Sửa đổi Hiến pháp năm 1992 dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI vừa qua đã khẳng định luận điểm chỉ đạo mới (tiếp theo luận điểm chỉ đạo rất tiến bộ và dân chủ của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X về việc xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp và trong việc ban hành quyết định của các cơ quan công quyền) là: Nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thiết chế và cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; khẩn trương nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992…

Hiến pháp trong nhà nước pháp quyền bao giờ cũng mang tính pháp chế tối thượng

Không có khái niệm chung về Hiến pháp. Qua nghiên cứu Hiến pháp của các nhà nước pháp quyền trên thế giới thì thấy, Hiến pháp trong nhà nước pháp quyền là đạo luật cơ bản nhà nước có tính pháp chế tối thượng và hiệu lực pháp lý trực tiếp cao nhất trên toàn bộ lãnh thổ của một quốc gia, mà trong đó ghi nhận và điều chỉnh các chế định trung tâm và chủ yếu nhất liên quan đến những cơ sở của chế độ hiến định, các quyền và tự do của con người và của công dân, các lĩnh vực cơ bản và quan trọng hơn cả trong việc tổ chức, thực hiện và kiểm soát quyền lực nhà nước của bộ máy công quyền cũng như trong đời sống chính trị, kinh tế và xã hội của đất nước. Như vậy, có thể khẳng định rằng bản chất chính trị, tư tưởng và pháp lý của Hiến pháp trong nhà nước pháp quyền được thể hiện ở chỗ, với tư cách là văn kiện chính trị pháp lý chủ yếu và là khế ước xã hội quan trọng nhất của một quốc gia, Hiến pháp trong nhà nước pháp quyền bao giờ cũng mang tính pháp chế tối thượng so với tất cả các văn bản quy phạm pháp luật khác trong hệ thống pháp luật của quốc gia đó, có hiệu lực pháp lý trực tiếp cao nhất. Đồng thời, Hiến pháp là nền tảng của quyền lực nhà nước và trật tự pháp luật, là cơ sở để thực thi và bảo vệ một cách vững chắc và hữu hiệu các quyền và tự do hiến định của con người và của công dân tránh khỏi sự xâm hại của quyền lực nhà nước. Hiến pháp trong nhà nước pháp quyền ghi nhận và điều chỉnh ba nhóm quan hệ xã hội chủ yếu và quan trọng nhất gồm: Các chế định trung tâm và chủ yếu nhất liên quan đến những cơ sở của chế độ hiến định, các quyền và tự do của con người của công dân; các lĩnh vực cơ bản và quan trọng hơn cả trong việc tổ chức, thực hiện và kiểm soát quyền lực nhà nước của bộ máy công quyền và các lĩnh vực cơ bản, quan trọng hơn cả trong đời sống chính trị, kinh tế và xã hội của đất nước.

Nghiên cứu tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước trong các nhà nước pháp quyền trên thế giới đương đại cho thấy, nếu các quy phạm này trong Hiến pháp được soạn thảo một cách khoa học, chặt chẽ về mặt kỹ thuật lập hiến, nhất quán về logic pháp kỹ và khả thi, đáp ứng được việc điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội chủ yếu nhất thì sẽ có vai trò rất quan trọng đối với việc tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền trên 3 khía cạnh. Thứ nhất, bằng việc ghi nhận đầy đủ những nguyên tắc cơ bản, các quy phạm và các chế định quan trọng hơn cả về tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước tương ứng với ba nhánh quyền lực truyền thống là quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, Hiến pháp trong nhà nước pháp quyền khẳng định một chân lý tối thượng – tinh hoa của nền văn minh nhân loại là, nhân dân – người sáng tạo nên lịch sử – tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, chủ quyền của nhân dân cao hơn chủ quyền của nhà nước. Vấn đề này thể hiện rõ nhất ở quyền lập hiến của nhân dân. Thứ hai, bằng việc phân công rõ ràng, rành mạch nhưng thẩm quyền và chức năng của các cơ quan công quyền tương ứng với ba nhánh quyền lực truyền thống đã nêu, Hiến pháp trong nhà nước pháp quyền góp phần tạo nên các cơ sở hiến định để các quan chức của các cơ quan này có thể thực thi đúng, đầy đủ và hiệu quả chức trách công vụ của mình với tư cách là những công bộc, những người đầy tớ của nhân dân. Thứ ba, bằng việc ghi nhận đầy đủ, khoa học và chặt chẽ những nguyên tắc cơ bản, các quy phạm và các chế định quan trọng hơn cả về kiểm soát quyền lực nhà nước tương ứng với ba nhánh quyền lực, Hiến pháp trong nhà nước pháp quyền góp phần điều chỉnh ở mức cao nhất sự phối hợp, phân công và cân bằng, cũng như sự kiểm tra và chế ước lẫn nhau giữa các cơ quan công quyền của các nhánh này nhằm loại trừ các biểu hiện tùy tiện, lạm quyền, tệ quan liêu, tham nhũng, hách dịch, cửa quyền, xâm phạm các quyền và tự do hiến định của công dân, đồng thời đem lại các dịch vụ công tốt nhất cho xã hội.

