quốc; là một trong những người tham gia Đại hội toàn quốc lần thứ nhất Đảng Cộng sản Trung Quốc; nhiều năm tham gia công tác lãnh đạo Đảng ở Giang Tây, trong cuộc Vạn lý trường chinh, tại căn cứ địa Diên An và tại Bắc Kinh; năm 1949, là Chủ tịch Ủy ban công tác chính trị và luật pháp của Chính phủ; năm 1953, là thành viên của Ban dự thảo Hiến pháp toàn quốc; năm 1959, được bầu làm Phó Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

ĐỜ GÔN, S. (1890-1970): Nhà hoạt động chính trị và quân sự Pháp; lãnh đạo phong trào kháng chiến Pháp chống chủ nghĩa phát xít trong chiến tranh thế giới thứ hai; đứng đầu Chính phủ lâm thời Pháp năm 1944-1946; rút khỏi chính trường năm 1946; được bầu làm Tổng thống năm 1959; từ chức năm 1969. Khi Mỹ mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Đờ Gôn đã chủ trương giải quyết cuộc chiến tranh bằng thương lượng, đàm phán.

G

GĂNGĐI, I. (1917-1984): Nhà hoạt động chính trị Ấn Độ; Ủy viên Thường trực Đảng Quốc đại từ năm 1955, Chủ tịch Đảng từ năm 1959; Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thanh từ năm 1964; Thủ tướng Chính phủ những năm 1966-1977, 1980-1984; bị sát hại năm 1984. I. Găngđi là lãnh tụ xuất sắc của Phong trào Không liên kết.

GHÊOÓGHIU ĐÊ, G. (1901-1965): Nhà hoạt động chính trị Rumani; năm 1930, gia nhập Đảng Cộng sản; năm 1932, được bầu làm Bí thư Ủy ban hành động trung ương của công nhân đường sắt; năm 1933, bị kết án 12 năm tù khổ sai; trong thời gian ở tù được bổ sung vắng mặt vào Trung ương.

Sau khi đất nước giải phóng, được cử giữ các chức vụ: Bộ trưởng Giao thông 1945 – 1946, Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng (từ 1948), Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng những năm 1952-1955, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản tháng 10-1945; từ năm 1948, sau khi thống nhất Đảng Cộng sản với Đảng Xã hội dân chủ, giữ chức Tổng Bí thư và từ tháng 10-1955, là Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Công nhân Rumani.

GHÊOÓCGƠ, M. (1902-2000): Tiến sĩ luật, nhà hoạt động chính trị Rumani; năm 1936, gia nhập Đảng Cộng sản Rumani; năm 1945, là Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Rumani; năm 1957-1958, là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao; Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Quốc hội những năm 1958-1961; Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng những năm 1960-1972; Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng năm 1961-1962; từ năm 1972, là Cố vấn cao cấp của Trung ương Đảng và Chính phủ Rumani.

GIÔNXƠN, L. B. (1908-1973): Nhà hoạt động chính trị Mỹ; sinh tại bang Tếchdát, được bầu vào Hạ nghị viện năm 1939 và Thượng nghị viện năm 1948; thủ lĩnh Đảng Dân chủ những năm 1953-1960; Phó Tổng thống những năm 1960-1963; Tổng thống những năm 1963-1968. Tháng 1-1969, trở về sống tại bang Tếchdát.

Giônxơn là người chủ trương đổ quân Mỹ ồ ạt vào miền Nam và tăng cường đánh phá miền Bắc Việt Nam bằng không quân và hải quân nhưng đều bị phá sản.

GÍPCỐP, T. (1911-1998): Nhà hoạt động chính trị Bungari; gia nhập Đảng Cộng sản năm 1932; năm 1945, được bầu làm Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng Cộng sản Bungari; Bí thư thứ nhất Đảng bộ Xôphia năm 1948-1949; năm 1951, được bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng; năm 1954, là Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Bungari; những năm 1962-1971, là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; từ năm 1972, là Chủ tịch Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa Nhân dân Bungari cho đến năm 1990. 

GÔMUNCA, V. (1905-1982): Nhà hoạt động chính trị Ba Lan; năm 1962, gia nhập Đảng Cộng sản; năm 1932, bị bắt giam vì hoạt động chính trị; năm 1939, sang Liên Xô; năm 1942, về nước và tham gia hoạt động chống phát xít, thành lập Đảng Công nhân; năm 1942, được bầu làm Ủy viên Trung ương Đảng Công nhân Ba Lan; những năm 1943-1948, là Tổng Bí thư Đảng Công nhân. Sau khi thành lập Đảng Công nhân thống nhất Ba Lan (1948), được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng; từ năm 1956 đến năm 1970, là Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Công nhân thống nhất Ba Lan.

GRỐTTƠVÔN, Ô. (1894-1964): Nhà hoạt động chính trị Cộng hòa Dân chủ Đức; tham gia tổ chức phái tả của Đảng Xã hội dân chủ, tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít; giữ nhiều cương vị quan trọng: cùng với Vinhem Pích là đồng Chủ tịch Đảng Xã hội thống nhất Đức (4-1946); Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Hội đồng nhân dân Đức và Chủ tịch Hội đồng lập hiến (1948-1949). Từ ngày thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Đức (10-1949), là Thủ tướng Chính phủ.

H

HAI BÀ TRƯNG (Trưng Trắc và Trưng Nhị): Anh hùng dân tộc, lãnh tụ cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta chống ách thống trị của phong kiến phương Bắc vào những năm 40-43.

Dưới sự lãnh đạo của Hai Bà Trưng, nhân dân ta đã giành lại nền độc lập từ tay nhà Hán, Trưng Trắc được tôn là vua (gọi là Trưng Vương) đóng đô ở Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc.

Sau hai năm giành độc lập, nhà Hán lại đem quân sang xâm lược nước ta. Hai Bà Trưng đã lãnh đạo nhân dân chiến đấu gần một năm chống giặc. Hai Bà đã hy sinh anh dũng trong cuộc chiến đấu ở sông Hát vào tháng 5-43.

HÁTGI, L. (sinh năm 1913): Nhà hoạt động chính trị Anbani; tháng 4-1943, gia nhập Đảng Cộng sản Anbani; tháng 5-1944, tham gia Đại hội thành lập Uỷ ban Giải phóng dân tộc chống phát xít (tức Chính phủ Dân chủ nhân dân lâm thời Anbani) và được cử làm Bộ trưởng Nội vụ. Sau ngày giải phóng (11-1944), tiếp tục phụ trách Bộ Nội vụ, được phong quân hàm cấp tướng rồi chuyển sang công tác tại Bộ Quốc phòng; những năm 1953-1982, là Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Quốc hội Anbani.

HÍTLE, A. (1889-1945): Cầm đầu Đảng Quốc xã Đức (đảng phát xít), Quốc trưởng, Tổng Tư lệnh các lực lượng vũ trang của nước Đức phát xít.

Năm 1920, Hítle tổ chức ra Đảng Quốc xã; năm 1933, lên cầm quyền và thiết lập chế độ độc tài khủng bố ở Đức; năm 1939, gây ra Chiến tranh thế giới thứ hai; năm 1945, trước thắng lợi của Liên Xô và các nước Đồng minh chống chủ nghĩa phát xít, Hítle đã tự sát.

