Thư viện

Khi cử tri giám sát nghị trường

Kỳ họp này, lần đầu tiên Quốc hội tiến hành lấy phiếu tín nhiệm các chức danh do Quốc hội bầu, phê chuẩn. Nội dung lấy phiếu tín nhiệm đã được cụ thể hóa trong Nghị quyết của Quốc hội và các hướng dẫn thi hành, nhưng điều quan trọng nhất là làm thế nào để việc lấy phiếu đạt được mục đích, ý nghĩa đặt ra, cử tri mong muốn đại biểu Quốc hội phát huy tinh thần, trách nhiệm cao trước nhân dân, công tâm, độc lập trong chính kiến để có kết quả tín nhiệm một cách chính xác nhất.

Hôm nay (20/5), khai mạc kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIII.

Có hai điểm mới được cử tri kỳ vọng ở kỳ họp lần này.

Thứ nhất, đó là tăng thời lượng phát thanh, truyền hình trực tiếp. Sự quan tâm của cử tri tới các phiên họp của Quốc hội, UBTV Quốc hội, các Ủy ban của Quốc hội được truyền hình, phát thanh trực tiếp, chủ đề liên quan các vấn đề nóng trong đời sống xã hội như y tế, giáo dục, giao thông vận tải, chống tham nhũng, giải quyết khiếu kiện, khiếu nại… Tại các phiên Quốc hội chất vấn, trả lời chất vấn, từ việc theo dõi trực tiếp qua truyền hình, đài phát thanh, nhiều cử tri bày tỏ chính kiến cũng như gửi câu hỏi kiến nghị tới Quốc hội, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ thông qua đường bưu điện, hộp thư điện tử, một số trường hợp nhắn tin, gọi điện trực tiếp. Thực chất, đó là kênh giám sát trực tiếp của cử tri từ hoạt động nghị trường của cơ quan quyền lực do nhân dân bầu.

Hiện diện ở những phiên chất vấn, thảo luận, giải trình trực tiếp như vậy, các thành viên do Quốc hội bầu, phê chuẩn (thành viên Chính phủ, thành viên UBTV Quốc hội, các chức danh khác) thể hiện được hai khả năng trước toàn dân: Thuyết trình và năng lực thực hiện nhiệm vụ chuyên môn. Trước các câu hỏi, chất vấn, khả năng trả lời, thuyết trình là cách “ghi điểm” tín nhiệm trong đại biểu Quốc hội và cử tri cả nước. Điều này lý giải vì sao người trả lời hay, thuyết phục, rõ ràng cũng như những vị đại biểu Quốc hội thường xuất hiện với các chất vấn nóng, gay cấn lại tạo được dấu ấn sâu đậm ở cử tri. Tuy nhiên, yếu tố thứ hai mang tính chất nội dung, đó là việc thực hiện lời hứa trước Quốc hội và cử tri ra sao. Bởi lý do này, các kỳ họp gần đây, Quốc hội đều yêu cầu các vị Bộ trưởng, trưởng ngành phải có báo cáo về việc thực hiện các nghị quyết chất vấn, trả lời chất vấn, những vấn đề đã làm được cũng như còn “nợ” kỳ sau. Tính chất đối thoại trực diện này hấp dẫn bởi nhiều tình tiết người trả lời không thể chuẩn bị trước.

Kỳ này, Quốc hội dành 9 ngày cho các phiên truyền hình, phát thanh trực tiếp, chiếm khoảng 34% thời gian kỳ họp. Đáng chú ý, ngoài các phiên truyền hình, phát thanh trực tiếp mang tính truyền thống như thảo luận tình hình kinh tế, xã hội, ngân sách Nhà nước; chất vấn và trả lời chất vấn thì Quốc hội cũng truyền hình, phát thanh trực tiếp những phiên thảo luận các dự luật quan trọng để cử tri cả nước tiện theo dõi, như thảo luận dự thảo Hiến pháp 1992 sửa đổi, dự án Luật Đất đai sửa đổi, báo cáo về việc thực hiện Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí…

Kỳ họp này, lần đầu tiên Quốc hội tiến hành lấy phiếu tín nhiệm các chức danh do Quốc hội bầu, phê chuẩn. Đây là nội dung đã được ghi trong Hiến pháp 1992, tuy nhiên sau hơn 20 năm với nhiều cố gắng, lần đầu tiên vấn đề này được hiện thực hóa tại nghị trường Quốc hội. Nội dung lấy phiếu tín nhiệm đã được cụ thể hóa trong Nghị quyết của Quốc hội và các hướng dẫn thi hành, nhưng điều quan trọng nhất là làm thế nào để việc lấy phiếu đạt được mục đích, ý nghĩa đặt ra, cử tri mong muốn đại biểu Quốc hội phát huy tinh thần, trách nhiệm cao trước nhân dân, công tâm, độc lập trong chính kiến để có kết quả tín nhiệm một cách chính xác nhất

Đăng Trường

Theo cand.com.vn
Vkyno (st)

Chung tay khắc phục hậu quả bom mìn

(VOV) -Để làm sạch hết bom mìn sau chiến tranh, Việt Nam cần kinh phí trên 10 tỷ USD…

Ngày thế giới phòng chống bom mìn (4/4) hàng năm là dịp nhắc nhở mọi người về mối hiểm nguy từ bom mìn, một loại vũ khí do con người chế tạo ra, được con người sử dụng trong các cuộc chiến tranh. Ở nước ta, dù chiến tranh đã qua đi gần 40 năm nhưng đến nay, số bom đạn còn sót lại sau chiến tranh vẫn rất lớn, ảnh hưởng nặng nề đến tính mạng, tài sản của nhân dân, đến phát triển kinh tế, an toàn xã hội và môi trường ở nhiều địa phương.

Đến nay nước ta vẫn còn khoảng 6 triệu hecta, chiếm 20% diện tích đất đai ô nhiễm bom mìn, với số lượng ước tính khoảng 800.000 tấn bom mìn, vật nổ còn sót lại. Nhiều người gọi đó là những nơi chiến tranh vẫn còn đang ở lại.

300 năm nữa Việt Nam mới rà phát hết số bom mìn, con số vừa được Bộ Lao động – Thương binh & Xã hội đưa ra khiến nhiều người giật mình. 300 năm – có nghĩa là nỗi đau chiến tranh mà nhân dân Việt Nam phải gánh chịu nặng nề và lâu dài hơn nhiều người tưởng. Điều này cũng có nghĩa là trong hàng trăm năm nữa, số lượng bom mìn, vật nổ khổng lồ đang ẩn sâu dưới lòng đất có thể trở thành nỗi hiểm nguy đối với tính mạng con người bất cứ lúc nào.

Tháo gỡ bom mìn (Ảnh: ANTĐ)

Rải rác trên khắp đất nước, đặc biệt là ở 6 tỉnh miền Trung, cứ vài ngày lại một vụ nổ xảy ra. Có người bị tàn tật, mất chân, mất tay, hỏng mắt, có những người đã mãi mãi ra đi khi tuổi đời còn quá trẻ. Hàng năm, Chính phủ đã chi hàng nghìn tỷ đồng cho việc rà phá, cấp cứu hỗ trợ các nạn nhân. Các địa phương cũng có nhiều nỗ lực trong việc tìm kiếm, rà phá bom mìn, song kết quả vẫn rất hạn chế.

Đau đớn hơn, ở nhiều nơi, có những người vì mưu sinh vẫn phải hàng ngày chấp nhận đối mặt với cái chết để tìm kiếm sắt vụn từ những trái bom, mìn, vật nổ còn sót lại sau chiến tranh. Điều đó cho thấy, công tác khắc phục hậu quả bom mìn còn phải bắt đầu từ việc làm thay đổi nhận thức của người dân.

Làm sao để nâng cao năng lực và huy động nhiều nguồn lực để tăng tốc độ rà phá bom mìn, làm sao sau vài chục năm tới cơ bản giải quyết hậu quả bom mìn sau chiến tranh. Đó là nhiệm vụ của Chính phủ và là mong ước của hàng triệu người dân Việt Nam.

Năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình hành động quốc gia khắc phục hậu quả bom mìn sau chiến tranh. Theo ước tính, để làm sạch hết bom mìn sau chiến tranh, Việt Nam cần kinh phí trên 10 tỷ USD, chưa kể hàng tỷ USD khác cho việc tái định cư và đảm bảo an sinh xã hội ở vùng bị ô nhiễm bom mìn.

Giữ trọng trách trong công tác khắc phục hậu quả bom mìn chính là những người lính công binh. Chiến tranh đã đi qua, nhưng với họ, hòa bình vẫn chưa thực sự đến. Hàng ngày, vẫn có bao người lính công binh tình nguyện xa gia đình, xa vợ con để lên đường, có mặt ở những nơi rừng thiêng, nước độc, nơi sự sống và cái chết mong manh, để những vùng đất họ đi qua trở nên xanh hơn, cuộc sống người dân thanh bình hơn.

Để triển khai Chương trình hành động quốc gia khắc phục hậu quả bom mìn sau chiến tranh, nhiều nhiệm vụ mới đang đặt ra đối với những người lính công binh, như xây dựng bản đồ vùng ô nhiễm bom mìn trên toàn quốc; lập trung tâm dữ liệu về xử lý bom mìn; nâng cao năng lực, trình độ trong công tác rà phá, xử lý bom mìn… Bình quân mỗi năm gần 100.000 hecta đất đai được rà phá, đưa vào canh tác, góp phần xóa đói giảm nghèo.

Trong 5 năm tới, việc rà phá, làm sạch, sẽ tập trung ở 6 tỉnh có mật độ bom mìn còn sót lại nhiều nhất là Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, Quảng Nam và Quảng Ngãi. Tất cả các công việc này sẽ cần đến một nguồn lực không nhỏ.

Bên cạnh cam kết của Chính phủ sẽ huy động tối đa nguồn lực để khắc phục hậu quả chiến tranh, bên cạnh sự đồng lòng chung sức của người dân, Việt Nam cũng rất cần sự giúp đỡ của các nước, của các tổ chức và bạn bè quốc tế nhằm đẩy nhanh tiến độ rà phá, xử lý bom mìn, để không còn những tiếng nổ đau thương trên mảnh đất đã chịu quá nhiều mất mát trong chiến tranh./.