Những hạn chế trong quy định về tổ chức bộ máy nhà nước của Hiến pháp 1992

Sau gần 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, nước ta đã thu được những thành tựu rất lớn. Tuy nhiên, xét ở khía cạnh tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước, Hiến pháp năm 1992 đã bộc lộ một số hạn chế cần được phân tích sâu sắc với cái nhìn thẳng thắn để phục vụ cho việc nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 tới đây.

Hiện nay, Hiến pháp chưa có sự điều chỉnh về mặt lập hiến quy trình lập pháp cũng như quy trình miễn nhiệm các chức vụ nhà nước cao cấp do Quốc hội phê chuẩn và do Chủ tịch nước bổ nhiệm. Chưa xác định được ranh giới rõ rệt giữa các cơ quan thuộc các nhánh quyền lực nhà nước khác nhau. Hiến pháp năm 1992 cũng thiếu các quy phạm đề cập đến cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung để tạo nên được sự phối hợp và cân bằng cũng như sự kiểm tra và chế ước nhau giữa các cơ quan công quyền thuộc các nhánh quyền lực nhà nước. Đây chính là vấn đề cơ bản nhất tạo ra kẽ hở cho sự tuỳ tiện, hiệu quả thấp và năng lực quản lý nhà nước yếu trong hoạt động của các cơ quan công quyền.

Các quy phạm liên quan đến cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành cũng chưa đầy đủ và còn mang tính một chiều vì trong khi hai nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp được Hiến pháp trao khá nhiều quyền để thực hiện sự kiểm soát quyền lực đối với nhánh quyền lực tư pháp thì ngược lại, không có quy định nào ghi nhận sự kiểm soát quyền lực của nhánh tư pháp đối với hành pháp và lập pháp.

Quy trình lập hiến và hiệu lực của Hiến pháp là phần rất quan trọng cần được điều chỉnh cụ thể và công khai từng công đoạn trong quy trình lập hiến như soạn thảo – sửa đổi – bổ sung – thông qua – công bố Hiến pháp để toàn thể nhân dân được biết nhưng Hiến pháp hiện hành mới ghi nhận một công đoạn của quy trình lập hiến là: Khi nào thì Hiến pháp được sửa đổi.

Nghiên cứu kỹ các quy phạm của Hiến pháp năm 1992 có liên quan đến việc tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước cũng thấy bộc lộ một số hạn chế. Hiến pháp năm 1992 thiếu một chế độ hiến định cơ bản là chế độ xã hội với sự điều chỉnh chưa đầy đủ một số lĩnh vực liên quan đến đời sống xã hội của một quốc gia và các lợi ích thiết thực của nhân dân cũng như một số đối tượng yếu thế trong xã hội. Các quy phạm về các chế định quyền con người và quyền công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp nhưng về mặt kỹ thuật lập pháp cũng có một số vấn đề. Ví dụ, Hiến pháp quy định các quyền cơ bản của công dân, vậy các quyền không cơ bản là các quyền nào và không lẽ, các quyền không cơ bản này không cần được ghi nhận trong Hiến pháp hay sao? Hiến pháp cũng thiếu các quy phạm về cơ chế pháp lý để bảo vệ các quyền hiến định này khiến cho những công dân không có kiến thức về pháp luật rất khó tự bảo vệ được các quyền hiến định của mình khi các quyền này bị xâm phạm.