HOÀNG QUỐC VIỆT (1905-1992): Nhà hoạt động chính trị; tên thật là Hạ Bá Cang; quê tỉnh Bắc Ninh. Năm 1925, tham gia hoạt động cách mạng; từ 1928, gia nhập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên; năm 1930, Uỷ viên Trung ương lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam; từ năm 1937, Uỷ viên Ban Thường vụ Xứ uỷ Bắc Kỳ; từ năm 1941, Uỷ viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng; từ năm 1951, Uỷ viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Chủ tịch Tổng Công đoàn Lao động Việt Nam; từ năm 1960, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; từ năm 1977, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; được tặng thưởng Huân chương Sao vàng và nhiều phần thưởng cao quý khác.

HOÀNG VĂN THỤ (1909-1944): Nhà hoạt động chính trị, người dân tộc Tày, sinh ở Lạng Sơn. Năm 1925-1926, tham gia những hoạt động yêu nước trong phong trào học sinh ở Lạng Sơn; năm 1927, sang Trung Quốc hoạt động cách mạng và trở thành đảng viên lớp đầu tiên của đảng. Giữa những năm 30 thế kỷ XX, tham gia xây dựng cơ sở đảng và cách mạng tại các tỉnh miền núi Đông Bắc; Xứ uỷ viên Xứ uỷ Bắc Kỳ năm 1938; Bí thư Xứ uỷ năm 1939; Uỷ viên Trung ương Đảng năm 1940; tháng 5-1941, được bầu vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng; năm 1943, bị địch bắt và hy sinh tháng 5-1944.

HỐTGIA, Ă. (1908-1985): Nhà hoạt động chính trị Anbani; là một trong những người hoạt động tích cực cho việc thành lập Đảng Cộng sản Anbani (từ năm 1948 đổi tên là Đảng Lao động Anbani); tháng 5-1944, được bầu làm Chủ tịch Ủy ban giải phóng dân tộc (tháng 10-1944, uỷ ban này đổi thành Chính phủ lâm thời Anbani); từ tháng 3-1946, là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Anbani; từ năm 1948, đượcbầu làm Tổng Bí thư và từ 1954-1985, là Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Anbani.

K

KENƠĐI GI. (1917-1963): Nhà hoạt động chính trị Mỹ; xuất thân từ một gia đình triệu phú bang Matxasuxét; được bầu vào Thượng nghị viện năm 1952; năm 1960, trúng cử Tổng thống Mỹ, nhậm chức tháng 1-1961.

Năm 1961, Kenơđi triển khai chiến lược “chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam Việt Nam, dùng lực lượng quân nguỵ cộng với vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại của Mỹ và do Mỹ chỉ huy. Tháng 11-1963, Kenơđi bị ám sát.

KHỔNG TỬ (551-479 TTC): Tên Khâu, người nước Lỗ, sống vào đời nhà Chu thời Chiến quốc (Trung Quốc). Học rộng, tài cao, là người sáng lập ra đạo Khổng – một học thuyết có ảnh hưởng lớn nhất Trung Quốc. Đạo Khổng là nền tảng tư tưởng chính thống của chế độ phong kiến Trung Quốc và ảnh hưởng sâu rộng trong nhiều nước châu Á. Đạo Khổng coi trọng đạo đức tu thân, đề cao thuyết chính danh, phân định rạch ròi quan hệ vua – tôi, cha – con, chồng – vợ, không coi trọng phụ nữ và người lao động.

KHƠRÚTSỐP, N. X. (1894-1971): Nhà hoạt động chính trị Xô viết. Đảng viên Đảng Cộng sản (b) Nga năm 1918; Uỷ viên Trung ương Đảng Cộng sản  Liên Xô năm 1934; Uỷ viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng năm 1939; Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng năm 1953-1964; Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô năm 1958-1964.

KIM NHẬT THÀNH (1912-1994): Nhà hoạt động chính trị Triều Tiên; là người tổ chức và lãnh đạo phong trào chống Nhật ở Triều Tiên từ năm 1931 đến năm 1945; Tổng Bí thư Ủy ban Trung ương Đảng Lao động Triều Tiên từ năm 1946; Thủ tướng Chính phủ năm 1948; Chủ tịch nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên từ năm 1972.

L

LA VĂN CẦU: Anh hùng lực lượng vũ trang từ năm 1952; người dân tộc Tày, quê tỉnh Cao Bằng. Trong khi ôm bộc phá lao vào đánh đồn địch trong chiến dịch Biên giới năm 1950, bị thương, đã nhờ đồng đội chặt cánh tay bị thương để tiếp tục chiến đấu. Sau chiến dịch được tuyên dương là lá cờ đầu trong phong trào giết giặc lập công.

LÊ DUẨN (1907-1986): Nhà hoạt động chính trị, sinh tại tỉnh Quảng Trị; tham gia Tân Việt cách mạng Đảng và Hội Việt Nam cách mạng thanh niên năm 1928-1929; những năm 1931-1936, bị giam giữ tại các nhà tù đế quốc: Hoả Lò, Sơn La, Côn Đảo. Năm 1937, là Bí thư Xứ uỷ Trung kỳ; năm 1939, Ủy viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng; năm 1940, bị bắt và bị đầy đi Côn Đảo; năm 1946, phụ trách Bí thư Xứ uỷ Nam Bộ; năm 1947, được bầu làm Bí thư Xứ uỷ, sau đó là Bí thư Trung ương Cục miền Nam; năm 1951, được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được cử vào Bộ Chính trị. Tháng 9-1960, được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam; Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam những năm 1976-1986; là tác giả của nhiều công trình lý luận về cách mạng Việt Nam.

LÊ ĐỨC THỌ (1911-1990): Nhà hoạt động chính trị; sinh tại tỉnh Nam Định, tên thật là Phan Đình Khải; gia nhập Đông Dương cộng sản Đảng năm 1929; bị giam giữ trong các nhà tù đế quốc ở Nam Định, Hoả Lò, Sơn La, Côn Đảo. Uỷ viên Trung ương Đảng năm 1944. Tại Hội nghị toàn quốc của Đảng tháng 8-1945 ở Tân Trào, được bầu làm Uỷ viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương; Uỷ viên Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam năm 1951; Uỷ viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng từ năm 1956; Trưởng Ban Tổ chức Trung ương năm 1960; Cố vấn đặc biệt Phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Hội nghị Pari về Việt Nam; tháng 4-1975, đại diện Bộ Chính trị Trung ương Đảng trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử; Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng những năm 1986-1990.

LÊ HỒNG PHONG (1902-1942): Nhà hoạt động chính trị, tên thật là Lê Huy Doãn, sinh ở tỉnh Nghệ An. Năm 1924, tham gia Tâm tâm xã-một tổ chức cách mạng của thanh niên Việt Nam yêu nước ở Trung Quốc; năm 1925, Lê Hồng Phong gia nhập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên; năm 1926, được cử sang Liên Xô học ở Trường đại học Phương Đông; năm 1934, phụ trách Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng; năm 1935-1936, là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng; Trưởng đoàn đại biểu của Đảng tham sự Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản (1935) và được bầu vào Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản. Tháng 7-1936, chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng họp ở Thượng Hải (Trung Quốc) để bàn về chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng, mở đầu thời kỳ Mặt trận Dân chủ (1936-1939); cuối năm 1937 về nước hoạt động; bị địch bắt ở Sài Gòn và từ trần tại nhà tù Côn Đảo tháng 9-1942.

