Tháng 1, ngày 6
Nhân Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Quốc dân Đảng Trung Quốc họp tại Quảng Châu (Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc đã gửi một bức thư 1) đến đại hội. Bức thư ký tên Lý Thuỵ, toàn văn như sau:
“Kính gửi Đoàn Chủ tịch Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II Quốc dân Đảng Trung Quốc.
Xin thưa, tệ nhân 2) là một người An Nam mất nước phải lưu vong bôn ba đến chốn này. May thay gặp lúc quý hội họp đại hội, tuyên bố viện trợ cho công cuộc giải phóng các dân tộc bị áp bức trên thế giới, không nén nổi sự vui mừng. Song “muốn bốc thuốc, trước hết phải biết bệnh”. Cho nên, tệ nhân yêu cầu quý hội cho phép đến hội nghị để bộc bạch tình cảnh đau khổ của đất nước kém cỏi chúng tôi, mong những người muốn giúp chúng tôi tiện nghiên cứu để tìm phương châm. Nước tôi sẽ may mắn biết bao! Cách mạng sẽ may mắn biết bao! Trước khi ngừng lời, xin kính chúc:
Cách mạng Trung Quốc muôn năm!
Quốc dân Đảng Trung Quốc muôn năm! 3).
Lý Thụy
Ngày 6 tháng 1 Trung Hoa dân quốc năm thứ 15
Địa chỉ liên lạc: Sứ quán Bôrôđin, ngài Trương Xuân Mộc 4) chuyển”.
– Hoàng Tranh: Hồ Chí Minh và Trung Quốc, Nxb. Giải phóng quân, Bắc Kinh, 1987, tr.35 (bản tiếng Trung Quốc).
– Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.2, tr.210-211.
Tháng 1, ngày 13
Từ Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân, cho biết Người đã nhiều lần viết thư cho các đồng chí trong Đoàn Chủ tịch đề nghị gửi cho các tài liệu về nông dân viết bằng tiếng Pháp hay tiếng Anh để phục vụ tập san Nông dân sắp xuất bản, nhưng cho đến nay vẫn không nhận được gì cả. Bức thư có đoạn viết:
“Tôi sẽ rất cảm ơn các đồng chí nếu gửi cho tôi nhật báo của Quốc tế Nông dân từ số 1 cho tới số hiện nay bằng tiếng Pháp hay tiếng Anh, để tôi có thể dịch sang tiếng Trung Quốc dùng cho việc tuyên truyền của chúng tôi”.
Cuối thư ký tên: Nilốpxki (N.A.Q)
– Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh.
– Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.2, tr.212.
Tháng 1, ngày 14
Nguyễn Ái Quốc với bí danh Vương Đạt Nhân được Đoàn Chủ tịch Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Quốc dân Đảng Trung Quốc mời đến dự và phát biểu ý kiến tại phiên họp thứ 9 của đại hội.
Chủ tịch phiên họp là Uông Tinh Vệ – Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền của Trung ương Quốc dân Đảng Trung Quốc, đã mời Nguyễn Ái Quốc lên phát biểu và mời Lý Phú Xuân làm phiên dịch (vì Người phát biểu bằng tiếng Pháp).
Sau lời chào mừng và cảm ơn sự hoan nghênh của đại hội, Nguyễn Ái Quốc đã đưa ra rất nhiều sự thật để tố cáo tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam trong hơn 60 năm qua, đối với Hoa kiều ở Việt Nam. Chúng đàn áp dã man cách mạng Việt Nam và cũng sợ cả cách mạng Trung Quốc nên đã tìm mọi cách công kích phá hoại Chính phủ cách mạng Quảng Châu.
Cuối cùng, Nguyễn Ái Quốc kêu gọi: “Tất cả các dân tộc bị áp bức đều cùng chịu sự áp bức của chủ nghĩa đế quốc, chúng ta cần phải cùng nhau liên hiệp lại, đánh đổ đế quốc Pháp, đánh đổ chủ nghĩa đế quốc trên thế giới… Không phân biệt nước nào, dân tộc nào, tất cả hãy đứng lên chống kẻ thù chung của chúng ta”.
Bài phát biểu của Nguyễn Ái Quốc đã được đại hội hoan nghênh nhiệt liệt.