Hải Yến/VOV1
vov.vn

6 điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân – Ý nghĩa giáo dục sâu sắc, rộng lớn và bền vững

PGS. TS Nguyễn Trọng Phúc – Nguyên Viện Trưởng Viện Lịch Sử Đảng
6 điều Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên về tư cách người Công an cách mệnh đã 65 năm… Những chuẩn mực đạo đức đó của người Công an cách mạng cho đến nay vẫn có ý nghĩa giáo dục sâu sắc, bền vững và sức lan tỏa đặc biệt không chỉ trong lực lượng CAND mà trong toàn hệ thống chính trị. Cán bộ, đảng viên, công chức có thể soi vào nhiều điều trong 6 điều dạy của Bác để học tập, rèn luyện và hành động.

65 năm qua, 6 điều Bác Hồ dạy luôn là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của lực lượng Công an nhân dân (CAND), giúp lực lượng CAND hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trong mọi thời kỳ cách mạng, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Hướng tới lễ kỷ niệm và Hội thảo 65 năm lực lượng CAND học tập, thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy mà Bộ Công an sắp tổ chức, Báo CAND trích đăng một số bài viết về chủ đề này của các tác giả trong và ngoài lực lượng CAND.

Năm 1948, Báo Bạn dân (Nội san của Công an Khu XII) ra số Tết Nguyên đán Mậu Tý. Đồng chí Hoàng Mai, Giám đốc Công an Khu XII đã gửi số báo Tết đó biếu Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tháng 3-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có thư gửi đồng chí Hoàng Mai. Mở đầu bức thư, Người viết:

“Bác đã nhận được thư và báo cháu gửi tặng Bác. Bác thấy có sự cố gắng, đáng hoan nghênh. Nhưng báo theo cháu nói, từ 24 đến 32 trang thì dài quá. Cần làm ngắn lại và viết những vấn đề thật thiết thực, mọi người đọc đều có thể hiểu và làm được. Như thế mới có tác dụng giúp đẩy mạnh công tác, đẩy mạnh thi đua. Trên báo, cần thường xuyên làm cho anh chị em Công an nhận rõ Công an của ta là CAND, vì dân mà phục vụ và dựa vào dân mà làm việc.

Nhân dân ta có hàng chục triệu người, có hàng mấy chục triệu tai mắt, tay, chân. Nếu biết dựa vào nhân dân thì việc gì cũng xong.

Trên tờ báo phải luôn luôn nhắc nhở anh em rèn luyện tư cách đạo đức. Tư cách của người Công an cách mệnh là:

Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính.
Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ.
Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành.
Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép.
Đối với công việc, phải tận tụy.
Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập tư cách người Công an cách mạng khi Đảng Cộng sản đã cầm quyền và Nhà nước cách mạng đã trải qua 3 năm xây dựng, phát triển và đang tổ chức sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của toàn dân tộc và xây dựng chế độ xã hội mới. CAND là lực lượng quan trọng trong bộ máy Nhà nước cách mạng góp phần vào sự nghiệp vẻ vang đó. Công an cách mạng Việt Nam ngay từ buổi đầu xây dựng gắn liền với sự ra đời của Nhà nước cách mạng và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền. Vì vậy, tư cách của người Công an cách mạng thống nhất về bản chất trong tư cách của người cách mạng, người cộng sản, người cán bộ, công chức của một Nhà nước cách mạng kiểu mới – Nhà nước phục vụ nhân dân chứ không phải cai trị nhân dân.

Cách mạng Tháng Tám 1945 thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng cầm quyền mong muốn và quyết tâm xây dựng một Nhà nước cách mạng thật sự của dân, do dân, vì dân. Trên thực tế, Nhà nước đó đã làm được nhiều việc có lợi cho dân, song một số cán bộ, công chức đã có những lầm lỗi, khuyết điểm mà Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 17/10/1945 gửi Ủy ban nhân dân các cấp đã thẳng thắn chỉ ra như: Trái phép, Cậy thế, Hủ hóa, Tư túng, Chia rẽ, Kiêu ngạo. Sau 2 năm cầm quyền, tháng 10-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, nêu rõ những nội dung về xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền, nhiều vấn đề về đạo đức cách mạng. Người đặc biệt nhấn mạnh Tư cách và đạo đức cách mạng, Tư cách của Đảng chân chính cách mạng với 12 điều cơ bản. Từ tư cách của một người cách mệnh đến tư cách của Đảng chân chính cách mạng là sự phát triển và thống nhất nhận thức, hành động trong tiến trình cách mạng để xây dựng một chế độ xã hội mới, bảo đảm thực hiện những mục tiêu cao cả của cách mạng…

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và huấn thị cho cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân vũ trang bảo vệ Thủ đô (14/2/1961).

Mỗi một giai cấp, một lực lượng chính trị, một Đảng chính trị khi cầm quyền đều chú trọng xác lập nền tảng, chế độ kinh tế và xây dựng chế độ chính trị, kiến trúc thượng tầng thích hợp. Chế độ chính trị và kiến trúc thượng tầng đòi hỏi không ngừng hoàn thiện nhà nước, pháp luật, ý thức hệ và đạo đức. Đạo đức là một trong những hình thức sớm nhất của ý thức xã hội, là bộ phận quan trọng trong kiến trúc thượng tầng xã hội. Đạo đức là những chuẩn mực xã hội điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ với người khác và cộng đồng (gia đình, làng xóm, giai cấp, dân tộc, quốc gia, xã hội). Mỗi một giai cấp, dân tộc có những chuẩn mực phù hợp với giai cấp, dân tộc mình và phát triển cùng với các thời đại lịch sử. Người ta căn cứ vào các chuẩn mực đó mà đánh giá hành vi của mỗi cá nhân thành viên của xã hội theo quan niệm về thiện và ác, về những điều không được làm vì vi phạm đạo đức và những gì mà mỗi người phải làm, hợp với đạo đức. Khác với pháp luật, đạo đức không làm thành văn bản pháp quy có tính bắt buộc, mà mọi người tự giác thực hiện theo sự thôi thúc của lương tâm, lòng tự trọng và được kiểm soát bởi dư luận xã hội…

Chuẩn mực đạo đức của người Công an cách mạng thống nhất với chuẩn mực đạo đức của người đảng viên cộng sản, người cán bộ, công chức của Nhà nước, đồng thời thể hiện đặc điểm riêng của công tác Công an. CAND là lực lượng có nhiệm vụ cao cả, nặng nề là bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ Đảng, Nhà nước và cuộc sống bình yên của nhân dân, chống các thế lực phản động, thù địch và các loại tội phạm, giữ gìn ANQG và TTATXH. Nhiệm vụ đó không chỉ là bảo vệ mà còn có ý nghĩa xây dựng xã hội mới, tạo dựng đời sống xã hội tốt đẹp. Ở mỗi thời kỳ cách mạng, kể cả trong hòa bình xây dựng đất nước, nhiệm vụ đó không hề giảm nhẹ, đòi hỏi người Công an cách mạng không ngừng nâng cao trình độ và rèn luyện đạo đức mới có thể hoàn thành nhiệm vụ.

6 điều Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên về tư cách người Công an cách mệnh đã 65 năm. Nhiều thế hệ cán bộ, chiến sỹ CAND trong kháng chiến chống thực dân Pháp, trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và xây dựng CNXH ở miền Bắc và trong sự nghiệp xây dựng CNXH trên cả nước, bảo vệ Tổ quốc và thực hiện công cuộc đổi mới, đã phấn đấu, rèn luyện và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ từ lời dạy sâu sắc của Người. Những chuẩn mực đạo đức đó của người Công an cách mạng cho đến nay vẫn có ý nghĩa giáo dục sâu sắc, bền vững và sức lan tỏa đặc biệt không chỉ trong lực lượng CAND mà trong toàn hệ thống chính trị. Cán bộ, đảng viên, công chức có thể soi vào nhiều điều trong 6 điều dạy của Bác để học tập, rèn luyện và hành động.

Khi nhận thức đạo đức như những chuẩn mực trong quan hệ giữa con người với nhau và với cộng đồng và được xã hội thừa nhận, trên thực tế đã làm nổi bật những quan hệ cơ bản trong đời sống chính trị xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt lên hàng đầu quan hệ nội tâm, nội tại (tự mình) của mỗi con người. Sự tự rèn luyện của mỗi cá nhân là đặc biệt quan trọng, vượt qua những cám dỗ, ham muốn, giữ vững lý tưởng cách mạng, niềm tin thật sự cần, kiệm, liêm, chính là điều căn bản đối với mỗi cán bộ, chiến sỹ Công an. Các mối quan hệ khác được Bác Hồ đề cập thật giản dị mà sâu sắc (với đồng sự, với Chính phủ, với nhân dân, với công việc, với địch). Những quan hệ đó không chỉ là cách ứng xử, mà còn là trách nhiệm công vụ, bản chất chính trị của CAND trong bộ máy Nhà nước cách mạng kiểu mới ở Việt Nam. Càng đọc, càng suy ngẫm về sáu điều Bác Hồ dạy CAND càng thấy sự thống nhất kỳ lạ giữa tư cách đạo đức với chức trách, nhiệm vụ, giữa tình và nghĩa, giữa nhận thức và hành động, giữa sự nghiệp lớn lao và những hành vi cụ thể. Sự thống nhất đó trong những điều Bác dạy đã làm sáng lên phẩm chất cao đẹp và cũng là niềm tự hào của CAND mà nhiều thế hệ đã phấn đấu hy sinh, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc.

So với 65 năm trước, hiện nay cách mạng Việt Nam đã phát triển và lớn mạnh chưa từng có. Đất nước đã độc lập, thống nhất hoàn toàn và đi lên CNXH. Hơn một phần tư thế kỷ thực hiện công cuộc đổi mới với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử cả về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh và đối ngoại.

Hiện nay, nhiệm vụ xây dựng, phát triển đất nước theo con đường XHCN, bảo vệ Tổ quốc và ANQG có nhiều thuận lợi, song cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức cả ở trong nước và diễn biến phức tạp của tình hình và quan hệ quốc tế. Phải chủ động phòng ngừa, làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”, hoạt động gây rối, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; đấu tranh ngăn chặn và xử lý có hiệu quả các hoạt động cơ hội chính trị, các loại tội phạm hình sự, nhất là tội phạm nguy hiểm, có tổ chức, tội phạm ma túy, tội phạm có yếu tố nước ngoài, tội phạm lợi dụng công nghệ cao, sử dụng vũ khí nóng, chống người thi hành công vụ. Lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó có CAND còn phải tham gia tích cực, có hiệu quả vào các chương trình phát triển kinh tế – xã hội, hoạt động cứu hộ, cứu nạn, phòng chống và khắc phục thiên tai, bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân. Với những nhiệm vụ nặng nề đó, càng đòi hỏi CAND, mỗi cán bộ, chiến sỹ thực hiện tốt hơn 6 điều Bác Hồ dạy trong thực tiễn công tác, chiến đấu.