LÊNA, GI.: Sinh năm 1923; nhà hoạt động chính trị Tiệp Khắc; sau khi đất nước được giải phóng (1945), được bầu làm Bí thư Đảng Cộng sản Slôvakia; những năm 1958-1962, là Bí thư Đảng Cộng sản Slôvakia; năm 1962-1963, là Chủ tịch Quốc hội Slôvakia. Từ năm 1958, là Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Tiệp Khắc; năm 1970, được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Slôvakia và là Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Tiệp Khắc; năm 1971, là Chủ tịch Mặt trận dân tộc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Slôvakia; từ năm 1989, là Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Tiệp Khắc, Thủ tướng nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc.

LÊNIN, V. I. (1870-1924): Lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên thế giới; người sáng lập Đảng Cộng sản Liên Xô, lãnh đạo Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi; sáng lập Nhà nước công nông đầu tiên trong lịch sử loài người; sáng lập Quốc tế Cộng sản.

Kế tục sự nghiệp của C. Mác và Ph. Ăngghen, Lênin đã đấu tranh kiên quyết để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác, phát triển thiên tài ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác, giải quyết đúng đắn những vấn đề về lý luận và thực tiễn cho cuộc cách mạng vô sản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Lênin đưa ra nhiều luận điểm quan trọng về phong trào đấu tranh của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc; trong bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa được trình bày tại Đại hội lần thứ II Quốc tế Cộng sản (1920), Lênin đã nêu ra những vấn đề cơ bản của phong trào giải phóng dân tộc. Luận cương của Lênin đã ảnh hưởng sâu sắc đến nhận thức tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc và góp phần quyết định làm chuyển biến tư tưởng của Người trong quá trình tìm đường cứu nước.

LÊ THANH NGHỊ (1911-1989): Nhà hoạt động chính trị; tham gia Hội Việt Nam cách mạng thanh niên năm 1928; đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930; bị giam giữ trong các nhà tù đế quốc những năm 1930-1936, 1940-1945; Uỷ viên Trung ương Đảng năm 1951-1986; Uỷ viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng năm 1956-1981; nhiều năm được bầu vào cơ quan lãnh đạo Đảng và Nhà nước: Bí thư Khu ủy kiêm Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến hành chính khu III, Bí thư Thành ủy Hà Nội, Phó Thủ tướng kiêm Chủ tịch Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội đồng Nhà nước.

LÊ TRỌNG TẤN (1914-1986): Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam; năm 1944, tham gia Mặt trận Việt Minh; tháng 12-1945, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương và được cử giữ chức Trung đoàn phó rồi Trung đoàn trưởng Trung đoàn Sơn La; năm 1950, là quyền Đại đoàn trưởng; đến tháng 5-1953, là Đại đoàn trưởng, Phó Bí thư Đại đoàn  uỷ Đại đoàn 312. Năm 1961, là Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam; năm 1978, là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tham mưu trưởng, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ năm 1976 đến năm 1986, đại biểu Quốc hội khoá VII; nguyên Uỷ viên Quân uỷ miền Nam, Phó Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam.

LINHCÔN, A. (1809-1865): Nhà hoạt động chính trị, Tổng thống Mỹ từ năm 1861 đến năm 1865; là một trong những người sáng lập Đảng Cộng hòa Mỹ (1854). Linhcôn là đại biểu của các nhóm tư sản ở các bang miền Bắc nước Mỹ. Dưới áp lực của quần chúng nhân dân và những người cộng hoà cấp tiến, Linhcôn đã thực hiện những biện pháp cách mạng, dẫn tới bước ngoặt căn bản và giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống chế độ nô lệ ở miền Nam.

Tháng 4-1865, Linhcôn bị người của giới chủ nô ám sát.

LỐT, H.C. (1902-1985): Thượng nghị sĩ và nhà ngoại giao Mỹ, nhiều năm làm Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn; Đại sứ Mỹ ở Cộng hoà Liên bang Đức năm 1968; Trưởng đoàn đại biểu Chính phủ Mỹ tại Hội nghị Pari về Việt Nam năm 1969. Sau đó là Cao uỷ ở Vatican (1970-1975).

LƯU THIẾU KỲ (1898-1969): Nhà hoạt động chính trị Trung Quốc; là một trong những đảng viên cộng sản Trung Quốc đầu tiên học tại Mátxcơva (1921-1922); từ năm 1932, là Chủ tịch Liên đoàn lao động toàn Trung Quốc và Uỷ viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc; năm 1936, là Bí thư Đảng bộ Hoa Bắc; Chính uỷ Tân tứ quân thời kỳ 1941-1942; năm 1949, được bầu làm Phó Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng; năm 1959, được bầu làm Chủ tịch nước Cộng hòa. Lưu Thiếu Kỳ bị thanh trừng trong cách mạng văn hoá; năm 1980, được khôi phục.

LÝ TỰ TRỌNG (1914-1931): Chiến sĩ cộng sản; quê ở tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1928, Lý Tự Trọng tham gia Hội Việt Nam cách mạng thanh niên tại Quảng Châu; năm 1929, về nước hoạt động và được giao nhiệm vụ vận động thành lập Đoàn Thanh niên cộng sản. Tháng 2-1931, tại cuộc mít tinh kỷ niệm bạo động Yên Bái tổ chức tại Sài Gòn, Lý Tự Trọng đã anh dũng bảo vệ người diễn thuyết, bắn chết mật thám Pháp, bị địch bắt và kết án tử hình; cuối năm 1931, bị giết hại.

M

MÁC, C. (1818-1883): Lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản thế giới, nhà tư tưởng, người sáng lập chủ nghĩa cộng sản khoa học.

 Mác là người sáng lập ra lý luận và sách lược của cách mạng vô sản. Cùng với Ph. Ăngghen, Mác đã đề xướng thế giới quan cách mạng của giai cấp vô sản: chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, khoa học về các quy luật phát triển xã hội. Mác đã sáng lập ra khoa chính trị – kinh tế học khoa học; học thuyết về chuyên chính vô sản; học thuyết về giá trị thặng dư; năm 1847, Mác và  Ăngghen gia nhập Liên minh những người cộng sản. Năm 1864, Mác sáng lập và là linh hồn của Quốc tế thứ nhất.

MÁCSAN, G. C. (1880-1959): Nhà hoạt động quân sự và ngoại giao Mỹ; Tổng Tham mưu trưởng quân đội Mỹ trong Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 -1945); Bộ trưởng Bộ Ngoại giao năm 1947-1949; Bộ trưởng Bộ Quốc phòng năm 1950-1951. Mácsan đã đề ra kế hoạch khôi phục châu Âu (kế hoạch Mácsan); là một trong những người đề xướng và vận động thành lập Khối liên minh quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO).

