Những người Việt ở Hoàng Sa năm 1937-1938

Ghi chép

QĐND-LTS: Đại tá Nguyễn Văn Bính, giảng viên Học viện khoa học Quân sự vừa chuyển cho chúng tôi một ghi chép đề năm 1998 của cha mình là nhà thơ Nguyễn Minh Hiệu (1924-1998), nguyên hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Phó trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Thanh Hóa về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.

“Giáá như gặp được ông bạn kiều bào nào ở Pa-ri về nước lần này, tôi thử gợi ý xem, khi trở sang bên ấy, nhờ bà con ta ở Pháp hỏi xem có biết gia đình, con cháu ông Nguyễn Kỳ, kỹ sư mỏ ở Đông Dương hồi những năm 30, hiện còn những ai? Chắc là những tư liệu riêng của ông ta trong chuyến đi ra Paracels tức đảo Hoàng Sa năm 1938 ấy vẫn còn nhiều đấy.

Mà chẳng riêng gì ông Kỳ và 4 người chúng tôi trong nhóm cán bộ kỹ thuật thuộc sở mỏ Đông Dương (Service des Mines de l’Indochine francaise) cử theo ông ta mới có mặt ở Hoàng Sa từ tháng 4 đến tháng 8-1938. Trước đó, đã có 60 người lính Việt, phần lớn quê ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, ra đóng ở đảo này, dưới quyền của một viên chỉ huy người Pháp lai – nhìn rất “Việt Nam” chỉ có cái mũi là hơi giống người Âu, mà lúc đó thường gọi tắt là ông Môn. Đơn vị quân sự này ra đảo từ năm 1937. Họ xây dựng những công sự ngầm, những kho tàng ngầm chứa lương thực, thực phẩm và cả nước ngọt, đủ dự trữ cho hai, ba năm. Nói chính xác hơn là xây loại kho tàng công sự nửa nổi nửa chìm hoặc một phần nổi hai phần chìm. Tất cả đều khéo nguỵ trang. Chúng tôi ăn chung bếp với lính, ông Nguyễn Kỳ ăn cơm với lão Môn tây lai. Nhưng nhóm kỹ thuật không được phép tò mò quan sát đến các công trình, công sự của họ. Điều đó không chỉ là nguyên tắc mà còn là một kỷ luật nghiêm ngặt lắm. Họ xây cả trụ đèn biển. Và trong số các kho ngầm còn có chứa riêng những vỏ ốc quý trên đảo. Khi chúng tôi trở về đất liền, công việc của nhóm nhà binh này vẫn còn tiếp tục”.

Bác Nguyễn Hựu, 75 tuổi (thời điểm năm 1988-SK&NC), nguyên Giám đốc mỏ Cổ Định, nay đã nghỉ hưu ở Thị xã Thanh Hóa đã kể với tôi như vậy.

Quê gốc bác Hựu cũng chính ở Nam Ngạn, phía Nam cầu Hàm Rồng. Ngày ấy ở Hoàng Sa về được ba năm gì đó, bác lại được cử về khảo sát các mỏ vùng Vĩnh Lộc, Hà Trung (Thanh Hóa). Ở đây bác được đồng chí Nguyễn Văn Huệ (nay đã 80 tuổi), tuyên truyền giác ngộ cách mạng. Sau Tổng khởi nghĩa năm 1945 thành công, Nguyễn Hựu đã từng có thời gian công tác ở Tiểu ban kinh tài của Liên khu 4; họ tổ chức khai thác các mỏ phốt-pho-rít ở Vinh và Thanh Hóa. Sau này đánh Pháp, ông được giao xây dựng và quản lý nhà máy phốt phát Nam Phát Thanh Hoá, rồi mới lên nhận công tác ở Crô-mít Cổ Định.

Bác Hựu kể tiếp:

“Chuyến ra đảo năm 1938 ấy đối với chúng tôi hết sức bất ngờ về tất cả các mặt, từ kỹ thuật nghiệp vụ cũng như nếp sống sinh hoạt và tâm lý, ứng xử, giao tiếp. Một ngày vào hạ tuần tháng ba dương lịch, kỹ sư Nguyễn Kỳ đột ngột triệu tập chúng tôi tới phòng ông ta nói là có lệnh trên cho ra đảo khảo sát. Bốn người được chỉ định có anh Trịnh Đình Hướng quê ở Bắc Ninh, chuyên hóa nghiệm; anh Lê Đức Bảo quê ở Vĩnh Lộc, Thanh Hóa, chuyên về đo đạc; anh Nguyễn Thế Trừ ở vùng cửa sông Ghép và tôi là khảo sát.