Học tập và làm theo 6 điều Bác Hồ dạy CAND trong tình hình hiện nay không tách rời nhiệm vụ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và thực hiện một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay mà Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI đã đề ra. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 Khóa XI (1-2012) cho rằng: “Bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ, chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ”. Trung ương đã nêu rõ 3 vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay, trong đó vấn đề hàng đầu là: “Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và của nhân dân đối với Đảng”.

Để ngăn chặn và đẩy lùi có hiệu quả sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, phải thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp về tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong gương mẫu của cấp trên; về công tác tổ chức, cán bộ và sinh hoạt đảng; về xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách và về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng như Nghị quyết Trung ương 4, Khóa XI đã đề ra.

Hiện nay, thực hiện tốt 6 điều Bác Hồ dạy CAND cũng là góp phần thực hiện có hiệu quả việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 Khóa XI. Nhớ lời Bác, trước hết đối với tự mình, mỗi một cán bộ, đảng viên, chiến sĩ trong lực lượng CAND cũng như trong toàn Đảng, toàn hệ thống chính trị suy nghĩ nghiêm túc về trách nhiệm của mình tự rèn luyện, học tập, làm việc tốt nhất, khắc phục những khuyết điểm, yếu kém, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với sự tin yêu của nhân dân

N.T.P.
cand.com.vn

Các Mác với con đường cách mạng của dân tộc ta

Kỷ niệm lần thứ 195 Ngày sinh C. Mác (5/5/1818 – 5/5/2013)

TS. Cao Đức Thái
Các Mác là nhà tư tưởng vĩ đại, có ảnh hưởng sâu sắc nhất đến tiến trình lịch sử nhân loại trong suốt thế kỷ XX cho đến nay. Thế giới quan – Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; Chính trị – kinh tế học; Chủ nghĩa Cộng sản khoa học mà ông và người đồng chí thân thiết, Ph.Ăngghen dày công nghiên cứu, xây dựng đã trở thành cơ sở phương pháp luận cho các ngành khoa học xã hội và nhân văn, cho đường lối, chiến lược cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.

C. Mác mất ngày 14-3-1883, thọ 65 tuổi. Trong điếu văn đọc tại nghĩa trang Hai-Ghết (Luân Đôn), Ph. Ăngghen nói: “Đối với giai cấp vô sản đang đấu tranh ở châu Âu và châu Mỹ, đối với khoa học lịch sử, cái chết của con người đó là một tổn thất không sao lường hết được. Sau đây, người ta sẽ cảm thấy nỗi trống trải do cái chết của con người khổng lồ ấy gây  ra”(2).

Nhận xét về nhân cách người Cộng sản vĩ đại đó, Ph. Ăngghen nói: “Mác là người bị căm ghét nhiều nhất và bị vu khống nhiều nhất trong thời đại ông. Các chính phủ, cả chuyên chế lẫn cộng hoà, đều trục xuất ông… Và, ông đã mất đi, được hàng triệu người cộng sự cách mạng với ông ở khắp châu Âu và châu Mỹ, từ những hầm mỏ Xi-bia cho đến Ca-li-pho-ni-a tôn kính, yêu mến và khóc thương, và tôi có thể mạnh dạn nói rằng: ông có thể có nhiều kẻ thù, nhưng chưa chắc đã có một kẻ thù riêng nào cả”(3).

Vào năm 1999, năm cuối cùng của thế kỷ XX, trong cuộc thăm dò bình chọn nhà tư tưởng lớn nhất thế kỷ (XX) do Đại học Cambridge(Anh) tổ chức, kết quả là C. Mác đứng đầu, người phát minh Học thuyết tương đối Anh-Xtanh đứng thứ hai.

Đối với dân tộc ta, Nguyễn Ái Quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh, với thiên tài trí tuệ và sự kế thừa truyền thống yêu nước của dân tộc đã sớm tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Người cùng với Đảng ta đã xây dựng đường lối cách mạng, lãnh đạo dân tộc ta đi từ cách mạng giải phóng dân tộc, chống đế quốc xâm lược, thống nhất đất nước, tiến lên xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Cho đến nay, Chủ nghĩa Mác-Lênin cùng với Tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn đang soi sáng sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thông qua Đại hội XI viết: “Đảng lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động…”(4).

Lênin đã từng nói: Cách tốt nhất để kỷ niệm một cuộc cách mạng là tập trung sự chú ý vào những nhiệm vụ mà cuộc cách mạng đó chưa hoàn thành. Tương tự như vậy, kỷ niệm  lần thứ 195 ngày sinh của C.Mác đối với chúng ta ngày nay đó là thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) – “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, củng cố sự kiên định về mục tiêu, lý tưởng cách mạng…, coi đây là vấn đề sống còn của Đảng và chế độ ta.

(1) Giảng viên cao cấp, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên  cứu  quyền con người, Học viện Chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.

(2) (3) Mác, Ăngghen, Tuyển tập, tập V, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1983, tr.661.

(4) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XI, NXB CTQG, HN, 2011, tr 88

C.Đ.T.
cand.com.vn

Lấy phiếu tín nhiệm không thể bất chấp nguyên tắc

Câu chuyện Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (ĐHKTQD) dường như chưa thể có hồi kết. Trong khi quyết định xử lý kỷ luật mức cảnh cáo ông Nguyễn Văn Nam, Hiệu trưởng Trường ĐHKTQD vẫn còn đang gây bức xúc dư luận vì không thỏa đáng, thì những ngày gần đây, ở trường này lại diễn ra trò mới. Đó là một cuộc “chạy đua” không đẹp mắt của một số ứng viên đang được nhắm vào vị trí Hiệu trưởng mới; đồng thời Hiệu trưởng đương nhiệm Nguyễn Văn Nam vẫn có nhiều động thái không minh bạch.

Ngày 10/4/2013, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ký Văn bản số 2370/BGDĐT-TCCB về việc tổ chức lấy phiếu tín nhiệm để bổ nhiệm Hiệu trưởng mới Trường ĐHKTQD (nhiệm kỳ 2013-2018). Cuộc bỏ phiếu này sẽ tiến hành vào ngày 25/4/2013. Ngày 17/4/2013, Hiệu trưởng Nguyễn Văn Nam ký ban hành Quyết định số 197/QĐ- ĐHKTQD-TCCB “về việc thành lập Tổ công tác phối hợp thực hiện quy trình để đề nghị cấp có thẩm quyền bổ nhiệm nhân sự giữ chức vụ Hiệu trưởng Trường ĐHKTQD nhiệm kỳ 2013-2018”.

Theo quyết định này, tổ công tác có 11 thành viên, trong đó ông Nguyễn Văn Nam, Bí thư Đảng ủy, Hiệu trưởng, người vừa bị kỷ luật cảnh cáo lại là Tổ trưởng và ông Nguyễn Đức Hiển, Trưởng phòng Tổ chức cán bộ được giao làm Ủy viên thường trực.

Trong bức thư đề ngày 18/4 của GS.TSKH Lê Du Phong, nguyên quyền Hiệu trưởng (2002-2003) gửi Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phạm Vũ Luận đã nhấn mạnh: “Về quyết định lấy phiếu tín nhiệm Hiệu trưởng mới của trường do Bộ trưởng ký (thành lập tổ công tác) ngày 10/4/2013 cũng vậy, Hiệu trưởng và Trưởng phòng Tổ chức cán bộ cũng giữ kín không cho ai biết (ngay cả một số Phó Hiệu trưởng – Thường vụ Đảng ủy). Thế rồi Hiệu trưởng ra quyết định thành lập tổ công tác giúp Bộ thực hiện việc này. Xin báo cáo với GS Bộ trưởng là tổ công tác này toàn những người thân cận của GS Nam (nếu làm nghiêm túc thì một vài người trong đó đã bị kỷ luật nặng như Nguyễn Đức Hiển chẳng hạn). Vì thế tôi rất lo ngại sự minh bạch, sự công tâm của tổ này trong việc giúp tổ công tác của Bộ, nhất là trong việc kiểm phiếu”.

Trong khi “tổ công tác với 11 thành viên” này đang gây nhiều mối nghi ngờ, khó hiểu với cán bộ, công nhân viên nhà trường, thì tối 18/4, một vị ứng cử viên để ngồi ghế Hiệu trưởng mới đã mở tiệc chiêu đãi thịnh soạn tại nhà hàng Quán Gió, Công viên Thống Nhất, Hà Nội. Vị này còn công khai tặng hàng trăm suất quà cho hầu hết số người thuộc diện được đi bỏ phiếu ngày 25/4…

Theo GS Nguyễn Văn Thường, nguyên Hiệu trưởng và GS Nguyễn Thành Độ, nguyên Phó Hiệu trưởng của ĐH KTQD thì việc làm của vị này là trục lợi, động cơ không trong sáng và không hay chút nào vào thời điểm nhạy cảm này.

Theo thông tin của Báo CAND, do nắm bắt được tâm tư của đông đảo cán bộ giáo viên của ĐH KTQD phản đối việc ông Nam và ông Hiển là thành viên tổ công tác bổ nhiệm Hiệu trưởng mới, chiều 22/4, Bộ GD&ĐT đã triệu tập, chỉ đạo và yêu cầu ông Nam, ông Hiển ra khỏi danh sách tổ công tác.

Thay vào đó là GS.TS Phan Công Nghĩa, Phó Hiệu trưởng Thường trực làm Tổ trưởng và ông Nguyễn Anh Tuấn, Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy, Giám đốc Trung tâm Đào tạo liên tục thay ông Nguyễn Đức Hiển. Đồng thời tổ công tác của Bộ sẽ trực tiếp kiểm phiếu ngay tại chỗ có sự giám sát của Đảng ủy và các Giáo sư Phan Công Nghĩa, Nguyễn Viết Lâm.