MÁC NAMARRA, R.: Nhà doanh nghiệp và quân sự Mỹ, sinh năm 1916. Năm 1960, là Chủ tịch Công ty máy Pho; từ 1961-1967, là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ, trực tiếp điều hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, là người tích cực thực hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc. Tháng 3-1968, Mác Namara bị bãi chức.

MẸ SUỐT (Nguyễn Thị Suốt: 1906-1968): Bà mẹ Việt Nam anh hùng, quê tỉnh Quảng Bình. Trong những năm Mỹ leo thang chiến tranh, tăng cường đánh phá miền Bắc (1964-1968), Quảng Bình là một vùng đất lửa ác liệt. Mẹ Suốt đã dũng cảm chèo đò trên sông Nhật Lệ (về mùa nước, mặt sông rộng đến hơn 1.000m), chuyên chở bộ đội và hàng hoá, vũ khí từ bờ bắc sang bờ nam, trung bình mỗi năm 1.400 chuyến. Năm 1968, mẹ Suốt hy sinh trong khi đang chèo đò chở bộ đội qua sông.

MICAIAN, A. I. (1895-1978): Nhà hoạt động chính trị Xôviết. Những năm 1926-1934, là Uỷ viên nhân dân Thương mại và cung ứng; những năm 1934-1938, là Uỷ viên nhân dân Công nghiệp thực phẩm; từ năm 1938 đến năm 1942, là Uỷ viên nhân dân Ngoại thương; từ năm 1942 đến năm 1945, phụ trách Trường hậu cần Hồng quân, những năm 1946-1964, là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô.

Năm 1964, được bầu làm Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xôviết tối cao Liên Xô.

MÚTXÔLINI, B. (1883-1945): Trùm phát xít ở Italia. Năm 1919, tổ chức ra những đội phát xít ở Italia; năm 1922, thành lập chính quyền độc tài phát xít. Trong những năm 30 của thế kỷ XX, liên minh với Đức phát xít gây ra cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Tháng 7-1943, chế độ độc tài phát xít Mútxôlini sụp đổ trước cuộc tấn công của quân đội Liên Xô và các lực lượng chống phát xít ở Italia. Trong những năm 1943-1945, Mútxôlini đứng đầu chính phủ vùng lãnh thổ Italia do Hítle chiếm đóng; tháng 4-1945, bị du kích Italia bắt và xử tử.

N

NÁTXE, G. A. (1918-1970): Nhà hoạt động chính trị Ai Cập. Ngày 23-6 -1956, được bầu làm Tổng thống nươc Cộng hòa Ai Cập. Ngày 22-2-1958, Ai Cập và Xyri thống nhất làm một nước lấy tên là Cộng hòa
A Rập Thống nhất, Nátxe được giữ chức Tổng thống nước Cộng hòa A Rập Thống nhất.

NGÔ ĐÌNH DIỆM (1901-1963): Chính khách phản cách mạng. Năm 1933, là Thượng thư Bộ Lại trong nội các của Bảo Đại; năm 1934, từ chức. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, bị bắt rồi được trả tự do về sống ẩn dật tại Đà Lạt; năm 1950, sang Mỹ; năm 1954, là Thủ tướng Chính phủ Bảo Đại; từ năm 1956 đến năm 1963, là Tổng thống chính quyền thân Mỹ tại Sài Gòn. Năm 1963, bị những người đối lập giết trong cuộc đảo chính do Mỹ dàn dựng.

NGÔ GIA TỰ (1908-1935): Nhà hoạt động chính trị; sinh ở tỉnh Bắc Ninh; năm 1928, dự lớp huấn luyện chính trị cách mạng tại Quảng Đông (Trung Quốc). Tháng 3-1929, tham gia thành lập chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam; sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập, Ngô Gia Tự được cử làm Bí thư Chấp ủy lâm thời của Đảng tại Nam Kỳ; cuối năm 1930, bị địch bắt và bị đày ra Côn Đảo tháng 5-1933. Ngô Gia Tự đã hy sinh trong chuyến vượt biển đầu năm 1935.

NGUYỄN CHÍ THANH (1914-1967): Nhà hoạt động chính trị; Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam, sinh tại Thừa Thiên – Huế; gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1937; Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên năm 1938; tháng 8-1945, được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được chỉ định làm Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ; Bí thư phân Khu ủy Bình – Trị – Thiên năm 1947; Bí thư Liên Khu ủy Liên Khu IV năm 1948; Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam năm 1950; Uỷ viên Trung ương Đảng năm 1945; Uỷ viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng từ 1951; Uỷ viên Hội đồng Quốc phòng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; từ năm 1964 đến năm 1967, thay  mặt Trung ương Đảng chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở Nam Bộ.

NGUYỄN DUY TRINH (1910-1985): Nhà hoạt động chính trị; sinh tại tỉnh Hà Tĩnh; tham gia hoạt động cách mạng từ 1927, vào Đảng Cộng sản năm 1930 và là Bí thư Huyện ủy Nghi Lộc thời kỳ Xôviết Nghệ-Tĩnh (1930-1931). Đầu năm 1932, bị địch kết án tù khổ sai và bị đày đi Côn Đảo (1935-1945). Được bầu làm Ủy viên Trung ương Đảng từ 1951; Bí thư Trung ương Đảng từ năm 1955; Uỷ viên Bộ Chính trị từ năm 1956; Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước năm 1958; Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao những năm 1965-1980.

NGUYỄN HỮU THỌ (1910-1996): Nhà hoạt động chính trị; sinh tại Chợ Lớn; học luật ở Pari năm 1930; đảng viên Đảng Cộng sản năm 1948; tham gia tổ chức biểu tình chống tuần tra của tàu chiến Mỹ ở biển Đông năm 1950. Do đấu tranh cho việc thống nhất đất nước, bị cầm tù từ năm 1954. Năm 1960, là Chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam; năm 1969, là Chủ tịch Hội đồng Cố vấn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Sau khi Tổ quốc thống nhất, là Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

NGUYỄN THỊ CHIÊN: Anh hùng lực lượng vũ trang lớp đầu tiên trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1952); sinh năm 1930, tại Thái Bình, đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương từ năm 1948; Chỉ huy đội nữ du kích Tán Thuật ở Thái Bình lập nhiều chiến công trong chiến đấu.

NGUYỄN THỊ ĐỊNH (1920-1992): Nhà hoạt động chính trị; Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam; quê tỉnh Bến Tre; tham gia cách mạng năm 1936; đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương từ năm 1938; Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre từ năm 1960; Phó Tư lệnh các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam từ năm 1965; Uỷ viên Trung ương Đảng từ năm 1976; Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam từ năm 1980; Phó Chủ tịch Liên đoàn Phụ nữ dân chủ thế giới; giải thưởng quốc tế Lênin. Năm 1995, được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang.

NGUYỄN THỊ MINH KHAI (1910-1941): Nhà hoạt động chính trị; năm 1927, gia nhập Tân Việt cách mạng Đảng, sau đó gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam và được phân công công tác tại chi nhánh Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản tại Trung Quốc.
Tháng 7-1935, dự Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản. Sau khi về nước tham gia Xứ ủy Nam Kỳ và phụ trách Bí thư Thành ủy Sài Gòn – Chợ Lớn. Sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ 1940, bị địch bắt và giết hại năm 1941.