Hai giờ chiều hôm sau, chúng tôi xuôi Hải Phòng. Năm giờ sáng hôm sau nữa, cả đoàn đáp chuyến tàu chở hàng của hãng Xô-va (Sauvage), thường gọi là hãng tàu “Tây điếc”, đi Đà Nẵng. Tàu chạy bằng guồng máy. Lênh đênh trên biển mất 5 ngày mới tới nơi. Kỹ sư Nguyễn Kỳ ở khách sạn Tây, 4 chúng tôi được bố trí ở một khách sạn của người Hoa.

Ở Đà Nẵng gần một tuần thì một hôm có hai người đến gặp, đưa cho mỗi chúng tôi một tờ khai theo mẫu thống nhất, cam đoan ra đảo phải làm theo sự hướng dẫn của bộ phận quản lý ngoài đảo, còn phần chuyên môn thì do ông kỹ sư Nguyễn Kỳ phụ trách. Gần sát ngày lên đường, họ mới cho biết nơi đảo sắp đến đã có một cơ đội lính của Nam triều (chính phủ Bảo Đại) ra trước từ gần một năm rồi, các điều kiện sinh hoạt ngoài đó đến lúc này đã được chuẩn bị, không có gì thay đổi lắm so với đất liền.

Hôm sau nữa, chúng tôi được phát giấy tờ tùy thân xem như ngư dân ra đảo đánh cá làm nước mắm. “Nào chúng tôi có biết chút gì về nghề cá mú đâu!”. Họ trả lời: “Đây chỉ là hình thức bên ngoài phải làm như vậy, còn khảo sát thăm dò mỏ vẫn cứ là phần việc riêng của các anh chứ!”. Miễn là phải nhớ, bất cứ có ai hỏi đến, tất cả đều nói là được tuyển mộ ra làm nghề cá cho Nam triều.

Tiếp đó họ phát cho chúng tôi mỗi anh hai bộ quần áo bà ba nâu, hai mảnh vải làm khố, một áo tơi lá và một chiếc nón đan theo kiểu ngư dân miền biển. Chúng tôi mua thêm mỗi người một cái bếp cồn, mua thuốc lá và mấy thứ lặt vặt khác.

9 giờ ngày 2-4-1938, đoàn chúng tôi chính thức khởi hành trên chiếc tàu nhà binh Clốt Sáp (Claude Saf) của Pháp. Hôm đó gió to, sóng lớn, chiều 3-4-1938 mới tới nơi cả nhóm đều say sóng, lên đảo nằm li bì mất hai ngày mới tỉnh táo trở lại.

Trụ sở hành chính của Việt Nam trên đảo Hoàng Sa trước năm 1945.

Căn nhà của 4 chúng tôi ở căng bằng vải bạt. Trước mặt có cột cờ. Lá cờ vàng của Nam triều bay phần phật. Cách đấy dăm chục mét là dãy nhà bạt của bộ phận ra trước đánh cá. Kỹ sư Nguyễn Kỳ ở trên nhà bạt với ông Tây lai chỉ huy (được đóng giả như một ông chủ thầu đánh cá). Chúng tôi không tò mò nhưng rồi cũng biết đó là viên quan Một, những người kia là một cơ lính khố xanh. Thời kỳ này, quân đội Nhật đã chiếm Mãn-Châu (1931), gây sự kiện Lư Cầu Kiều (7-1937), mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược ra cả Trung Quốc và hải quân Nhật đã hoạt động mạnh cả ở vùng biển phía này. Chính quyền Pháp phải tổ chức phòng ngự ở Hoàng Sa, nhưng buổi đầu hãy tạm ngụy trang như đơn vị làm kinh tế của chính phủ Nam triều ở Huế