– Hoàng Tranh: Hồ Chí Minh và Trung Quốc, Nxb. Giải phóng quân, Bắc Kinh, 1987, tr. 35-37 (bản tiếng Trung Quốc).
Tháng 1, ngày 17
Nguyễn Ái Quốc viết bài Báo chí bình dân để trả lời những lời phàn nàn nhiều lần rằng “các bài báo của ta quá thiếu trau chuốt để có thể gây ảnh hưởng đến tâm trí dân chúng”.
Bài viết có đoạn:
“Chúng tôi xin báo với các độc giả của mình rằng chúng tôi bất chấp (xem thường) việc sử dụng những từ mỹ miều, văn phong lịch lãm, câu chữ đong đưa, nhịp câu đăng đối song hành, những sự tô vẽ văn chương mà các nhà nho ham chuộng. Nhưng ngược lại chúng tôi gắng sức, vì lợi ích của tất cả mọi người, dùng một văn phong sáng sủa, chính xác và dễ hiểu.
Vì mục đích của chúng tôi là: 1. Đánh trả sự tàn bạo của người Pháp; 2. Khích lệ dân tộc An Nam kết liên lại; 3. Làm cho họ thấy được nguyên nhân những đau khổ, đói nghèo của họ và chỉ ra cho họ làm cách nào để tránh được những điều đó, nên bản báo chúng tôi làm tròn nhiệm vụ là hồi kẻng báo động mà người ta gióng lên khi có đám cháy để báo cho người đang trong ngôi nhà cháy, giục giã họ chạy thoát thân để khỏi bị chôn vùi hoặc bị thiêu cháy, và gọi những người xung quanh đến ứng cứu.
Tiếng đàn cầm chắc chắn hay hơn tiếng kẻng; nhưng trước mối hoạ đang đe doạ chúng ta, tốt nhất là đánh kẻng còn hơn gẩy đàn”.
– Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.2, tr. 446-447.
Tháng 1, ngày 21
Nhân kỷ niệm ngày mất của Lênin, Nguyễn Ái Quốc viết bài nhan đề Lênin và phương Đông, đăng trên báo Gudok, Cơ quan ngôn luận của ngành giao thông vận tải Liên Xô, xuất bản ở Mátxcơva.
Bài báo phê phán các lãnh tụ Quốc tế thứ II đã không đồng tình với cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân các nước thuộc địa. Họ luôn luôn nhất trí với chính sách đế quốc mà bọn tư bản thực hiện ở các thuộc địa. Ngược lại, “Lênin là người đầu tiên đã đặt cơ sở cho một thời đại mới, thật sự cách mạng trong các nước thuộc địa”.
Một lần nữa, Nguyễn Ái Quốc khẳng định những đóng góp lớn lao của Lênin đối với phong trào giải phóng dân tộc, và kết luận:
“Đối với tất cả các dân tộc bị áp bức và bị nô dịch, Lênin đã thể hiện một bước ngoặt trong lịch sử cuộc đời đau khổ và bị mất quyền của họ, là tượng trưng cho một tương lai mới, xán lạn”.
– Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.2, tr. 218-220.
Tháng 2, ngày 3
Từ Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân, báo tin đã gửi số đầu tiên của tờ Nông dân Trung Quốc do Quốc dân Đảng xuất bản, tờ Litao và những báo cáo về phong trào nông dân đăng trên Quảng Châu báo.
Người nhắc lại đề nghị gửi cho các tài liệu tuyên truyền bằng tiếng Pháp hay tiếng Anh, nhất là nhật báo của Quốc tế Nông dân từ số đầu tiên để “tôi có thể dịch cho báo chí Trung Quốc chúng tôi”, và lưu ý “tôi đã viết cho các đồng chí nhiều lần về vấn đề này. Nhưng cho tới nay, tôi không nhận được gì cả”.
Cuối thư, ký tên: Nguyễn A.Q.
– Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh.
– Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.2, tr.221.
Tháng 3, ngày 8
Từ Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc gửi thư cho Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân. Toàn văn bức thư như sau:
Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân.
Các đồng chí thân mến,
Tôi muốn biết tại sao tất cả những thư mà tôi đã gửi đến các đồng chí đều không được trả lời, và nhất là những yêu cầu của tôi về báo cáo và tài liệu khác dùng cho tuyên truyền.