NGUYỄN VĂN CỪ (1912-1941): Nhà hoạt động chính trị; quê ở tỉnh Bắc Ninh; Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ năm 1938 đến năm 1940. Tháng 11-1939, Nguyễn Văn Cừ triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương tại Bà Điểm (Gia Định) quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và thành lập Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương, mở ra giai đoạn mới cho cách mạng Việt Nam. Cũng thời gian này, với bút danh Trí Cường, ông đã viết tác phẩm Tự chỉ trích, một tác phẩm có giá trị về lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Nguyễn Văn Cừ đã hai lần bị thực dân Pháp bắt và bị giết hại năm 1941.

NGUYỄN VĂN HIẾU (1922-1991): Nhà hoạt động chính trị, văn hóa; sinh tại Cà Mau, tham gia đấu tranh giành chính quyền năm 1945 ở Cà Mau; từ năm 1954, hoạt động trong các đơn vị vũ trang chống lại chính quyền Ngô Đình Diệm. Từ năm 1960, là Tổng thư ký Ủy ban trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Sau khi đất nước thống nhất, là Bộ trưởng Bộ Văn hóa và Thông tin.

NGUYỄN VĂN TRỖI (1940-1964): Anh hùng lực lượng vũ trang, sinh ở Quảng Nam. Năm 1964, Nguyễn Văn Trỗi nhận nhiệm vụ đặt mìn phá cầu Công Lý để giết Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mác Namara. Việc không thành, Nguyễn Văn Trỗi bị địch bắt và xử bắn ngày 15-10-1964. Ngày 17-10-1964, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam đã truy tặng liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi danh hiệu Anh hùng và Huân chương Thành đồng hạng Nhất.

NGUYỄN VIẾT XUÂN (1934-1964): Anh hùng lực lượng vũ trang; sinh xã Ngũ Kiên, huyện Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc; nhập ngũ năm 1952. Trong thời kỳ chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, là chính trị viên thuộc đại đội thuộc Tiểu đoàn 14, bộ đội phòng không. Nguyễn Viết Xuân là một cán bộ chỉ huy xuất sắc, một tấm gương về tinh thần kiên quyết tiến công địch, bị thương nặng vẫn không rời vị trí chiến đấu, động viên đơn vị bằng khẩu lệnh: “Nhằm thẳng quân thù mà bắn”.

NÍCHXƠN, R. (1913-1994): Tổng thống Mỹ từ 1969-1974. Từ 1946-1948, là Hạ nghị sĩ; được bầu vào Thượng nghị viện năm 1950; là Phó Tổng thống năm 1953-1960. Sau chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ bị thất bại, Níchxơn đề ra chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, đánh phá ác liệt miền Bắc bằng lực lượng không quân chiến lược, âm mưu tiếp tục kéo dài chiến tranh xâm lược Việt Nam bằng thủ đoạn dùng người Việt đánh người Việt. Tháng 8-1974, do thất bại trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam và sa lầy trong vụ Oatơghết ở Mỹ, Níchxơn buộc phải từ chức Tổng thống.

NÔVÔXNI, A. (1904-1975): Nhà hoạt động chính trị Tiệp Khắc; đảng viên Đảng Cộng sản Tiệp Khắc từ năm 1928; Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng năm 1946; Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng năm 1953. Tháng 11-1957, được bầu làm Chủ tịch nước Cộng hòa Tiệp Khắc.

O

OASINGTƠN, G. (1732-1799): Tổng thống đầu tiên của nước Mỹ (1789-1797). Người lãnh đạo cuộc chiến tranh giành độc lập của Bắc Mỹ; năm 1792, trúng cử Tổng thống lần thứ hai. Về đối nội, Chính phủ Oasinhtơn ra sức củng cố địa vị thống trị của các chủ đồn điền và các nhà tư sản. Về đối ngoại, đề ra chính sách không tham gia vào các liên minh và cuộc chiến tranh giữa các quốc gia châu Âu.

OÉTXMOLEN, U. (1914-2005): Tướng Mỹ; Tham mưu trưởng Học viện quân sự Mỹ những năm 1950 – 1952; Tư lệnh Sư đoàn bay 187 ở Triều Tiên và Nhật những năm 1952-1953; Phó Tư lệnh rồi Tư lệnh Bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở miền Nam Việt Nam những năm 1963-1968; Tổng tham mưu trưởng quân đội Mỹ năm 1968-1972. Sau Tết Mậu Thân 1968, Oétmolen đã đề nghị ném bom nguyên tử chiến thuật để giải vây cho quân Mỹ ở Khe Sanh.

P

PHẠM HÙNG (1912-1988): Nhà hoạt động chính trị; sinh ở tỉnh Vĩnh Long; tham gia cách mạng từ những năm 1928-1929; vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1930. Năm 1931, bị địch kết án tử hình, sau hạ thành án chung thân khổ sai và đầy ra Côn Đảo. Từ năm 1945 giữ nhiều chức vụ quan trọng trong Đảng và Nhà nước: Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ năm 1951; Uỷ viên Bộ Chính trị từ năm 1956; Bộ trưởng Phủ Thủ tướng từ năm 1957; Phó Thủ tướng từ 1958; Bí thư Trung ương Cục và Chính ủy các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam từ năm 1967; Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ từ năm 1976; tháng 6-1987, được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

PHẠM VĂN ĐỒNG (1906-2000): Nhà hoạt động chính trị, nhà văn hóa, sinh tại tỉnh Quảng Ngãi. Tham gia hoạt động cách mạng năm 1925; năm 1945, là Bộ trưởng Bộ Tài Chính; từ năm 1947, là đại diện Chính phủ tại miền Nam Trung Bộ; Phó Thủ tướng năm 1949, Thủ tướng năm 1955; sau đó là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đến năm 1987; là Trưởng đoàn Chính phủ ta tham gia các Hội nghị Phôngtennơblô năm 1946, Hội nghị Giơnevơ năm 1954, Hội nghị Băngđung năm 1955 và nhiều Hội nghị quốc tế khác; là Uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng năm 1947, Uỷ viên chính thức năm 1949; từ năm 1951, liên tục được bầu là Uỷ viên Trung ương Đảng, Uỷ viên Bộ Chính trị cho đến năm 1986. Từ tháng 12-1986, là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Phạm Văn Đồng còn là tác giả nhiều công trình văn hóa.

PHAN ANH (1912-1990): Luật sư; sau Cách mạng Tháng Tám tham gia sáng lập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam; làm Chủ tịch Uỷ ban kiến thiết quốc gia; Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong Chính phủ liên hiệp, Tổng thư ký phái đoàn Chính phủ Việt Nam tại Hội nghị Phôngtennơblô. Từ năm 1947 đến năm 1976, lần lượt giữ các chức vụ: Bộ trưởng Kinh tế, Bộ trưởng Công thương, Bộ trưởng Thương nghiệp, Bộ trưởng Ngoại thương. Từ 1945 đến khi qua đời liên tục là ủy viên Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Từ năm 1977, được cử vào Đoàn Chủ tịch; từ tháng 11-1988, là Phó Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

PHAN KẾ TOẠI (1889-1973). Nguyên Khâm sai Bắc Kỳ của Triều đình Huế. Tháng 8-1945, Phan Kế Toại từ chức và theo cách mạng. Trong kháng chiến chống Pháp, được cử làm quyền Bộ trưởng Bộ Nội vụ; sau khi miền Bắc giải phóng, được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ rồi Phó Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

PỐTGOÓCNƯI, N.V. (1903-1983): Nhà hoạt động chính trị Xôviết. Những năm 1950-1953, là Bí thư Thành ủy Kháccốp. Từ năm 1963, là Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Năm 1965, được bầu làm Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xôviết tối cao Liên Xô.