Sáng 24/4, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Bùi Văn Ga đã có buổi làm việc “khẩn cấp” với nhà trường về quy trình lấy phiếu tín nhiệm, bổ nhiệm Hiệu trưởng mới. Thứ trưởng cho biết, tổ công tác của Bộ thực hiện theo đúng quy định của Ban Tổ chức TW Đảng để đảm bảo sự công khai minh bạch. Tổ công tác của Bộ sẽ tham gia kiểm phiếu, còn việc nhân sự sẽ do Đảng ủy và quần chúng trong trường giới thiệu, Bộ không can thiệp vào nhân sự…

Thiết nghĩ, chuyện lấy phiếu tín nhiệm là một hoạt động thường xuyên ở bất cứ cơ quan, tổ chức nào. Nhưng “lấy phiếu tín nhiệm” như cách làm của Trường ĐH KTQD, đến mức mà Bộ GD&ĐT phải can thiệp, rút bớt thành viên ra khỏi tổ công tác thì là điều khó chấp nhận ở một trường ĐH lớn như ĐH KTQD. Hy vọng, với sự giám sát chặt chẽ của Bộ GD&ĐT, quy trình lấy phiếu tín nhiệm bầu Hiệu trưởng mới của ĐH KTQD sẽ đảm bảo sự minh bạch, dân chủ, chọn được người thực tâm, thực tài giúp đoàn kết nội bộ, phát huy được sức mạnh tập thể, giúp lập lại kỷ cương ở một trường đại học lớn

PV
cand.com.vn

Vì sao nhà báo Trần Văn Thông chưa được công nhận liệt sĩ?

Góp ý – Kiến nghị

QĐND – Nhà báo Trần Văn Thông, tấm gương hoạt động của một đảng viên cộng sản, một người lính chống Pháp, một nhà báo thời chống Mỹ hy sinh trong khi làm nhiệm vụ dưới mưa bom bão đạn đến nay vẫn còn bị lãng quên. Dư luận đề nghị các cơ quan chức năng tỉnh Nghệ An sớm vào cuộc xác minh và vinh danh liệt sĩ Trần Văn Thông.

Theo cách mạng từ nhỏ rồi trở thành anh Vệ quốc đoàn gan góc chiến đấu trong đội hình Trung đoàn 95 bám trụ ở chiến trường Khu 5 nhiều năm liền thời kỳ chống Pháp. Ngày xuất ngũ, ông chuyển sang công tác tại Huyện ủy Nghĩa Đàn. Với trình độ Prime (đệ tứ chương trình giáo dục thời thuộc Pháp) và có năng khiếu viết báo, ông được Ban miền Tây (Phân ban của Tỉnh ủy Nghệ An) cử sang công tác tại Báo Miền Tây Nghệ An.

Trong trận bom khốc liệt ngày 23-5-1965, nhà báo Trần Văn Thông và Tổng biên tập Đặng Loan đang trực chiến tại cơ quan đã vĩnh viễn ra đi. Lực lượng cứu thương và gia đình tìm kiếm thi thể nhà báo Trần Văn Thông nhiều ngày nhưng vô vọng. Gần nửa thế kỷ trôi qua, gia đình mới tìm thấy hài cốt của ông ngay dưới nền đất trụ sở cơ quan Báo Miền Tây thuở nào. Cũng từng ấy năm, nhà báo Trần Văn Thông hy sinh trong khi làm nhiệm vụ vẫn chưa được công nhận là liệt sĩ.

12 tuổi, trốn gia đình theo cách mạng

Sinh năm 1924 tại Hà Tĩnh, là con cả của gia đình có 4 anh em nên Trần Văn Thông đã sớm chứng kiến cảnh áp bức, bóc lột của phong kiến và thực dân Pháp. Năm 1936, 12 tuổi, Trần Văn Thông bỏ học, trốn gia đình từ Hà Tĩnh sang vùng Phủ Quỳ (Nghệ An) để đi theo cách mạng. Tại đây, Trần Văn Thông làm việc trong đồn điền Phan Văn Quý. Năm 1944, vừa tròn 20 tuổi, Trần Văn Thông được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam rồi hoạt động trong đoàn thể Việt Minh dưới vỏ bọc là thư ký cho chủ đồn điền cao su, cà phê Phan Văn Quý.

Nhà báo Trần Văn Thông (thứ hai, từ trái qua) cùng đồng nghiệp của mình. Người thứ tư (từ trái qua) là đồng chí Trần Văn Cung, Thường vụ tỉnh ủy – Trưởng ban chỉ đạo miền Tây Nghệ An. Ảnh chụp năm 1963, do gia đình cung cấp.

Sau hơn 10 năm “bặt vô âm tín”, khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, gia đình mới biết Trần Văn Thông là người của cách mạng. Để bảo vệ chính quyền non trẻ, anh được chọn vào đội tự vệ kháng chiến xã Thái Hòa (Nghĩa Đàn) gồm 7 đồng chí do ông Nguyễn Trọng Kỷ chỉ huy. Năm 1948, Trần Văn Thông vào bộ đội chủ lực chiến đấu ở Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, Quảng Ngãi, Quảng Nam… Rời quân ngũ năm 1957, đến năm 1960, Trần Văn Thông được giao nhiệm vụ phụ trách văn phòng Huyện ủy Nghĩa Đàn. Trong giai đoạn này, ông đưa bố mẹ già và các em nhỏ từ Hà Tĩnh sang vùng Phủ Quỳ lập nghiệp. Ngoài công việc của cơ quan Huyện ủy, là con cả, dưới ông còn có 3 em nhỏ nên Trần Văn Thông phải gánh vác cả công việc chính trong gia đình và chăm lo các em mình ăn học. Với gia đình, ông như một người anh cả mẫu mực.

Bước sang năm 1961, Tỉnh ủy Nghệ An thành lập Ban chỉ đạo miền Tây Nghệ An. Cơ quan Báo Miền Tây Nghệ An cũng được thành lập. Với khả năng linh hoạt trong công việc, lại có năng khiếu viết báo nên Trần Văn Thông được tỉnh ủy điều động sang Báo Miền Tây Nghệ An. Cơ quan báo ít người phải kiêm nhiệm nhiều việc, Trần Văn Thông vừa tham gia viết bài, đưa tin vừa phụ trách văn phòng và đưa ma-két đi nhà in, chữa mo-rát rồi lo cả việc phát hành báo tới 10 huyện vùng cao. Ở mỗi cương vị, anh đều bộc lộ năng lực của mình bằng hiệu suất cao, xông xáo, tâm huyết với nghề cho tới lúc ngã xuống vì bom Mỹ.

Hóa thân vào đất đai xứ sở

Sau khi được giao công tác tại Báo Miền Tây Nghệ An từ đầu năm 1961, Trần Văn Thông tận tụy cống hiến sức lực của mình để tờ báo đến với bà con các dân tộc vùng cao, góp phần biểu dương điển hình trong sản xuất nông nghiệp, bảo tồn văn hóa dân tộc thiểu số, xây dựng chính quyền, tổ chức Đảng và phát triển vùng công nghiệp Phủ Quỳ. Lúc này, vợ vừa mới mất, để lại 3 đứa con nhỏ côi cút, Trần Văn Thông lại đảm trách thêm vai trò vừa là cha, vừa là mẹ. Vất vả là vậy nhưng anh không bao giờ nản lòng trước hoàn cảnh éo le của mình.

Theo những nhân chứng là các cụ cao niên từng sống xung quanh khu vực cơ quan Báo Miền Tây Nghệ An trước kia kể lại: Ngày đó, tòa soạn báo đóng ngay sát bờ sông Hiếu cùng với Xí nghiệp cơ khí 250B (nay là phường Quang Tiến, thị xã Thái Hòa). Hằng ngày, vẫn thấy nhà báo Trần Văn Thông cặm cụi bên từng trang viết và quán xuyến tất cả công việc trị sự cùng với đồng nghiệp của mình. Hình ảnh phóng viên Trần Văn Thông và Tổng biên tập Đặng Loan tối tối chong đèn “phòng không” dưới hầm để chỉnh sửa, kiểm duyệt từng trang báo kịp đưa đi xưởng in đã trở thành thân quen đối với người dân nơi đây. Với bản tính dễ gần, dáng người cao gầy, Trần Văn Thông luôn để lại cho mọi người sự gần gũi, thân quen như anh em trong một nhà. Năm 1965, giặc Mỹ điên cuồng leo thang đánh phá miền Bắc, thành phố Vinh, Cửa Lò, Cửa Hội và cả vùng miền Tây xứ Nghệ, trong đó có Nghĩa Đàn trở thành trọng điểm đánh phá ác liệt. Lúc này, cơ quan đã sơ tán nhưng Trần Văn Thông vẫn cùng với Tổng biên tập Đặng Loan bám trụ tại trọng điểm, tổ chức bản thảo, phản ánh không khí chiến đấu của quân và dân các huyện miền núi xứ Nghệ. Những địa danh như phà Sen (Tân Kỳ), sân bay Dừa (Anh Sơn), vùng kho Cát Mộng (Nghĩa Đàn)… là những trọng điểm đánh phá của Mỹ đều ghi dấu chân Trần Văn Thông cùng với đồng nghiệp của mình.

Khoảng 9 giờ sáng ngày 23-5-1965, nhiều tốp máy bay Mỹ đột ngột bổ nhào giội bom xuống khu công nghiệp, bệnh viện, Ban chỉ đạo Miền Tây, Báo Miền Tây Nghệ An. Loạt bom sát thương đợt 3 đã cướp đi tính mạng Trần Văn Thông và người Tổng biên tập của mình. Sau 3 ngày tìm kiếm, đào bới, lực lượng tự vệ, dân quân chỉ còn biết an ủi người thân, nhà báo Trần Văn Thông hóa thân vào đất đai xứ sở. Anh hy sinh để lại 3 con nhỏ côi cút, đứa lớn mới 15 tuổi, đứa út vừa lên 6. Buổi sáng định mệnh ấy đối với gia đình nhà báo Trần Văn Thông là nỗi đau mất mát quá lớn dai dẳng suốt mấy chục năm qua.

48 năm, vẫn chưa được công nhận là liệt sĩ

Sau ngày cha hy sinh, mẹ mất cách đó 4 năm, 3 người con nhà báo Trần Văn Thông phải về sống với ông bà nội. Hai năm sau, thân sinh nhà báo Trần Văn Thông cũng bị bom Mỹ giết hại khi đang chở nứa xuống mạn Quỳnh Lưu bán kiếm tiền đong gạo, nuôi cháu. Cảnh đời khốn khó nhưng tất cả 3 người con trai của nhà báo Trần Văn Thông vẫn nén đau thương, gắng gượng vượt lên số phận để học hành nên người. Cả 3 người con trai của nhà báo Trần Văn Thông đều tốt nghiệp đại học rồi công tác tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh nhưng cũng như những người thân trong nội tộc, các anh vẫn đau đáu về người cha hy sinh chưa được công nhận là liệt sĩ.