Cụm Hoàng Sa lúc bấy giờ có khoảng bốn năm chục hòn đảo, nhưng chỉ có đảo Paracel là rộng hơn cả, diện tích quy lại cũng được khoảng một ki-lô-mét vuông. Mặt đảo là bãi cát bồi bằng đá san hô phong hóa, có nhiều ụ con nổi lên cao hơn mặt nước biển ba, bốn mét. Các đảo khác cũng có cát bồi và đá san hô nham nhở, nhưng diện tích đều hẹp. Có đảo chỉ thực sự thấy được khi nước triều rút xuống. Trên hòn đảo Paracel có loại cỏ lá dài, mép lá rất sắc. Có loại cây thân như cây núc nác nhưng lá lại như kiểu tàu chuối rừng. Ngoài mép nước gần bờ có những cụm sú vẹt. Sau này, trong những ngày chúng tôi đã xong công việc, chỉ còn chờ tàu ra đón vào đất liền, mấy anh nấu bếp của cơ lính khố xanh mới thuật kể cho nghe thêm nhiều truyền thuyết và những mẩu chuyện về Hoàng Sa do các cụ vùng quê Quảng Nam, Quãng Ngãi của những ông bạn này từng kể lại. Thì ra từ đời Minh Mạng hay trước và sau đó nữa, các vua nhà Nguyễn đã sai chở nhiều giống cây từ đất liền ra trồng trên đảo làm điểm tiêu cho tàu bè từ xa đã biết có đảo san hô mà lựa tránh khỏi mắc đá ngầm. Nhưng thuyền ra nhỏ, chở được có hạn. Nhiều cây không hợp thủy thổ, lại gió lộng suốt ngày suốt tháng, cây khó trụ nổi.

Ở Hoàng Sa có nhiều loại chim hải âu, màu lông trắng có, đen có, hoặc màu đen nâu như chim két cũng có. Đêm đến hải âu về đảo trú ngụ. Sáng ra, trên bãi có hàng ngàn quả trứng. Chúng tôi đốt bếp cồn luộc lên nếm thử mới biết trứng hải âu vị chát, rất khó ăn. Mùa đồi mồi sinh sản, hàng đêm những con đồi mồi cái cũng tìm lên mép đảo đẻ trứng ấp con. Đặc biệt là ở đây rất nhiều vỏ ốc quý, có hàng trăm loại, nhiều màu sắc xanh, đỏ, tím, vàng. Có nhiều loại chỉ bằng móng tay. Có nhiều loại to bằng quả bưởi, ánh mặt trời chiếu vào nhấp nhánh như kim cương. Có những chiếc vỏ ốc gần như trong suốt, soi lên đèn thấy ánh lên những vân màu khác nhau rất đẹp. Anh em cho biết còn có những loại vỏ trai, vỏ ốc lớn hơn nhiều, nhưng các lớp người đến trước đã thu nhặt mất.

San hô ở đây cũng nhiều màu: Ngà trắng, vàng, xanh xanh… Chung quanh các kẽ đá san hô là nơi ẩn náu của họ hàng cua bể và cá hồng. Khi có giờ rỗi, chỉ cần đem ít gạo rang hay một dúm cơm xuống là hàng đàn cá hồng kéo đến tranh nhau ăn. Chúng tôi lấy kim găm uốn thành lưỡi câu, luyện cơm dẻo làm mồi cũng có bận câu được hàng yến. Cho nên thức ăn cua cá chẳng thiếu mà chỉ thèm rau xanh. Và ở đây cũng còn một nét bất ngờ nữa là cả ngày lẫn đêm lộng gió, vùng đảo không hề có muỗi mà vẫn có đàn dơi khá đông, loại màu nâu, loại màu đen. Anh em quê Nam, Ngãi cho biết loại này cũng từ đất liền ra. Chúng ăn moi biển nên rất béo, có con to bằng con chim sáo. Lúc no mồi cần nghỉ ngơi, chúng náu mình trong các kẽ đá san hô.

Dụ số 10 của Bảo Đại ký ngày 29-3-1938 khẳng định chủ quyền lâu đời của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Kỹ sư Nguyễn Kỳ chỉ huy nhóm chúng tôi khảo sát, thăm dò trữ lượng và chất lượng phân chim ở Hoàng Sa. Nhưng được phép khảo sát ở hòn đảo nào lại do bộ phận quản lý đảo quy định chứ không thể tự do như những chuyến đi thăm dò mở trên đất liền. Anh Bảo đem máy đo đạc, xác định tọa độ kinh vĩ xong là chúng tôi bắt tay vào việc đào hào thám sát. Hào đào rộng mỗi bề một mét, sâu xuống hai đến ba mét, tùy nơi, chỗ cát ào xuống thì đem gỗ chèn. Gặp đá san hô rắn thì dùng búa đục. Trữ lượng phân chim ở đây có tới vài vạn tấn, chất lượng vào loại tốt, trong đó có chất diêm tiêu làm thuốc súng, có nitrat kali đem bón ruộng càng tốt. Phân tích tụ đã từ rất lâu đời, có chỗ dày tới ba mét. Hào đào xuống vài mét đã thấy một thứ nước khoáng rỉ ra, màu hơi vàng vàng. Bộ phận hóa nghiệm cũng phải làm phân tích cả thứ nước khoáng này.

(Xem tiếp số sau)

Minh Hiệu
qdnd.vn

Advertisement