Q

QUÁCH MẠT NHƯỢC (1892-1978): Nhà thơ, nhà soạn kịch, nhà hoạt động xã hội và văn học Trung Quốc; nổi tiếng trên văn đàn từ sau Phong trào Ngũ tứ. Tập thơ Nữ thần (1921) của Quách Mạt Nhược được coi như tác phẩm mở đầu của thơ ca cách mạng Trung Quốc. Cùng năm đó, Quách Mạt Nhược thành lập một đoàn thể văn học chủ trương sáng tác theo phương pháp lãng mạn sáng tạo và xuất bản tạp chí Sáng tạo quý san. Với chủ trương đó, tạp chí đã phiên dịch, giới thiệu lý luận văn học mácxít và các tác phẩm văn học Xôviết với người đọc Trung Quốc. Quách Mạt Nhược cũng là người tích cực tham gia các hoạt động cách mạng. Năm 1948, là hiệu trưởng Trường nghệ thuật mang tên Lỗ Tấn. Sau ngày thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, là Chủ tịch Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Trung Quốc, Chủ tịch Uỷ ban bảo vệ hoà bình của Trung Quốc.

R

RAXCƠ, Đ.: Nhà ngoại giao Mỹ, sinh năm 1909; trong Chiến tranh thế giới thứ hai, là Phó tham mưu trưởng mặt trận Trung Quốc – Miến Điện – Ấn Độ; năm 1950,  là trợ lý Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ về Việt Nam và Viễn Đông; là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao dưới thời Tổng thống Kennơđi và Tổng thống Giônxơn; sau đó là giáo sư về luật pháp quốc tế.

RUDƠVEN, PH. Đ. (1882-1945): Nhà hoạt động chính trị Mỹ, đảng viên Đảng Dân chủ. Tổng thống những năm 1933-1945. Trong thời kỳ cầm quyền, Rudơven đã vạch ra một chương trình với những cải cách và nhượng bộ nhất định, được gọi là “đường lối mới”, nhằm khắc phục những biến động do cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 gây ra, xoa dịu sự phẫn nộ của nhân dân, củng cố sự thống trị của chủ nghĩa tư bản.

RÚTXEN, B. (1872-1970): Nhà bác học Anh, chiến sĩ hòa bình. Tháng 7-1964, Rútxen dẫn đầu Đoàn đại biểu Anh đến gặp Đại sứ Mỹ ở Anh để phản đối chính sách xâm lược của giới cầm quyền Mỹ đối với Việt Nam, Lào, và đã trao cho Đại sứ Mỹ một bản tuyên bố với nhiều chữ ký trong đó có nhà bác học Mỹ nổi tiếng L. Paolinh, giáo sư Gi. Bécnan-Chủ tịch Hội đồng hòa bình thế giới – phê phán chính sách của Chính phủ Mỹ ở Đông Nam Á. Rútxen là người đề xuất sáng kiến thành lập Toà án quốc tế xét xử tội ác của Mỹ ở Việt Nam.

S

SỚCSIN, U. (1874-1965): Nhà hoạt động chính trị Anh; Bộ trưởng Bộ Chiến tranh từ năm 1918 đến năm 1922; là người tổ chức cuộc can thiệp của các nước đế quốc chống nước Nga Xôviết những năm 1918-1920. Hai lần làm Thủ tướng Anh những năm 1940-1945 và 1951-1955.

SUVANA PHUMA (1901-1984): Nhà hoạt động chính trị Lào; kỹ sư công chính và kỹ thuật điện; năm 1945, là Bộ trưởng Chính phủ Lào Itxala (tự do); từ năm 1946 đến năm 1949, bị đày sang Thái Lan; năm 1950, là Bộ trưởng Bộ Công chính và Kế hoạch; Thủ tướng Chính phủ những năm 1951-1954, 1960-1962, 1964-1975; từ 1975, là Cố vấn Chính phủ nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.

T

TẠ THỊ KIỀU: Sinh năm 1939, quê tỉnh Bến Tre; Anh hùng lực lượng vũ trang; tham gia chiến đấu nhiều trận, lập nhiều chiến công xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

TAYLO, M. D.: Nhà hoạt động quân sự và ngoại giao Mỹ, sinh năm 1911; năm 1953, được chỉ định làm Tư lệnh Quân đoàn 8 ở Triều Tiên, năm 1955, là Tham mưu trưởng lục quân Mỹ, sau đó làm Chủ tịch Hội đồng tham mưu liên quân Mỹ. Năm 1961, làm cố vấn quân sự cho Tổng thống Kennơđi; năm 1962, làm Chủ tịch Hội đồng tham mưu liên quân Mỹ; từ 1964-1965, là Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn.

TÔN ĐỨC THẮNG (1888-1980): Nhà hoạt động chính trị. Năm 1919, tham gia cuộc binh biến trên biển Đen để ủng hộ cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga; năm 1926, tham gia Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Cuối năm 1929, bị địch bắt và bị đày ra Côn Đảo đến năm 1945; giữ nhiều chức vụ quan trọng trong Đảng và Nhà nước: Ủy viên Trung ương Đảng từ năm 1947; Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ năm 1955; Trưởng Ban thường trực Quốc hội từ năm 1955; Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ năm 1960; Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1969-1976); Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1976-1980).

TÔRÊ, M. (1900-1964): Lãnh tụ Đảng Cộng sản Pháp; Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Pháp từ năm 1924, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng từ năm 1925; Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Pháp những năm 1930-1964; Uỷ viên Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản những năm 1928-1943; Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Quốc tế Cộng sản những năm 1935-1943; có nhiều công lao lãnh đạo đấu tranh ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam và Đông Dương chống thực dân Pháp.

TỐ HỮU (1920-2004): Nhà hoạt động chính trị, nhà thơ; tên thật là Nguyễn Kim Thành, đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1938; bị giam giữ trong các nhà tù đế quốc ở Huế, Tây Nguyên; Tháng 8-1945, là Chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa ở Huế; năm 1951, Uỷ viên dự khuyết, năm 1955, Uỷ viên chính thức, năm 1960, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương. Năm 1976, Uỷ viên dự khuyết, năm 1981, Uỷ viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng; Phó Thủ tướng Chính phủ năm 1981. Tố Hữu là lá cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam; giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

TƠRAICỐP, G. (1898-1975): Nhà hoạt động chính trị Bungari; là hội viên Liên minh nông dân Bungari từ 1918; tham gia phong trào đấu tranh chống phát xít trong chiến tranh thế giới thứ hai. Sau khi đất nước được giải phóng năm 1945, là Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp từ năm 1946 đến năm 1949; những năm 1964-1971, là Chủ tịch Quốc hội Bungari; năm 1972, là Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Bungari và Chủ tịch danh dự Mặt trận Tổ quốc Bungari năm 1972.