Như một sự mách bảo tình cờ, vào ngày 11-3-2011, tức là sau 46 năm, gia đình ông Nguyễn Văn Trường ở khối Tây Hồ, phường Quang Tiến, thị xã Thái Hòa (khu vực nơi cơ quan Báo Miền Tây Nghệ An cũ – PV) là công nhân Xí nghiệp 250B nghỉ hưu đào móng nhà thì phát hiện ra bộ hài cốt bị vùi lấp dưới độ sâu 2m. Nằm cùng với bộ di cốt là chiếc bút máy khắc chữ “Trần Văn Thông – Nghệ An” và một chiếc đồng hồ, một chiếc ví, đôi dép cao su. Chắp nối thông tin cùng với những nhân chứng sống kể lại, người em ruột là Trần Văn Điu ở gần đó đã đến nhận và đưa hài cốt anh mình về an táng tại nghĩa trang gia tộc thuộc phường Hòa Hiếu để hương khói.

Hôm chúng tôi biết tin về tìm gặp thân nhân nhà báo Trần Văn Thông, rất may gia đình còn giữ lại nhiều giấy khen và các tài liệu liên quan đến cuộc đời hoạt động cách mạng của ông như: Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng ba do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 28-4-1961; Bảng “Gia đình vẻ vang” do Đại tướng Võ Nguyên Giáp ký; Giấy khen của Ban chấp hành công đoàn cơ quan Ban chỉ đạo miền Tây Nghệ An ngày 18-5-1961 cùng nhiều giấy khen của Đảng bộ huyện Nghĩa Đàn tặng…

Thành tích là vậy nhưng trong 48 năm qua, nhà báo Trần Văn Thông vẫn chưa được công nhận là liệt sĩ? Điều trăn trở, băn khoăn, day dứt của thân nhân nhà báo Trần Văn Thông qua gần nửa thế kỷ vẫn chưa được giải tỏa. Trong khi đó, cùng hy sinh một giờ với Trần Văn Thông thì nhà báo Đặng Loan đã được công nhận liệt sĩ từ những năm 70 của thế kỷ trước. Đề nghị các cơ quan chức năng Nghệ An sớm vào cuộc xác minh và vinh danh nhà báo – liệt sĩ Trần Văn Thông. Đừng để tấm gương hoạt động của một đảng viên cộng sản, một người lính chống Pháp, một nhà báo thời chống Mỹ hy sinh trong khi làm nhiệm vụ dưới mưa bom bão đạn đến nay vẫn còn bị lãng quên.

VĂN HIỀN-NGỌC THÁI
qdnd.vn

Cụ thể hóa các văn bản luật để xử nghiêm hành vi vi phạm pháp luật

Xung quanh “Dự thảo Nghị định quy định các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý hành vi chống người thi hành công vụ”.

Gần đây, sau khi Báo CAND đăng tải loạt bài liên quan đến “Dự thảo Nghị định quy định các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý hành vi chống người thi hành công vụ” mà Chính phủ giao cho Bộ Công an chủ trì soạn thảo, Báo đã nhận được nhiều ý kiến của bạn đọc đề nghị thông tin rõ hơn về những quy định cụ thể cho người thi hành công vụ được nổ súng để phòng ngừa và ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật. Thể theo yêu cầu của bạn đọc, Báo CAND xin tiếp tục thông tin và kết thúc vấn đề này để giúp bạn đọc hiểu thêm.

Trở lại vấn đề, do trước những diễn biến phức tạp về tình trạng chống người thi hành công vụ trong thời gian gần đây, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo và phân công Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các bộ: Quốc phòng, Tư pháp, Tài chính, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các cơ quan có liên quan xây dựng dự thảo Nghị định quy định các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý hành vi chống người thi hành công vụ.

Quan điểm chỉ đạo Thủ tướng Chính phủ là góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý để phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi chống người thi hành công vụ, trong tất cả các lĩnh vực quản lý nhà nước, nhưng cũng không để người thi hành công vụ lạm dụng quyền hạn để xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Thực ra, quy định về nổ súng của người thi hành công vụ trong dự thảo Nghị định trên không phải là quy định mới mà chỉ là cụ thể hóa, chi tiết, hướng dẫn thi hành các quy định về vấn đề này ở các văn bản quy phạm pháp luật cao hơn như: Pháp lệnh Bộ đội Biên phòng, Pháp lệnh Cảnh sát biển Việt Nam, Luật Công an nhân dân… và quy định này cũng hoàn toàn thống nhất với quy định về phòng vệ chính đáng trong Bộ luật Hình sự của nước CHXHCN Việt Nam.

Cần phải xử lý nghiêm những hành vi chống người thi hành công vụ.

Và để tăng cường hơn nữa nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, đồng thời bảo đảm tính mạng, sức khỏe cho người thi hành nhiệm vụ, ngày 30/6/2011, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ.

Pháp lệnh quy định cụ thể một số nội dung như: quy định nổ súng trong khi thi hành công vụ áp dụng cho tất cả những người được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trang bị vũ khí, công cụ hỗ trợ, không phải chỉ quy định riêng cho lực lượng Công an nhân dân; quy định nổ súng khi thi hành nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự có tổ chức phải tuân theo mệnh lệnh của người có thẩm quyền, và sử dụng vũ khí phải đúng mục đích và hạn chế tối đa thiệt hại đối với người, tài sản và môi trường. Khi thi hành nhiệm vụ độc lập, việc nổ súng phải tuân theo 4 nguyên tắc cơ bản sau:

– Phải căn cứ vào từng tình huống, tính chất, mức độ hành vi nguy hiểm của đối tượng để quyết định việc nổ súng.

– Chỉ nổ súng khi không còn biện pháp nào khác để ngăn chặn hành vi của đối tượng và sau khi đã cảnh báo mà đối tượng không tuân theo. Nếu việc nổ súng không kịp thời sẽ đe dọa trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe cho bản thân hoặc người khác hoặc có thể gây ra những hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác thì được nổ súng ngay;

– Không nổ súng vào đối tượng khi biết rõ người đó là phụ nữ, người tàn tật, trẻ em, trừ trường hợp những người này sử dụng vũ khí, vật liệu nổ tấn công hoặc chống trả, đe dọa tính mạng, sức khỏe của người thi hành công vụ hoặc người khác;

– Trong mọi trường hợp nổ súng, người sử dụng súng cần hạn chế thiệt hại do việc nổ súng gây ra.

Pháp lệnh Quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ quy định cụ thể 7 trường hợp được nổ súng, gồm:

1. Đối tượng đang sử dụng vũ lực, vũ khí, vật liệu nổ trực tiếp đe dọa đến tính mạng người thi hành công vụ hoặc người khác;

2. Đối tượng đang sử dụng vũ khí, vật liệu nổ tấn công hoặc đe dọa sự an toàn của công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia, mục tiêu quan trọng được bảo vệ theo quy định của pháp luật;

3. Đối tượng đang thực hiện hành vi cướp súng của người thi hành công vụ;

4. Đối tượng đang sử dụng vũ khí gây rối trật tự công cộng có thể gây hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng;

5. Đối tượng đang đánh tháo người bị giam, người bị dẫn giải do phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, tái phạm nguy hiểm; người bị giam, giữ, bị dẫn giải, bị áp giải do phạm tội đặc biệt nghiêm trọng đang chạy trốn hoặc chống lại;

6. Được phép bắn vào phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, phương tiện giao thông đường thủy nội địa để dừng phương tiện đó trong các trường hợp sau (trừ phương tiện giao thông của các cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự nước ngoài, cơ quan đại diện tổ chức quốc tế):

*Đối tượng điều khiển phương tiện đó tấn công hoặc đe dọa trực tiếp đến tính mạng người thi hành công vụ hoặc người khác;

*Khi biết rõ phương tiện đó do đối tượng phạm tội điều khiển cố tình chạy trốn, trừ trường hợp trên phương tiện có chở khách hoặc có con tin;

*Khi biết rõ trên phương tiện cố tình chạy trốn có đối tượng phạm tội hoặc vũ khí, vật liệu nổ trái phép, tài liệu phản động, bí mật nhà nước, ma túy số lượng lớn, tài sản đặc biệt quý hiếm, bảo vật quốc gia, trừ trường hợp trên phương tiện có chở khách hoặc có con tin;

7. Động vật đang đe dọa đến tính mạng và sức khỏe của người thi hành công vụ hoặc người khác.

Như vậy, dự thảo Nghị định quy định các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý hành vi chống người thi hành công vụ mà Thủ tướng Chính phủ giao cho Bộ Công an chủ trì soạn thảo là thực hiện cụ thể hơn các văn bản nêu trên, để khi Nghị định ban hành vừa chặt chẽ, vừa đúng luật và không bị lạm quyền khi thi hành.

(Kỳ sau: Tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp luật nhằm phòng ngừa, đấu tranh hiệu quả với tội phạm)

Nguyễn Hưng
cand.com.vn

Người tố cáo được nhận thông báo kết luận về nội dung tố cáo

Bộ Công an lấy ý kiến về Dự thảo Nghị định quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo trong CAND:
Luật Tố cáo có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2011, có các điều, khoản giao Chính phủ quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo trong QĐND và CAND nhằm quy định rõ thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo đối với cán bộ, chiến sỹ Công an có hành vi vi phạm pháp luật trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ; trách nhiệm của cơ quan, thủ trưởng, cán bộ, chiến sỹ Công an trong việc bảo vệ người tố cáo, giải quyết tố cáo trong CAND.

Nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và đưa Luật Tố cáo đi vào thực tiễn, Bộ Công an vừa xây dựng “Dự thảo Nghị định quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo trong CAND”. Để làm rõ những vấn đề liên quan đến dự thảo Nghị định này, phóng viên Báo CAND đã có cuộc trao đổi với Thiếu tướng Ma Văn Kỳ, Phó Chánh Thanh tra Bộ Công an.

PV: Đề nghị đồng chí cho biết, Dự thảo Nghị định quy định nội dung tố cáo, giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, chiến sỹ Công an trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ như thế nào?

Thiếu tướng Ma Văn Kỳ, Phó Chánh Thanh tra Bộ Công an. Ảnh: Nguyễn Hưng.