Tất cả những thư mà các đồng chí giao cho tôi để gửi đi Giava, Manila, Ấn Độ và những nơi khác đã được gửi đi. Chỉ có một thư quay trả lại tôi, vì không có người nhận, đó là thư gửi Ban biên tập Petir, Langiơ, Átgét – Xumatơra 5).
Tôi gửi đến các đồng chí những bài cắt ở báo có liên quan đến phong trào nông dân (tháng 2 và tháng 3), và một số báo nông dân của Quốc dân Đảng.
Tôi vẫn hy vọng các đồng chí vui lòng gửi cho tôi tài liệu để tuyên truyền. Xin gửi các đồng chí lời chào anh em.
Quảng Châu, ngày 8-3-1926.
Nilốpxki (N.A.Q)
– Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh.
– Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.2, tr.222.
Tháng 4, ngày 4
Ký bút danh Mộng Liên, Nguyễn Ái Quốc viết bài Về sự bất công gửi báo Thanh niên đăng trên mục Dành cho phụ nữ.
Tác giả đã dẫn lời của Khổng Tử, Mạnh Tử, cách ví von của người Trung Quốc và câu nói cửa miệng của người Việt Nam về thân phận của người phụ nữ đã bị hạ thấp tột bậc và không được hưởng chút quyền gì trong xã hội và trong gia đình. Và đặt ra một câu hỏi lớn:
“Hỡi chị em! Vì sao chị em lại phải chịu sự áp bức bất công này?”.
– Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.2, tr. 448.
Tháng 5, sau ngày 14
Nguyễn Ái Quốc nhận được thư của Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân do Phó Tổng thư ký Đômban, Trưởng ban Phương Đông Vônhêxienxki và Thư ký tổ chức Oóclốp, thay mặt ký tên.
Thư báo cho biết đã nhận được các thư của Nguyễn Ái Quốc đề ngày 13-1-1926, 3-2-1926, và 8-3-1926 với hai số báo Nông dân và những bài cắt của Quảng Châu báo nói về tình cảnh nông thôn Quảng Đông. Đoàn Chủ tịch muốn biết tình hình phong trào nông dân Sơn Đông sau khi gia nhập Quốc tế Nông dân và yêu cầu Nguyễn Ái Quốc gửi cho một thông báo chi tiết về tình hình các tỉnh Quảng Tây, Quý Châu và về kế hoạch tổ chức nông dân.
Thư còn yêu cầu Nguyễn Ái Quốc gửi cho Đoàn Chủ tịch “vào chuyến thư sắp tới” Cương lĩnh của Quốc dân Đảng về vấn đề nông dân, những nghị quyết, những biên bản của Đại hội II Quốc dân Đảng về công tác nông thôn.
– Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh.
Tháng 6, ngày 3
Nguyễn Ái Quốc gửi báo cáo cho Quốc tế Cộng sản (Báo cáo của Đông Dương) về những công việc đã làm cho Đông Dương từ khi Người đến Quảng Châu, như tổ chức được một tổ bí mật, một Hội liên hiệp nông dân của những người Việt Nam sống ở Xiêm, một tổ thiếu nhi, một tổ phụ nữ cách mạng, một trường huấn luyện chính trị, xuất bản tờ báo Thanh niên…
Báo cáo cũng nhắc đến Hội liên hiệp các thuộc địa ở Pari, về hai tờ báo Le Paria (viết bằng tiếng Pháp) và Việt Nam hồn (viết bằng tiếng Việt), và nhờ tổ chức liên lạc giúp với Nguyễn Thế Truyền gửi các báo đó cho Nguyễn Ái Quốc. Ngoài ra, còn nhờ nhắc hiệu sách của Đảng gửi cho Người các báo L’Humanité, La Vie Ouvrière và Tập san Inprekorr bằng tiếng Anh và tiếng Pháp.
– Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.2, tr. 223-224.
Tháng 7, ngày 22
Từ Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc viết thư Gửi Uỷ ban Trung ương thiếu nhi (tức Uỷ ban Trung ương Đội Thiếu niên Tiền phong trực thuộc Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Lênin – Liên Xô) về việc đề nghị cho gửi “một nhóm thiếu nhi Việt Nam” sang học ở Mátxcơva.