TRẦN HỮU DỰC (1910-1993): Nhà hoạt động chính trị; được cử vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng năm 1947. Từ năm 1955 đến năm 1960, giữ các chức vụ: Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước kiêm Cục trưởng Cục Thống kê, Trưởng Ban công tác nông thôn trung ương, Thứ trưởng Bộ Nông lâm; Bộ trưởng Bộ Nông trường; năm 1965, là Bộ trưởng Phủ Thủ tướng. Từ 2-1973, được cử là Bí thư Khu ủy Trị – Thiên; từ năm 1974, là Phó Thủ tướng Chính phủ.

TRẦN NGHỊ (1901-1972): Nhà hoạt động chính trị Trung Quốc. Những năm 1919-1921, học ở Pháp; tham gia Bắc phạt; tham gia cuộc khởi nghĩa Nam Xương; năm 1941, là Tư lệnh Tân tứ quân. Trong thời gian nội chiến (1946-1949), lãnh đạo Quân dã chiến thứ ba; năm 1955, được phong quân hàm Nguyên soái; năm 1958, làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.

TRẦN PHÚ (1904-1931): Nhà hoạt động chính trị;  quê tỉnh Hà Tĩnh; Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương. Trần Phú tham gia Hội Phục Việt, tổ chức tiền thân của Tân Việt cách mạng Đảng năm 1925; tham dự lớp huấn luyện cán bộ cách mạng ở Quảng Châu (Trung Quốc) năm 1926. Sau đó được cử sang học tập tại Trường đại học Phương Đông (Liên Xô). Khi về nước được bầu bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời  Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trần Phú đã khởi thảo Luận cương cách mạng tư sản dân quyền được Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ nhất (10-1930) thông qua. Hội nghị đã bầu Ban Chấp hành Trung ương chính thức do Trần Phú làm Tổng Bí thư. Năm 1931, bị địch bắt và từ trần do bị tra tấn và bệnh nặng.

TƠRUMAN, H. S. (1984-1972): Nhà hoạt động chính trị Mỹ, Tổng thống từ tháng 4-1945 đến tháng 1-1953; là người ra lệnh ném bom nguyên tử huỷ diệt các thành phố Hirôsima và Nagadaki của Nhật năm 1945. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chủ trương thực hiện chính sách chiến tranh lạnh chống Liên Xô. Từ năm 1950, Chính phủ Mỹ do Tơruman đứng đầu đã can thiệp ngày càng sâu vào Đông Dương, viện trợ quân sự ngày càng nhiều cho thực dân Pháp gây chiến tranh.

TRƯỜNG CHINH (1907-1988): Nhà hoạt động chính trị, nhà báo, nhà thơ; tên thật là Đặng Xuân Khu, sinh tại tỉnh Nam Định; tham gia hoạt động cách mạng năm 1925, gia nhập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên năm 1927. Những năm 1930-1936, bị giam giữ trong các nhà tù đế quốc: Hoả Lò, Sơn La; năm 1940, là quyền Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương; những năm 1941-1956, là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng; năm 1958, là Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Chủ nhiệm ủy ban Khoa học Nhà nước; những năm 1960-1981, được bầu làm Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước. Từ tháng 7 đến tháng 12-1986, là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Tháng 12-1986, là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

TƯỞNG GIỚI THẠCH (1887-1975): Người đứng đầu Quốc dân Đảng Trung Hoa sau khi Tôn Trung Sơn mất (1925); năm 1927, tổ chức cuộc chính biến phản cách mạng và lập chế độ độc tài “bốn gia đình” ở Trung Quốc. Năm 1943, giữ chức Tổng thống nước Cộng hòa Trung Hoa; năm 1946, gây ra cuộc nội chiến chống lại Đảng Cộng sản Trung Quốc và bị thất bại; năm 1949, chạy ra Đài Loan và lập ra Trung Hoa dân quốc do Tưởng Giới Thạch làm Tổng thống.

TURÊ, X. (1922-1984): Nhà hoạt động chính trị Ghinê; sau Chiến tranh thế giới thứ hai, tham gia hoạt động công đoàn và hoạt động chính trị, giữ nhiều chức: Chủ tịch Tổng Công hội công nhân châu Phi, Uỷ viên Hội đồng tư vấn địa hạt Ghinê và Uỷ viên Ủy ban Liên hợp hành chính và trọng tài. Năm 1956, được bầu làm Nghị sĩ Ghinê trong Quốc hội Pháp. Năm 1957, được bầu làm Phó Chủ tịch Hội đồng Chính phủ Ghinê. Năm 1958, làm Thủ tướng Chính phủ và ít lâu sau làm Tổng thống nước Cộng hòa Ghinê (1958-1972).

U

UNBRÍCH, V. (1893-1973): Nhà hoạt động chính trị Cộng hoà Dân chủ Đức, là người sáng lập Đảng Xã hội thống nhất Đức năm 1946. Từ năm 1946 đến năm 1949, là Phó Chủ tịch Đảng Xã hội thống nhất Đức; những năm 1950-1953, được bầu làm Tổng Bí thư Đảng Xã hội thống nhất Đức; những năm 1953-1971, là Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Xã hội thống nhất Đức; năm 1971, là Chủ tịch Đảng Xã hội thống nhất Đức; từ năm 1960 đến năm 1971, là Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng Cộng hòa Dân chủ Đức.

ÚT TỊCH (Nguyễn Thị Tịch, 1920-1969): Anh hùng lực lượng vũ trang; sinh tại tỉnh Trà Vinh, tham gia cách mạng từ năm 1945; đã lập nhiều chiến công trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; là người có câu nói nổi tiếng: “Còn chiếc lai quần cũng đánh”. Năm 1969, hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

UYNXƠN, V. (1856-1924): Tổng thống thứ 28 của Hoa Kỳ (1913-1921). Dưới thời Uynxơn, về đối nội, Chính phủ Mỹ thi hành chính sách đàn áp phong trào công nhân; về đối ngoại, thi hành chính sách bành trướng, can thiệp vào nội bộ các nước khác, nhất là khu vực Mỹ latinh. Năm 1918, Uynxơn đưa ra Chương trình 14 điểm nhằm thiết lập sự thống trị của Mỹ trên thế giới, chống nước Nga Xôviết.

V

VĂN TIẾN DŨNG (1916-2002): Nhà hoạt động chính trị, quân sự; Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam; từ 1945, Cục trưởng Cục Chính trị quân đội quốc gia; từ 1953, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam; từ 1981, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Uỷ viên Trung ương Đảng năm 1951; Uỷ viên dự khuyết Bộ Chính trị năm 1960, Uỷ viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng năm 1976;  được phong quân hàm Thiếu tướng năm 1948, Thượng tướng năm 1958, Đại tướng năm 1974; tháng 4-1975, là Tư lệnh chiến dịch
Hồ Chí Minh lịch sử. Văn Tiến Dũng là tác giả của nhiều công trình nghiên cứu khoa học quân sự.