Sửa đổi Hiến pháp năm 1992 dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh

Để khắc phục những hạn chế nêu trên trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 tới đây, trước hết cần bảo đảm sự nhận thức khoa học thống nhất về việc sửa đổi Hiến pháp dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh mà sự phản ánh rõ nét hơn cả trong Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa để từ đó kế thừa các giá trị của Hiến pháp năm 1946, lĩnh hội những tinh hoa quý báu từ chủ nghĩa lập hiến của nhân loại.

Từ thực tiễn thi hành Hiến pháp năm 1992 và trên cơ sở nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật kiểu mới của Việt Nam cho phép khẳng định rằng: Ba đặc tính nhân dân, dân chủ và pháp quyền là nội dung quan trọng nhất của một Nhà nước và nền pháp luật kiểu mới sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 của Hồ Chí Minh mong muốn xây dựng (mà sự thể hiện rõ nét nhất điều này là sự chỉ đạo sáng suốt của Người trong việc soạn thảo ra bản Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa – nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á). Hiến pháp sửa đổi nhất thiết phải là Hiến pháp phản ánh rõ nét chủ quyền của nhân dân trong toàn bộ các quy định về tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước. Vì theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Chính phủ ta là Chính phủ của nhân dân”…; “là đày tớ, công bộc của nhân dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân chứ không phải là để đè đầu cưỡi cổ dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật”; “Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ… nếu Chính phủ mà có hại cho dân chúng, thì dân chúng phải lật đổ Chính phủ đó”; “Trong bầu trời này không có gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”; “Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ bất kỳ ở cấp nào, ngành nào đều phải là người đầy tớ trung thành của nhân dân”; “Bao nhiêu lợi ích đều phải vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân ta phải hết sức tránh”…

Hiến pháp sửa đổi nhất thiết phải là bản Hiến pháp thể hiện trên thực tế sự tham gia rộng rãi của nhân dân vào các hoạt động của quá trình tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước. Vì Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được nhân dân”; “Nước ta là nước dân chủ. Địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”; “Chính quyền nhân dân lãnh đạo phải dân chủ, thiết thực… và có nhiệm vụ thực hiện tự do dân chủ cho dân chúng”; “Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền” nên “quyền phải giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người”.

Hiến pháp sửa đổi cũng nhất thiết phải là bản Hiến pháp ghi nhận đầy đủ, rõ ràng, khoa học và chính xác các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đặc biệt là cơ chế bảo hiến bằng nhánh quyền lực tư pháp để tránh khắc phục những hạn chế trong tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước hiện hành. Vì quan niệm chủ quyền của nhân dân và dân chủ chỉ có thể được thực hiện trên thực tế bằng Hiến pháp và pháp luật trong nhà nước pháp quyền nên ngay từ năm 1922 trong tác phẩm Việt Nam yêu cầu ca, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Bảy xin Hiến pháp ban hành, trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Hiến pháp sửa đổi cần trao cho nhân dân quyền trực tiếp bầu ra những người công bộc đại diện cho họ để thực hiện quyền lực ở cả hai nhánh quyền lực nhà nước còn lại mà Hiến pháp năm 1992 chưa quy định như: Nhánh quyền hành pháp – bầu Chủ tịch nước và tất cả Chủ tịch UBND các cấp; nhánh quyền tư pháp – bầu tất cả các thẩm phán Tòa án nhân dân và tất cả các kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân địa phương các cấp.