Cùng ngày, Nguyễn Ái Quốc còn viết thư Gửi đại diện Đoàn Thanh niên Cộng sản Pháp tại Quốc tế Thanh niên Cộng sản, nói là “đã viết thư cho Uỷ ban Trung ương Thiếu nhi Mátxcơva” và “đề nghị đồng chí ủng hộ yêu cầu của tôi và tiến hành mọi hoạt động cần thiết để người ta trả lời tôi được mau chóng và thuận lợi” về nội dung trên.
– Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
– Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.2, tr.225-227.
Tháng 8, ngày 14
Bài viết của Nguyễn Ái Quốc nhan đề Phong trào cách mạng ở Đông Dương, đăng trên Tập san Inprekorr, bản tiếng Pháp, số 91.
Tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến những hành động yêu nước “lần đầu tiên người ta thấy ở Đông Dương”, như phong trào phản đối việc bắt bớ và xử án cụ Phan Bội Châu đã buộc tên Toàn quyền Varen phải ân xá cho nhà lão thành cách mạng này, như cuộc biểu dương lực lượng của quần chúng yêu nước chống bọn thực dân phản động dưới danh nghĩa một cuộc đón rước Bùi Quang Chiêu – một người thuộc phái Quốc gia mới ở Pháp về, như phong trào để tang nhà chí sĩ Phan Châu Trinh diễn ra sôi nổi trong khắp cả nước bất chấp sự đe doạ và đàn áp của chính quyền thuộc địa.
Các tổ chức chính trị cũng lần lượt ra đời. Bắc Kỳ có Phục Việt, kêu gọi “Người Việt Nam không thể đội trời chung với người Pháp!… Hỡi dân tộc Việt Nam! Hãy mau mau thức tỉnh…”. Nam Kỳ có Đảng Lập hiến của một nhóm trí thức Tây học chủ trương “Pháp – Việt đề huề”, có tổ chức Thanh niên An Nam hoạt động tích cực, hướng tới việc thành lập đảng…
Cuối cùng, bài viết có đoạn: “Tình hình chính trị ở Đông Dương có thể tóm tắt trong lời than vãn sau đây của một tờ báo tiếng Pháp ở Bắc Kỳ: “Vụ biến động này… đã làm cho nước ta xưa nay yên ổn biết bao, đã trở thành trung tâm của những cuộc biến động và hỗn loạn”.
– Tập san Inprekorr, bản tiếng Pháp, số 91, ngày 14-8-1926.
– Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.2, tr. 228-233.
Tháng 9, ngày 18
Nguyễn Ái Quốc viết bài Người cách mạng mẫu mực, nêu 12 điều đòi hỏi ở một người cách mạng, bao quát các mặt về lý tưởng, về tinh thần hy sinh, về phẩm chất đạo đức, về phương pháp công tác.
Đoạn mở đầu và cũng là lời kết luận, tác giả viết:
“Sự nghiệp cách mạng rộng lớn và khó thực hiện; nó không thể do một người hay một nhà làm mà tốt được. Cách mạng của các nòi giống có mục đích là giải phóng các dân tộc yếu, sau tiến lên làm cách mạng thế giới, sẽ giải phóng toàn nhân loại khỏi ách đế quốc chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa”. Để hoàn thành vẻ vang vai trò này, người cách mạng kiểu mẫu phải có đầy đủ và thực hiện tốt những điều đó.
– Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.2, tr. 449-450.
Tháng 9
Tại Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc lúc bấy giờ lấy tên là Vương đã giao nhiệm vụ cho Nguyễn Lương Bằng, một trong số anh em trong Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên vừa học xong lớp huấn luyện chính trị, về nước tổ chức đường dây giao thông Hải Phòng – Hương Cảng để đưa thanh niên trong nước ra ngoài và chuyển tài liệu, sách báo từ nước ngoài về nước.
Sau này, nhớ lại Những lần gặp Bác, đồng chí Nguyễn Lương Bằng kể về sự kiện trên như sau:
“Hôm đó đồng chí Vương căn dặn nhiều điều… khi về nước, thì tìm gặp những bạn cũ ở quê nhà hay ở thành phố vẫn có tình thân với mình. Trong bất cứ câu chuyện gì, cũng gợi đến cảnh Pháp áp bức bóc lột. Nếu bà con tỏ ý đồng tình, thì hỏi: ta cứ để cho nó áp chế mãi sao? Bà con sẽ hỏi: sức đâu mà chẳng chịu? Nói: sức mạnh là ở đoàn kết, đoàn kết thì có sức mạnh lấy súng của giặc làm vũ khí của mình. Dần dần đưa bà con vào các phường họ, các hội ái hữu, tương tế. Người tích cực thì tổ chức vào Hội trước. Cứ thế mà mở rộng phong trào”.