Thiếu tướng Ma Văn Kỳ: Dự thảo Nghị định này quy định về tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, chiến sỹ Công an trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ. Chủ thể có quyền tố cáo gồm: công dân hoặc cán bộ, chiến sỹ Công an. Về thẩm quyền giải quyết tố cáo, dự thảo Nghị định cũng quy định Thủ trưởng các cấp trong CAND, từ Bộ trưởng Bộ Công an đến Trưởng Công an cấp phường đều có trách nhiệm giải quyết tố cáo đối với cán bộ, chiến sỹ do mình quản lý trực tiếp. Nếu người bị tố cáo là người đứng đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu đơn vị Công an sẽ do Thủ trưởng Công an cấp trên trực tiếp giải quyết.

Dự thảo Nghị định quy định trách nhiệm của Thủ trưởng Công an các cấp trong việc bố trí trụ sở, hoặc địa điểm và cán bộ tiếp công dân để tiếp nhận thông tin tố cáo theo quy định của pháp luật; trách nhiệm của Thanh tra Công an các cấp trong việc tiếp nhận, đề xuất xử lý thông tin tố cáo. Trường hợp hành vi bị tố cáo có dấu hiệu tội phạm thì chuyển đơn tố cáo và các tài liệu có liên quan kèm theo (nếu có) cho cơ quan điều tra có thẩm quyền để xử lý theo quy định của pháp luật. Nếu quá thời hạn mà tố cáo không được giải quyết, hoặc có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo không đúng pháp luật thì chuyển đến Thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người giải quyết tố cáo xem xét, xử lý theo quy định của Luật Tố cáo.

PV: Về nội dung tố cáo, giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm trong quản lý nhà nước về an ninh trật tự được quy định như thế nào, thưa đồng chí?

Thiếu tướng Ma Văn Kỳ: Theo quy định, lực lượng Công an có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực quản lý nhà nước về an ninh trật tự. Dự thảo Nghị định quy định theo hướng: Thủ trưởng cơ quan Công an các cấp có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về an ninh trật tự, có trách nhiệm giải quyết tố cáo đối với các hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý nhà nước về an ninh trật tự theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được phân cấp quản lý. Các cơ quan, đơn vị Công an khác liên quan có trách nhiệm phối hợp. Trường hợp tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý nhà nước mà nội dung có liên quan đến chức năng quản lý nhà nước của cơ quan khác ngoài CAND thì phải trao đổi với cơ quan chức năng liên quan để thống nhất phân công trách nhiệm chủ trì, phối hợp giải quyết.

Đối với cán bộ, chiến sỹ Công an có hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý nhà nước thuộc lĩnh vực nào thì người có thẩm quyền trong cơ quan quản lý về lĩnh vực đó giải quyết. Thủ trưởng cơ quan, đơn vị Công an nơi quản lý cán bộ, chiến sỹ Công an bị tố cáo có trách nhiệm phối hợp khi có yêu cầu. Các vụ việc tố cáo có nội dung rõ ràng, chứng cứ cụ thể, có cơ sở xử lý ngay thì tiến hành xác minh, áp dụng biện pháp cần thiết để đình chỉ, kịp thời lập biên bản và ra quyết định xử lý hành vi vi phạm.

PV: Người có thẩm quyền giải quyết tố cáo trong CAND có thông báo công khai kết luận cho người tố cáo biết không, thưa đồng chí?

Thiếu tướng Ma Văn Kỳ: Dự thảo Nghị định quy định, lực lượng CAND chọn hình thức công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi bị tố cáo đối với cán bộ, chiến sỹ Công an bằng việc công bố tại cuộc họp cơ quan – nơi cán bộ, chiến sỹ đó công tác, gồm đầy đủ các thành phần quy định trong Luật Tố cáo để bảo đảm cho công tác bảo vệ bí mật nhà nước về cơ cấu tổ chức và biện pháp nghiệp vụ của lực lượng Công an. Người tố cáo được nhận thông báo kết luận nội dung tố cáo nếu có yêu cầu.

Đối với kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo trong quản lý nhà nước về an ninh trật tự thì việc công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi bị tố cáo thực hiện theo hai hình thức: đó là niêm yết tại trụ sở làm việc, nơi tiếp công dân của cơ quan Công an giải quyết tố cáo hoặc thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng. Việc quy định như trên phù hợp với quy định của Luật Tố cáo và Nghị định số 76/2012/NĐ-CP ngày 3/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tố cáo.

PV: Đồng chí có thể cho biết, trách nhiệm bảo vệ người tố cáo được quy định như thế nào trong Nghị định này?

Thiếu tướng Ma Văn Kỳ: Nội dung về bảo vệ người tố cáo trong Luật Tố cáo và Nghị định số 76/2012/NĐ-CP ngày 3/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tố cáo đã quy định tương đối cụ thể, chi tiết và có thể áp dụng trực tiếp cho lực lượng CAND nên dự thảo Nghị định này chỉ quy định về trách nhiệm của người có thẩm quyền giải quyết tố cáo trong CAND; trách nhiệm của Thủ trưởng, cán bộ, chiến sỹ Công an các cấp khi nhận được yêu cầu của người tố cáo phải áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật để bảo vệ người tố cáo và người thân thích của người tố cáo.

PV: Xin cảm ơn đồng chí Thiếu tướng!

Nguyễn Hưng – Phương Thảo (thực hiện)
cand.com.vn

Vai trò lãnh đạo của Đảng trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN

Đại Tá, Tiến Sỹ Nguyễn Văn Vĩnh
Nội dung Điều 69 trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cần đưa thêm vào nội dung “vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.

Nội dung điều 69 trong chương IV – Bảo vệ Tổ quốc của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã ghi: “Điều 69: Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia là sự nghiệp của toàn dân.

Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; lực lượng vũ trang nhân dân giữ vai trò nòng cốt; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới.

Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh do luật định”.

Nội dung Điều 69 trong chương IV – Bảo vệ Tổ quốc của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trình bày như trên về cơ bản là đúng và khá rõ. Nội dung cơ bản của điều 69 này đã làm rõ được ba vấn đề chủ yếu mà những vấn đề này đã, đang được thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa chứng minh là đúng đắn, hợp quy luật, đó là: Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và giữ vững an ninh quốc gia là sự nghiệp của toàn dân; Nhà nước ta là người giữ vai trò xây dựng, củng cố, tăng cường và phát triển nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, đồng thời Nhà nước ta cũng là người thực hiện và phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ Tổ quốc; mọi cơ quan, tổ chức và công dân của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải có trách nhiệm thực hiện đầy đủ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, với những nội dung đã được trình bày ở Điều 69 nói trên thì vẫn còn thiếu một nội dung hết sức cơ bản, quan trọng và cần thiết đó là: chưa đề cập tới vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Do đó, sẽ là thiếu sót, chưa khoa học, thậm chí còn là sai lầm, khuyết điểm nếu không đề cập tới vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản ViệtNam trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua, kể từ khi Đảng ta ra đời ngày 3/2/1930 cho tới nay đã chứng minh rằng, mọi kết quả, thành tựu, thắng lợi giành được trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nói chung, trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa nói riêng đều gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và giữ vững an ninh quốc gia được thể hiện nổi bật ở chỗ: Đảng đề ra đường lối chiến lược, sách lược bảo vệ Tổ quốc, đường lối thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và an ninh, đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; Đảng là người lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân – những lực lượng làm nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc, giữ vững an ninh quốc gia; Đảng còn là người chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, đảng viên và nhân dân, giúp họ có phẩm chất, năng lực, trí tuệ, bản lĩnh để có đủ điều kiện bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; Đảng còn là người tổ chức, xây dựng và phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc để bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và giữ vững an ninh quốc gia.

Vì vậy, có thể khẳng định rằng, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là một trong những nhân tố hết sức cơ bản, chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, giữ vững an ninh quốc gia trong những năm trước đây, hiện nay, cũng như trong thời gian tới; nhất là đối với thời kỳ nước ta tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và đưa đất nước tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.

Vì vậy, nội dung Điều 69 trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cần đưa thêm vào nội dung “vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.

Mặt khác, nội dung Điều 69 trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trình bày cũng chưa được thật chặt chẽ, đầy đủ, nhất là chưa thấy được vai trò của yếu tố thời đại trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.

Vì vậy, nội dung Điều 69 trong chương IV – Bảo vệ Tổ quốc của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 nên trình bày lại như sau cho đúng hơn, chặt chẽ hơn và đầy đủ hơn, đó là:

“Điều 69:

1. Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ cơ bản, trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt.

2. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với việc củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, trong đó lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt; kết hợp và phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước với sức mạnh của thời đại để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới.

3. Mọi cơ quan, tổ chức và công dân phải thường xuyên thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh do luật định”

N.V.V.
cand.com.vn

Nội dung cần ngắn gọn, súc tích nhưng lời văn phải trong sáng dễ hiểu

Đó là ý kiến của GS.TS Nguyễn Văn Hiệp – Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trong cuộc trao đổi với phóng viên Báo CAND xung quanh việc góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.

PV: Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đang được tổ chức lấy ý kiến đóng góp rộng rãi các tầng lớp nhân dân, Giáo sư có thể cho biết Viện Ngôn ngữ học đã có sự tham gia đóng góp như thế nào vào Dự thảo?

GS.TS Nguyễn Văn Hiệp: Thực hiện sự chỉ đạo của Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, ngày 4/3 vừa qua, Viện chúng tôi cũng đã triển khai Hội nghị lấy ý kiến góp ý cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đến tất cả các phòng, trung tâm trực thuộc Viện.

Cá nhân tôi và 100% cán bộ viên chức trong Viện đều nhất trí rằng Dự thảo cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn và định hướng phát triển của đất nước, giải quyết những vấn đề vướng mắc, bất cập còn tồn tại của thực tiễn trong quá trình thực thi Hiến pháp 1992.

Nội dung của Dự thảo cũng thể hiện sự phù hợp với luật pháp quốc tế, đáp ứng nhu cầu và xu thế hội nhập với thế giới hiện nay. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp bao gồm: Lời nói đầu, 11 Chương, 124 Điều. So với Hiến pháp năm 1992 giảm một Chương, 23 Điều.

Trong số 11 Chương của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp có một Chương hoàn toàn mới:  Chương X: Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử Quốc gia, Kiểm toán nhà nước. Trong số 124 Điều của dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 có tới 11 Điều được viết hoàn toàn mới, 102 Điều sửa đổi bổ sung. Điều này cho thấy việc Hiến pháp lần này được sửa đổi và bổ sung khá toàn diện.