Sửa đổi Hiến pháp dựa trên tư tưởng lấy dân làm gốc

Cần xác định một cách đồng bộ những cơ sở khoa học, thực tiễn của việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam. Cụ thể, việc sửa đổi Hiến pháp cần bảo đảm sự phù hợp với thực tiễn pháp lý cũng như các điều kiện cụ thể hiện nay của nước ta về kinh tế, xã hội, tâm lý, đạo đức, văn hóa, lịch sử, tôn giáo, truyền thống… để sau khi được thông qua, các quy định của Hiến pháp sửa đổi sẽ thực sự là những căn cứ pháp lý nền tảng cho hệ thống pháp luật quốc gia cũng như cho việc điều chỉnh những nhóm vấn đề chủ yếu tương ứng với các lĩnh vực cơ bản và quan trọng nhất trong sinh hoạt nhà nước – xã hội.

Việc sửa đổi Hiến pháp cần đáp ứng được các quan hệ xã hội đang tồn tại ở Việt Nam đương đại trong gần 20 năm qua và có tính đến sự phát triển tiếp tục của các quan hệ xã hội này trong tương lai để sau khi được thông qua các quy định của Hiến pháp sửa đổi đi vào cuộc sống lâu dài.

Cần lĩnh hội các tư tưởng pháp lý tiến bộ và dân chủ với tư cách là những tinh hoa của nền văn minh nhân loại như: sự tôn trọng và bảo vệ các quyền và tự do của con người và của công dân; sự phối hợp, phân công, cân bằng, kiểm tra và chế ước nhau giữa các nhánh quyền lực nhà nước; sự bảo vệ Hiến pháp bằng nhánh quyền lực tư pháp…

Việc sửa đổi Hiến pháp cần góp phần thúc đẩy một cách tích cực cho thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển và củng cố các thiết chế của xã hội dân sự và thành công của công cuộc cải cách tư pháp trên đất nước Việt Nam. Và điều quan trọng là, việc sửa đổi Hiến pháp cần dựa trên tư tưởng lấy dân làm gốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Đề xuất điều chỉnh 5 nhóm quan hệ xã hội chủ yếu trong sửa đổi Hiến pháp năm 1992

Nên chăng trong lần sửa đổi Hiến pháp tới đây, cần điều chỉnh ít nhất 5 nhóm quan hệ xã hội chủ yếu tương ứng với ít nhất là 18 lĩnh vực chủ yếu và quan trọng trong sinh hoạt nhà nước – xã hội gồm:

Thứ nhất: nhóm những vấn đề liên quan đến 3 chế độ hiến định lớn của một quốc gia là chế độ chính trị, chế độ kinh tế và chế độ xã hội.

Thứ hai: nhóm những vấn đề liên quan đến địa vị pháp lý của cá nhân là chế định các quyền con người, chế định nghĩa vụ công dân và hệ thống các cơ chế pháp lý để bảo vệ các quyền hiến định này ở cả hai cấp độ quốc gia và quốc tế.

Thứ ba: nhóm những vấn đề liên quan đến đến các chế định về tổ chức, thực hiện và kiểm soát quyền lực nhà nước là quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và quyền kiểm sát – nếu vẫn giữ nguyên việc tổ chức hệ thống Viện kiểm sát nhân dân như hiện nay và chính quyền địa phương.

Thứ tư: nhóm những vấn đề liên quan đến quy trình lập hiến gồm soạn thảo – sửa đổi – bổ sung – thông qua và công bố Hiến pháp cũng như hiệu lực của Hiến pháp.

Thứ năm: nhóm những vấn đề liên quan đến các quy định chuyển tiếp để điều chỉnh hiệu lực tạm thời của các quy định pháp luật hiện hành và thẩm quyền của một số chức vụ nhà nước thuộc cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp nếu không trái với các quy định của Hiến pháp sửa đổi.

Theo TSKH Lê Văn Cảm (daibieunhandan.vn)
Huyền Trang (st)

bqllang.gov.vn

Advertisement