“Đồng chí Vương dặn dò tôi cặn kẽ, tỉ mỉ nhất là về vấn đề giữ bí mật. Trước khi chia tay, đồng chí Vương lại bảo tôi phải chú ý một điểm: Mình ở nước ngoài về, thường là có mật thám theo. Cho nên mới về nước, không nên đi lung tung ngay, chưa nên vào nhà ai vội. Không những thế, nếu cần còn phải đóng vai người chơi bời để mật thám không chú ý”.
– Nguyễn Lương Bằng: Những lần gặp Bác. In trong Bác Hồ. Hồi ký của nhiều tác giả, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1975, tr. 36.
Tháng 10, ngày 24
Bài Nhân đức của Pháp của Nguyễn Ái Quốc đăng trên báo Thanh niên, số 66, viết về vụ nhà cầm quyền Pháp trong mùa nước lũ đã sai lính phá đê sông Hồng ở phía bên kia để giữ an toàn cho thành Hà Nội “vì có nhiều Tây ở”, mặc dầu chúng biết khi đê lở nước ào vào, người lính kia không phòng bị trước chắc chắn sẽ chết trôi và dân chúng bên đó chắc chắn sẽ bị nhấn chìm. Quả nhiên, người lính phá đê rồi thì chết đuối ngay. Và 20.000 dân ta bất thình lình bị nước ùa vào làm cho chết trôi hết.
Bài viết có đoạn:
“Thương ôi! Dân ta bị Tây nó giết mòn, giết mỏi. Giết cách này không chết hết, thì nó giết cách khác. Nó lấy rượu và a phiến làm cho dân ta chết nhiều. Nó bắt đi đào sông, đào đường bị nước độc mà chết. Nó bắt đi lính đi làm nô lệ bên các xứ đen 6) mà chết. Nay nó lại nhận chìm cả xứ!
Đồng bào ơi! Mau mau dậy cứu lấy nòi!
Kẻo mà Nam Việt đi đời nhà ma!”.
– Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.2, tr. 451.
Tháng 11, ngày 13
Từ Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc với tư cách “đặc phái viên” của báo, viết bài đầu tiên trong loạt bài Các sự biến ở Trung Quốc của đặc phái viên của chúng tôi gửi về cho báo L’Annam, một tờ báo xuất bản bằng tiếng Pháp ở Nam Kỳ do ông Phan Văn Trường làm chủ nhiệm.
Bài viết thông báo về những thắng lợi đầu tiên của Quân cách mạng Quốc dân 7) trong cuộc Bắc phạt do Tôn Trung Sơn phát động nhằm mở rộng thành quả cách mạng trong phạm vi cả nước, về những lục đục phe phái trong nội bộ chính quyền Bắc Kinh, về thái độ của các cường quốc nước ngoài với Quảng Châu.
Nói về nhiệt tình của dân chúng đối với Chính phủ Quốc dân, Nguyễn Ái Quốc nhận xét: “Sự nồng nhiệt của nhân dân chứng tỏ người Trung Quốc biết ơn dường nào vị lãnh tụ vĩ đại quá cố đã khơi dậy nơi họ ý chí tự giải phóng khỏi ách áp bức về ngoại giao mà bây giờ không gì có thể biện hộ được”.
Về quan hệ giữa các cường quốc với Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc nhận định: Họ “không phải là chính thức thừa nhận Chính phủ Quốc dân ở Quảng Châu mà là thực hiện một kế hoạch nhằm làm suy yếu Trung Quốc và đặt nước này dưới sự thống trị hoàn toàn của ngoại bang (…). Mưu mô này nhất định đã được Chính phủ Quốc dân nhận thấy, và những biện pháp thoả đáng đã được áp dụng để ngăn chặn việc thực thi này.
– Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.2, tr. 458-461.