PV: Qua nghiên cứu các bản Hiến pháp từ trước đến nay, Giáo sư có thể đưa ra một sự so sánh về văn phong, ngôn ngữ và cách hành văn của các bản Hiến pháp?

GS.TS Nguyễn Văn Hiệp: Trước năm1945, Việt Nam không có Hiến pháp. Từ sau khi thành lập nhà nước cộng hòa đầu tiên cho đến nay đã có 4 bản Hiến pháp được ra đời, đó là các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 (được sửa đổi vào năm 2001). Mỗi bản Hiến pháp đều ghi nhận những thành quả cách mạng to lớn mà nhân dân Việt Nam đã đạt được, tạo nền tảng vững chắc cho sự ổn định và phát triển đất nước.

Hiến pháp năm 1946 bao gồm lời nói đầu và 7 chương, 70 điều được viết theo tư tưởng pháp quyền. So với 3 bản Hiến pháp còn lại thì đây là bản Hiến pháp chứa đựng các câu văn ngắn gọn, mạch lạc, từ ngữ giản dị, dễ hiểu. Các điều khoản rõ ràng, khúc chiết không mập mờ khó hiểu. Các điều khoản ngắn gọn nhưng chứa đựng nhiều ý.

Ngay từ Lời nói đầu đã thể hiện lời văn trong sáng, mạch lạc: “Cuộc Cách mạng Tháng Tám đã giành lại chủ quyền cho đất nước, tự do cho nhân dân và lập ra nền dân chủ cộng hòa. Sau tám mươi năm tranh đấu, dân tộc Việt Nam đã thoát khỏi vòng áp bức của chính sách thực dân, đồng thời đã gạt bỏ chế độ vua quan. Nước nhà đã bước sang một quãng đường mới”.

“Với tinh thần đoàn kết, phấn đấu sẵn có của toàn dân, dưới một chính thể dân chủ rộng rãi, nước Việt Nam độc lập và thống nhất tiến bước trên đường vinh quang, hạnh phúc, cùng nhịp với trào lưu tiến bộ của thế giới và ý nguyện hòa bình của nhân loại”.

Có những điều chỉ có một câu ngắn gọn, từ ngữ bình dân ai đọc cũng có thể hiểu được. Đơn cử như Điều thứ 4: Mỗi công dân Việt Nam phải: Bảo vệ Tổ quốc; Tôn trọng Hiến pháp; Tuân theo pháp luật. Điều thứ 5: Công dân Việt Nam có nghĩa vụ phải đi lính. Điều thứ 9: Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện. Điều thứ 14: Những người công dân già cả hoặc tàn tật không làm được việc thì được giúp đỡ. Trẻ con được săn sóc về mặt giáo dưỡng.

PV: Là một nhà nghiên cứu chuyên về ngôn ngữ học, Giáo sư đóng góp gì cho Dự thảo. Đặc biệt là về nội dung kỹ thuật lập hiến cũng như ngôn ngữ, lời văn trong Hiến pháp?

GS.TS Nguyễn Văn Hiệp: Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 cần ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu với đại đa số người dân nhưng vẫn phải khái quát được đầy đủ các nội dung cơ bản của Hiến pháp. Tôi xin góp ý một số ý kiến cụ thể như sau:

Về nội dung: Hiến pháp đã quy định tiếng Việt là ngôn ngữ quốc gia, nên thêm quy định cụ thể nhằm đảm bảo vai trò chữ quốc ngữ bên cạnh tiếng Việt. Đề nghị giữ nguyên, không nên bỏ điều 41 Hiến pháp năm 1992: “Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp phát triển thể dục thể thao; khuyến khích và giúp đỡ phát triển các hình thức tổ chức thể dục, thể thao tự nguyện của nhân dân”.

Khoản 3 trong Dự thảo nên ghi rõ “vai trò lãnh đạo của Đảng được đảm bảo bằng pháp luật và do luật định”. Như vậy sự lãnh đạo của Đảng sẽ có giá trị về mặt pháp lý và thể hiện trước pháp luật về hành động của các tổ chức Đảng và đảng viên, đồng thời sẽ đảm bảo sự minh bạch về chính trị trong vai trò lãnh đạo của Đảng và hạn chế những tiêu cực trong Đảng như Nghị quyết Trung ương 4 đã nêu.

Nên mở rộng quyền giám sát, phản biện cho tổ chức Mặt trận để góp phần xây dựng chính quyền vững mạnh. Cần bổ sung và làm rõ thẩm quyền của Chủ tịch nước trong giám sát hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng bởi đây là các chức danh do Chủ tịch nước giới thiệu để Quốc hội bầu.

Chủ tịch nước cũng phải có quyền triệu tập (chứ không phải yêu cầu như dự thảo ghi) Chính phủ và Thủ tướng họp bàn những vấn đề liên quan. Cần tiến hành một số cải cách như quy định người dân được bầu trực tiếp Chủ tịch nước, nhất thể hóa vai trò Tổng Bí thư và Chủ tịch nước…

Về hình thức: Lời nói đầu như trong bản Hiến pháp 1992 về cơ bản đầy đủ, sâu sắc, trong đó có quy định về chế độ chính trị. Tuy nhiên, nên viết cho mạch lạc hơn, nên bổ sung thêm sự khẳng định rõ độc lập, chủ quyền của dân tộc ta và mục tiêu xây dựng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

Một số điều nên bổ sung làm cho rõ, ví dụ: Điều 15 nên bổ sung làm rõ “quyền con người” và “quyền công dân” là gì. Điều 16: Khoản 1, nên bổ sung cụm từ “chính đáng và hợp pháp” sau từ “quyền”: “Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền chính đáng và hợp pháp của người khác”.

Điều 32: Khoản 2 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp quy định: “Người bị buộc tội có quyền được Tòa án xét xử. Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm”. Trước hết về mặt thuật ngữ, quy định “Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm” rất dễ bị hiểu nhầm. Vì tội phạm là một khái niệm được quy định trong Bộ luật Hình sự, ví dụ: tội trộm cắp tài sản; tội vu khống; tội nhận hối lộ…

Do đó để cho người dân dễ hiểu hơn thì quy định này nên viết là: “Không ai bị kết án hai lần về một hành vi phạm tội”.

Điều 39: Nên bổ sung thêm quyền kết hôn đồng giới. Điều 66 về quyền của người khuyết tật là “được học văn hóa và học nghề” là chưa đầy đủ. Họ cũng có đầy đủ quyền công dân và được Đảng, Nhà nước đối xử công bằng. Vì vậy, nên sửa thành “được học theo nhu cầu” để không giới hạn nhu cầu học tập, nghiên cứu của người khuyết tật, giống như các công dân khác.

Ngoài ra, trong chương II, tại một số điều khoản, khi thì dùng từ “mọi người”, khi thì dùng “công dân”, vậy cũng cần làm rõ “mọi người” bao gồm những đối tượng nào. Điều 75: Khoản 1 có quy định nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội trong đó có dùng từ “làm” chưa phù hợp với văn phong khoa học: Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật. Đề nghị sửa lại: “… Soạn thảo, ban hành và sửa đổi Hiến pháp; soạn thảo, ban hành và sửa đổi luật”.

Sử dụng các cụm từ, thuật ngữ nên thống nhất ví dụ như: theo luật định, do luật định, cách dùng từ công dân, mọi người, theo pháp luật/ theo quy định của luật /theo quy định của pháp luật/theo luật định (điều 11, 22, 24, 26, 31, 32, 54, 56, 57, 58, 59, 101, 105, 110, 113, 114); do Hiến pháp và luật quy định/do pháp luật quy định/do luật định (điều 20, 23, 37, 48, 56, 69, 81, 107, 110, 112, 113, 114, 120, 121, 122);  theo Hiến pháp và pháp luật/theo pháp luật (điều 8, 15, 51, 64); chấp hành Hiến pháp và pháp luật/chấp hành pháp luật/thực hiện Hiến pháp và pháp luật (điều 8, 10, 84); nơi ở/chỗ ở (điều 36, 37); văn bản quy phạm pháp luật/ văn bản/văn bản pháp luật (điều 75, 79, 103, 105, 116); ban bố tình trạng khẩn cấp/công bố tình trạng khẩn cấp (điều 79, 93); Viện kiểm sát/Viện kiểm sát nhân dân (điều 114); thống nhất hay hợp nhất; với tất cả các nước/với các quốc gia, vùng lãnh thổ, tổ chức quốc tế”? (điều 12, 55)… Bên cạnh đó cần sử dụng thống nhất các hình thức chính tả, và viết hoa như: Nhà nước/nhà nước, dấu chấm/chấm phẩy sau các điều khoản.

PV: Xin trân trọng cảm ơn Giáo sư về những đóng góp rất cụ thể và tâm huyết!

Xuân Luận (thực hiện)
cand.com.vn

Người dân tin tưởng, phấn khởi tham gia xây dựng Hiến pháp

Một khí sắc mới, rất tâm huyết và trí tuệ, đang dâng lên từ cuộc sinh hoạt chính trị lớn – toàn dân tham gia góp ý sửa đổi Hiến pháp, đưa công cuộc đổi mới tới một bước phát triển mới về chất.

Từ từng hộ gia đình, người dân ở những làng quê đến từng cơ quan, tổ chức, người Việt Nam ta đã và đang tin tưởng, phấn khởi tham dự nhiều cuộc hội nghị, hội thảo, tọa đàm góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 – cuộc kiến tạo lớn để thiết kế một đạo luật gốc cho Nhà nước và xã hội Việt Nam.

Sửa đổi Hiến pháp – một việc hệ trọng của đất nước, thu hút trí tuệ, lay động nhận thức, cổ vũ tinh thần, khích lệ hành động công nhân, nông dân, trí thức và chiến sĩ cả nước thắp lên niềm hy vọng lớn về tương lai tươi sáng của dân tộc Việt Nam. Sức mạnh của trí tuệ Việt Nam không chỉ tham gia góp ý kiến đối với Hiến pháp và thi hành Hiến pháp mà còn chủ động phản bác những tiếng nói lạc lõng chống lại Hiến pháp.

Chúng ta biết rằng hoạt động lập hiến không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của một cá nhân, tổ chức nào mà xuất phát từ nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật của các quan hệ xã hội, tuyệt nhiên không được tùy tiện, hết sức tránh những tác động khiến người ta dè dặt, thậm chí muốn né tránh một số chủ đề “nhạy cảm”.