VÕ NGUYÊN GIÁP: Nhà hoạt động chính trị, quân sự; Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam; sinh năm 1911 tại Quảng Bình; trước năm 1930, tham gia hoạt động yêu nước trong phong trào học sinh và gia nhập tổ chức Tân Việt cách mạng đảng. Thời kỳ 1936-1939, hoạt động công khai ở Hà Nội; năm 1940, sang Trung Quốc gặp Nguyễn Ái Quốc, sau đó cùng Người về nước tham gia xây dựng căn cứ địa ở Cao-Bắc-Lạng. Tại Hội nghị toàn quốc của Đảng năm 1945 ở Tân Trào, được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng; Bộ trưởng Bộ Nội vụ năm 1945; Bộ trưởng Bộ Quốc phòng năm 1946; năm 1948, được phong quân hàm Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam; Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng từ năm 1951 đến năm 1982; Phó Thủ tướng, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng những năm 1955-1991. Võ Nguyên Giáp là tác giả của nhiều công trình lý luận quân sự, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh.

VÕ THỊ SÁU (1934-1952): Chiến sĩ cách mạng, sinh tại tỉnh Bà Rịa (nay thuộc Bà Rịa-Vũng Tàu); làm liên lạc cho cơ quan an ninh cách mạng từ năm 1947; lập nhiều chiến công trong cuộc kháng chiến chống Pháp; năm 1950, bị địch bắt và kết án tử hình rồi đày ra Côn Đảo chờ thi hành án. Ngày 23-1-1952, bị địch xử bắn tại Côn Đảo. Năm 1993, được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và Huân chương Chiến công hạng Nhất.

VŨ KỲ (1921-2005): Tên thật là Vũ Long Chuẩn, sinh tại tỉnh Hà Tây; đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1940; từ tháng 8-1945, là thư ký riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh; từ năm 1953, Đoàn trưởng Thanh niên xung phong trung ương; từ năm 1956, Chánh Văn phòng Chủ tịch nước kiêm thư ký riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh; Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh từ năm 1987 đến năm 1990; đại biểu Quốc hội Khoá VIII.

X

XĂMBU (1895-1972): Nhà hoạt động chính trị Mông Cổ; từ năm 1952-1953, là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Mông Cổ. Từ năm 1954, được bầu làm Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ.

XANHTƠNY, GI. (1907-1978): Chính khách Pháp, là nhân viên ngân hàng ở Đông Dương từ năm 1929 đến năm 1931, ở Pari những năm 1932-1939, rồi phục vụ trong phong trào kháng chiến Pháp. Năm 1945, đến Trung Quốc cầm đầu phái đoàn quân sự Pháp tại Côn Minh. Xanhtơny đến Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1947. Trong thời gian này, Xanhtơny có nhiều lần tiếp xúc với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Là thành viên của Đoàn đại biểu Chính phủ Pháp tại Hội nghị Giơnevơ năm 1954. Sau năm 1954, là Tổng đại diện đầu tiên của Cộng hòa Pháp tại Hà Nội; là người tổ chức tiếp xúc mật giữa đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đại diện Chính phủ Mỹ tại Hội nghị Pari năm 1969.

XÊĐENBAN, I. (1916-1991): Nhà hoạt động chính trị Mông Cổ; năm 1940, được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Mông Cổ; từ 1943, được bầu vào Bộ Chính trị; năm 1945, được cử làm Phó Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban Kế hoạch Nhà nước; từ năm 1952; được bầu làm Tổng Bí thư và Thủ Tướng Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ. Được Nhà nước Việt Nam tặng Huân chương Sao vàng.

XIHANÚC, N.: Nhà hoạt động chính trị Campuchia. Sinh năm 1922; những năm 1930 – 1940, học tại Phnôm Pênh và Sài Gòn (Việt Nam); tháng 4-1941, được bầu làm vua nước Campuchia; những năm 1946-1948, học tại Pháp. Năm 1955, thoái vị và được cử làm Thủ tướng; năm 1956, tham gia sáng lập Phong trào không liên kết. Năm 1960, được bầu làm Quốc trưởng. Sau cuộc đảo chính tháng 3-1970, ra nước ngoài. Năm 1975, về nước làm Chủ tịch Nhà nước; năm 1976, từ chức. Năm 1991, làm Chủ tịch Hội đồng Dân tộc tối cao, sau đó là Quốc trưởng. Từ năm 1993 đến năm 2004, được bầu làm Quốc vương Campuchia. Xihanúc đã nhiều lần sang thăm Việt Nam và ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.

XIRĂNGKIÊVÍCH, I. (1911-1989): Nhà hoạt động chính trị Ba Lan. Những năm 1935 – 1939, là Bí thư Đảng bộ Đảng Xã hội Ba Lan tại Cracốp; tích cực tham gia chống phát xít; năm 1945, trở về Ba Lan; từ năm 1946 đến năm 1948, là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Xã hội Ba Lan; những năm 1948-1972, là Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Công nhân thống nhất Ba Lan; những năm 1952-1954, được bầu làm Phó Thủ tướng, sau đó là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Ba Lan những năm 1954-1970. Từ năm 1970 đến năm 1972, là Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Ba Lan; năm 1973, là Chủ tịch phong trào hòa bình Ba Lan.

XRIXAVÔNG VÁTTHANA (1907-1978): Vua Lào, sinh tại Luang Phabăng; học luật và khoa học chính trị tại Pháp; năm 1930, là Tổng Thư ký vương triều; năm 1946, gia nhập liên quân Pháp – Lào; lên ngôi vua ngày 1-11-1959; năm 1975, thoái vị và được cử làm Cố vấn tối cao Chính phủ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.

XUCÁCNÔ, A. (1901-1970): Nhà hoạt động chính trị Inđônêxia, một trong những người sáng lập ra Đảng Quốc dân Inđônêxia (1927); năm 1932, làm Chủ tịch Đảng. Tháng 8-1945, Inđônêxia tuyên bố độc lập, Xucácnô được bầu làm Tổng thống đầu tiên của nước Cộng hòa Inđônêxia. Tháng 8-1950, Xucácnô tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Inđônêxia thống nhất và được bầu làm Tổng thống nước Cộng hòa cho đến tháng 10-1965; là người có nhiều đóng góp vào thành công của Hội nghị Băngđung (1955) và ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.

XUPHANUVÔNG (1909-1995): Nhà hoạt động chính trị Lào, xuất thân trong một  gia đình hoàng tộc; tham gia hoạt động cách mạng năm 1945; Bộ trưởng Bộ Ngoại giao và Tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang Chính phủ Lào Itxala (tự do) năm 1945; Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Mặt trận Neo Lào Itxala và Thủ tướng Chính phủ kháng chiến năm 1950. Năm 1959, bị Chính phủ phái hữu bắt giam; vượt ngục năm 1960; Chủ tịch Hội đồng Chính trị quốc gia liên hiệp năm 1974; Chủ tịch nước và Chủ tịch Hội đồng Nhân dân tối cao Lào từ năm 1975. Đảng viên Đảng  Cách mạng Lào (sau này là Đảng Nhân dân cách mạng Lào) năm 1953; Ủy viên Trung ương Đảng năm 1955, Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng năm 1972.

Nguồn: dangcongsan.vn
Vkyno (st)

Advertisement