Tháng 11, ngày 20
Nguyễn Ái Quốc viết bài thứ hai về Các sự biến ở Trung Quốc của đặc phái viên của chúng tôi. Ngoài việc thông báo phía Chính phủ Quốc dân “sự kiện nổi bật trong tuần qua là việc cải tổ cuối cùng hệ thống cai trị ở cấp tỉnh tại tỉnh Quảng Đông”, bài viết tập trung nói về những khó khăn bế tắc của chính quyền Bắc Kinh, đặc biệt là tình hình tài chính đã không đủ để chi tiêu cho quân sự, về những chia rẽ sâu sắc và phân hoá giữa các tướng lĩnh quân phiệt.
Nhận xét về diễn biến của chiến tranh, Nguyễn Ái Quốc viết: “Thái độ của dân chúng các tỉnh rõ ràng là thuận lợi cho Chính phủ Quốc dân… Thái độ đúng đắn của dân chúng quốc gia, lòng yêu nước và sự trong sạch của các thủ lĩnh dân sự và quân sự, sự đoàn kết giữa họ, lòng mong muốn thành thật và rõ ràng của họ là vì lợi ích chung, tất cả những cái đó làm cho dư luận dân chúng ủng hộ Chính phủ Quốc dân… Họ không bỏ lỡ cơ hội nào để chứng tỏ cảm tình của mình đối với Quân giải phóng” 8).
– Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.2, tr. 462-465.
Tháng 11, ngày 28
Bài viết Người An Nam ở Xiêm 9) của Nguyễn Ái Quốc đăng trên báo Thanh niên, số 71.
Tác giả đã điều tra và cho biết về số lượng, về tín ngưỡng, về nghề nghiệp, về thân phận của 3 vạn dân Việt đã “lưu ly thất sở, tan cửa tan nhà, phải bỏ quê cha đất tổ, dạt ra đất khách quê người” kể từ ngày thực dân Pháp xâm chiếm nước ta.
Nhận xét chung về người An Nam ở Xiêm khi đó, Nguyễn Ái Quốc phải thốt lên: “Tình cảnh người mình như vậy đều là lưu lạc quê người, cứ kể bình thường thì người An Nam ở Xiêm trông thấy nhau nên thương yêu nhau, giúp nhau là phải, nào ngờ vẫn giữ lấy thói dã man nào lương giáo giết nhau, lợi hại tranh nhau, lừa đảo nhau, chém giết nhau đến nỗi đem nhau đi kiện cáo cho Xiêm, Lào sỉ nhục. Vì một tính không biết đoàn thể, đã đến nỗi bỏ nước mà đi, lại còn vẫn không giác ngộ thế thì sao còn trách người Xiêm nó khinh, nó chửi. Nói ra thật đau lòng”.
– Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.2, tr. 455-456.
Tháng 12, ngày 10
Trong bài thứ ba viết về Các sự biến ở Trung Quốc của đặc phái viên của chúng tôi, về tình hình ngoại giao, Nguyễn Ái Quốc cho biết các cường quốc nước ngoài vẫn “tiếp tục quan hệ với một chính phủ mà quyền hạn không vượt quá các tường thành của Bắc Kinh, một chính phủ chỉ có cái tên, mà lý do duy nhất tồn tại là sự công nhận ngoại giao của các cường quốc”. Tuy nhiên, lập trường nào của họ đã có sự thay đổi, họ “có thể ký với Chính phủ Quốc dân một thứ tạm ước, chẳng hạn thừa nhận nó bình đẳng với Chính phủ Bắc Kinh”.
Nguyễn Ái Quốc còn cho biết, theo dư luận của báo chí, trước sức tiến công của Quân Quốc dân, nhiều nơi như ở Hán Khẩu và Thượng Hải đã lấy cớ “cứu tính mạng và của cải người nước ngoài bị đe doạ” để yêu cầu các cường quốc can thiệp.
Mặc dù vậy, Nguyễn Ái Quốc vẫn nhận định: “Cho đến nay, các sự kiện đã diễn ra theo kế hoạch Chính phủ định ra và kế hoạch ấy được thực hiện dễ dàng là do dân chúng nông thôn tận tình, do có sự đồng lòng giữa những nhà chức trách dân sự và quân sự, do lòng mong muốn chung góp phần cải tổ lại nước Trung Hoa. Cho đến nay, chưa bao giờ dân chúng Trung Quốc lại nêu một tấm gương về sự đoàn kết dân tộc, về chính trị, tốt đẹp đến như thế…”.
– Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.2, tr. 466-469.
Tháng 12, ngày 12
Bài viết của Nguyễn Ái Quốc, nhan đề Bà Trưng Trắc, ký bút danh H.T., đăng trên báo Thanh niên, số 73.
Sau khi thuật lại cuộc khởi nghĩa của hai bà Trưng Trắc, Trưng Nhị, tác giả bình luận: “Can đảm thay! Phận thuyền quyên vì nước quên mình! Tuy chỉ trong 3-4 năm nhưng cũng đủ làm cho bọn tu mi quân giặc mất vía”. Và kêu gọi:
“Như buổi ấy là buổi phong kiến mà đàn bà, con gái còn biết K. m 10). Huống chi bây giờ hai chữ “nữ quyền” đã rầm rầm khắp thế giới, chị em ta lại gặp cảnh nước suy vi, nỡ lòng nào ngồi yên được! Chị em ơi! Mau mau đoàn kết lại!”.
– Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.2, tr. 457.
Tháng 12, ngày 24
Nguyễn Ái Quốc viết bài thứ tư về Các sự biến ở Trung Quốc của đặc phái viên của chúng tôi. Ngoài việc phản ánh một số nét về tình hình ở Bắc Kinh, Thiên Tân và Quảng Đông, bài viết tập trung nói về chính sách ngoại giao của Anh ở Trung Quốc.
Theo tác giả, nước Anh đang thi hành chính sách ngoại giao hai mặt ở Trung Quốc. Một mặt, trong khi tiếp tục duy trì quan hệ với Bắc Kinh, Anh đã cử đại diện tiếp xúc và hội đàm với Chính phủ Quốc dân nhằm mục đích lôi kéo Trung Hoa Dân quốc tham gia vào sự phòng thủ và duy trì những hiệp ước bất bình đẳng cần phải được xoá bỏ. Mặt khác, tăng cường lực lượng hải quân ở các cửa biển, hòng gây áp lực với Chính phủ Quốc dân.
Vì vậy, Nguyễn Ái Quốc nhận xét, “dư luận nhân dân tố cáo kịch liệt mưu toan ngoại giao nhằm cung cấp cho kẻ thù của Chính phủ Quốc dân những phương tiện để có tiền của chống lại Chính phủ ấy”, “báo chí của phái dân tộc chủ nghĩa không che giấu sự bất bình lớn của mình, và đã có những lời bình luận không có lợi cho nước Anh”.
– Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.2, tr. 470-474.
Tháng 12, ngày 31
Chính phủ Quốc dân sau một năm là nội dung chính bài viết thứ năm Các sự biến ở Trung Quốc của đặc phái viên của chúng tôi của Nguyễn Ái Quốc.
Tác giả điểm lại cách nhìn nhận của các nước Viễn Đông, của giới ngoại giao nước ngoài về Chính phủ Quốc dân một năm trước đây, họ cho rằng chính phủ đó chỉ là “một nhúm gây rối làm tay sai cho Quốc tế III, nếu không phải là cho nước Nga Xôviết”, rằng “Tất cả các cuộc biểu tình của thợ thuyền ở miền Nam cũng như ở miền Bắc và miền Trung, của Trung Quốc được tổ chức dường như là do những người bônsêvích lãnh đạo”, rằng “Những người dân tộc chủ nghĩa đòi hỏi huỷ bỏ những hiệp ước giữa Trung Quốc với nước ngoài không có lợi cho quyền lợi của dân tộc Trung Hoa, đều là những nhân viên “đỏ” tay sai của Mátxcơva”, v.v..
Nhận định về tình hình của Chính phủ Quốc dân sau một năm, tác giả viết: “Dư luận nước ngoài, tuy còn chống đối những người dân tộc chủ nghĩa, bây giờ không còn cố chấp như đầu năm trước”, “các giới chính trị của phần lớn các nước cũng xem xét những khả năng ấy”, “các cường quốc nước ngoài công nhận Chính phủ”, “Chính đảng mạnh, Quốc dân Đảng, chính đảng duy nhất có một tổ chức cho phép tiếp xúc thường xuyên với các giai cấp khác nhau trong nhân dân Trung Quốc, được thừa nhận như là người đại diện của những khát vọng dân tộc Trung Hoa, và Chính phủ Quốc dân, chính phủ duy nhất xứng đáng với cái tên ấy tồn tại ở Trung Quốc, được xem như là chính quyền duy nhất có thể nói chuyện được”.