Quy luật cũng như thực tiễn cho thấy quá trình xây dựng Hiến pháp cũng là quá trình các thế lực thù địch, phản động tập trung tấn công vào cách mạng nước ta quyết liệt nhất. Nhìn lại lịch sử lập hiến của nước ta, bản Hiến pháp năm 1946 vẫn mãi là một bản Hiến pháp tiến bộ, nhưng lại phải ra đời trong điều kiện kẻ thù rắp tâm phá hoại, đất nước trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”.

Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, đồng bào vui sướng được hưởng quyền lợi của người dân độc lập, tự do. Với ý chí sắt đá của một dân tộc quyết tâm bảo vệ nền độc lập, tự do vừa mới giành được, trong niềm vui háo hức, toàn thể nhân dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt gái trai, già trẻ đã dành trọn một ngày – ngày lịch sử vĩ đại 6-1-1946, toàn dân đi bỏ phiếu.

Tinh thần đó, đã mang lại kết quả 89% tổng số cử tri trên cả nước đi bỏ phiếu, nhiều địa phương có số cử tri đi bỏ phiếu đạt 95%. Hiến pháp năm 1946 là một bản Hiến pháp mẫu mực trên nhiều phương diện, không kém một bản Hiến pháp nào trên thế giới, là hiện thực sống động về thể chế nhà nước cộng hòa, dân chủ – một loại hình nhà nước pháp quyền cách mạng của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Ngày nay, ý chí và nguyện vọng của nhân dân đang được thể hiện sâu sắc trong quá trình góp ý sửa đổi Hiến pháp năm 1992, đâu đó vẫn còn những kẻ xấu muốn đẩy sự bình yên của Tổ quốc ta vào rối loạn để rồi nhân dân phải chịu mọi hậu quả. Nhân dân là cái cớ để họ tranh giành ảnh hưởng trong cái gọi là “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập”.

Qua các thời kỳ kiến quốc, nước ta đã có 4 bản Hiến pháp và hiện nay là dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Nguồn sức mạnh lớn nhất vận hành sự nghiệp vĩ đại ấy chính là ý chí và trí tuệ Việt Nam. Sự gắn kết của khối đại đoàn kết dân tộc xung quanh hạt nhân lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam đang thắp lên niềm tin lớn về một bản Hiến pháp sửa đổi hướng đến mục tiêu cao cả là tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.

Nhân dân là chủ thể sáng tạo ra Hiến pháp, vừa ủy quyền cho Quốc hội lập hiến, vừa tham gia góp ý kiến vào quá trình xây dựng Hiến pháp, đồng thời nhân dân là chủ thể lớn nhất thực hiện Hiến pháp, phát hiện những điểm chưa phù hợp của Hiến pháp khi đưa vào cuộc sống. Khi nhân dân nhận thức rõ âm mưu và hoạt động của các thế lực thù địch chống phá sự nghiệp cách mạng do Đảng ta lãnh đạo thì không một thế lực nào có thể làm quần chúng nhân dân quay lưng lại với Đảng, với chế độ XHCN, với Hiến pháp.

Và ngược lại thì dù Quân đội, Công an có hùng mạnh, tinh nhuệ đến đâu cũng không cứu vãn được tình hình và chệch hướng, sụp đổ là tất yếu. Chúng ta cần nghiêm túc suy nghĩ, đánh giá khách quan những biến động chính trị – xã hội ở Liên Xô, Đông Âu trong những năm 1989-1991.

Vào những ngày này, các thế lực thù địch cũng đang ra sức truyền bá quan điểm “trung lập hóa lực lượng vũ trang”, về thực chất là lôi kéo Quân đội, Công an xa rời lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và CNXH, vì hạnh phúc của nhân dân, tách Quân đội, Công an ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, hòng xóa bỏ những điều cơ bản trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Hãy cảnh giác và không bao giờ chấp nhận quan điểm đó, bởi đó là nguyên nhân đưa đất nước lâm vào khủng hoảng chính trị – xã hội

Hoàng Tương
cand.com.vn

Nước Mỹ không bình yên

QĐND – Thêm một lần nữa, nước Mỹ lại rúng động bởi những tiếng nổ!

Hai vụ nổ trên khu vực đích đến của cuộc thi marathon lâu đời nhất trên thế giới diễn ra ở Bô-xtơn, thủ phủ bang Ma-sa-chu-xét, vào lúc rạng sáng 16-4 theo giờ Hà Nội đã khiến cho thế giới phải chứng kiến những hình ảnh ám ảnh từng diễn ra cách đây hơn 10 năm, khi tổ chức khủng bố Al Qaeda tấn công hai tòa tháp chọc trời ở Niu Y-oóc khiến hàng ngàn người Mỹ thiệt mạng.

Cũng may là vụ nổ diễn ra khoảng hai giờ sau khi những vận động viên đầu tiên của cuộc thi chạy marathon đã băng qua vạch đích, trong khi các khán giả thì đã bắt đầu lục tục rời khỏi khu vực đông đúc nhất này của cuộc thi chạy.

Mặc dù vậy, những số liệu ban đầu cho thấy đã có ít nhất 3 người thiệt mạng và hàng trăm người khác bị thương. Hình ảnh cho thấy những người bị thương nằm la liệt trên phố chính Boylston của thành phố Bô-xtơn, chờ các nhân viên cứu thương đưa đi cấp cứu. Nhiều người trong số này đang ở trong tình trạng nguy kịch.

Nhưng có lẽ nguy kịch hơn chính là tâm trạng của những người Mỹ trong thời điểm này, khi ám ảnh về một vụ khủng bố tiếp theo vụ 11-9 lại diễn ra trên đất Mỹ!

 Khói trắng bao trùm cả khu vực về đích cuộc đua marathon. Ảnh internet.

Vẫn những hình ảnh bi thảm quen thuộc, khi các nạn nhân của vụ nổ, máu me bê bết được đưa lên xe cứu thương; khói bốc mù mịt trên bầu trời Bô-xtơn trong khi những người thân của các nạn nhân mếu máo gọi điện thoại đi đâu đó…

Một vùng cấm bay trên không phận Bô-xtơn cũng được ngay lập tức được thiết lập, gợi nhớ đến những gì đã diễn ra ở các thành phố lớn của nước Mỹ hơn mười năm trước. Tại Niu Y-oóc, tình trạng an ninh cũng được thắt chặt mặc dù chưa có một bằng chứng nào về những nguy cơ tiếp theo sẽ đe dọa thành phố đã từng một lần phải hứng chịu hậu quả thảm khốc của hoạt động khủng bố này.

Chưa có một cá nhân hay tổ chức nào lên tiếng nhận trách nhiệm về vụ tấn công này và cũng còn quá sớm để đưa ra kết luận chắc chắn về động cơ cũng như mục đích của những kẻ đứng đằng sau vụ nổ, nhưng những giả thiết cũng như các hoạt động điều tra sơ khởi đều nghiêng về khía cạnh đây là hoạt động tấn công khủng bố.

Và đó mới là điều đáng lưu tâm.

Bởi, sau vụ tấn công kinh hoàng 11-9-2001 nhằm vào những biểu tượng quyền lực kinh tế và chính trị ở Niu Y-oóc, Oa-sinh-tơn, nước Mỹ dường như đã làm tất cả những gì có thể để tránh nguy cơ xảy ra một vụ tấn công khủng bố thứ hai trên lãnh thổ Mỹ.

Và mặc dù nước Mỹ vẫn còn hai cuộc chiến tranh chưa thanh lý xong hoàn toàn ở I-rắc và Áp-ga-ni-xtan, phải đối mặt với những vấn đề đối nội đau đầu như “vách đá tài chính”, tình trạng sử dụng súng đạn tràn lan hay thâm hụt ngân sách khổng lồ, nợ công chất chồng…, thế nhưng ít nhất, người dân Mỹ vẫn còn cảm thấy được an toàn trên lãnh thổ Mỹ.

Những cái chết của người Mỹ, nếu có đáng tiếc xảy ra thì cũng ở đâu đó, Li-bi, Áp-ga-ni-xtan, I-rắc… Mấy vụ xả súng ở trường học hay nơi công cộng là sản phẩm của những cá nhân có tâm thần bất bình thường, không phải là các hoạt động khủng bố được tổ chức và có chủ đích.

Nhưng giờ đây, với những vụ nổ trong Ngày Yêu Nước – một ngày lễ của bang Ma-sa-chu-xét – ở vạch đích cuộc đua marathon Bô-xtơn, một lần nữa, người dân Mỹ lại buộc phải cảm thấy bất an.

Cho dù vì bất cứ lý do gì, hành động đánh bom ở nơi công cộng, làm thiệt mạng và bị thương nhiều người, trong đó có cả trẻ em, là hành vi đáng bị lên án.

Người ta chưa quên rằng hơn mười năm trước, chính tại phi trường Logan của thành phố Bô-xtơn này, đã có hai trong số bốn chuyến bay bị bọn khủng bố không tặc để reo rắc cái chết xuống hai tòa tháp Nam và Bắc của Trung tâm thương mại thế giới tại Niu Y-oóc ngày 11-9-2001.

Kể từ đó, chính quyền thành phố Bô-xtơn đã sử dụng mọi nguồn lực để tránh nguy cơ xảy ra một vụ khủng bố. Họ đã làm được điều đó, bảo đảm an toàn cho các công dân Mỹ, cho đến trước khi xảy ra vụ nổ ở cuộc đua marathon thường niên lần thứ 117 ở Bô-xtơn!

Phát biểu với người dân Mỹ từ Phòng Tình hình tại Nhà Trắng, Tổng thống Mỹ B. Ô-ba-ma đã nhanh chóng khẳng định rằng mặc dù chưa biết ai hay vì động cơ nào tổ chức các vụ đánh bom nhưng chính quyền Mỹ sẽ làm tất cả những gì để đưa những kẻ đứng đằng sau vụ tấn công này ra ánh sáng để chịu đòn trừng phạt của công lý.

Các cơ quan chức năng của Mỹ cũng đã nhận được chỉ thị tiến hành điều tra vụ tấn công này “như là một hành động khủng bố”.

Ở thời điểm hiện tại, những gì mà Tổng thống B. Ô-ba-ma có thể làm là kêu gọi người dân Mỹ cầu nguyện cũng như gửi lời chia buồn tới gia đình các nạn nhân vụ tấn công ở Bô-xtơn.

Thêm một lần nữa, nước Mỹ không bình yên!

VĂN YÊN
cand.com.vn