Nguyễn Ái Quốc cũng nêu một trong những lý do khiến dư luận nước ngoài đã có sự đánh giá khác về Chính phủ Quốc dân chỉ sau một năm:
“Dư luận nước ngoài nhận thấy rằng Quốc dân Đảng thực sự mong muốn lợi ích cho Trung Quốc và Chính phủ Quốc dân thành thực mong muốn đạt điều đó.
Người nước ngoài nhận thấy rằng sau một năm thành lập Chính phủ Quốc dân ở Quảng Châu và ở các tỉnh, sự kiểm soát của những người dân tộc chủ nghĩa lan ra dần dần, những biện pháp về chính trị và hành chính thực sự nhằm mục đích thiết lập ở Trung Quốc một chính phủ của dân, do dân và vì dân, theo ba nguyên tắc lớn của người sáng lập Quốc dân Đảng”.
– Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.2, tr. 475-479.
Trong năm
Từ năm 1923 đến năm 1926, căn cứ vào những sự kiện có thật, bằng lời văn châm biếm sâu sắc mang tính chiến đấu mạnh mẽ, Nguyễn Ái Quốc viết một loạt bài bằng tiếng Pháp, bóc trần bộ mặt tàn bạo của thực dân Pháp ở Đông Dương trên mọi lĩnh vực: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội. Các bài viết cũng đồng thời phản ánh phong trào đấu tranh cách mạng ở Đông Dương và vạch ra con đường đúng đắn cho cách mạng Đông Dương là gắn chặt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc với cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp vô sản.
Năm 1962, các bài viết nói trên được tập hợp thành cuốn sách lấy tên là Đây “công lý” của thực dân Pháp ở Đông Dương!, do Nhà xuất bản Sự thật xuất bản lần đầu tiên bằng tiếng Việt, nội dung cuốn sách gồm các vấn đề:
– Nước Việt Nam dưới con mắt người Pháp.
– Tâm địa thực dân.
– Đông Dương khổ nhục.
– Đời sống kinh tế.
– Độc quyền ăn cướp.
– Chế độ nhượng quyền và những kẻ được nhượng quyền.
– Những thảm hoạ của nền văn minh Pháp.
– Các quan cai trị.
– Ăn bám và hỗn độn.
– Những tội ác của chủ nghĩa quân phiệt.
– Tạp dịch hay là khổ sai.
– Công chính.
– Thuế khoá.
– Giáo hội.
– Chính sách ngu dân.
– Chế độ báo chí.
– Công lý.
– Phong trào cách mạng ở Đông Dương.
– Cuộc kháng Pháp.
– Hồ Chí Minh: Đây “công lý” của thực dân Pháp ở Đông Dương, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1962.
————–
1) Bức thư do Tưởng Vĩnh Kính công bố trong cuốn Hồ Chí Minh ở Trung Quốc, Đài Bắc Truyện ký xuất bản xã, 1972. Bản gốc lưu tại Quảng Châu (B.T).
2) Tệ nhân có nghĩa là tôi, một lối nói khiêm nhường. Do bức thư viết theo lối văn cổ nên chúng tôi giữ nguyên từ ngữ Nguyễn Ái Quốc dùng (B.T).
3) Quốc dân Đảng Trung Quốc ở thời kỳ này theo đuổi những mục đích rất tiến bộ do Tôn Trung Sơn đề xướng, nên Nguyễn Ái Quốc nêu khẩu hiệu trên (B.T).
4) Một bí danh của Trương Thái Lôi (B.T).
5) Ở nguyên bản là: Redactie Petir, Langxa, Atjeh – Sumatra (B.T).
6) Châu Phi (B.T).
7) Tháng 7-1925, Chính phủ cách mạng Quảng Châu đổi tên là Chính phủ Quốc dân. Lực lượng vũ trang cách mạng trước đây gọi là Quân cách mạng
Quốc dân (hay còn gọi là Quân Quốc dân) (B.T).
8) Chỉ quân cách mạng Quốc dân (B.T).
9) Từ năm 1938 đổi tên là Thái Lan (B.T).
10) Cách mạng (B.T).
Theo dangcongsan.vn
Vkyno (st)